1.TÊN ĐỀ TÀI:
MỘT VÀI BIỆN PHÁP GIÁO DỤC HỌC SINH CÁ BIỆT
CỦA LỚP CHỦ NHIỆM
2.ĐẶT VẤN ĐỀ:
“Trẻ em hôm nay, Thế giới ngày mai…”
Trẻ em là công dân tương lai của đất nước, do đó trẻ em phải được giáo dục
tốt để sau này trở thành công dân tốt. Như chúc thư Bác Hồ đã khẳng định : “Bồi
dưỡng thế hệ trẻ cho cách mạng đời sau là một việc làm rất quan trọng và cần
thiết.” Và đó cũng là trọng trách mà Đảng và nhà nước giao cho ngành giáo dục
nước ta.
So với học sinh (HS) tiểu học, ở bậc THCS môi trường sống và hoạt động
của các em có sự thay đổi. Tất cả sự thay đổi đó là điều kiện rất quan trọng làm
cho hoạt động nhận thức và nhân cách của HS THCS có sự thay đổi về chất so
với các lứa tuổi trước. Đây là lứa tuổi mà diễn biến tâm lý hết sức phức tạp và
đầy mâu thuẫn. Do đó nắm vững đối tượng này sẽ có ý nghĩa quyết định đến
thắng lợi của nhà giáo dục.
Trong quá trình giảng dạy tôi được phân công chủ nhiệm nhiều năm.
Trong những năm làm công tác chủ nhiệm, đặc biệt là chủ nhiệm HS lớp 9, tôi
đã gặp không ít các trường hợp HS cá biệt. do đó tôi đã áp dụng nhiều phương
pháp giáo dục HS cá biệt và đã có một số thành công nhất định. Cùng với việc
không ngừng trau dồi nghiệp vụ để đem đến cho các em những tri thức quý báu,
tôi luôn trăn trở và suy nghĩ: làm thế nào để nâng cao việc giáo dục đạo đức cho
HS nói chung và HS cá biệt nói riêng nhằm góp phần giáo dục thế hệ trẻ phát
triển về mọi mặt mới là một con người mới XHCN. Vì vậy, trong quá trình làm
công tác chủ nhiệm tôi đi sâu nghiên cứu vấn đề này.
1
Đề tài này chỉ giới hạn giáo dục học sinh cá biệt của lớp chủ nhiệm.
3. CƠ SỞ LÝ LUẬN:
Mục tiêu của giáo dục không những giáo dục cho HS có những kiến thức
mà còn giáo dục cho các em trở thành con người có ích cho xã hội. Trường học
là nơi hình thành và phát triển nhân cách cho các em, giúp các em có một sự thân
thiện và tích cực học tập. Thế nhưng, ở các em lứa tuổi đang và sắp trở thành
người lớn, lứa tuổi có nhiều biến động về tâm sinh lí, trước cảnh xã hội phức tạp
như hiện nay, trẻ em tiếp xúc với rất nhiều hiện tượng ảnh hưởng xấu đến nhân
cách. Tuy nhiên, dường như chúng ta chưa quan tâm đúng mức đến vấn đề dạy
đạo đức cho con trẻ. Cha ông ta đã có câu: “ Tiên học lễ hậu học văn”, đành rằng
là thế nhưng hiện nay vấn đề học sinh vi phạm đạo đức lại rất phổ biến trong các
nhà trường. Xin kể ra đây một số trường hợp cho thấy những biểu hiện học sinh
vi phạm đạo đức.
Đã không ít học sinh vì có nhiều điểm kém nên không dám đưa sổ liên lạc
cho cha mẹ biết, rồi mượn người khác phê, ký vào sổ liên lạc để nộp lại cho nhà
trường. Có học sinh không muốn cho cha mẹ dự họp phụ huynh nên không đưa
giấy mời của nhà trường khi có những cuộc họp cần thiết. Có học sinh lấy tiền
học phí, tiền học thêm đi đánh điện tử và tiêu pha bừa bãi.
Về phía gia đình, cũng có những cha mẹ thấy con ngày nào cũng đi học,
đến cuối năm kết quả học tập của con bị xếp loại yếu thì mới biết là mấy tháng
trời con thường bỏ giờ để đi chơi điện tử. Có không ít những cha mẹ mải mê với
công chuyện làm ăn “trăm sự nhờ thầy cô”. Cũng có những gia đình quá nuông
chiều con, khi biết con hư thì đã quá muộn, lại đỗ lỗi cho nhà trường, thậm chí
đối xử thô bạo với thầy cô giáo .
2
Về phía nhà trường, cũng có những giáo viên chủ nhiệm không nắm chắc
tình hình học sinh, đối xử không công bằng với học sinh, nhận xét, phê học bạ
chung chung thậm chí trái ngược, ít quan tâm liên lạc với gia đình học sinh.
Có thể kể rất nhiều những hiện tượng đáng tiếc, đáng buồn đối với những
học sinh phạm pháp.
Ngày nay ngành giáo dục đã có nhiều đổi mới cho việc giáo dục học sinh.
Tuy nhiên phẩm chất đạo đức học sinh là kết quả tác động của rất nhiều yếu tố
khách quan, chủ quan và chúng có mối quan hệ chằng chịt với nhau.
Chuyện dạy đạo đức cho con trẻ đã được nhiều người bàn đến bởi lẽ đạo
đức là nền tảng tạo nên nhân cách tốt đẹp của mỗi con người và rất nên được coi
trọng. Vì vậy giáo dục nhân cách cho học sinh nhất là học sinh cá biệt là rất cần
thiết và cấp bách để giúp các em trở thành người công dân chân chính. Là giáo
viên chủ nhiệm không thể không quan tâm và cố gắng tìm mọi biện pháp tối ưu
để đem lại hiệu quả cao trong quá trình giáo dục đạo đức học sinh cá biệt.
4.CƠ SỞ THỰC TIỄN:
Trong quá trình làm công tác giáo dục chúng ta đã từng buồn phiền biết
bao khi gặp phải những HS chậm tiến. Biểu hiện của những học sinh này rất đa
dạng, có thể xếp vào mấy nhóm hành vi sau:
1. Ở trong trường: thiếu ý thức tổ chức kỷ luật như chay lười trong học tập,
lao động và sinh hoạt tập thể. Học bài, làm bài không đầy đủ. Trốn giờ học, giờ
sinh hoạt. Quay cóp khi thi, kiểm tra. Ăn mặc lố lăng, tóc tai không gọn gàng,
không tuân thủ quy định chung của trường. Thiếu lễ phép, lừa dối, xúc phạm
thầy cô giáo, phá phách tài sản của trường, của bạn; Gây gỗ đánh nhau với bạn
bè trong lớp trong trường, doạ nạt cán bộ lớp, ủy viên thi đua, nói tục, chửi thề
….
3
2. Ở ngoài trường: thiếu lễ phép với cha mẹ, người lớn, nói dối gia đình,
xúc phạm phụ nữ, trẻ em, mất trật tự ở đường phố, thôn xóm…; La cà ở hàng
quán ăn uống bê tha, lấy cắp tiền, đồ để ăn tiêu, chơi điện tử, đánh bạc, tham
gia vào các vụ mất trật tự, tập hợp nhau thành băng nhóm để đánh nhau.
3. Tình trạng học sinh yếu kém về mặt đạo đức đã làm cho cha mẹ thầy
cô….hết sức lo âu trăn trở. Nhiều giáo viên chủ nhiệm khẳng định xoá bỏ được
tình trạng yếu kém trong lớp là cơ sở để thành công đối với mọi công tác khác.
Quá trình giáo dục đạo đức cho học sinh không phải một sớm một chiều
mà là cả một quá trình lâu dài phức tạp, phải vận dụng nhiều hình thức và biện
pháp khác nhau.
Đối với lớp 9/5 của tôi chủ nhiệm có một số học sinh cá biệt như sau:
*Danh sách và những biểu hiện học sinh cá biệt:
STT Họ và tên Những biểu hiện
1 Phạm Minh
Thắng
-Lười học bài cũ, nói chuyện, không ghi bài, không chú ý
trong bài học
-Lôi kéo một số bạn bè theo mình
- Bỏ tập thể dục giữa giờ, bỏ sinh hoạt tập thể, nói tục.
2 Bùi Thế Viễn -Chưa chú ý học.
-Nói leo, nói tự do trong giờ học,
-Thầy cô nhắc nhở có biểu hiện chống chế, nói dối bố mẹ
-Thường xuyên không ghi bài, quay cóp trong giờ học.
3 Nguyễn văn
Tín
-Hay bỏ giờ, nghỉ học vô lý do, phá phách tài sản của nhà
trường.
-Gây gỗ, đánh nhau với bạn
4 Nguyễn Thanh
Tùng
-Thường xuyên đi học muộn, không ghi bài trong lớp, khi
thầy cô giáo nhắc nhở thì chống chế.
-Ăn mặc lố lăng, tự tiện ra vào lớp trong giờ học và đổi
tiết 5 phút
4
Đối với mỗi giáo viên chúng ta vấn đề quan trọng là nắm vững tri thức khoa
học để truyền thụ cho các em học sinh. Đó là điều kiện cần nhưng chưa đủ. Giáo
dục đạo đức cho học sinh cũng là một mặt trong nhà trường phổ thông. Trong
giáo dục đạo đức thì khó khăn nhất, lo ngại nhất là giáo dục học sinh yếu kém
đạo đức. Từ học sinh yếu kém, cá biệt về đạo đức đến trẻ em lang thang, phạm
pháp cũng không xa lắm, vì có một số học sinh cá biệt đã có hành vi phạm pháp.
Vì vậy, là một giáo viên chủ nhiệm trong quá trình hình thành phẩm chất đạo
đức cho học sinh giáo viên cần phải có những biện pháp cụ thể đối với từng đối
tượng cá biệt để giúp các em hoàn thiện nhân cách của mình.
5.NỘI DUNG NGHIÊN CỨU:
Trong quá trình thực hiện tôi quan tâm đến một số vấn đề sau:
a. Nắm chắc nguyên nhân, đặc điểm tâm lý, sinh lý, khả năng của từng học
sinh để từ đó phân loại đối tượng:
Yêu cầu đầu tiên khi cần “tiếp cận’’ một em học sinh nào, cần có thông tin
cần thiết về em đó. Hoàn cảnh gia đình: Bố mẹ làm gì, sinh sống bằng cách
nào, ở đâu…Hiện nay em có nhu cầu gì….Nguyên nhân dẫn đến thói hư tật
xấu….Từ đó chúng ta mới có hướng giải quyết cụ thể, thích hợp cho từng em.
Chẳng hạn với 4 học sinh cá biệt lớp tôi, sau khi có những thông tin cần
thiết về các em tôi đã xác định được việc giáo dục đạo đức cho từng em không
thể giống nhau.
b. Xây dựng tập thể học sinh tốt:
Trong các lực lượng giáo dục phải chú ý đến sức mạnh đồng bộ của tập
thể. Chỉ có tập thể học sinh tốt mới có dư luận lành mạnh, có tác dụng hướng
dẫn kiểm tra tri thức đạo đức, niềm tin đạo đức cho mỗi học sinh. Kiểm tra
đánh giá và cũng cố những thói quen đạo đức của các em. Không khí đạo đức
5
của tập thể học sinh lành mạnh sẽ trở thành môi trường nảy sinh, điều kiện tồn
tại và củng cố những hành vi đạo đức của mỗi học sinh.
ở lớp 9/5, do tôi chủ nhiệm, ngay từ khi mới nhận lớp tôi đã có kế hoạch cụ
thể trong việc lựa chọn đội ngũ cán bộ lớp, xếp chỗ ngồi hợp lý, giao trách
nhiệm và phát huy vai trò của từng đối tượng HS….Hầu hết các em đều ngoan,
có tinh thần học tập. Những em HS khá giỏi chăm ngoan, có trách nhiệm cao
được xếp ngồi cạnh những HS cá biệt để có cơ hội giúp đỡ bạn. Hầu như tuần
nào, tháng nào lớp cũng được tuyên dương về nề nếp và ý thức học tập. Điều
đó phần nào làm cho HS cá biệt không bị lạc lõng nhưng tự thấy được những
điều mình đã làm là đúng hay chưa đúng với một tập thể luôn yêu thương đùm
bọc các em.
c. Phẩm chất của giáo viên:
Việc giáo dục đạo đức cho HS, đặc biệt là HS cá biệt đòi hỏi cao ở người
thầy, cô giáo về mặt uy tín, về thái độ nhiệt tình, về tính kiên trì, lòng độ lượng
bao dung thầy cô phải làm tấm gương cho HS noi theo. Đối với HS, bản thân
các em là ngọn đuốc và người thầy chính là người thắp sáng cho những ngọn
đuốc đó bùng cháy. Nói như vậy có nghĩa là sự lớn lên về tình cảm của HS một
phần tuỳ thuộc sâu sắc vào tấm lòng, tâm hồn và lẽ sống của thầy.
Thầy phải để lại ấn tượng tốt đẹp cho HS, tạo bầu không khí thoải mái,
HS mong muốn được tiếp xúc tâm sự, giãi bày những băn khoăn của mình; học
sinh có niềm tin vững chắc vào lời dạy bảo của thầy cô và cảm nhận thấy sự
tiến bộ trong học tập, trong quan hệ với mọi người sau mỗi lần tiếp xúc với
thầy cô.
d. Sức mạnh của tập thể thầy, cô giáo, gia đình, địa phương, hội phụ
huynh…
6
Giáo viên chủ nhiệm nếu chỉ qua một số lớp trên lớp không thể nắm bắt hết
tình hình một cách chính xác. Vì vậy phải có sự phối hợp đồng bộ với các lực
lượng khác.
Bản thân tôi thường xuyên trao đổi với các thầy cô giáo bộ môn để nắm
tình hình của các em, có ý kiến đề nghị các thầy cô cùng phối hợp. Thường
xuyên đấu mối với địa phương, gia đình để nắm tình hình các em ngoài giờ học
ở trường. Kết hợp bàn bạc để tìm cách quản lý chặt chẽ việc học cũng như giúp
các em tìm thấy niềm vui trong học tập.
e. Xây dựng quy định thi đua riêng của lớp căn cứ vào nội quy, quy định của
trường, của đoàn đội.
- Lập bảng theo dõi học tập và nề nếp để tiện việc xếp điểm thi đua.
Ví dụ: Bảng điểm xếp loại thi đua tuần
ĐẶC ĐIỂM ĐIỂM THƯỞNG ĐIỂM PHẠT
Nề nếp -Đi học chuyên cần, đúng
giờ: Cộng 1 điểm/tuần
-Trong giờ học nghiêm
túc, tập trung, chú ý nghe
giảng: Cộng 1 điểm /buổi
-Tham gia đầy đủ, nhiệt
tình trong các hoạt động
của lớp, trường: Cộng 1
điểm/ Lần
-Đi học muộn: trừ 1 điểm/ lần.
-Nghỉ học vô lý do: trừ 3 điểm/lần.
-Bỏ tiết không lí do: Trừ 2 điểm / 1
lần
- Mất trật tự trong giờ học, tự ý ra
ngoài trong 5 phút đổi tiết: trừ 0,5
điểm/lần.
- Không tham gia sinh hoạt tập thể:
trừ 2 điểm/lần.
- Ăn quà gây mất vệ sinh trường lớp
: trừ 1 điểm /lần.
-Đánh lộn, làm hư hại tài sản của
lớp, trường; Xếp loại hạnh kiểm yếu
7
tuần đó
Học tập - Làm bài và soạn bài đầy
đủ bài tập trước khi đến
lớp: cộng 1 điểm/buổi.
- Tích cực phát biểu ý
kiến xây dựng bài: cộng 1
điểm/tiết học
- Lên bảng thuộc bài đạt
điểm khá, giỏi: cộng 1
điểm/lần.
- Không thuộc bài : trừ 1 điểm/lần
-Không soạn bài mới: Trừ 0.5
điểm/1 lần
-Trong giờ học không tập trung, chú
ý nghe giảng, bị giáo viên nhắc nhở:
Trừ 1 điểm/ 1 lần
Cuối cùng tổng cộng để xếp thi đua trong tuần:
- Từ 10 điểm trở lên xếp hạnh kiểm tốt.
- Từ 8 điểm đến 9,5 xếp hạnh kiểm khá.
- Từ 6 điểm đến 8 điểm xếp hạnh kiểm trung bình.
- Dưới 6 điểm xếp hạnh kiểm yếu.
- Lập sổ thi đua cá nhân giao cho từng thành viên học sinh tự theo dõi.
+ Nề nếp, lớp trưởng và tổ trưởng phụ trách.
+ Học tập, giao cho lớp phó học tập phụ trách.
Cuối cùng cá nhân thành viên trong tổ tự cộng điểm, tổ trưởng chỉ việc so
sánh đối chiếu, xếp loại thi đua của mỗi thành viên trước tập thể lớp mà không
cần giải thích và không bị trách móc. Từ khi thực hiện đến nay chưa xảy ra vấn
đề gì lớn.
- Đến tiết sinh hoạt tập thể cuối tuần giáo viên chủ nhiệm căn cứ sự theo dõi
của lớp và bản thân để ghi vào sổ chủ nhiệm để tiện theo dõi, nếu học sinh nào
xếp loại trung bình trở xuống giáo viên gởi giấy mời hoặc liên hệ trực tiếp với
8
phụ huynh để trao đổi kịp thời uốn nắn những khuyết điểm trong tuần đó, giúp
các em tiến bộ hơn.
Với việc làm trên không những chính xác về điểm mà còn rèn luyện tính
chính xác của học sinh nhất là những học sinh chậm tiến. Em nào cũng muốn
phấn đấu để cuối tuần có tổng điểm cao,
Cùng với thi đua cá nhân tôi còn đề ra nội quy lớp, thành lập nhóm học tập.
Mỗi nhóm 3 đến 4 em học tốt, ngoan ngoãn gương mẫu giúp đỡ một bạn cá biệt
để bạn có phương pháp học tập, chỉ bảo, giúp đỡ bạn những điều bạn chưa hiểu,
sửa cho bạn cách nói năng đúng mực.
Sau một thời gian, các nhóm học tập này làm việc rất tốt và có hiệu quả cao.
Chính phụ huynh các em học sinh cá biệt đã đến lớp cảm ơn các thành viên trong
nhóm đã giúp đỡ con em họ có niềm tin trong học tập.
Bên cạnh đó tôi còn đề nghị giáo viên tổng phụ trách đội cùng giáo dục các
em, tổ chức các buổi ngoại khoá, nêu gương tốt của các đội viên ngay trong
trường và ngoài trường để các em cùng học tập phấn đấu.
g. Giáo dục đúng, thích hợp từng học sinh cũng là yếu tố quan trọng đảm
bảo thành công đối với học sinh cá biệt trong tình hình mới hiện nay.
Muốn làm được điều đó giáo viên phải hiểu rõ về đối tượng. Vận dụng các
phương pháp giáo dục một cách linh hoạt cụ thể. Điều đó không có nghĩa chúng
ta tách học sinh cá biệt ra khỏi tập thể. Đây là vấn đề hết sức tế nhị đòi hỏi giáo
viên phải khéo léo để các em đỡ có mặc cảm bị phân biệt đối xử.
Chẳng hạn với 4 học sinh ở lớp tôi, ngoài những việc làm trên tôi còn lên kế
hoạch theo dõi, quan tâm sát sao từng em để có những phương pháp giáo dục
khác nhau.
*Em Lê Thanh Tùng:
Từ năm lớp 1 đến lớp 8 em đều là học sinh tiên tiến nhưng đến lớp 9 em trở lên
lười học, ít tham gia các hoạt động tập thể, không chú ý trong giờ học, giáo viên
9
nhắc nhở em thường có tính chống chế, nói lại và không nhận khuyết điểm của
mình.
Qua tìm hiểu hoàn cảnh gia đình tôi được biết: Mẹ thì đi gánh gạch ở xa, bố
không có việc làm ổn định, chán nản nên suốt ngày say rượu.
Qua nhiều lần gặp gia đình tôi nhận thấy bố em nói năng cục cằn và cứ mỗi
lần em mắc lỗi thì bố lại đánh rất đau mà không để em trình bày nguyên nhân.
Có lẽ vì thiếu sự quan tâm đúng mức của gia đình nên việc học của em ngày
càng sa sút , chán nản. Học yếu dẫn đến ngại học, đồng thời ảnh hưởng thói xấu
của bố em thường hay nói tục với bạn bè.
Sau nhiều lần gặp gia đình tôi cũng đã tế nhị phân tích điều hay lẽ phải về
tác dụng của việc giáo dục học sinh trong gia đình thì bố mẹ em đã nhận ra điều
chưa làm được của chính mình. Từ đó trước mặt em Tùng bố em không còn nói
tục và đã quan tâm đến việc học tập của em nhiều hơn.
Cùng với việc gặp gia đình, tôi còn gặp trực tiếp em Tùng phân tích cho em
hiểu. Mặc dù bố mẹ còn có nhiều thiếu sót là chưa quan tâm đúng mức tới việc
học của em. Nhưng em cũng nên biết em được cắp sách đến trường là nhờ sự lao
động vất vả của bố mẹ. Được cắp sách đến trường là hạnh phúc lớn lao, hạnh
phúc đó được mọi người, được Tổ quốc trân trọng, nâng niu và vun đắp. Để bảo
vệ được hạnh phúc đó biết bao người đã phải hy sinh. Vậy em phải làm những gì
để khỏi phụ lòng mọi người.
Đồng thời trong các giờ dạy tôi giành thời gian quan tâm đến em nhiều hơn
nhất là qua các giờ luyện tập nhằm giúp em củng cố và nắm vững kiến thức
trọng tâm bài học và em đã có tiến bộ rõ rệt. Đối với em là học sinh cá biệt, khi
em có một việc làm tốt là tôi tuyên dương trước lớp ngay.
*Em Nguyễn Văn Tín:
So với các HS trong lớp thì em là một HS có hoàn cảnh khá đặc biệt: mẹ
đau ốm luôn, điều kiện kinh tế gia đình khó khăn, bố phải đi làm ăn xa, không
10
có thời gian ở nhà để theo dõi, chăm sóc gia đình. Các năm học trước em còn là
HS chăm ngoan, vâng lời thầy cô nhưng trước hoàn cảnh gia đình như vậy em
không những không giúp mẹ mà còn luôn gây buồn phiền cho bố mẹ nữa, chễnh
mãng việc học hành thường xuyên nghỉ học vô lý do, tụ tập bạn bè ăn uống quán
xá, có khi còn lấy cắp tiền của bố mẹ để tiêu xài nữa.
Sau khi tìm hiểu rõ nguyên nhân tôi cùng với ban cán sự lớp đã đến nhà
trực tiếp an ủi mẹ của em. Còn riêng bản thân em tôi phải gặp riêng nhiều lần để
khuyên nhủ em, giúp em tìm lại lí trí, thấy được những sai phạm của mình để
tiếp tục trở thành một đứa con ngoan, trò tốt. Mặt khác tôi cũng kết hợp với thầy
tổng phụ trách của trường để giáo dục em, để em nhận thấy điều bố mẹ mong
muốn nhất đối với em lúc này là làm sao em tiếp tục được đi học cùng với bạn
bè và học tập chăm chỉ ngoan ngoãn. Làm được điều đó chính là em đã thể hiện
sự hiếu thảo với cha mẹ mình. Giao nhiệm vụ cho nhóm học tập có trách nhiệm
giúp đỡ bạn trong học tập. Đề nghị với lớp khuyên góp tiền để góp phần giúp đỡ
bạn khi gia đình bạn gặp khó khăn đột xuất. Đã có một trăm phần trăm ý kiến
trong lớp tán thành. Với trường hợp này chủ yếu tôi dùng phương pháp động
viên an ủi để từ đó xây dựng niềm tin cho em.
Tuy nhiên trong những trường hợp đặc biệt, để giáo dục đạo đức cho HS khi
cần thiết chúng ta vẫn có thể dùng phương pháp trách phạt.
Trách phạt là phương pháp tác động đến nhân cách HS biểu hiện thái độ
không tán thành của thầy cô giáo, buộc HS từ bỏ hành vi có hại cho bản thân,
cho lớp, trường và điều chỉnh sự ứng xử cho đúng mực. Tuỳ theo hành vi và việc
làm sai trái mà ta có hình thức trách phạt khác nhau: nhận xét của giáo viên, phê
bình trước tổ, trước lớp, phê vào sổ liên lạc….Sau khi trách phạt giáo viên và tập
thể lớp phải theo dõi giúp đỡ HS sửa chữa khuyết điểm.
*Đối với trường hợp em Thắng, em Viễn – các em đều là con một trong một
gia đình khá giả. Sống trong cuộc sống đủ đầy nhưng có lẽ do công việc nên bố
11
mẹ không có điều kiện sát sao hơn trong học tập của con. Mỗi lần các em muốn
được đi đâu đó với bố mẹ nhưng đều không có điều kiện. Do chưa có ý thức tự
chủ, lại chán cảnh sống như vậy nên các em rủ nhau tụ tập tìm ra những trò chơi
mới. Từ chỗ ham chơi đến chán học. Các em cho việc đến trường chỉ là hình
thức đối phó với cha mẹ nên việc phi phạm nội quy, quy định của trường lớp là
việc thường xuyên.
Sau khi tìm hiểu nguyên nhân tôi đã phân tích phải trái các em vẫn chưa
nhận ra lỗi lầm của mình. Tôi cố gắng gặp trực tiếp gia đình để nói rõ khuyết
điểm của các em. Kết hợp giữa gia đình và giáo viên, giáo viên bộ môn để tìm ra
hướng giáo dục. Đề nghị gia đình thường xuyên quan tâm, kiểm tra việc học tập,
sinh hoạt của các em….
Cho các em viết bản kiểm điểm có cam kết của gia đình, nếu tái phạm sẽ
không xử lý trong phạm vi lớp mà đề nghị cảnh cáo toàn trường.
Bốn tuần sau tôi thấy các em có chuyển biến rõ rệt. Cho đến nay sắp hết
năm học các em đã cố gắng sửa chữa để phấn đấu trở thành thành viên tốt trong
lớp.
6. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU:
Từ những việc làm trên qua một thời gian thực hiện tôi thấy các em đã có
tiến bộ rõ rệt. Em Lê Thanh Tùng và Bùi Thế Viễn đã có ý thức trong học tập.
Em Nguyễn Văn Tín và Phạm Mimh Thắng không còn bỏ học vô lý do, không vi
phạm nội quy của trường, lớp . Đến cuối học kì I, bốn em này đều được xếp loại
hạnh kiểm khá.
Đến nay lớp 9/5 do tôi chủ nhiệm là một trong những lớp có nề nếp tương
đối tốt. Thường xuyên được nhà trường tuyên dương là lớp có tinh thần học tập
tốt, chi đội mạnh. Chất lượng học tập của lớp dần được nâng lên. Số lượng Hs
giỏi đạt tỉ lệ 10/38 HS trong lớp. Từ đó, học sinh cá biệt cũng thấy rõ sự tiến bộ
12
của mình góp phần vào sự tiến bộ chung của cả lớp. Các em đang rất phấn khởi
thi đua học tốt để hướng tới kỳ thi cuối năm.
7.KẾT LUẬN:
Trong những năm làm công tác chủ nhiệm, nhất là chủ nhiệm 9, đầu năm
học nào tôi nhận lớp cũng đều có một số em HS cá biệt, nhưng nhờ khéo léo áp
dụng một số biện pháp giáo dục như đã trình bày ở trên, đến cuối năm học nào
lớp tôi chủ nhiệm cũng đều đạt 100% HS xếp loại hạnh kiểm khá, tốt, không có
HS xếp loại hạnh kiểm trung bình. Dần dần các em đã biết đoàn kết, lễ phép với
mọi người xung quanh, và trở thành những HS thân thiện, tích cực trong trường
học. Các em trước khi rời trường đều có sự quyến luyến, cảm động không muốn
xa mái trường thân yêu, thầy cô kính mến của mình.
8.ĐỀ NGHỊ:
Trong quá trình thực hiện để có được kết quả như trên tôi rút ra một số ý
kiến sau:
1. Người thầy, cô, cha, mẹ , người lớn tuổi phải là tấm gương sáng cho các
em noi theo. Hết lòng thương yêu và tôn trọng các em, biết tìm ra nguyên nhân
và phán xét một cách khách quan để các em có cơ hội tiến bộ.
2. Người thầy phải có sự kiên trì trong giáo dục. Việc đã đề ra phải có sự đánh
giá, khen chê đúng mực, khách quan để các em có lòng tin và ý thức vươn lên.
3. Người thầy nên đề ra các chủ đề thi đua, phương hướng thi đua để rồi cùng
nhau thực hiện.
4. Gia đình cần thấy rõ vai trò và nghĩa vụ của họ đối với sự chăm sóc giáo
dục con em.
5. Luôn có sự phối kết hợp đồng bộ giữa nhà trường, gia đình, địa phương….
13
*Trên đây là một số kinh nghiệm nhỏ của bản thân để giáo dục học sinh cá
biệt. Tuy đã đạt được một số kết quả nhất định song không thể tránh khỏi những
thiếu sót và những biện pháp tối ưu.
Tôi rất mong được sự quan tâm giúp đỡ, ý kiến đóng góp của Hội đồng
khoa học nhà trường bổ sung thiếu sót để kinh nghiệm này đạt kết quả cao hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn.
Đại Đồng, tháng 02/2009
Người viết
HUỲNH THỊ KIM MAI
14
MỤC LỤC
15
STT Tiêu đề Trang
1. Tên đề tài 1
2. Đặt vấn đề 1
3. Cơ sở lí luận 1
4. Cơ sở thực tiễn 2
5. Nội dung nghiên cứu 3
6. Kết quả nghiên cứu 10
7. Kết luận 11
8. Đề nghị 11
10. Tài liệu tham khảo 12
11. Mục lục 13