Tải bản đầy đủ (.doc) (35 trang)

bình luận về vai trò của vàng trong hệ thống tiền tệ thế giới hiện nay và ở việt nam (2)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (542.71 KB, 35 trang )

Đề án Tài chính tiền tệ GVHD: ThS. Phạm Thị Hoàng Mỹ
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
2. Mục tiêu nghiên cứu
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4. Phương pháp nghiên cứu của đề tài
5. Kết cấu của đề tài
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ LẠM PHÁT
1.1. Tiền tệ
1.1.1. Định nghĩa tiền tệ
1.1.2. Bản chất tiền tệ
1.2. Lạm phát
1.2.1. Khái niệm lạm phát
1.2.2. Một số quan niệm về lạm phát
1.2.3. Phân loại lạm phát
1.2.3.1. Căn cứ vào định lượng
1.2.3.2. Căn cứ vào định tính
1.2.4. Nguyên nhân gây ra lạm phát
1.2.4.1. Lạm phát do cầu kéo
1.2.4.2. Lạm phát do chi phí đẩy
1.2.4.3. Lạm phát do cơ cấu
1.2.4.4. Lạm phát do cầu thay đổi
1.2.4.5. Lạm phát do xuất khẩu
1.2.4.6. Lạm phát do nhập khẩu
1.2.4.7. Lạm phát do cung tiền tệ cao và liên tục
1.2.5. Mối quan hệ giữa lạm phát và một số biến số kinh tế vĩ mô
1.2.5.1. Quan hệ giữa lạm phát và lãi suất
1.2.5.2. Quan hệ giữa lạm phát và thất nghiệp
1.2.6. Tác động của lạm phát
1.2.6.1. Tác động về mặt kinh tế


1.2.6.2. Tác động về mặt chính trị-xã hội
1.2.7. Đo lường lạm phát
1.3. Các biện pháp kiềm chế lạm phát
1.3.1. Biện pháp tình thế
1.3.2. Biện pháp chiến lược
Chương 2. THỰC TRẠNG LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2008-
2012
SVTH: Hồ Thị Luyến – Lớp L12NH4
Đề án Tài chính tiền tệ GVHD: ThS. Phạm Thị Hoàng Mỹ
2.1. Lịch sử lạm phát ở Việt Nam
2.2. Thực trạng lạm phát ở Việt Nam giai đoạn 2008 – 2012
2.2.1. Năm 2008
2.2.2. Năm 2009
2.1.3. Năm 2010
2.2.4. Năm 2011
2.2.5. Năm 2012
2.3. Nguyên nhân gây lạm phát ở Việt Nam
2.3.1. Lạm phát do chi phí đẩy
2.2.2. Lạm phát do cung tiền tệ cao và liên tục
2.3.3. Do cầu kéo
Chương 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM ỨNG PHÓ LẠM PHÁT Ở VIỆT
NAM GIAI ĐOẠN 2013-2015
3.1. Thực hiện chính sách tiền tệ chặt chẽ, thận trọng
3.2. Thực hiện chính sách tài khóa thắt chặt, cắt giảm đầu tư công, giảm bội chi
ngân sách nhà nước
3.3. Thúc đẩy sản xuất, kinh doanh, khuyến khích xuất khẩu, kiềm chế nhập siêu,
sử dụng tiết kiệm năng lượng
KẾT LUẬN
SVTH: Hồ Thị Luyến – Lớp L12NH4
Đề án Tài chính tiền tệ GVHD: ThS. Phạm Thị Hoàng Mỹ

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của các quốc gia trên thế giới nói chung và
ở Việt Nam nói riêng, lạm phát nổi lên là một vấn đề đáng quan tâm, ảnh hưởng đến sự
nghiệp phát triển kinh tế. Nghiên cứu tình hình lạm phát, các giải pháp kiềm chế và
chống lạm phát được thực hiện ở nhiều các quốc gia trên thế giới. Càng ngày cùng với sự
phát triển đa dạng và phong phú của nền kinh tế, và nguyên nhân của lạm phát cũng ngày
càng phức tạp. Trong sự phát triển kinh tế thị trường ở nước ta theo định hướng xã hội
chủ nghĩa có sự điều tiết của nhà nước, việc nghiên cứu về lạm phát, tìm hiểu nguyên
nhân và các biện pháp chống lạm phát có vai trò to lớn góp phần vào sự nghiệp phát triển
đất nước. Lạm phát được coi như là một căn bệnh thế kỉ của nền kinh tế thị trường, mặc
dù lý thuyết về lạm phát đã khá phát triển nhưng việc làm thế nào vận dụng các biện pháp
để kiểm soát chúng có hiệu quả đối với mỗi nền kinh tế vẫn luôn là vấn đề phức tạp.
Nhìn lại lịch sử lạm phát ở nước ta, từ cuối thế kỉ 19 đến đầu thế kỉ 20, lạm phát
diễn ra kéo dài và nghiêm trọng. Lạm phát đã phá vỡ toàn bộ kế hoạch của nền kinh tế
Việt Nam đồng thời ảnh hưởng đến tất cả các mối quan hệ trong nền kinh tế xã hội.
Những sự kiện gần đây như việc Việt Nam gia nhập WTO, luồng vốn nước ngoài đã đột
ngột chảy mạnh vào Việt Nam trong năm 2008, các vấn đề của thị trường ngoại hối Việt
Nam trong hai năm 2009 và 2010 và cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới cũng như nguy
cơ lạm phát tăng mạnh trở lại đã đặt ra nhiều thách thức mới cho việc quản lý kinh tế vĩ
mô và đặc biệt trong việc kiểm soát lạm phát ở Việt Nam. Với sự điều hành quản lý của
nhà nước, lạm phát đã phần nào được ngăn chặn, khắc phục; tuy nhiên với nhiều bất cập
như thị trường tài chính tiền tệ kém phát triển, sức cạnh tranh của nền kinh tế thấp, các
chính sách pháp luật vừa chồng chéo, vừa thiếu đồng bộ lạm phát vẫn chưa thật sự
được đẩy lùi mà còn có nguy cơ quay trở lại, diễn biến một cách phức tạp. Vì thế, việc
tìm hiểu lạm phát trong thời gian qua, giai đoạn 2008-2012, về nguyên nhân, diễn biến,
tác động, giải pháp…sẽ giúp ta có một cái nhìn tổng quan hơn, đúc kết được kinh nghiệm
để xây dựng chiến lược phát triển đất nước trong thời gian sắp tới. Chính vì những lý do
trên nên em đã chọn nghiên cứu đề tài: “Thực trạng lạm phát ở Việt Nam giai đoạn
2008-2012”.

Mặc dù đã cố gắng hết sức nhưng do trình độ và thời gian có hạn, trong quá trình
nghiên cứu đề tài chắc chắn còn nhiều thiếu sót, kính mong nhận được sự góp ý và chỉ
bảo tận tình từ các thầy cô giáo để đề án được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành gửi
lời cảm ơn đến Cô Th.s Phạm Thị Hoàng Mỹ đã hướng dẫn em hoàn thành đề án này.
SVTH: Hồ Thị Luyến – Lớp L12NH4 1
Đề án Tài chính tiền tệ GVHD: ThS. Phạm Thị Hoàng Mỹ
2. Mục tiêu nghiên cứu
- Nghiên cứu một số cơ sở lý luận cơ bản về lạm phát và các biện pháp kiềm chế
lạm phát.
- Tìm hiểu tình hình lạm phát ở Việt Nam giai đoạn 2008 - 2012.
- Đưa ra một số giải pháp nhằm kiềm chế lạm phát trong những giai đoạn từ năm
2013-2015 góp phần tăng trưởng nền kinh tế nước nhà.
- Trang bị những kiến thức về chuyên nghành kinh tế, chính trị, kinh tế Việt Nam
cho sinh viên.
- Nâng cao khả năng thuyết trình, nghiên cứu, tổng hợp…. của sinh viên.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Lạm phát Việt Nam giai đoạn 2008-2012.
- Phạm vi nghiên cứu: Tình hình lạm phát ở Việt Nam giai đoạn 2008-2012.
4. Phương pháp nghiên cứu của đề tài
Sử dụng phương pháp thu thập, liệt kê, so sánh, xử lý số liệu kết hợp với các bài
báo viết về tình hình lạm phát của Việt Nam trong những năm qua, cộng với phương
pháp quan sát.
5. Kết cấu của đề tài
Ngoài lời mở đầu, kết luận và mục lục, phần nội dung của bài viết bao gồm 3
chương như sau:
Chương 1. Cơ sở lý luận về lạm phát.
Chương 2. Thực trạng lạm phát ở Việt Nam giai đoạn 2008-2012.
Chương 3. Một số giải pháp nhằm ứng phó lạm phát ở Việt Nam giai đoạn 2013-
2015.
Đà Nẵng, ngày 09 tháng 01 năm 2013

Sinh viên
Hồ Thị Luyến
SVTH: Hồ Thị Luyến – Lớp L12NH4 2
Đề án Tài chính tiền tệ GVHD: ThS. Phạm Thị Hoàng Mỹ
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ LẠM PHÁT
1.1. Tiền tệ
1.1.1. Định nghĩa tiền tệ
Định nghĩa tiền tệ của Karl Marx:
Tiền tệ là một hàng hóa đặc biệt, đóng vai trò là vật ngang giá chung để thực hiện
quan hệ trao đổi.
Tiền tệ là một hàng hóa.
Tiền tệ là một hàng hóa đặc biệt.
Định nghĩa tiền tệ của các nhà kinh tế hiện đại:
Tiền tệ là bất cứ một phương tiện nào được xã hội chấp nhận làm phương tiện trao
đổi với mọi hàng hóa, dịch vụ và các khoản thanh toán khác trong nền kinh tế.
1.1.2. Bản chất tiền tệ
Khi nói đến tiền tệ, hầu hết các nhà kinh tế học trước đây cũng cho rằng đó là
phương tiện trung gian trao đổi. Điều này chỉ phù hợp và đúng với giai đoạn ban đầu khi
con người bắt đầu sử dụng công cụ tiền tệ. Quá trình phát triển của tiền tệ cho thấy tiền tệ
không chỉ có vai trò trung gian trao đổi mà nó còn giúp cho chúng ta thực hiện các hoạt
động đầu tư tín dụng… Ngoài ra, còn có những vật thể khác giữ vai trò trung gian trao
đổi như chi phiếu, thương phiếu, kỳ phiếu,… mà các nhà kinh tế học vẫn không thống
nhất với nhau có phải là tiền tệ hay không. Irving Fisher cho rằng chỉ có giấy bạc ngân
hàng là tiền tệ, trong khi Conant Paul Warburg cho rằng chi phiếu cũng là tiền tệ.
Samuelson lại cho rằng tiền là bất cứ cái gì mà nhờ nó người ta có thể mua được hầu hết
mọi thứ. Theo Charles Rist thì cái thật quan trọng đối với nhà kinh tế không phải là sự
thống nhất về một định nghĩa thế nào là tiền tệ mà phải biết và hiểu hiện tượng tiền tệ.
1.2. Lạm phát
1.2.1. Khái niệm lạm phát
Lạm phát là hiện tượng tiền trong lưu thông vượt quá nhu cầu cần thiết làm cho

chúng bị mất giá, giá cả của hầu hết các lại hàng hóa tăng lên đồng loạt.
Biểu hiện đặc trưng của lạm phát:
+ Hiện tượng gia tăng tiền giấy vượt quá nhu cầu cần thiết của lưu thông hàng hóa
dẫn đến hệ quả là tiền giấy bị mất giá.
+ Giá cả hàng hóa tăng đồng bộ, liên tục.
SVTH: Hồ Thị Luyến – Lớp L12NH4 3
Đề án Tài chính tiền tệ GVHD: ThS. Phạm Thị Hoàng Mỹ
+ Sự bất ổn định trong đời sống kinh tế xã hội.
1.2.2. Một số quan niệm về lạm phát
Lạm phát là vấn đề không xa lạ đối với một nền kinh tế nhưng hiểu chính xác lạm
phát là gì không phải dễ, và ngay cả các nhà kinh tế học cũng có rất nhiều quan điểm,
cách tiếp cận, lý luận khác nhau về lạm phát.
 Trường phái kinh tế học thị trường
Theo trường phái kinh tế học thị trường (đại diện là Milton Friedman), họ cho rằng
lạm phát là “một hiện tượng xã hội của tất cả các nước có sử dụng tiền tệ hiện đại”, là
“đưa nhiều tiền thừa vào lưu thông làm cho giá cả hàng hoá tăng lên”. Chúng ta đều biết
rằng không phải bất cứ số lượng tiền nào tăng lên trong lưu thông với nhịp điệu nhanh
hơn sản xuất cũng đều là lạm phát, nếu như nhà nước không giảm bớt nội dung vàng
hoặc giá trị tượng trưng trong đồng tiền để bù đắp cho bội chi ngân sách. Những người
theo học thuyết này đã dùng logic hình thức để kết hợp một cách máy móc hiện tượng
tăng số lượng tiền với hiện tượng tăng giá để rút ra bản chất kinh tế của lạm phát.
 Trường phái cầu kéo
Theo trường phái lạm phát do cầu kéo (đại diện là J.Keynes), họ cho rằng lạm phát
là “cầu dư thừa tổng quát cho phát hành tiền ra quá mức sản xuất trong thời kỳ toàn dụng
dẫn đến mức giá chung tăng”. Chúng ta nhận thức được rằng nói lạm phát là “cầu dư
thừa tổng quát” là không chính xác, vì trong giai đoạn khủng hoảng ở thời kỳ Chủ nghĩ tư
bản phát triển, mặc dù có khủng hoảng sản xuất thừa mà không có lạm phát. Còn ở Việt
Nam trong năm 1991 có tình trạng cung lớn hơn cầu mà vẫn có lạm phát giá cả và lạm
phát tiền tệ. Tuy Keynes đã tiến sâu hơn trường phái kinh tế học thị trường là không lấy
hiện tượng bề ngoài, không coi điều kiện của lạm phát là nguyên nhân của lạm phát

nhưng lại mắc sai lầm về mặt logic là đem kết quả của lạm phát quy vào bản chất của
lạm phát. Khái niệm của Keynes vẫn chưa nêu được đúng bản chất kinh tế - xã hội của
lạm phát.
 Trường phái lạm phát và giá cả
Theo trường phái lạm phát giá cả họ cho rằng lạm phát là “sự tăng giá”. Thực chất
lạm phát chỉ là một trong nhiều nguyên nhân của tăng giá. Có những thời kỳ giá mà
không có lạm phát như: thời kỳ “cách mạng giá cả” ở thế kỷ XVI ở châu Âu, thời kỳ
hưng thịnh của một chu kỳ sản xuất, những năm mất mùa tăng giá chỉ là hệ quả là một
tín hiệu dễ thấy của lạm phát nhưng có lúc tăng giá lại trở thành nguyên nhân của lạm
phát. Lạm phát xảy ra là do tăng nhiều yếu tố chứ không phải chỉ đơn thuần do tăng giá.
Vì vậy quan điểm của trường phái này đã lẫn lộn giữa hiện tượng và bản chất, làm cho
người ta dễ ngộ nhận giữa tăng giá và lạm phát.
SVTH: Hồ Thị Luyến – Lớp L12NH4 4
Đề án Tài chính tiền tệ GVHD: ThS. Phạm Thị Hoàng Mỹ
 Trường phái Karl Marx
K.Marx đã cho rằng: lạm phát là “sự tràn đầy các kênh, các luồng lưu thông những
tờ giấy bạc thừa làm cho giá cả (mức giá) tăng vọt và việc phân phối lại sản phẩm xã hội
giữa các giai cấp trong dân cư có lợi cho giai cấp tư sản”. Ở đây Marx đã đứng trên góc
độ giai cấp để nhìn nhận lạm phát, từ đó dẫn tới việc người ta có thể hiểu lạm phát là do
giai cấp tư bản chủ động tạo ra để bóc lột một lần nữa giai cấp vô sản. Trường phái này
có nhược điểm là cho rằng lạm phát chỉ là phạm trù kinh tế của nền kinh tế tư bản chủ
nghĩa và chưa nêu được ảnh hưởng của lạm phát trên phạm vi quốc tế.
Trên đây là các quan điểm của các trường phái kinh tế học chính. Nói chung các
quan điểm đều chưa hoàn chỉnh, nhưng đã nêu được một số mặt của hai thuộc tính cơ bản
của lạm phát.
Ở nước ta cũng như nhiều nước khác, quan niệm của trường phái giá cả được chấp
nhận tương đối phổ biến. Sở dĩ như vậy là vì thế kỷ XX là thế kỷ lạm phát, lạm phát hầu
như diễn ra ở tuyệt đại bộ phận các nước mà sự tăng giá lại là tín hiệu nhạy bén, dễ thấy
của lạm phát. Nói chung, lạm phát chính là một hiện tượng của các nền kinh tế thị
trường, và chúng ta sẽ hiểu đơn giản lạm phát là “sự tăng giá kéo dài, là sự thừa các đồng

tiền trong lưu thông, là việc nhà nước phát hành thêm tiền nhằm bù đắp bội chi ngân
sách”.
1.2.3. Phân loại lạm phát
1.2.3.1. Căn cứ vào định lượng
Lạm phát vừa phải: là lạm phát một con số, có tỷ lệ lạm phát dưới 10% một năm.
Lạm phát vừa phải làm cho giá cả biến động tương đối. Trong thời kì này nền kinh tế
hoạt động một cách bình thường, đời sống của người lao động ổn định. Sự ổn định đó
được biểu hiện: giá cả tăng chậm, lãi suất tiền gửi không cao, không xảy ra tình trạng
mua bán và tích trữ hàng hoá với số lượng lớn…Có thể nói đây là mức lạm phát mà nền
kinh tế chấp nhận được, những tác động của nó là không đáng kể, tạo tâm lý an tâm cho
người lao động chỉ trông chờ vào thu nhập. Trong thời gian này các hãng kinh doanh có
khoản thu nhập ổn định, ít rủi ro nên sẵn sàng đầu tư cho sản xuất, kinh doanh.
Lạm phát phi mã: là lạm phát xảy ra khi giá cả tăng tương đối nhanh với tỷ lệ 2 con
số 1 năm. Ở mức 2 con số thấp: 11,12% thì nói chung các tác động tiêu cực không đáng
kể và nền kinh tế vẫn có thể chấp nhận được. Nhưng khi tăng đến hai chữ số cao thì lạm
phát sẽ làm cho giá cả chung tăng lên nhanh chóng, gây biến động lớn về kinh tế, các hợp
đồng được chỉ số hoá. Lúc này người dân tích trữ hàng hoá, vàng bạc, bất động sản và
không bao giờ cho vay tiền ở mức lãi suất bình thường. Như vậy lạm phát sẽ làm ảnh
SVTH: Hồ Thị Luyến – Lớp L12NH4 5
Đề án Tài chính tiền tệ GVHD: ThS. Phạm Thị Hoàng Mỹ
hưởng xấu đến sản xuất và thu nhập. Bên cạnh đó lạm phát phi mã còn là mối đe doạ đối
với sự ổn định của nền kinh tế.
Siêu lạm phát: là lạm phát 3 con số một năm, xảy ra khi lạm phát đột biến tăng lên
với tốc độ rất nhanh, tỷ lệ lạm phát cao. Tốc độ và tỷ lệ siêu lạm phát vượt xa lạm phát
phi mã, nó như một căn bệnh chết người, tốc độ lưu thông tiền tệ tăng kinh khủng, giá cả
tăng nhanh và không ổn định, tiền lương thực tế của người lao động bị giảm mạnh, tiền tệ
mất giá nhanh chóng, thông tin không còn chính xác, các yếu tố thị trường biến dạng và
hoạt động sản xuất kinh doanh lâm vào tình trạng rối loạn, mất phương hướng. Tóm lại,
siêu lạm phát làm cho đời sống và nền kinh tế suy sụp một cách nhanh chóng. Tuy nhiên
siêu lạm phát rất ít xảy ra.

Lịch sử của lạm phát cũng chỉ ra rằng, lạm phát ở các nước đang phát triển thường
diễn ra trong thời gian dài, vì vậy hiệu quả của nó phức tạp và trầm trọng hơn. Vì vậy các
nhà kinh tế đã chia lạm phát thành 3 loại.
Lạm phát kinh niên kéo dài trên 3 năm với tỷ lệ lạm phát dưới 50% một năm, siêu
lạm phát kéo dài trên một năm với tỷ lệ lạm phát trên 200% một năm
1.2.3.2. Căn cứ vào định tính
 Lạm phát cân bằng và lạm phát không cân bằng
Lạm phát cân bằng: Tăng tương ứng với thu nhập thực tế của người lao động, tăng
phù hợp với hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Do đó không gây ảnh
hưởng đến đời sống hàng ngày của người lao động và đến nền kinh tế nói chung.
Lạm phát không cân bằng: Tăng không tương ứng với thu nhập của người lao động.
Trên thực tế loại lạm phát này cũng thường hay xảy ra.
 Lạm phát dự đoán trước được và lạm phát bất thường
Lạm phát dự đoán trước: là loại lạm phát xảy ra hàng năm trong một thời kì tương
đối dài và tỷ lệ lạm phát ổn định đều đặn. Về mặt tâm lý, người dân đã quen với tình
trạng lạm phát đó và đã có sự chuẩn bị trước. Do đó không gây ảnh hưởng đến đời sống,
đến kinh tế.
Lạm phát bất thường: xảy ra đột biến mà có thể từ trước chưa xuất hiện. Loại lạm
phát này ảnh hưởng đến tâm lý, đời sống người dân vì họ chưa kịp thích nghi. Từ đó mà
loại lạm phát này sẽ gây ra biến động đối với nền kinh tế và niềm tin của nhân dân vào
chính quyền có phần giảm sút.
SVTH: Hồ Thị Luyến – Lớp L12NH4 6
Đề án Tài chính tiền tệ GVHD: ThS. Phạm Thị Hoàng Mỹ
1.2.4. Nguyên nhân gây ra lạm phát
1.2.4.1. Lạm phát do cầu kéo
Khi tổng cầu tăng quá nhanh trong khi tổng cung không tăng hoặc tăng không kịp,
hay nói cách khác là nền kinh tế đã vượt qua mức sản lượng tiềm năng của nó sẽ dẫn tới
lạm phát do cầu kéo. Lúc này thì đồng tiền cầu sẽ vượt quá mức cung hàng hóa có giới
hạn và sẽ làm cho chúng tăng giá.
Ta có thể thấy rõ hơn cơ chế lạm phát cầu kéo qua mô hình sau đây:

Đồ thị 1.1: Lạm phát cầu kéo
(Nguồn giáo trình Nhập môn tài chính tiền tệ - ĐH Thương Mại)
Trong ngắn hạn, đường tổng cung AS (Aggregate demand) mới đầu nằm ngang và
sẽ dốc ngược lên khi vượt quá mức sản lượng tiềm năng Q*. Điều này là do khi chưa đạt
mức sản lượng tiềm năng, một sự thay đổi nhỏ về giá cả của đầu ra cũng khuyến khích
được các hãng tăng nhanh sản lượng sản xuất ra để đáp ứng sự tăng lên của nhu cầu, thu
nhiều lợi nhuận hơn. Khi sản lượng của nền kinh tế là Q’ > Q*, chi phí đầu vào đã kịp
thời điều chỉnh tăng lên, các hãng không còn động lực để tăng cao sản lượng nữa, do đó
dù giá có tăng nhiều nhưng sản lượng vẫn không tăng đáng kể hay đường AS có độ dốc
lớn. Lúc đó, cầu tăng mạnh, đường AD
0
dịch chuyển lên trên đến vị trí mới là AD
1

mức giá tăng nhanh từ P
0
đến P
1
. Tổng cầu tăng liên tục làm cho đường tổng cầu liên tiếp
dịch chuyển về phía bên phải và mức giá không ngừng tăng lên, tức là xảy ra lạm phát
cầu kéo.
Khi đường cầu dịch chuyển đến AD
1
, nền kinh tế ở trạng thái vượt quá trạng sản
lượng tiềm năng và toàn dụng nhân công, người lao động gây áp lực tăng lương làm cho
tổng cung giảm, đường tổng cung AS
0
dịch chuyển về bên trái tới vị trí AS
1
. Mức giá

tăng tiếp từ P
1
đến P
2
, nền kinh tế lại chuyển về trạng thái đạt mức sản lượng tiềm năng
SVTH: Hồ Thị Luyến – Lớp L12NH4 7
Q
*
Q
,
AD
0
AD
1
AD
2
AS
0
AS
1
AS
2
P
0
P
1
P
2
P
3

Q
(Sản lượng)
P
(Mức giá)
Đề án Tài chính tiền tệ GVHD: ThS. Phạm Thị Hoàng Mỹ
và toàn dụng nhân công. Cứ như thế, sau khi đường tổng cầu dịch chuyển về bên phải thì
đường tổng cung lại dịch chuyển về bên trái kéo theo mức giá tăng liên tục.
1.2.4.2. Lạm phát do chi phí đẩy
Hình thức của lạm phát do chi phí đẩy phát sinh từ phía cung, do chi phí sản xuất
cao hơn đã được chuyển sang người tiêu dùng. Điều này chỉ có thể đạt trong giai đoạn
tăng trưởng kinh tế khi người tiêu dùng sẵn sàng trả với giá cao hơn. Ví dụ: Nếu tiền
lương chiếm một phần đáng kể trong chi phí sản xuất và dịch vụ và nếu tiền lương tăng
nhanh hơn năng suất lao động thì tổng chi phí sản xuất sẽ tăng lên. Nếu nhà sản xuất có
thể chuyển việc tăng chi phí này cho người tiêu dùng thì giá bán sẽ tăng lên, công nhân
và các công đoàn sẽ yêu cầu tiền lương cao hơn trước để phù hợp với chi phí sinh hoạt
tăng lên điều đó tạo vòng xoáy lượng giá.
Mô hình dưới đây cho ta thấy quá trình diễn ra lạm phát chi phí đẩy:
Đồ thị 1.2: Lạm phát chi phí đẩy
(Nguồn giáo trình Nhập môn tài chính tiền tệ - ĐH Thương Mại)
Ban đầu đường tổng cầu là AD
0
, đường tổng cung là AS
0
. Khi chi phí đầu vào tăng
(ví dụ giá dầu lửa tăng), các hãng giảm mức cung hàng hoá, dịch vụ và đường tổng cung
dịch chuyển sang tới vị trí AS
1
, sản lượng giảm xuống còn Q’, đẩy mức giá tăng từ P
0
lên

P
1
. Hiện tượng mức giá tăng liên tục, đồng thời sản lượng (hay GDP thực tế) suy giảm
được gọi tình trạng lạm phát đình trệ hay đình lạm; kèm theo đó là thất nghiệp gia tăng.
1.2.4.3. Lạm phát do cơ cấu
Với ngành kinh doanh có hiệu quả, doanh nghiệp tăng dần tiền công “danh nghĩa”
cho người lao động. Nhưng cũng có những nhóm ngành kinh doanh không hiệu quả,
doanh nghiệp cũng theo xu thế đó buộc phải tăng tiền công cho người lao động. Nhưng vì
những doanh nghiệp này kinh doanh kém hiệu quả, nên khi phải tăng tiền công cho người
SVTH: Hồ Thị Luyến – Lớp L12NH4 8
P
(Mức giá)
Q
(Sản lượng)
AS
0
AS
1
AS
2
AD
0
AD
1
P
1
P
2
P
0

Q
*
Q
,
Q
*
Q
,
AD
0
AD
1
AD
2
AS
0
AS
1
AS
2
P
0
P
1
P
2
P
3
Q
(Sản lượng)

P
(Mức giá)
Đề án Tài chính tiền tệ GVHD: ThS. Phạm Thị Hoàng Mỹ
lao động, các doanh nghiệp này buộc phải tăng giá thành sản phẩm để đảm bảo mức lợi
nhuận và làm phát sinh lạm phát.
1.2.4.4. Lạm phát do cầu thay đổi
Khi thị trường giảm nhu cầu tiêu thụ về một mặt hàng nào đó, trong khi lượng cầu
về một mặt hàng khác lại tăng lên. Nếu thị trường có người cung cấp độc quyền và giá cả
có tính chất cứng nhắc phía dưới (chỉ có thể tăng mà không thể giảm, như giá điện ở Việt
Nam), thì mặt hàng mà lượng cầu giảm vẫn không giảm giá. Trong khi đó mặt hàng có
lượng cầu tăng thì lại tăng giá. Kết quả là mức giá chung tăng lên, dẫn đến lạm phát.
1.2.4.5. Lạm phát do xuất khẩu
Khi xuất khẩu tăng, dẫn tới tổng cầu tăng cao hơn tổng cung (thị trường tiêu thụ
lượng hàng nhiều hơn cung cấp), khi đó sản phẩm được thu gom cho xuất khẩu khiến
lượng hàng cung cho thị trường trong nước giảm (hút hàng trong nước) khiến tổng cung
trong nước thấp hơn tổng cầu. Khi tổng cung và tổng cầu mất cân bằng sẽ nảy sinh lạm
phát.
1.2.4.6. Lạm phát do nhập khẩu
Khi giá hàng hóa nhập khẩu tăng (do thuế nhập khẩu tăng hoặc do giá cả trên thế
giới tăng) thì giá bán sản phẩm đó trong nước sẽ phải tăng lên. Khi mức giá chung bị giá
nhập khẩu đội lên sẽ hình thành lạm phát.
1.2.4.7. Lạm phát do cung tiền tệ cao và liên tục
Theo quan điểm của các nhà kinh tế học, khi cung tiền tệ tăng lên kéo dài làm cho
mức giá tăng lên kéo dài và gây ra lạm phát. Có thể thấy ngưỡng tăng cung tiền để gây
lạm phát là nền kinh tế toàn dụng. Thật vậy, ở nền kinh tế toàn dụng, các nhà máy, xí
nghiệp được hoạt động hết công suất, nguồn nguyên nhiên vật liệu được khai thác tối đa.
Khi đó lực lượng lao động được sử dụng một cách triệt để và làm sản lượng tăng lên rất
nhiều. Tuy nhiên, tình hình này sẽ dẫn đến một vài kênh tắc nghẽn trong lưu thông.
Chẳng hạn khi các nhà máy, xí nghiệp hoạt động hết công suất sẽ dẫn đến thiếu năng
lượng, thiếu lao động, nguyên vật liệu dần bị han hiếm…Vai trò của chính phủ và các

nhà quản lý phải xác định được kênh lưu thông nào bị tắc nghẽn và tìm cách khơi thông
nó. Nếu không sẽ gây ra lạm phát. Lúc đó sản lượng không tăng mà giá cả tăng nhiều thì
lạm phát tất yếu sẽ xảy ra.
SVTH: Hồ Thị Luyến – Lớp L12NH4 9
Đề án Tài chính tiền tệ GVHD: ThS. Phạm Thị Hoàng Mỹ
 Ngoài ra còn có một số các nguyên nhân khác cũng gây ra lạm phát:
Thứ nhất là tâm lý của dân cư. Khi người dân không tin tưởng vào đồng tiền của
Nhà nước, họ sẽ không giữ tiền mà đẩy vào lưu thông bằng việc mua hàng hoá dự trữ
hoặc đầu tư vào một lĩnh lực kinh doanh nào đó… Như thế cầu sẽ tăng lên mà cung cấp
không đáp ứng được cân bằng cung cầu trên thị trường hàng hoá không còn nữa và tiếp
tục đẩy giá lên cao, từ đó lạm phát sẽ xảy ra. Có thể thấy giá cả tăng lên làm tiêu dùng
tăng, cứ như vậy sẽ gây ra xoáy ốc lạm phát.
Thứ hai là thâm hụt ngân sách. Khi lâm vào tình trạng thâm hụt trầm trọng và kéo
dài thì chính phủ phải áp dụng biện pháp in tiền. Việc phát hành tiền sẽ ảnh hưởng đến cơ
số tiền tệ làm tăng mức cung ứng tiền, đẩy tổng cầu lên cao và làm tăng thêm tỷ lệ lạm
phát.
Thứ ba là tỷ giá hối đoái. Khi tỷ giá tăng đồng bản tệ sẽ bị mất giá. Khi đó tâm lý
những người sản xuất trong nước muốn đẩy giá hàng lên tương ứng với mức tăng tỷ giá
hối đoái. Mặt khác khi tỷ giá hối đoái tăng, chi phí cho các nguyên vật liệu, hàng hoá
nhập khẩu sẽ tăng lên. Do đó giá cả của các hàng hoá này tăng lên cao. Đây chính là lạm
phát do chi phí đẩy.
1.2.5. Mối quan hệ giữa lạm phát và một số biến số kinh tế vĩ mô
1.2.5.1. Quan hệ giữa lạm phát và lãi suất
Để thấy rõ mối quan hệ lạm phát và lãi suất chúng ta cần phân biệt lãi suất danh
nghĩa (nominal interest rate) và lãi suất thực (real interest rate). Lãi suất được yết tại các
ngân hàng hay được công bố trên các phương tiện thông tin đại chúng là lãi suất danh
nghĩa. Lãi suất danh nghĩa được đo bằng số lượng tiền tệ. Lãi suất thực là lãi suất đo
bằng lượng hàng hóa mua được; đó là tỷ lệ phần trăm lượng hàng hóa tăng lên hoặc giảm
đi mà cùng một số tiền hiện tại hay giá trị của số tiền đó trong tương lai có thể mua được
do không chi tiêu ngày hôm nay và đem cho vay. Lãi suất thực bằng lãi suất danh nghĩa

sau khi đã tính đến tác động của lạm phát. Quan hệ giữa lãi suất và tỷ lệ lạm phát được
thể hiện qua đẳng thức sau:
Lãi suất thực = lãi suất danh nghĩa - tỷ lệ lạm phát
Đẳng thức trên có ý nghĩa quan trọng đối với quyết định mua sắm hay đầu tư. Nếu
lãi suất danh nghĩa không đủ để bù đắp tỷ lệ lạm phát thì một người khôn ngoan sẽ không
cho vay tiền để sau này được nhận một giá trị thực nhỏ hơn giá trị ban đầu của khoản tiền
anh ta có. Quan hệ giữa lãi suất và lạm phát còn áp dụng được khi tính toán để đưa ra
quyết định đầu tư. Nếu lợi nhuận/ vốn đầu tư < lãi suất thực thì nhà đầu tư sẽ không có
SVTH: Hồ Thị Luyến – Lớp L12NH4 10
Đề án Tài chính tiền tệ GVHD: ThS. Phạm Thị Hoàng Mỹ
lợi bằng việc đem tiền cho vay (với thời hạn cho vay bằng khoảng thời gian đầu tư) để
hưởng lãi suất.
1.2.5.2. Quan hệ giữa lạm phát và thất nghiệp
Khi đề cập đến mối quan hệ giữa lạm phát và thất nghiệp, người ta thường sử dụng
đường cong Phillip. Tuy nhiên, đường cong Phillip hiện đại khác với đường Phillip ban
đầu ở chỗ: đường Phillip hiện đại phản ánh quan hệ giữa lạm phát giá cả và thất nghiệp
chứ không phải giữa lạm phát tiền lương và thất nghiệp; đường Phillip hiện đại có tính
đến tỷ lệ lạm phát dự kiến cũng như cú sốc cung. Trong phân tích sau đây, chúng ta sẽ sử
dụng đường cong Phillip hiện đại cho phù hợp với thực tiễn kinh tế các nước.
Đồ thị 1.3: Đường PhiLip ngắn hạn và dài hạn
(Nguồn: Giáo trình kinh tế học vĩ mô – NXB Giáo dục)
 Trong ngắn hạn
Đường cong Phillip trong ngắn hạn cho thấy mối quan hệ giữa lạm phát và thất
nghiệp khi tỷ lệ lạm phát dự kiến của nền kinh tế ở một mức nhất định. Trong ngắn hạn,
quan hệ giữa lạm phát và thất nghiệp là tỷ lệ nghịch, tức là có thể đánh đổi lạm phát cao
để lấy thất nghiệp thấp. Nếu lạm phát tăng cao hơn tỷ lệ lạm phát dự kiến (ei) thì thất
nghiệp sẽ giảm xuống thấp hơn tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên (U
N
) và ngược lại. Đường
Phillip ngắn hạn sẽ dịch chuyển khi một trong hai yếu tố tỷ lệ lạm phát dự kiến hoặc tỷ lệ

thất nghiệp tự nhiên thay đổi. Khi tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên tăng từ U
N
đến U
N1
thì đường
Phillip mới là là đường (P
1
). Trong trường hợp tỷ lệ lạm phát dự kiến giảm xuống ei’, tỷ
lệ thất nghiệp tự nhiên không đổi thì đường Phillip dịch chuyển sang (P').
Đường Phillip ngắn hạn chỉ thể hiện sự đánh đổi giữa thất nghiệp và lạm phát khi
có các cơn sốt cầu: cầu tăng dẫn đến giá tăng cao, sản xuất tăng và thất nghiệp giảm; còn
SVTH: Hồ Thị Luyến – Lớp L12NH4 11
Tỷ lệ lạm phát
U
N
U
N1
Tỷ lệ thất nghiệp
ei'
ei
(P)
(P
1
)
Đường Phillip dài hạn
(P')
Đường Phillip ngắn hạn
Đề án Tài chính tiền tệ GVHD: ThS. Phạm Thị Hoàng Mỹ
khi xuất hiện các cơn sốt cung: chi phí sản xuất tăng, sản xuất bị thu hẹp làm cho giá cả
tăng và thất nghiệp cũng tăng.

Dựa vào đường Phillip ngắn hạn, các nhà hoạch định chính sách có thể lựa chọn
chính sách kinh tế vĩ mô (nhất là chính sách tài chính, tiền tệ). Chẳng hạn, khi nền kinh tế
gặp phải lạm phát cao, chính phủ theo đuổi mục tiêu giảm lạm phát sẽ thắt chặt chính
sách tiền tệ (tăng lãi suất, giảm chi tiêu chính phủ ) và thất nghiệp sẽ gia tăng. Ngược
lại, nếu nền kinh tế rơi vào suy thoái, thất nghiệp gia tăng thì chính phủ lại kích cầu đầu
tư và tiêu dùng để giảm thất nghiệp nhưng phải chấp nhận lạm phát cao.
 Trong dài hạn
Đường Phillip dài hạn là một đường thẳng song song với trục biểu diễn tỷ lệ lạm
phát và cắt trục hoành tại điểm có tỷ lệ lạm phát tự nhiên (U
N
). Về lâu dài, tỷ lệ thất
nghiệp thực tế bằng tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên do tác động của các chính sách tài khóa,
tiền tệ, dù tỷ lệ lạm phát thay đổi ra sao. Như vậy, không tồn tại mối quan hệ giữa lạm
phát và thất nghiệp trong dài hạn.
1.2.6. Tác động của lạm phát
Lạm phát là một trong bốn yếu tố quan trọng nhất của mọi quốc gia (tăng trưởng
cao, lạm phát thấp, thất nghiệp ít, cán cân thanh toán có số dư). Lạm phát có nhiều loại,
cho nên cũng có nhiều mức độ ảnh hưởng khác nhau đối với nền kinh tế. Xét trên góc độ
tương quan, trong một nền kinh tế mà lạm phát được coi là nỗi lo của toàn xã hội và
người ta có thể nhìn thấy tác động của nó. Nhìn chung, lạm phát vừa phải có thể đem lại
những điều lợi bên cạnh những tác hại không đáng kể; còn lạm phát cao và siêu lạm
phát gây ra những tác hại nghiêm trọng đối với kinh tế và đời sống. Tác động của lạm
phát còn tùy thuộc vào lạm phát đó có dự đoán trước được hay không, nghĩa là công
chúng và các thể chế có tiên tri được mức độ lạm phát hay sự thay đổi mức độ lạm phát
là một điều bất ngờ. Nếu như lạm phát hoàn toàn có thể dự đoán trước được thì lạm phát
không gây nên gánh nặng kinh tế lớn bởi người ta có thể có những giải pháp để thích
nghi với nó. Lạm phát không dự đoán trước được sẽ dẫn đến những đầu tư sai lầm và
phân phối lại thu nhập một cách ngẫu nhiên làm mất tinh thần và sinh lực của nền kinh
tế. Lạm phát làm cho chúng ta khó có được thông tin về các nhân tố cấu thành nên giá cả
hợp lý của một hàng hóa. Dưới đây, chúng ta sẽ xem xét cụ thể từng ảnh hưởng của lạm

phát đến nền kinh tế, chính trị-xã hội.
SVTH: Hồ Thị Luyến – Lớp L12NH4 12
Đề án Tài chính tiền tệ GVHD: ThS. Phạm Thị Hoàng Mỹ
1.2.6.1. Tác động về mặt kinh tế
 Tác động tích cực
Khi lạm phát ở mức vừa phải (khoảng từ 2% -5% đối với các nước phát triển và
dưới 10% ở các nước đang phát triển) và các tác nhân trong nền kinh tế dự tính trước
được thì loại lạm phát này có tác dụng tích cực đối với nền kinh tế. Lạm phát vừa phải
tạo nên một sự chênh lệch giá cả hàng hóa, dịch vụ giữa các vùng, làm cho hoạt động
thương mại trở nên năng động hơn, thúc đẩy các doanh nghiệp mở rộng thị trường hoặc
tìm kiếm thị trường mới mang lại nhiều lợi nhuận. Chính việc mở rộng thị trường sẽ thúc
đẩy cạnh tranh giữa các doanh nghiệp (bao gồm cả cạnh tranh giữa các doanh nghiệp
cùng sản xuất kinh doanh một loại mặt hàng và những doanh nghiệp sản xuất kinh doanh
những mặt hàng khác nhau). Cạnh tranh khiến các doanh nghiệp muốn tồn tại và phát
triển thì phải đưa ra thị trường nhiều sản phẩm có chất lượng cao hơn, giá cả hấp dẫn
hơn. Do vậy thương mại năng động hơn.
Lạm phát vừa phải làm cho nội tệ mất giá nhẹ so với ngoại tệ. Đây là lợi thế để các
doanh nghiệp đẩy mạnh xuất khẩu tăng thu ngoại hối, khuyến khích doanh nghiệp gia
tăng vốn đầu tư để mở rộng sản xuất. Đồng thời cũng khuyến khích tiêu dùng làm cho
hàng hóa được bán chạy hơn. Do đó, lúc này lạm phát sẽ có tác dụng kích thích tăng
trưởng kinh tế.
Giữa lạm phát và thất nghiệp có mối quan hệ nghịch biến: khi lạm phát tăng lên thì
thất nghiệp giảm xuống và ngược lại khi thất nghiệp giảm xuống thì lạm phát tăng lên.
Nhà linh tế học A.W. Phillips đã đưa ra “Lý thuyết đánh đổi giữa lạm phát và việc làm”,
theo đó một nước có thể mua một mức độ thất nghiệp tháp hơn nếu sẵn sàng trả giá bằng
một tỷ lệ lạm phát cao hơn.
 Tác động tiêu cực
Trong lĩnh vực sản xuất: tỷ lệ lạm phát cao sẽ làm cho giá đầu vào và giá đầu ra
biến động không ngừng gây ra sự mất ổn định đối với nhà sản xuất. Đồng thời, khi lạm
phát cao, đồng tiền trong nước mất giá trầm trọng so với ngoại tệ, các nhà đầu tư nước

ngoài hiện tại và tiềm năng nhận thấy rằng lợi nhuận thu được bằng đồng bản tệ sẽ đổi
được ít ngoại tệ hơn. Do đó, họ rút vốn về nước hoặc không muốn đầu tư nữa. Kết quả là
dẫn đến tình trạng kìm hãm đầu tư dài hạn, hạn chế sản xuất, kích thích đầu cơ vào các
tài sản mang lại lợi nhuận nhanh chóng như bất động sản, vàng bạc, đá quý,
Trong lĩnh vực lưu thông: lạm phát thúc đẩy quá trình đầu cơ, tích trữ dẫn đến khan
hiếm hàng hóa, làm mất cân đối quan hệ cung cầu trên thị trường. Đồng thời do đồng tiền
đang bị mất giá nên không ai muốn giữ tiền. Tiền nhanh chóng bị đẩy ra kênh lưu thông.
SVTH: Hồ Thị Luyến – Lớp L12NH4 13
Đề án Tài chính tiền tệ GVHD: ThS. Phạm Thị Hoàng Mỹ
Do có nhiều người tham gia vào lưu thông nên lĩnh vực này trở nên hỗn loạn, tốc độ lưu
thông tiền tăng vọt và điều này càng thúc đẩy lạm phát gia tăng.
Trong lĩnh vực tiền tệ: lạm phát làm cho quan hệ thương mại, tín dụng, ngân hàng
bị thu hẹp. Khi lạm phát xảy ra, lượng tiền gửi vào ngân hàng giảm mạnh, cộng với việc
giảm sút quá nhanh của đồng tiền khiến ngân hàng gặp khó khăn trong việc huy động
vốn, đáp ứng được nhu cầu của người đi vay… Do vậy hoạt động của hệ thống ngân
hàng không còn bình thường nữa, chức năng kinh doanh tiền tệ bị hạn chế.
Ngoài ra, lạm phát gây ra sự biến động lớn trong giá cả và sản lượng hàng hóa.
Khi lạm phát xảy ra thì những thộng tin trong xã hội bị phá hủy do biến động của giá cả
và làm cho thị trường bị rối loạn. Khi đó khó có thể phân biệt được doanh nghiệp làm ăn
tốt hay kém.
Trong việc phân phối lại thu nhập và của cải:
Tác động chính của lạm phát về mặt phân phối phát sinh từ những loại khác nhau
trong các loại tài sản và nợ nần của nhân dân. Khi lạm phát xảy ra, những ngươi có tài
sản, những người đang vay nợ là có lợi vì giá cả của các loại tài sản nói chung đều tăng
lên, con giá trị đồng tiền thì giảm xuống. Ngược lại, những người làm công ăn lương,
những người gửi tiền, những người cho vay là bị thiệt hại.
Để tránh thiệt hại, một số nhà kinh tế đưa ra cách thức giải quyết đơn giản là lãi suất
cần được điều chỉnh cho phù hợp với tỷ lệ lạm phát. Ví dụ, lãi suất thực là 3%, tỷ lệ tăng
giá là 9%, thì lãi suất danh nghĩa là 12%. Tuy nhiên, một sự điều chỉnh cho lãi suất phù
hợp tỷ lệ lạm phát chỉ có thể thực hiện được trong điều lạm phát ở mức độ thấp.

1.2.6.2. Tác động về mặt chính trị-xã hội
 Tác động tích cực
Lạm phát ở mức độ vừa phải sẽ kích thích các nhà đầu tư vay nợ để đẩy mạnh sản
xuất, tạo thêm công ăn việc làm, giảm thất nghiệp cho xã hội.
Lạm phát vừa phải thường tương đồng với một tỷ lệ thất nghiệp nhất định. Đó là
yếu tố buộc người lao động muốn có việc làm phải luôn nâng cao trình độ chuyên môn,
cạnh tranh chỗ làm việc. Như vậy người sử dụng lao động có cơ hội tuyển chọn được lao
động có chất lượng cao hơn.
 Tác động tiêu cực
Lạm phát cao gây ra tình trạng thất nghiệp của người lao động, các doanh nghiệp
rơi vào phá sản, những người cho vay lớn bị thua thiệt quá nhiều. Đời sống của đa số
nhân dân trở lên khó khăn, trong họ là tâm lý hoang mang, lo sợ lạm phát sẽ tăng cao hơn
nữa, nhiều tệ nạn xã hội nảy sinh. Các mối quan hệ xã hội giữa người đi thuê lao động và
SVTH: Hồ Thị Luyến – Lớp L12NH4 14
Đề án Tài chính tiền tệ GVHD: ThS. Phạm Thị Hoàng Mỹ
công nhân, giữa người đi vay và cho vay, giữa người nộp thuế và nhà nước cũng bị rạn
nứt. Khắp nơi dấy lên những cuộc bãi công biểu tình của công nhân dưới sự bảo trợ của
công đoàn để đòi tăng lương.
Những bất ổn trong đời sống kinh tế xã hội tất yếu sẽ dẫn tới những bất ổn về mặt
chính trị. Những người thất nghiệp, những người nghèo khổ, các chủ doanh nghiệp bị phá
sản… tất cả những ai bị thiệt hại nặng nề do lạm phát sẽ giảm dần lòng tin vào chính phủ
của họ. Đối với một thể chế nhà nước, không thể nói rằng không có các lực lượng chống
phá, cản trở bên trong và bên ngoài nhằm lung lạc rồi lật đổ chính phủ. Lạm phát tăng
cao, càng kéo dài và tác động càng nặng nề đến nền kinh tế, xã hội thì đất nước càng khó
có được sự bình ổn chính trị.
Đối với chính sách kinh tế tài chính của nhà nước: Lạm phát gây ra sự biến động
lớn trong giá cả và sản lượng hàng hoá, khi lạm phát xảy ra những thông tin trong xã hội
bị phá huỷ do biến động của giá cả làm cho thị trường bị rối loạn. Người ta khó phân biệt
được những doanh nghiệp làm ăn tốt và kém. Đồng thời lạm phát làm cho nhà nước thiếu
vốn, do đó nhà nước không còn đủ sức cung cấp tiền cho các khoản dành cho phúc lợi xã

hội bị cắt giảm các ngành, các lĩnh vực dự định đựơc chính phủ đầu tư và hỗ trợ vốn bị
thu hẹp lại hoặc không có gì. Một khi ngân sách nhà nước bị thâm hụt thì các mục tiêu
cải thiện và nâng cao đời sống kinh tế xã hội sẽ không có điều kiện thực hiện được.
 Các tác động khác
Trong điều kiện lạm phát cao và không dự đoán được, cơ cấu nền kinh tế dễ bị mất
cân đối vì khi đó các nhà kinh doanh thường hướng đầu tư vào những khu vực hàng hóa
có giá cả tăng lên cao, nhưng ngành sản suất có chu kỳ ngắn, thời gian thu hồi vốn nhanh,
hạn chế đầu tư vào những ngành sản suất có chu kỳ dài, thời gian thu hồi vốn chậm vì có
nguy cơ gặp phải nhiều rủi ro. Trong lĩnh vực lưu thông, khi vật giá tăng quá nhanh thì
tình trạng đầu cơ, tích trữ hàng hóa thường là hiện tượng phổ biến, gây nên mất cân đối
giả tạo làm cho lưu thông càng thêm rối loạn. Trong điều kiện các nhân tố khác không
đổi, lạm phát xảy ra làm tăng tỷ giá hối đoái. Sự mất giá của tiền trong nước so với ngoại
tệ tạo điều kiện tăng cường tính cạnh tranh của hàng xuất khẩu, tuy nhiên nó gây bất lợi
cho hoạt động nhập khẩu. Lạm phát cao và siêu lạm phát làm cho hoạt động của hệ thống
tín dụng rơi vào tình trạng khủng hoảng. Nguồn tiền trong xã hội bị sụt giảm nhanh
chóng,nhiều ngân hàng bị phá sản vì mất khả năng thanh toán, lam phát phát triển nhanh,
biểu giá thường xuyên thay đổi làm cho lượng thông tin được bao hàm trong giá cả bị
phá hủy, các tính toán kinh tế bị sai lệch nhiều theo thời gian, từ đó gây khó khăn cho các
hoạt động đầu tư. Lạm phát gây thiệt hại cho ngân sách nhà nước bằng việc bào mòn giá
trị thực của những khoản công phí. Ngoài ra lạm phát cao kéo dài và không dự đoán
trước được làm cho nguồn thu ngân sách nhà nước bị giảm do sản xuất bị suy thoái. Tuy
SVTH: Hồ Thị Luyến – Lớp L12NH4 15
Đề án Tài chính tiền tệ GVHD: ThS. Phạm Thị Hoàng Mỹ
nhiên, lạm phát cũng có tác động làm gia tăng số thuế nhà nước thu được trong những
trường hợp nhất định. Nếu hệ thống thuế tăng dần (thuế suất lũy tiến) thì tỷ lệ lạm phát
cao hơn sẽ đẩy người ta nhanh hơn sang nhóm phải đóng thuế cao hơn, và như vậy chính
phủ có thể thu được nhiều thuế hơn mà không phải thông qua luật. Trong thời kỳ lạm
phát giá cả hàng hóa – dịch vụ tăng lên một cách vững chắc, bên cạnh đó tiền lương danh
nghĩa cũng theo xu hướng tăng lên, vì vậy thu nhập thực tế của người lao động nói chung
có thể vững hoặc tăng lên, hoặc giảm đi chứ không phải bao giờ cũng suy giảm.

1.2.7. Đo lường lạm phát
Lạm phát được đo lường bằng tỷ lệ lạm phát mà nó là suất tăng của mức giá tổng
quát theo thời gian. Vấn đề đặt ra trước tiên là mức giá tổng quát được tính toán như thế
nào? Hai thước đo thông dụng phản ánh mức gía tổng quát là chỉ số giá tiêu dùng (CPI)
và chỉ số điều chỉnh GDP (GDP deflator).
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) là một tỷ số phản ánh giá của rổ hàng hoá trong nhiều
năm khác nhau so với giá của cùng rổ hàng hoá đó trong năm gốc 1. Chỉ số giá này phụ
thuộc vào năm được chọn làm gốc và sự lựa chọn rổ hàng hoá tiêu dùng.
Về mặt tính toán, CPI được tính như sau:
Trong đó:
i
q
: rỗ hàng hoá,
i
p
: giá của các mặt hàng
t : năm hiện hành; 0 : năm gốc
Chỉ số điều chỉnh GDP là loại chỉ số có mức bao phủ rộng nhất. Nó bao gồm tất cả
các hàng hoá và dịch vụ được sản xuất trong nền kinh tế và trọng số tính toán được điều
chỉnh tuỳ thuộc vào mức độ đóng góp tương ứng của các loại hàng hoá và dịch vụ vào
giá trị gia tăng. Về mặt khái niệm, đây là chỉ số đại diện tốt hơn cho việc tính toán tỷ lệ
lạm phát trong nền kinh tế. Tuy nhiên, chỉ số giá này không phản ánh trực tiếp sự biến
động trong giá hàng nhập khẩu cũng như sự biến động của tỷ giá hối đoái.
Về mặt tính toán, chỉ số điều chỉnh GDP được tính như sau:
Chỉ số điều chỉnh GDP =
ii
t
i
t
i

t
pq
pq
0
.
.


Trong đó:
i
q
: rỗ hàng hoá,
i
p
: giá của các mặt hàng
SVTH: Hồ Thị Luyến – Lớp L12NH4 16
CPI =
ii
i
t
i
pq
pq
00
0
.
.


Đề án Tài chính tiền tệ GVHD: ThS. Phạm Thị Hoàng Mỹ

t : năm hiện hành
0 : năm gốc
1.3. Các biện pháp kiềm chế lạm phát
1.3.1. Biện pháp tình thế
Chính sách đóng băng tiền tệ: giảm lượng tiền trong nền kinh tế bằng cách ngưng
phát hành tiền vào kênh lưu thông. Đồng thời, dừng các nghiệp vụ làm tăng lượng cung
ứng tiền tệ như dừng các nghiệp vụ chiết khấu và tái chiết khấu đối với các tổ chức tín
dụng, dừng việc mua vào các chứng khoán ngắn hạn, không phát hành tiền bù đắp bội chi
ngân sách. Bên cạnh đó còn có các biện pháp làm giảm lượng tiền cung ứng như ngân
hàng trung ương bán ra các chứng khoán ngắn hạn, bán ngoại tệ, phát hành các công cụ
nợ của chính phủ để vay tiền trong nền kinh tế để bù đắp cho thâm hụt ngân sách, tăng lãi
suất tiền gửi…
Thi hành chính sách thắt chặt tài chính như tạm hoãn những khoản chi không cần
thiết, cân đối lại ngân sách và cắt giảm chi tiêu đến mức có thể, nhờ đó mức chi tiêu
chung giảm đi lạm phát sẽ chững lại.
Tăng lượng hàng hóa tiêu dùng để cân đối với lượng tiền trong lưu thông bằng cách
khuyến khích tự do mậu dịch, giảm thuế quan…
Đi vay hoặc xin viện trợ từ nước ngoài.
Cải cách tiền tệ. Đây là biện pháp cuối cùng khi các biện pháp kia không hiệu quả.
1.3.2. Biện pháp chiến lược
Biện pháp chiến lược hàng đầu để ổn định tiền tệ trong nền kinh tế là thúc đẩy phát
triển sản xuất hàng hóa và mở rộng lưu thông hàng hóa vì khi nền sản xuất phát triển sẽ
tạo tiền đề vững chắc cho sự ổn định tiền tệ.
Kiện toàn bộ máy hành chính, cắt giảm biên chế quản lý hành chính. Đây là biện
pháp nhằm giảm thiểu khoản thâm hụt ngân sách nhà nước.
Tăng cường công tác quản lý điều hành nhà nước trên cơ sở tăng các khoản thu một
cách hợp lý, chống thất thu đặc biệt là thất thu về thuế, nâng cao hiệu quả của các khoản
chi ngân sách.
SVTH: Hồ Thị Luyến – Lớp L12NH4 17
Đề án Tài chính tiền tệ GVHD: ThS. Phạm Thị Hoàng Mỹ

Chương 2. THỰC TRẠNG LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2008-2012
2.1. Lịch sử lạm phát ở Việt Nam
Câu chuyện lạm phát ở Việt Nam không phải là mới. Đã từng có thời kỳ tỉ lệ lạm
phát lên đến 3 chữ số. Đổi tiền và lạm phát năm 1986 gọi là lạm phát năm 1986 vì đó là
năm có tỉ lệ tăng cao nhất, nhưng lạm phát thực sự đã xuất hiện từ nhiều năm trước đó.
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) từ 1981-1985 lần lượt tăng là: 70%, 95%, 50%, 65% và 92%.
Chỉ có điều lúc đó không ai thừa nhận có lạm phát trong nền kinh tế xã hội chủ nghĩa,
không ai dám đưa vấn đề ra để phân tích, bàn luận công khai. Không có giải pháp tổng
thể nào được đưa ra trong một thời gian dài cho đến khi xảy ra cuộc đổi tiền vào năm
1985.Có lẽ có quan niệm cho rằng đổi tiền sẽ khôi phục lại giá trị đồng bạc Việt Nam và
lạm phát sẽ chấm dứt nên mới có qui định "Sức mua của đồng tiền mới bằng 10 lần sức
mua của đồng tiền cũ" (Quyết định 01/HĐBT-TĐ ngày 13/9/1985). Nhưng sau đổi tiền,
CPI năm 1985 tăng đến 92%, năm 1986 lên tới 775%, nền kinh tế bước vào thời kỳ lạm
phát dữ dội với tỉ lệ tăng 3 chữ số kéo dài trong 2 năm tiếp theo. Phải đến cuối năm 1988
và qua năm 1989, nhiều biện pháp về tiền tệ nhằm kiểm soát lạm phát mới được đưa ra.
Một trong những quyết định quan trọng ghi nhận được lúc đó là việc lần đầu tiên mạnh
tay nới lỏng tỷ giá USD/VND vào cuối năm 1988 và tiếp tục cơ chế linh hoạt đến năm
1991, trước khi bước vào giai đoạn đóng băng tỷ giá từ năm 1992. Trước tháng 12/1988,
tỷ giá do ngân hàng Vietcombank công bố thường thấp hơn thị trường tự do hàng chục
lần. Các công ty xuất khẩu lẩn tránh việc đưa ngoại tệ vào ngân hàng bằng cách nhập
khẩu hàng hóa quay vòng. Vào tháng 12/1987, Vietcombank công bố tỷ giá ngoại tệ là
3.000 đồng/USD. Đây là bước tăng vọt so với tỷ giá 368,2 đồng công bố từ đầu năm, tuy
vẫn còn thấp hơn mức giá 4.300 đồng ở thị trường tự do. Trong các tháng tiếp theo, tỷ giá
được điều chỉnh với biên độ chênh lệch khoảng 10% so với giá thị trường. Sự thay đổi tỉ
giá đã có tác động rất mạnh đến cán cân thương mại. Nếu chỉ xét trong khu vực giao dịch
bằng USD, xuất khẩu trong giai đoạn từ 1989 đến 1992 bình quân tăng 50% mỗi năm. Tỉ
lệ nhập siêu so với xuất khẩu đã lập tức giảm mạnh từ 47,6% trong năm 1986 xuống gần
như cân bằng vào năm 1989 và thậm chí đã có xuất siêu vào năm 1990.
Đến cơn sốt tín dụng đầu thập kỷ 1990. Năm 1989, với cơ chế rất thoáng trong việc
thành lập quỹ tín dụng, hàng loạt quỹ tín dụng ra đời để huy động vốn, cho vay lòng

vòng, sau một thời gian thì đổ bể. Lãi suất tiết kiệm năm 1989 cực kỳ cao, có lúc lên đến
hơn 12%/tháng cùng với cơ chế rất thoáng. Lãi suất cho vay đầu năm 1989 là
10,5%/tháng, cuối năm giảm xuống còn xấp xỉ 4%/tháng và duy trì ở mức trên dưới
3%/tháng trong các năm từ 90 đến 92. Tình hình kinh tế xã hội vào lúc đó cũng còn hết
sức gay gắt, mặc dù lạm phát đã giảm mạnh so các năm 86-88. Tỷ giá VND/USD tăng
SVTH: Hồ Thị Luyến – Lớp L12NH4 18
Đề án Tài chính tiền tệ GVHD: ThS. Phạm Thị Hoàng Mỹ
vọt lên trên 13.000 VND/USD trong tháng cuối năm 1991, giảm đột ngột còn 11.000
VND/USD đến năm 1992, sau đó và được neo giữ ở mức thấp trong suốt nhiều năm từ
1992 đến 1996 trong khoảng từ 10.500 đến 11.000 VND/USD.
Tình trạng lỗ lãi, nợ nần mà không có cơ chê phá sản làm cho hàng loạt công ty
đang hoạt động hết sức khốn đốn. Chính phủ đã ra quyết định lập Ban thanh toán công nợ
quốc gia để thanh toán chéo nhưng kết quả không đáng kể. Nội lực của nền kinh tế bị
thương tổn nghiêm trọng. Tăng trưởng kinh tế của VN từ 1992 đến 1996 đạt đến 9%
năm, nhưng từ 1997 thì giảm dần. Một số báo cáo cho rằng do ảnh hưởng của khủng
hoảng kinh tế châu Á. Đó là cách lý giải mà ngay từ lúc đó cũng không có sức thuyết
phục. Dấu ấn của chính sách tỷ giá, tiền tệ các năm đó lớn hơn là ảnh hưởng từ cuộc
khủng hoảng kinh tế khu vực. Chính là cơ chế cứng nhắc cùng với tỷ giá đồng nội tệ cao
đã làm mất đi cơ hội của đất nước khi mà dòng FDI thế giới đang hướng mạnh vào.
Hình2.1. Thâm hụt thương mại do tỷ giá và cũng được giải quyết bởi tỷ giá
Kết quả kỳ diệu của cơ chế tỷ giá năm 1997. Đồng nội tệ đã bị đánh giá cao cùng
với tỷ giá bị cố định cứng trong khoảng thời gian dài từ 1992 đến 1996 đã thúc đẩy nhập
khẩu ồ ạt. Do vậy, thâm hụt thương mại liên tục tăng để lên đến đỉnh cao hơn 45% vào
năm 1995. Năm 1997, lần đầu tiên cơ chế xơ cứng của tỷ giá được điều chỉnh và kết quả
thật kỳ diệu. Liên tục trong 4 năm thâm hụt thương mại giảm mạnh để chỉ còn -1% vào
năm 2000. Các năm 1999-2000 chỉ số giá chỉ tăng 0,1% và -0,6%. Tăng trưởng của GDP
cũng thấp: 4,8% năm 1999 và 6,7% năm 2000. Giải pháp được đưa ra lúc này là kích cầu
tăng trưởng thông qua gia tăng chi tiêu công và đầu tưcủa các doanh nghiệp nhà nước.
Chi tiêu của Nhà nước (so với GDP) đã tăng từ 5% năm 2000 lên trên 8% từ sau năm
2005. Tỉ lệ vốn đầu tư/GDP cũng tăng lên đến 34% năm 2000 và đến 40% từ năm 2004

đến nay (2007). Từ đây các nhân tố lạm phát được nuôi dưỡng.
SVTH: Hồ Thị Luyến – Lớp L12NH4 19
Đề án Tài chính tiền tệ GVHD: ThS. Phạm Thị Hoàng Mỹ
Hình 2.2. Tốc độ tăng trưởng GDP thống kê qua các năm và ước tính cho 2008
Đến hôm nay lạm phát quay trở lại. Năm 2004 đã xuất hiện những dấu hiệu của
cuộc lạm phát mới và được xác nhận lại vào năm 2005 nhưng đã không có những giải
pháp thoa đáng. Thậm chí đến giữa năm 2007 dấu hiệu trở nên rõ ràng hơn thì một lãnh
đạo Ngân hàng Nhà nước vẫn tuyên bố mạnh mẽ lạm phát không thể đến mức hai con
số". Nếu nhìn lại trong vòng 3 thập kỷ qua, tính chu kỳ của nền kinh tế bộc lộ rõ hơn: cứ
10 năm lặp lại một lần. Suy thoái diễn ra vào các năm x7, x8 sau khi đạt được đỉnh tăng
trưởng trong các năm x4, x5, xó. Tuy nhiên, đến nay liệu chúng ta đã có đủ kinh nghiệm
để không bị cuốn theo chu kỳ? Kiểm chứng về chính sách từ lạm phát và hậu lạm phát
năm 86 đến nay, cho thấy những lúc khó khăn nhất thì có nhiều tiếng nói và có sự lắng
nghe hơn, xuất hiện những cải cách mạnh mẽ. Nhưng vào những lúc nền kinh tế đạt được
tốc độ tăng trưởng cao dần thì nhiều quyết định được đưa ra rất bất ngờ, ít được tham
vấn, tiếng nói đóng góp cũng ít xuất hiện. Phải chăng đây là căn bệnh cố hữu không thể
vượt qua?
2.2. Thực trạng lạm phát ở Việt Nam giai đoạn 2008 – 2012
Tình hình lạm phát ở Viêt Nam trong giai đoạn 2008-2012 diễn biến khá phức tạp.
Để tìm hiểu rõ hơn diễn biến lạm phát trong giai đoạn này, ta tiến hành phân tích từng
năm 2008, 2009, 2010,2011, 2012.
SVTH: Hồ Thị Luyến – Lớp L12NH4 20
Đề án Tài chính tiền tệ GVHD: ThS. Phạm Thị Hoàng Mỹ
Biểu đồ 2.3: Diễn biến CPI trong giai đoạn 2008-2012
(tự minh họa dựa trên số liệu thu thập được từ website vneconomy.vn)
2.2.1. Năm 2008
Trong hơn nửa đầu năm 2008, lạm phát là vấn đề số một của nền kinh tế Viêt nam.
Tốc độ tăng giá tiêu dùng liên tục tăng ở mức 2%/tháng với đỉnh điểm vào tháng 2 và
tháng 5 (tăng 3,91 %).
Biểu đồ 2.4: Diễn biến CPI trong năm 2008.

SVTH: Hồ Thị Luyến – Lớp L12NH4 21
Đề án Tài chính tiền tệ GVHD: ThS. Phạm Thị Hoàng Mỹ
Vào tháng 6/2008, giá hàng hóa trên thế giới bắt đầu giảm khiến tốc độ tăng lạm
phát đã giảm xuống mức dưới 2%/tháng (tháng 7-8/2008) và xấp xỉ 0%/tháng trong tháng
9/2008.
Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu bước vào giai đoạn bùng phát vào tháng
9/2008 và nhanh chóng lan tỏa tới các lĩnh vực kinh tế khác, dẫn tới suy thoái kinh tế
toàn cầu. Việc cắt giảm đầu tư và tiêu dùng dẫn tới một sự giảm đột ngột về cầu khiến
cho nhiều giá nhiều mặt hàng giảm mạnh. Tính trong 4 tháng từ tháng 8 đến tháng
11/2008, giá nguyên liệu thế giới giảm 58% với đà giảm gia tăng. Giảm phát ở Việt nam
có độ trễ 2 tháng so với nước ngoài và chính thức bắt đầu từ tháng 10/2008.
Tháng 12/2008, chỉ số giá của nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống đã tăng 31,86%,
trong đó lương thực tăng 43,25%, thực phẩm tăng 26,53%, ăn uống ngoài gia đình tăng
33,62%. So với tháng 12/2007, chỉ số giá vàng tháng cuối năm nay đã tăng 6,83%, chỉ số
giá USD tăng 6,31%. Còn so với tháng 11/2008, đóng góp vào mức tăng âm của tháng
12/2008 là do các nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng cũng giảm tới 2,36%; nhóm phương
tiện đi lại, bưu điện giảm 6,77%.
2.2.2. Năm 2009
Không có những đột biến lớn, không bất thường về quy luật, diễn biến chỉ số giá
tiêu dùng năm 2009 cho cảm giác khá trầm lắng. Nhưng trong một năm nền kinh tế trầm,
thăng phức tạp, CPI vẫn có sự đảo chiều tương ứng.
Biểu đồ 2.5: Diễn biến CPI trong năm 2009
SVTH: Hồ Thị Luyến – Lớp L12NH4 22
Đề án Tài chính tiền tệ GVHD: ThS. Phạm Thị Hoàng Mỹ
Trên biểu đồ, tốc độ tăng CPI theo tháng đạt đỉnh 4 lần trong năm qua, ở các tháng
2, 6, 9 và 12, với các mức tăng 1,17%; 0,55%; 0,62% và 1,38%. Trong 8 tháng đầu tiên,
diễn biến chỉ số giá là biểu hiện của kìm nén, ít nhiều theo tính quy luật và cho cảm nhận
an toàn. Tuy nhiên trong 4 tháng còn lại, đường biểu diễn xóc nhẹ, báo hiệu những đột
biến, để rồi tăng dần và dựng ngược lên trong tháng tận cùng của năm, hiện thực hóa
phần cảm nhận lơ lửng đâu đó về nguy cơ tái lạm phát.

Trong tháng 1/2009 CPI lên nhẹ 0,32%. Nhưng đến tháng 2, Tết Kỷ Sửu và rằm
tháng Giêng kéo giá lương thực, thực phẩm và nhiều loại hàng hóa, dịch vụ đồng loạt lên
mức cao. Ở đỉnh cao thứ nhất, CPI tăng 1,17%, trước khi đảo chiều giảm âm 0,17% trong
tháng 3 ngay sau đó.
Từ tháng 4 đến tháng 8 chỉ số giá hạ nhiệt chỉ còn tăng 0,24% trong tháng 8. Mức
chênh lệch trong giai đoạn này chỉ 0,31 điểm phần trăm và gần như không có đột biến
lớn. Tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tính cho tới tháng 8/2009
đã có sự cải thiện. So với cùng kỳ năm trước, mức tăng đạt 18,4%, loại trừ yếu tố giá còn
tăng 9,3%. Trong khi đó, giá một số nguyên liệu trên thế giới bắt đầu hồi phục, đặc biệt
là mặt hàng xăng dầu. Tính cho đến ngày 30/8, giá xăng dầu đã tăng 7 lần liên tiếp, chốt
lại mặt bằng giá mới ở mức xăng A92 có giá bán 15.700 đồng/lít.
Bước sang tháng 9, đã xuất hiện những diễn biến “ngược dòng”. CPI đạt đỉnh ở
mức tăng 0,62% rồi tạm “nghỉ” ở mức tăng 0,37% của tháng 10 sau đó. So với chu kỳ
trước, các con số đỉnh và đáy tương ứng đều cao hơn, báo hiệu những lo ngại tiềm ẩn của
lạm phát tiếp tục gia tăng. Sự điều chỉnh nhỏ trong tháng 10 được hỗ trợ một phần từ việc
giá xăng dầu giảm lần đầu tiên trong năm vào ngày 1/10. Giá lương thực, thực phẩm chỉ
tăng rất nhẹ so với tháng trước đó.
Về tác động của tăng giá trên thị trường thế giới, đến tháng 11/2009, giá gạo 5% tấn
xuất khẩu của Việt Nam tăng lên mức 451,31 USD/tấn. Do có quyền số cao tới hơn 40%
trong rổ hàng hóa tính CPI, tăng giá lương thực tác động mạnh đến giá cả trong nước,
CPI nhóm hàng này tháng 12/2009 đã tăng 7,54% so với một năm trước đó.
Năm 2009 khép lại với chỉ số giá chấp nhận được trong tất cả các mức so sánh.
Nhưng sự gia tăng mạnh mẽ chỉ số CPI tháng cuối cùng của năm khiến niềm vui chưa thể
trọn vẹn trong những ngày đón năm mới 2010.
2.1.3. Năm 2010
Diễn biến chỉ số giá tiêu dùng (CPI) năm 2010 như hình chiếc cốc, tạo bởi mức
chênh lệch giữa tháng tăng đỉnh và đáy lên đến hơn 1,5%, khá tương đồng với năm 2007.
Hai điểm cao nhất đều được tạo thành từ mức tăng xấp xỉ 2% của tháng 2 và tháng 12,
SVTH: Hồ Thị Luyến – Lớp L12NH4 23

×