Tải bản đầy đủ (.doc) (8 trang)

SUY THOÁI ĐẤT VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (143.25 KB, 8 trang )

MỤC LỤC
1
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Đất là nguồn tài nguyên vô cùng quý giá, là thành phần quan trọng hàng đầu của
môi trường sống. Đất phục vụ cho con người ở nhiều lĩnh vực như nông nghiệp, công
nghiệp, xây dựng, giao thông Trong sản xuất nông nghiệp, đất vừa là đối tượng lao động,
vừa là tư liệu sản xuất. Tuy nhiên, do sức ép của sự bùng nổ dân số và sự phát triển theo
hướng công nghiệp hoá, đô thị hoá, con người đã khai thác đất đai quá mức. Việc chặt phá
rừng, chăn thả, quảng canh, thiếu hụt quản lý, giám sát, áp dụng các biện pháp bảo vệ đất
đai, cùng với tác động của các quá trình tự nhiên như rửa trôi, xói mòn, phèn hoá, mặn hoá,
sa mạc hoá, lầy hoá… đã dẫn đến sự thoái hoá đất trên quy mô toàn cầu, đặt loài người
trước những thách thức quyết liệt trong cuộc đấu tranh với thiên nhiên và chính bản thân
mình để giải quyết những vấn đề sinh tồn: Lương thực, năng lượng, môi trường.
Việt Nam là một nước nằm trong vùng nhiệt đới, mưa nhiều cộng với tình trạng
canh tác lạc hậu lâu dài đã dẫn đến tình trạng thoái hóa đất tăng nhanh và nghiêm trọng.
Theo kết quả điều tra mới nhất, diện tích đất đai bị thoái hoá ở Việt Nam hiện nay đã lên tới
9,34 triệu ha, lớn hơn gấp 5 lần so với diện tích tự nhiên của tỉnh Nghệ An, tỉnh có diện tích
tự nhiên lớn nhất cả nước.
Vì vậy, việc đánh giá đúng về hiện trạng sử dụng đất, quy mô, mức độ thoái hoá
cùng với các nguyên nhân và hậu quả của chúng là sự cần thiết. Do đó, tôi tiến hành đề tài:
“ Suy thoái đất ở Việt Nam và các biện pháp phòng chống”
2
II. NỘI DUNG
2.1 Suy thoái đất là gì
Suy thoái đất là quá trình làm mất đi cân bằng dinh dưỡng của đất do tác động của tự
nhiên và con người. Trong một vùng có thể có nhiều quá trình đồng thời diễn ra làm suy
thoái đất. Đất đồi núi có thể bị thoái hoá do xói mòn, rửa trôi, bạc màu hóa, chua hoá… Đất
bị suy thoái sẽ làm cho tính chất vật lý, hoá học và sinh học của đất trở nên xấu, khả năng
sản xuất của đất bị suy giảm dẫn đến làm tăng diện tích đất trống đồi núi trọc…, gây nguy
hiểm cho hệ sinh thái và môi trường
Một loại đất bị suy thoái nghĩa là bị suy giảm hoặc mất đi:


 Độ phì đất: Các chất dinh dưỡng, cấu trúc đất, thay đổi Ph đất
 Khả năng sản xuất: các lạo cây trồng, các loại vật nuôi
 Cảnh quan sinh thái: Rừng tự nhiên, rừng trồng, hệ thống cây trồng
 Hệ sinh vật: cây – con
 Môi trường sống của con người: Cây xanh, nguồn nước, không khí
2.2 Hiện trạng suy thoái đất ở Việt Nam
Ở nước ta, diện tích đất tự nhiên có khoảng 33 triệu ha (xếp thứ 58/200 nước), trong
đó có 22 triệu ha đất phát triển tại chỗ và 11 triệu ha đất bồi tụ. Bình quan đất tự nhiên theo
đầu người rất thấp: 0.44 ha/người (2001), bằng 1/6 mức bình quân của thế giới. Bình quân
đất nông nghiệp chỉ khoảng 0,12 ha/ người.
Đa số diện tích chưa sử dụng nằm ở vùng đất trống đồi núi trọc. Đây cũng là đối
tượng khai hoang mở rộng diện tích đất nông nghiệp trong nước ta. Trong tổng diện tích
đất chưa sử dụng thì khoảng 8 triệu ha có thể sử dụng cho lâm nghiệp, chỉ có gần 3 triệu ha
dùng cho nông nghiệp. Như vậy trong tương lai diện tích đất nông nghiệp tối đa cũng chỉ
có khoảng 12 triệu ha. Khi ấy diện tích đất nông nghiệp bình quân trên đầu người ở nước
với tỷ lệ tăng dân số như hiện nay thì vẫn không vượt qua ngưỡng 1.300 m
2
. Con số này
thấp hơn nhiều so với tính toán của tổ chức Nông lương Liên hiệp Quốc (FAO) là với trình
độ sản xuất như hiện nay trên thế giới mỗi đầu người cần có 4000 m
2
đất canh tác.
Do điều kiện thiên nhiên, nước ta nằm ở vùng nhiệt đới, gió mùa, mưa nhiều, nhiệt
độ không khí cao, sự khoáng hoá mạnh, dễ bị rửa trôi, xói mòn, dễ bị thoái hoá, môi trường
đất rất dễ nhạy cảm với mọi diễn biến của môi trường sinh thái và khó khôi phục lại trạng
thái ban đầu. Cùng với sự gia tăng dân số mạnh và kỹ thuật canh tác lạc hậu kéo dài và do
hậu quả của chiến tranh, đã làm trầm trọng hơn nhiều vấn đề môi trường đất. Cụ thể từ
3
những quan trắc trong nhiều năm qua cho thấy thoái hóa đất là xu thế phổ biến đối với
nhiều vùng rộng lớn, đặc biệt là vùng đồi núi, nơi tập trung hơn ¾ quỹ đất, nơi cân bằng

sinh thái bị phá vỡ nghiêm trọngdo không có rừng che phủ. Trung bình từ năm 1960 đến
nay hàng năm đất nông nghiệp miền núi mất khoảng 1,5 cm đất mặt [Error: Reference
source not found]. Tại nhiều vùng sự suy thoái đất còn kéo theo sự suy thoái về hệ thực vật,
động vật và môi trường, đồng thời làm cho diện tích đất nông nghiệp trên đầu người giảm
xuống đến mức báo động.
Theo kết quả điều tra mới nhất, trong số 21 triệu ha đất đang được sử dụng trong
canh tác nông, lâm nghiệp ở Việt Nam, phần lớn diện tích có hàm lượng dinh dưỡng thấp.
Đặc biệt tổng diện tích đất đai bị thoái hoá ở Việt Nam hiện nay đã lên tới 9,34 triệu ha, lớn
hơn gấp 5 lần so với diện tích tự nhiên của tỉnh Nghệ An, tỉnh có diện tích tự nhiên lớn nhất
cả nước. Trong số 7,85 triệu ha đang chịu tác động sa mạc hoá, thì có tới gần 90% là đất
trống, đồi trọc bị thoái hoá mạnh, đất bị đá ong hoá do hậu quả của nạn phá rừng và sử
dụng đất không hợp lý kéo dài trong nhiều năm. Số còn lại là những đụn cát và bãi cát di
động ở các tỉnh ven biển miền Trung. Đất khô theo mùa hoặc vĩnh viễn ở Nam Trung Bộ
như: Bình Thuận, Ninh Thuận, Nam Khánh Hoà. Đất bị xói mòn ở Tây Bắc, Tây Nguyên
và đất bị nhiễm mặn, nhiễm phèn ở ĐBSCL - tứ giác Long Xuyên.
Các loại hình thoái hóa đất ở Việt Nam thể hiện rất phức tạp và đa dạng:
Rửa trôi, xói mòn, suy kiệt dinh dưỡng đất, hoang hóa (Ninh Thuận, Bình Thuận) và
khô hạn, cơ cấu cây trồng nghèo nàn, đất mất khả năng sản xuất ở trung du, miền núi ( Tây
Nguyên). Do lượng mưa tập trung lớn vào nùa mưa (80%), mất rừng, đốt nương làm rẫy,
canh tác không hợp lý trên đất dốc. Mặn hóa, phèn hóa: khoảng 3 triệu ha, tập trung chủ
yếu ở đồng bằng sông Hồng và Sông Cửu Long.
Bạc màu do di chuyển cát: khoảng 0,5 triệu Ha ở đồng bằng ven biển Miền Trung.
Ngập úng, ngập lũ, lầy hóa có diện tích khoảng 1,4 triệu ha.
Ô nhiễm môi trường đất, nước, bùn do nước thải xung quanh đô thị, các khu công
nghiệp và những nơi sử dụng thuốc trừ sâu diệt cỏ, những nơi bị rải chất độc diệt cỏ, chất
độc màu da cam trong chiến tranh.
2.3 Nguyên nhân
Nguyên nhân thoái hoá đất có thể được chia thành 3 loại: tự nhiên, trực tiếp và cơ
bản. Các nguyên nhân tự nhiên là những điều kiện môi trường tự nhiên dẫn đến tình trạng
4

thoái hoá đất đai cao. Các nguyên nhân trực tiếp bao gồm việc sử dụng đất đai không hợp
lý và thực tiễn quản lý đất đai không phù hợp. Các nguyên nhân cơ bản là những lý do tại
sao các cách sử dụng và quản lý đất đai không thích hợp mà vẫn được thực hiện.
a. Nguyên nhân thoái hoá đất tự nhiên
Các nguyên nhân gây thoái hoá đất tự nhiên bao gồm:
* Đối với xói mòn do nước:
+ Mưa rào với cường độ cao.
+ Độ dốc cao ở đất vùng đồi, núi.
+ Các đất có tính chống chịu kém đối với xói mòn do nước (ví dụ các đất nghèo sét,
thành phần cơ giới nhẹ, hàm lượng mùn thấp).
* Đối với xói mòn do gió:
+ Khí hậu bán khô hạn đến khô hạn;
+ Các đất có tính chống chịu kém đối với xói mòn do gió (ví dụ đất cát).
+ Lớp phủ thực vật tự nhiên thưa.
* Đối với sự suy giảm độ phì nhiêu của đất:
+ Sự rửa trôi mạnh trong điều kiện khí hậu ẩm ướt;
+ Các đất có độ chua cao và/hoặc có độ phì nhiêu tự nhiên thấp.
* Đối với sự hạ thấp của mực nước: Khí hậu vùng bán khô hạn đến khô hạn có tốc
độ phục hồi nước ngầm chậm.
b. Các nguyên nhân thoái hoá trực tiếp
+ Sự phá rừng: là một loại thoái hoá và cũng là một nguyên nhân chủ yếu của xói
mòn do nước, đặc biệt trên các đất dốc của vùng khí hậu ẩm ướt. Nó cũng là nguyên nhân
góp phần cho xói mòn do gió, sự suy giảm độ phì nhiêu.
+ Sự đốn chặt quá mức thảm thực vật: Người dân nông thôn thường đốn chặt các
rừng tự nhiên, rừng trồng, rừng cây bụi để lấy gỗ, củi đốt và nhiều sản phẩm rừng khác.
Việc đốn chặt như vậy trở nên không thể chấp nhận được khi nó vượt quá tốc độ tái sinh tự
nhiên của rừng. Sự làm kiệt quệ thảm cây lấy gỗ và cây bụi là một yếu tố chủ yếu dẫn đến
sự xói mòn do nước và xói mòn do gió.
+ Luân canh cây trồng không có thời gian bỏ hoá thích hợp: Trước đây, mật độ dân
số thấp cho phép thời gian bỏ hoang cho cây rừng đủ dài để hồi phục lại các đặc tính của

5
đất. Ngày nay, gia tăng dân số và thời gian bỏ hoá buộc phải co ngắn lại đã làm cho đất trở
nên không bền vững.
+ Mở rộng canh tác trên các đất có khả năng thoái hoá tự nhiên (hoặc thoái hoá tiềm
tàng) cao. Sự tăng dân số đã dẫn đến việc sử dụng rộng rãi các đất có nguy cơ bị thoai hoá
cao. Những loại đất này đòi hỏi phải được quản lý ở trình độ cao, nhưng đáng tiếc, hiện nay
những loại đất này thườg được những nông dân nghèo khổ khai thác sử dụng.
+ Sự luân phiên cây trồng không thích hợp: Do kết quả của sự tăng dân số, thiếu đất
đai và áp lực kinh tế, những người nông dân ở một số vùng đã áp dụng luân phiên cây trồng
cao độ giữa các cây trồng. Điều này là nguyên nhân góp phần làm suy giảm độ phì nhiêu
của đất.
+ Việc sử dụng phân bón không cân đối. Ví dụ khi sử dụng nhiều phân đạm, trong
một thời gian ngắn giúp cây sinh trưởng nhanh và tăng năng suất cây trồng. Tuy nhiên do
chỉ tăng lượng phân đạm nên tỷ lệ của N và P cũng như tỷ lệ giữa N với các chất dinh
dưỡng khác sẽ tăng lên. Khi đó trong đất sẽ xuất hiện sự thiếu hụt P và các chất dinh dưỡng
khác như S, Zn
+ Các vấn đề phát sinh do kế hoạch và quản lý kênh tưới: sử dụng nước tưới không
đúng sẽ ảnh hưởng tới mực nước ngầm (sử dụng quá nhiều nước tưới làm hạ thấp mực
nước ngầm), chất lượng nước ảnh hưởng tới tính chất của đất (nước chứa muối làm đất bị
mặn hoá, nước tưới chứa nhiều Na làm đất dễ bị mặn kiềm hoá…)
c. Các nguyên nhân thoái hoá cơ bản
+ Thiếu đất đai: Do đất đai là một tài nguyên hạn chế nên dễ nhận thấy sự thiếu đất
đai, đặc biệt trong thời gian gần đây ảnh hưởng của sự thiếu đất đai càng rõ. Trước đây,
thiếu lương thực và đói nghèo có thể chuyển đổi bằng cách khai thác những vùng đất đai
mới, chưa sử dụng để canh tác. Hiện nay sự tăng dân số ở các vùng nông thôn đã dẫn đến
làm giảm diện tích đất nông nghiệp trên một đầu người ở nhiều nước, đặc biệt các nước ở
vùng khí hậu ẩm ướt của châu Á.
+ Sự chiếm hữu đất đai: Sự thuê đất và quyền sử dụng không hạn chế đất đai. Những
người nông dân sẽ không tự nguyện đầu tư vào các biện pháp bảo vệ nguồn tài nguyên đất
đai nếu như quyền sử dụng nguồn tài nguyên này trong tương lai của họ không được bảo

đảm. Có hai loại quyền sở hữu dẫn đến tình trạng này đó là sự thuê đất và quyền sử dụng
không hạn chế đất đai. Những người chủ đất hiện nay thường ở các thành phố, còn đất đai
6
thì được trồng trọt bởi những người thuê đất. Tuy nhiên, việc thuê đất như vậy không
khuyến khích duy trì đất đai lâu dài, mà chủ yếu là quan tâm cho thu hoạch trước mắt.
+ Sự nghèo nàn: Sự nghèo đói dẫn đến sự thoái hoá đất đai, một thực tế hầu như
được khẳng định chắc chắn rằng những người nông dân khá giả hơn duy trì đất của họ tốt
hơn những nông dân nghèo.
+ Sự tăng dân số: Cùng với sự thiếu hụt về đất đai, nguyên nhân cơ bản thứ hai của
sự thoái hoá là sự tăng liên tục của dân số nông nghiệp ở nông thôn.
2.4. Hậu quả của sự suy thoái đất
Sự suy thoái đất là một trong những yếu tố sinh thái có hại nghiêm trọng đối với sự
sống trên hành tinh của chúng ta. Ngay từ những thời kỳ lịch sử xa xưa, con người đã
chứng minh rằng đất đai là tư liệu sản xuất đặc biệt nhất của xã hội loài người, là tài sản
quý giá nhất của con người. Chỉ có từ đất chúng ta mới có được các loại lương thực, thực
phẩm và nguyên liệu hữu cơ để tồn tại và phát triển như ngày nay. Chính vì vậy, thực chất
của nhiều cuộc chiến tranh diễn ra triền miên trên hành tinh này là những cuộc chiến xâm
chiếm giữ và bảo vệ đất đai.
Trong quá trình khai thác và sử dụng đất trong sản xuất nông nghiệp, người ta lại
nhận thấy rằng đất tuy là tư liệu sản xuất vô giá, đặc biệt nhưng bắt đất tạo ra lương thực,
thực phẩm và nguyên liệu liên tục mà không bảo vệ nó trước những tác động thiên nhiên
bất lợi, không bồi dưỡng, chăm sóc sức khỏe cho nó thì tất yếu đất sẽ bị kiệt quệ khả năng
sản xuất, bị thiên nhiên phá hủy và cũng sẽ chết như một sinh vật trên trái đất. Sự kiệt quệ
ốm đau bệnh tật và chết chóc của đất chính là sự suy thoái đất. Hậu quả của sự suy thoái đất
này thật khôn lường và tác hại nghiêm trọng đến sản xuất nông lâm nghiệp và môi trường
tự nhiên, môi trường sống của con người. Sự suy thoái đất sẽ dẫn đến:
− Giảm diện tích đất sản xuất nông nghiệp, dẫn đến sự nghèo đói.
− Giảm sản lượng và năng suất cây trồng, vật nuôi.
− Giảm diện tích rừng tự nhiên cùng các loài động vật hoang dã.
− Tăng diện tích đất hoang mạc, sa mạc, đất trống đồi núi trọc.

− Mất cảnh quan sinh thái đặc trưng cho từng vùng.
− Ảnh hưởng đến môi sinh: đất không còn khả năng sản xuất, bị khô hạn hoặc ngập
úng liên tục, bị ô nhiễm, sẽ tất dẫn đến hiện tượng du canh du cư, mất đi các loài vật và
giống cây quý hiếm vốn sinh trưởng và phát triển trên đất ban đầu, con người, gia súc và
7
cây cối bị nhiễm độc sinh bệnh tật hiểm nghèo.
− Nền kinh tế quốc gia và cộng đồng bị suy giảm hoặc là nguy cơ bị đe dọa.
2.5 Các biện pháp phong chống suy thoái đất
Biện pháp công trình: Kiến thiết đồng ruộng, xây dựng hạ tầng cơ sở sản xuất nông
nghiệp: hồ chứa nước, đường giao thông
Biện pháp thủy lợi: Hệ thống tưới và tiêu nước.
Biện pháp sinh học và hữu cơ: Đa dạng hóa cây trồng - chuyển đổi cơ cấu cây trồng,
hệ thống luân canh, xen canh, gối vụ, sử dụng cây phân xanh, cây vật liệu nông nghiệp phủ
đất, bón phân hữu cơ.
Biện pháp thâm canh: Làm đất, chọn giống, kỹ thuật gieo trồng, tưới nước, bón
phân, chăm sóc và bảo vệ cây trồng
Biện pháp kinh tế-xã hội: Đầu tư các chương trình/dự án cải tạo đất và khắc phục sự
suy thoái đất. Xây dựng thể chế, pháp chế cải tạo môi trường bị ô nhiễm gây suy thoái đất.
III. KẾT LUẬN
Đất là một tài nguyên quan trọng, nhưng nguồn tài nguyên này đang bị xâm phạm
nghiêm trọng không chỉ ảnh hưởng trực tiếp đên tính chất đất mà còn ảnh hưởng gián tiếp
đến con người. Sự suy thoái đất đang diễn ra từng ngày từng giờ và ngày càng nghiêm
trọng, nếu không có những biện pháp ngăn chặn kịp thời thì con số suy thoái đất của Việt
Nam không chỉ là 9,34 triệu ha mà còn hơn thế nữa. Công tác phòng chống suy thoái đất
phải được quan tâm ở tất cả các cấp chính quyền, phổ biện tới tất cả người dân. Nhà nước
và nhân dân cùng làm.
8

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×