Tải bản đầy đủ (.doc) (95 trang)

Hoạt động nhập khẩu phôi thép tại Văn phòng Tổng công ty Thép Việt Nam trong điều kiện hội nhập

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (657.54 KB, 95 trang )


LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Với chính sách mở cửa nền kinh tế của Đảng và Nhà nước đã tạo tiền đề cho
kinh tế đối ngoại phát triển, giúp Việt Nam hoà mình vào xu thế phát triển chung của
khu vực và thế giới. Ngoại thương ngày càng trở nên quan trọng đối với sự phát
triển kinh tế của Việt Nam đặc biệt là trong quá trình thực hiện công nghiệp hoá hiện
đại hoá như hiện nay. Thông qua ngoại thương, đặc biệt là hoạt động nhập khẩu,
ngành công nghiệp còn non trẻ của chúng ta có điều kiện bổ sung những nguồn lực
cho sản xuất nhằm phục vụ cho nhu cầu trong nước.
Là một trong những ngành công nghiệp trọng điểm của Việt Nam, ngành thép
cũng đang đứng trước những thách thức của quá trình hội nhập. Mặc dù được quan
tâm phát triển ngay từ khi mới ra đời nhưng với sự lệch lạc trong quá trình phát triển
đã khiến cho đến nay ngành thép Việt Nam phụ thuộc quá lớn vào nguồn nguyên
liệu nhập khẩu. Các doanh nghiệp thép Việt Nam trong một thời gian dài chỉ quan
tâm đến đầu tư vào các nhà máy cán thép mà bỏ qua đầu tư sản xuất phôi thép để
đến nay khả năng sản xuất phôi của Việt Nam chỉ chiếm 40% nhu cầu trong nước.
Với việc phụ thuộc lớn vào lượng phôi nhập khẩu trong điều kiện có nhiều biến
động phức tạp của thị trường thép thế giới, hoạt động nhập khẩu phôi thép tại Việt
Nam có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của ngành thép nội địa.
Với vị trí hỗ trợ nhà nước trong việc điều tiết thị trường thép Việt Nam, Tổng công
ty Thép đã có nhiều đóng góp cho sự phát triển của ngành thép. Mặc dù đã có sự quan
tâm sớm đến hoạt động sản xuất phôi thép nhưng hiện nay nhập khẩu vẫn được coi là
hoạt động thường nhật của Tổng công ty thép. Với mong muốn tìm hiểu về hoạt động
nhập khẩu phôi thép cũng như những tác động của quá trình hội nhập đến ngành thép
thông qua hoạt động này, em đã chọn đề tài “Hoạt động nhập khẩu phôi thép tại Văn
phòng Tổng công ty Thép Việt Nam trong điều kiện hội nhập” làm luận văn tốt
nghiệp của mình.
1



2. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu dựa trên những cơ sở lý luận về thương mại quốc tế
cùng với sự hỗ trợ của các phương pháp phân tích kinh tế, thu thập số liệu và nắm
bắt thông tin qua quá trình khảo sát thực tế hoạt động nhập khẩu phôi thép tại Văn
phòng Tổng công ty Thép Việt Nam.
3. Phạm vi nghiên cứu
Số lượng các doanh nghiệp hoạt động trong ngành thép ngày càng nhiều.
Trong đó, Tổng công ty Thép Việt Nam là doanh nghiệp lớn nhất và nắm vị trí chủ
đạo của ngành thép nước ta. Sau khi chuyển sang mô hình công ty mẹ - con, công ty
mẹ Tổng công ty Thép Việt Nam bao gồm 12 đơn vị trực thuộc, 7 công ty con và 22
công ty liên doanh. Trong đó có 25 công ty trực tiếp sản xuất, 6 công ty thương mại
và 10 đơn vị là các viện, trường, dịch vụ, phụ trợ... Trên cơ sở nghiên cứu về Tổng
công ty Thép dưới giác độ từ cơ quan Văn phòng của Tổng công ty rút ra những tồn
tại của doanh nghiệp thép nói riêng và cả ngành thép nói chung dưới tác động của
quá trình hội nhập.
4. Kết cấu chuyên đề
Nội dung chính của luận văn gồm 3 chương :
Chương I: Một số lý luận chung về hoạt động nhập khẩu và vai trò của hoạt động
nhập khẩu phôi thép đối với ngành thép Việt Nam trong điều kiện hội nhập
Chương II: Thực trạng hoạt động nhập khẩu phôi thép tại Tổng công ty Thép
Việt Nam dưới tác động của quá trình hội nhập
Chương III: Phương hướng và một số giải pháp cho hoạt động nhập khẩu phôi
thép trong điều kiện hội nhập
2


CHƯƠNG I
MỘT SỐ LÝ LUẬN CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẨU
VÀ VAI TRÒ CỦA HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẨU PHÔI THÉP ĐỐI VỚI
NGÀNH THÉP VIỆT NAM TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP

1.1. TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẨU TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP
1.1.1. Nhập khẩu và vai trò của nhập khẩu trong điều kiện hội nhập
1.1.1.1. Sự cần thiết của nhập khẩu trong điều kiện hội nhập
Ngày nay, cùng với sự phát triển và mở rộng không ngừng của quá trình quốc tế
hoá và toàn cầu hoá, các quốc gia trên thế giới không còn là các quốc gia đơn lẻ nữa
mà trở thành một trong những mắc xích quan trọng trong mạng lưới kinh tế, chính trị
toàn cầu.
Khoa học công nghệ và kỹ thuật không ngừng tiến bộ và phát triển nhưng nó lại
không tập trung hoàn toàn ở bất cứ quốc gia nào. Mỗi một quốc gia nhiều hay ít đều
nắm giữ riêng cho mình một công nghệ, một bí quyết sản xuất riêng hay một thế
mạnh đặc thù. Do đó, để có thể cùng nhau chia sẻ sự tiến bộ của khoa học công nghệ,
các quốc gia phải tham gia vào thương mại quốc tế mà hình thức cụ thể là thông qua
hoạt động xuất nhập khẩu.
Bên cạnh đó, dựa vào vị trí địa lý cũng như tài nguyên thiên nhiên của mình,
mỗi quốc gia xác định được thế mạnh riêng. Những nước có giàu tài nguyên thì đẩy
mạnh khai thác nó (các nước dầu mỏ OPEC), những nước kém tài nguyên thì lại lựa
chọn cho mình con đường sử dụng nguồn nhân lực của mình để phát triển (Nhật
Bản). Chính từ sự khác nhau đó, các nước hình thành nên những lợi thế so sánh riêng,
dựa vào đó mà các nước tiến hành trao đổi, buôn bán với nhau. Và sự trao đổi này
diễn ra thông qua hoạt động xuất nhập khẩu.
Như vậy có thể nói, cùng với sự hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu, hoạt động
buôn bán ngoại thương ngày càng đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển của
mỗi quốc gia.
3


Là một bộ phận không thể thiếu của thương mại quốc tế, nhập khẩu được hiểu
là sự mua bán hàng hoá, dịch vụ từ nước ngoài về phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng
trong nước hoặc tạm nhập tái xuất nhằm thu lợi nhuận. Nó thể hiện sự phụ thuộc lẫn
nhau giữa nền kinh tế của một quốc gia với phần còn lại của thể giới. Thông qua hoạt

động nhập khẩu, các quốc gia bổ sung cho mình những hàng hóa trong nước không
sản xuất được hoặc sản xuất không đủ cung cấp cho nhu cầu nội địa với chi phí thấp
hơn hay cung cấp nguyên liệu cho sản xuất trong nước. Như vậy trong xu thế toàn
cầu hoá và hội nhập, hoạt động nhập khẩu nói riêng và thương mại quốc tế nói chung
chính là cầu nối nền kinh tế trong nước với thế giới, biến nền kinh tế thế giới thành
nơi cung cấp các “yếu tố đầu vào” và tiêu thụ các “sản phẩm đầu ra” trong hệ thống
kinh tế toàn cầu.
1.1.1.2. Vai trò của hoạt động nhập khẩu đối với nền kinh tế Việt Nam
Việt Nam đang trên con đường công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước và từng
bước hội nhập sâu rộng hơn vào nền kinh tế khu vực và toàn cầu. Trong điều kiện
nền kinh tế Việt Nam hiện nay, vai trò của nhập khẩu được thể hiện ở những khía
cạnh sau:
1.1.1.2.1. Nhập khẩu tạo điều kiện thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ
cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá đất nước.
Công nghiệp hoá là quá trình chuyển đổi nền kinh tế một cách cơ bản từ lao
động thủ công sang lao động bằng cơ khí ngày càng hiện đại hơn.
Với xuất phát điểm là một nước nông nghiệp lạc hậu, để tiến hành công nghiệp
hoá hiện đại hoá đất nước, Việt Nam phải thay đổi căn bản nền sản xuất trong nước
theo hướng hiện đại hoá. Muốn làm vậy, chúng ta phải tiến hành đổi mới máy móc,
công nghệ, thiết bị của các ngành kinh tế mũi nhọn như công nghiệp điện và điện tử,
công nghiệp đóng tàu, công nghiệp gang thép, công nghiệp chế biến... Như vậy, nhập
khẩu chính là một kênh cung cấp công nghệ cho quá trình công nghiệp hoá đất nước.
Những năm qua, cùng với sự thay đổi trong cơ cấu nhập khẩu thì cơ cấu GDP
cũng thay đổi theo. Cụ thể cơ cấu nhập khẩu của Việt Nam có sự biến động giữa hai
nhóm hàng tư liệu sản xuất và vật liệu tiêu dùng. Nhập khẩu hàng tiêu dùng có xu
4


hướng giảm trong 10 năm trở lại đây do sản xuất trong nước đã phần nào đáp ứng đầy
đủ nhu cầu tiêu dùng nội địa. Nhập khẩu máy móc, công nghệ, thiết bị, nguyên vật liệu

luôn chiếm tỷ lệ cao trong cơ cấu hàng nhập khẩu. Điều này góp phần thúc đẩy nền
công nghiệp trong nước phát triển, làm tăng tỷ lệ đóng góp của ngành trong cơ cấu
GDP cả nước.
Bảng 1: GDP phân theo khu vực kinh tế
Đơn vị: %
Năm Tổng số Nông - lâm - ngư nghiệp Công nghiệp và xây dựng Dịch vụ
1990 100,00 38,74 22,67 38,59
1995 100,00 27,18 28,76 44,06
2000 100,00 24,53 36,73 38,74
2005 100,00 20,97 41,02 38,01
2006 100,00 20,36 41,56 38,08
2007 100,00 17,8 41,76 40,43
(Nguồn: Tổng cục thống kê và />Như vậy, nhập khẩu cũng đã có tác động thúc đẩy nhanh quá trình công nghiệp
hoá đất nước.
1.1.1.2.2. Nhập khẩu giúp bổ sung kịp thời những mặt cân đối của nền kinh tế
đảm bảo phát triển kinh tế cân đối và ổn định
Một nền kinh tế muốn phát triển tốt cần đảm bảo sự cân đối theo những tỷ lệ
nhất định như cân đối giữa tiết kiệm và tiêu dùng, giữa hàng hoá và lượng tiền trong
lưu thông, giữa xuất khẩu và nhập khẩu trong cán cân thanh toán quốc tế.
Nhập khẩu có tác động rất tích cựu thông qua việc cung cấp các điều kiện đầu
vào làm cho sản xuất phát triển, mặt khác tạo điều kiện để các quốc gia chủ động hội
nhập kinh tế quốc tế, tận
1.1.1.2.3. Nhập khẩu góp phần cải thiện và nâng cao mức sống của nhân dân
Nhập khẩu có vai trò làm thoả mãn nhu cầu tiêu dùng trực tiếp của nhân dân về
hàng tiêu dùng mà trong nước không sản xuất được hoặc sản xuất không đáp ứng đủ
5


nhu cầu. Thông qua nhập khẩu, nhân dân có nhiều sự lựa chọn sản phẩm hơn cho
cuộc sống, góp phần giảm bớt khoảng cách về mức sống so với các nước khác.

Nhập khẩu đồng thời tạo ra tính cạnh tranh cho sản xuất trong nước. Trên cơ sở
đó buộc các doanh nghiệp trong nước không ngừng nâng cao chất lượng, kiểu dáng,
mẫu mã, chủng loại cho sản phẩm của mình. Rõ ràng, trên phương diện này, nhập
khẩu đã đem lại một tác động kép tích cực cho nền kinh tế.
1.1.1.2.4. Nhập khẩu có vai trò thúc đẩy xuất khẩu
Sự tác động này thể hiện ở chỗ nhập khẩu tạo đầu vào cho sản xuất hàng xuất
khẩu, điều này đặc biệt quan trọng đối với các nước đang và kém phát triển như Việt
Nam, vì khả năng sản xuất của các quốc gia này còn hạn chế. Điều này thể hiện rõ
quan niệm hiện nay “lấy nhập khẩu để nuôi xuất khẩu” và sự phát triển gia công xuất
khẩu ở Trung Quốc hay ở Việt Nam đã chứng minh cho điều này.
1.1.2. Các hình thức nhập khẩu
Do tính chất phong phú và đa dạng của các đối tượng buôn bán quốc tế, các đơn
vị kinh tế tham gia vào hoạt động nhập khẩu, cũng như các quy định của nhà nước,
nhập khẩu được biểu hiện dưới các hình thức sau:
1.1.2.1. Nhập khẩu tự doanh
Nhập khẩu tự doanh là hình thức nhập khẩu trong đó bên nhập khẩu trực tiếp
nhập khẩu với danh nghĩa và chi phí của mình, rồi sau đó tiến hành kinh doanh, bán
hàng nhập khẩu cho khách hàng trong nước có nhu cầu.
Đặc điểm của nhập khẩu tự doanh:
- Hoạt động theo hình thức này thì độ rủi ro và độ mạo hiểm của doanh nghiệp
là rất cao do họ tự bỏ mọi chi phí cũng như tự tiến hành tiêu thụ hàng nhập khẩu.
- Khối lượng công việc rất lớn. Theo hình thức này, doanh nghiệp phải tiến
hành nghiên cứu thị trường trong và ngoài nước, tính toán đầy đủ các chi phí, thiết
lập phương án kinh doanh, đảm bảo kinh doanh có lãi, đúng phương hướng, chính
sách luật pháp quốc gia và quốc tế
- Đây là hình thức đem lại lợi nhuận cao nhất do không mất chi phí trung gian
6


Thông thường, doanh nghiệp chỉ cần lập một hợp đồng ngoại thương với đối tác

nước ngoài khi tiến hành nhập khẩu, còn hợp đồng bán trong nước sau khi hàng về sẽ
được lập hoặc không cần lập một hợp đồng nào khác khi bán với hình thức như: bán
lẻ hoặc trao tay.
1.1.2.2. Nhập khẩu uỷ thác
Nhập khẩu uỷ thác là hoạt động nhập khẩu hình thành giữa một doanh nghiệp
trong nước có vốn, có nhu cầu nhập khẩu nhưng lại không có quyền tham gia vào các
quan hệ xuất nhập khẩu trực tiếp hay xét thấy nhập khẩu trực tiếp không có lợi (bên
uỷ thác), đã uỷ thác cho doanh nghiệp khác có chức năng trực tiếp giao dịch ngoại
thương (bên nhận uỷ thác) tiến hành nhập khẩu theo yêu cầu của mình. Bên nhận uỷ
thác có nghĩa vụ đàm đán ký kết hợp đồng với đối tác nước ngoài, làm thủ tục nhập
khẩu theo yêu cầu của bên uỷ thác và được nhận một khoản phí gọi là phí uỷ thác.
Quan hệ giữa bên uỷ thác và bên nhận uỷ thác được quy định đầy đủ trong hợp đồng
uỷ thác.
Đặc điểm của nhập khẩu uỷ thác:
- Theo hình thức này, doanh nghiệp nhập khẩu (bên nhận uỷ thác) hoạt động
theo danh nghĩa của mình nhưng chi phí của người khác (bên uỷ thác)
- Khối lượng công việc được giảm bớt cho các bên. Bên nhận uỷ thác không
phải nghiên cứu thị trường tiêu thụ vì không phải tiêu thụ hàng nhập khẩu mà chỉ
đứng ra đại diện cho bên uỷ thác để giao dịch, đàm phán với đối tác nước ngoài, ký
hợp đồng và làm thủ tục nhập khẩu hàng hóa cũng như thay mặt cho bên uỷ thác khi
có tranh chấp xảy ra với đối tác nước ngoài.
- Doanh nghiệp nhập khẩu phải làm hai hợp đồng: một hợp đồng nhập khẩu với
đối tác nước ngoài, một hợp đồng uỷ thác với bên uỷ thác
- Lợi nhuận của hoạt đồng nhập khẩu này sẽ bị chia sẻ cho các bên, bên uỷ thác
sẽ trả cho bên nhận uỷ thác thông thường là từ 0.5% - 1.5% giá trị hợp đồng.
7


1.1.2.3. Nhập khẩu tái xuất
Nhập khẩu tái xuất là hoạt động nhập khẩu vào một nước nhưng không phải để

tiêu thụ trong nước mà để xuất sang nước khác nhằm thu lợi nhuận, nhưng hàng nhập
khẩu phải được đảm bảo là không được chế biến tại nước tái xuất.
Đặc điểm của nhập khẩu tái xuất:
- Doanh nghiệp nước tái xuất phải tính toán toàn bộ chi phí tổ chức, gặp gỡ, bàn bạc
với đối tác nhập khẩu và đối tác xuất khẩu, nhằm đảm bảo thu được lợi nhuận.
- Doanh nghiệp tái xuất phải tiến hành hai hợp đồng: một hợp đồng xuất khẩu,
một hợp đồng nhập khẩu nhưng không phải chịu thuế xuất nhập khẩu với mặt hàng
kinh doanh.
- Để đảm bảo thanh toán, hợp đồng tái xuất thường sử dụng thư tín dụng giáp
lưng, hàng hoá không nhất thiết phải chuyển về nước tái xuất mà chuyển thẳng sang
nước thứ ba nhưng tiền thanh toán phải do doanh nghiệp tái xuất thu từ đối tác nhập
khẩu để trả cho đối tác xuất khẩu.
1.1.2.4. Nhập khẩu liên doanh
Nhập khẩu liên doanh là hoạt động nhập khẩu trên cơ sở hợp tác một cách tự
nguyện giữa các doanh nghiệp (trong đó ít nhất có một doanh nghiệp nhập khẩu trực
tiếp) nhằm phối hợp thế mạnh của các doanh nghiệp để cùng giao dịch nhập khẩu và
thúc đẩy hoạt động này phát triển theo hướng có lợi nhất cho các bên. Trong đó các
bên cùng chia sẻ lợi nhuận.
Đặc điểm của nhập khẩu liên doanh:
- Các doanh nghiệp nhập khẩu liên doanh chịu rủi ro thấp hơn so với nhập khẩu
tự doanh vì các doanh nghiệp trong trường hợp này cùng nhau chia sẻ rủi ro và lợi
nhuận
- Các doanh nghiệp dựa vào tỷ lệ vốn góp cũng như nghĩa vụ và quyền hạn của
mình để phân chia lãi lỗ.
- Doanh nghiệp nhập khẩu trực tiếp tham gia vào liên doanh phỉa lập hai hợp
đồng: một hợp đồng mua hàng với nước ngoài, một hợp đồng liên doanh với các
doanh nghiệp khác.
8



1.1.2.5. Nhập khẩu đổi hàng
Nhập khẩu đổi hàng là hình thức nhập khẩu gắn liền với xuất khẩu theo phương
thức buôn bán đối lưu. Trong đó người bán đồng thời là người mua, lấy hàng đổi
hàng, giá trị hàng hoá mang trao đổi là tương đương.
Đặc điểm của nhập khẩu đổi hàng:
- Theo hình thức này, tiến hành đồng thời cả hoạt động xuất khẩu và nhập khẩu,
do đó có thể thu được lợi nhuận từ hai hoạt động này.
- Hoạt động xuất và nhập phải tương đương về mặt giá trị và đối tác xuất khẩu
đồng thời cũng là đối tác nhập khẩu.
1.1.2.6. Nhập khẩu đấu thầu
Nhập khẩu đấu thầu là hình thức giao dịch đặc biệt, trong đó doanh nghiệp nhập
khẩu đưa ra trước các điều kiện mua bán để các nhà xuất khẩu báo giá cả và các điều
kiện kèm theo của mình. Trên cơ sở đó, doanh nghiệp nhập khẩu có thể lựa chọn
được nhà cung cấp phù hợp nhất.
Đặc điểm:
- Chỉ có một người mua nhưng nhiều người bán do đó thông qua đấu thầu phát
huy được tính cạnh tranh giữa các nhà cung cấp và ngươờ mua sẽ có lợi hơn trong
việc lựa chọn nhà cung cấp phù hợp nhất cho mình
- Tuy nhiên theo hình thức này, doanh nghiệp nhập khẩu tốn thêm công đoạn tổ
chức đấu thầu và lựa chọn nhà cung cấp.
1.2. CÁC BƯỚC TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH NHẬP KHẨU
1.2.1. Nghiên cứu thị trường
Nghiên cứu thị trường là việc đầu tiên mà mỗi doanh nghiệp phải làm khi tham
gia vào thị trường. Mục đích của hoạt động này là nhằm xác định nhu cầu của thị
trường và khả năng thanh toán trên địa bàn nhất định mà doanh nghiệp dự định kinh
doanh.
Kết quả của hoạt động nghiên cứu thị trường sẽ đem lại cho doanh nghiệp
những thông tin sát thực nhất về lượng cung và lượng cầu hiện tại cũng như tương lai
của thị trường.
9



Cũng từ kết quả nghiên cứu thị trường, doanh nghiệp sẽ có đầy đủ thông tin về
loại sản phẩm cần cung ứng, dung lượng thị trường, lượng cung hiện tại, nhu cầu
thiếu hụt cần được bổ sung, các đối thủ cạnh tranh…Những thông tin này càng chính
xác thì việc lập kế hoạch kinh doanh của doanh nghiệp sẽ càng sát thực tế và đem lại
hiệu quả kinh tế cao
Ngoài việc nghiên cứu thị trường trong nước, nghiên cứu thị trường quốc tế
cũng giữ vai trò quan trọng không kém. Hoạt động này cung cấp cho doanh nghiệp
thông tin về nguồn hàng nhập khẩu, giá cả của hàng hoá của mỗi nhà cung cấp, chất
lượng hàng hoá, chi phí vận chuyển...Nắm bắt tốt thông tin này sẽ giúp doanh nghiệp
tiết kiệm chi phí ở mức tối đa dựa trên sự so sánh chi phí giữa các nhà cung cấp, từ
đó tăng khả năng cạnh tranh sản phẩm của doanh nghiệp trên thị trường nội địa
Công việc nghiên cứu thị trường của doanh nghiệp bao gồm:
- Lựa chọn mặt hàng nhập khẩu
- Nghiên cứu thị trường nội địa và các yếu tố ảnh hưởng đến dung lượng thị
trường
- Nghiên cứu quan hệ cung cầu hàng hoá đã lựa chọn và sự biến động của
chúng
- Nghiên cứu giá hàng hoá nhập khẩu và giá hàng hóa trong nước
- Lựa chọn nhà cung cấp
1.2.2. Lập phương án kinh doanh
Phương án kinh doanh trong ngoại thương là một bản giải trình về một thương
vụ kinh doanh, các biện pháp thực hiện, các cách đánh giá trên cơ sở một số chỉ tiêu,
định lượng cụ thể.
Quy trình lập phương án kinh doanh gồm năm bước:
- Đánh giá thị trường và mặt hàng
- Lựa chọn mặt hàng, thời cơ và điều kiện kinh doanh
- Đặt ra mục tiêu kinh doanh
- Đề ra các biện pháp thực hiện

- Phân tích các chỉ tiêu cơ bản
10


Dựa vào kết quả của hoạt động nghiên cứu thị trường, doanh nghiệp tiến hành
lập phương án kinh doanh hàng nhập khẩu một cách chi tiết. Phương án kinh doanh
sẽ phải đưa ra được chi tiết về:
- Kế hoạch kinh doanh mặt hàng: Trong bước này cần xác định được mặt hàng
kinh doanh là mặt hàng gì, nhãn hiệu bao bì đóng gói như thế nào, quy cách phẩm
chất của hàng hoá, khối lượng dự định sẽ kinh doanh. Khối lượng hàng kinh doanh
của doanh nghiệp cần xác định dựa vào nhu cầu có khả năng thanh toán của thị
trường chứ không phải dựa vào nhu cầu thị trường.
- Kế hoạch nhập khẩu hàng hóa: Trên cơ sở đã xác định được loại hàng hoá
kinh doanh, chất lượng, nhãn hiệu hàng hoá, và khối lượng hàng hoá kinh doanh.
Doanh nghiệp cần phải lựa chọn nguồn hàng sao cho doanh nghiệp có thể đạt được
nhiều lợi nhuận nhất, chi phí thấp nhất mà vẫn đáp ứng được những yêu cầu đã đặt ra
cho hàng hoá. Cần phải lập kế hoạch cụ thể về hình thức nhập khẩu, phương thức
chuyển chở, phương thức thanh toán, thời gian ký kết hợp đồng, các điều kiện giao
hàng sao cho đảm bảo nguồn hàng được ổn định.
- Kế hoạch bán hàng: Trong bước này, doanh nghiệp cần tính toán thật kỹ lưỡng
về chi phí kinh doanh bỏ ra cho từng loại mặt hàng, lợi nhuận dự kiến trên từng đơn
vị hàng hoá, từ đó sẽ đưa ra một mức giá bán dự kiến cho từng loại hàng, kế đó là
tính tổng doanh thu và tổng lợi nhuận có thể đạt được với từng mức giá và mức lợi
nhuận dự kiến cho mỗi đơn vị hàng hoá. Tuy nhiên, việc tính toán chi phí kinh doanh
và lợi nhuận dự kiến vào giá bán phải dựa vào giá bán hiện tại của hàng hoá trên thị
trường để đảm bảo sao cho khi hàng hoá được bán ra thị trường có được mức giá
cạnh tranh nhất, hợp lý nhất.
- Kế hoạch dự trữ đầu kỳ và cuối kỳ: Đây là khâu rất quan trọng trong việc lập kế
hoạch kinh doanh, vì nó là một trong những điều kiện quan trọng đảm bảo cho hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp được ổn định, liên tục và đạt hiệu quả cao, thêm đó

nó còn giúp doanh nghiệp tăng khả năng chống đỡ với những biến động bất thường
của hàng hoá tại cả thị trường cung ứng và thị trường tiêu thụ.
11


1.2.3. Giao dịch, đàm phán và ký kết hợp đồng
 Đàm phán trong ngoại thương
Sau khi lập xong phương án kinh doanh, để tiến tới ký kết hợp đồng, bên bán và
bên mua phải tiến hành một quá trình giao dịch, thương thảo về các điều khoản.
Đàm phán trong ngoại thương là một quá trình mà các bên tiến hành thương
lượng, thảo luận, nhằm thống nhất các mối quan tâm chung và những điểm còn bất
đồng nhằm đem lại lợi ích cho các bên trong kinh doanh ngoại thương.
Đàm phán bao gồm các hình thức như:
- Đàm phán qua gặp gỡ trực tiếp: hình thức này có ưu điểm là đàm phán được
nhiều nội dung và giúp giải quyết nhanh chóng mọi quan hệ trong giao dịch và đôi
khi là lối thoát duy nhất cho các hình thức đàm phán khác đã kéo dài quá lâu mà
không đem lại kết quả. Tuy nhiên, đàm phán trực tiếp lại tốn chi phí lớn.
- Đàm phán qua thư tín: là phương thức mà các bên gửi cho nhau những văn bản,
để thảo thuận những điều kiện mua bán. Đàm phán theo hình thức này hiện nay được
áp dụng nhiều do đỡ tốn kém và không mất nhiều công sức. Tuy nhiên hình thức này
nên áp dụng cho những hợp đồng với giá trị thấp và cho những đối tác có quan hệ lâu
dài.
- Đàm phán qua các phương tiện truyền thông: Hình thức này khắc phục được
nhược điểm về chi phí so với những hình thức trên, thêm nữa đàm phán qua phương tiện
truyền thông được thực hiện một cách dễ dàng và nhanh chóng đảm bảo được tính thời
điểm.
 Ký kết hợp đồng ngoại thương
Hợp đồng ngoại thương là một văn bản ghi lại những nội dung các bên nhất trí
với nhau dưới dạng các điều khoản, điều kiện làm cam kết thực hiện.
Hợp đồng nhập khẩu là một hợp đồng ngoại thương sự thoả thuận nhất trí giữa

các bên có trụ sở kinh doanh ở các quốc gia khác nhau
Ký kết hợp đồng ngoại thương là hoạt động xác nhận nội dung và những điều
kiện mua bán đã được thống nhất dưới dạng văn bản theo những điều khoản và điều
kiện.
12


Các hình thức ký kết hợp đồng ngoại thương bao gồm:
- Ký kết trực tiếp: hai bên cùng tổ chức tại một địa điểm và trong một khung
cảnh để ký xác nhận
- Ký kết gián tiếp: thông thường một bên ký trước gửi lại cho bên kia ký sau,
thậm chí ký qua fax, qua mail.
Sau khi ký xong, hợp đồng chính thức có hiệu lực và ràng buộc trách nhiệm
pháp lý của các bên tham gia vào giao dịch của hợp đồng. Đây cũng là cơ sở pháp lý
để giải quyết các tranh chấp phát sinh trong quá trình thực hiện hợp đồng, do đó, hợp
đồng ngoài thương phải được các bên xem xét kỹ lưỡng về từng điều khoản và điều
kiện.
1.2.4. Tổ chức thực hiện hợp đồng nhập khẩu
Hợp đồng thương mại quốc tế là kết quả của một quá trình nghiên cứu thị
trường, xác nhận nhu cầu, lựa chọn đối tác, lập phương án kinh doanh, tiến hành giao
dịch đàm phán và ký kết hợp đồng. Thực hiện hợp đồng thể hiện trách nhiệm của mỗi
bên đối với những thoả thuận và cam kết của mình trong giao dịch. Đây là một mắc
xích quan trọng trong cả quá trình giao dịch.
Trên cơ sở hợp đồng ngoại thương, các bên sẽ tiến hành thực hiện hợp đồng đã
ký. Bên xuất khẩu chịu trách nhiệm giao hàng cho bên nhập khẩu theo trình tự của
một hoạt động xuất khẩu. Còn đối với bên nhập khẩu, thực hiện theo hợp đồng nhập
khẩu gồm có các công đoạn:
- Xin giấy phép nhập khẩu
- Làm thủ tục xác nhận thanh toán
- Thuê phương tiện vận tải (nếu có): bên nhập khẩu chịu trách nhiệm thuê

phương tiện vận tải nếu hợp đồng theo điều kiện EXW, FCA, FAS, FOB.
- Mua bảo hiểm (nếu có): Nhà nhập khẩu phải chịu trách nhiệm mua bảo hiểm
trong các hợp đồng có điều kiện cơ sở giao hàng thuộc nhóm E, nhóm F và điều kiện
CIF, CIP.
- Làm thủ tục thanh toán (nếu có)
- Làm thủ tục thông quan
13


- Giao nhận hàng
- Kiểm tra và nhập hàng
- Khiếu nại và giải quyết khiếu nại (nếu có)
1.2.5. Tổ chức triển khai bán hàng nhập khẩu
Sau khi đã nhập hàng về kho, doanh nghiệp cần nhanh chóng tiến hành tổ chức bán
hàng hoặc giao hàng cho các đơn vị đặt hàng. Việc làm này tiến hành càng nhanh thì việc
thu hồi vốn và tốc độ quay vòng vốn của doanh nghiệp càng nhanh, như vậy cũng có
nghĩa sẽ giảm được chi phí về kho bãi, chi phí cơ hội, chi phí bán hàng và sẽ làm tăng lợi
nhuận cho doanh nghiệp. Để thực hiện tốt công tác bán hàng nhập khẩu, các doanh nghiệp
thường áp dụng marketing mix. Các tham số của Marketing Mix (marketing hỗn hợp) bao
gồm: sản phẩm, giá cả, phân phối và xúc tiến.
Sản phẩm là tham số quan trọng trong bốn tham số của marketing hỗn hợp. Việc
đề ra các chiến lược về sản phẩm một cách hợp lý, xác định đúng sản phẩm có ảnh
hưởng lớn đến khả năng tiêu thụ (bán hàng) và khai thác cơ hội kinh doanh của doanh
nghiệp. Nhưng việc mô tả sản phẩm một cách chính xác và đầy đủ vẫn thường bị xem
nhẹ hoặc do thói quen hoặc chưa hiểu rõ tầm quan trọng của nó trong hoạt động tiêu
thụ của doanh nghiệp.
Trong kinh doanh, giá cả là một trong các công cụ có thể kiểm soát mà doanh
nghiệp có thể và cần sử dụng một cách khoa học để thực hiện các mục tiêu chiến lược,
kế hoạch kinh doanh. Các quyết định về giá cả có ảnh hưởng lớn đến toàn bộ quá trình
kinh doanh của doanh nghiệp, từ việc đặt kế hoạch kinh doanh đến mua sắm, chào

hàng, bán hàng, chi phí và lợi nhuận. Trong khi hoạch định chiến lược, chính sách và
kiểm soát giá cả cần phải chú trọng đến các vấn đề như:
- Các mục tiêu đặt giá;
- Chính sách đặt giá;
- Phương pháp tính giá.
Để bán được hàng tốt, doanh nghiệp cần phải thoả mãn rất nhiều yêu cầu từ phía
khách hàng. Khách hàng không chỉ cần sản phẩm tốt và giá đúng mà còn cần đáp ứng
được thời gian và địa điểm đúng. Địa điểm là một nội dung quan trọng mà hệ thống
14


marketing của doanh nghiệp cần phải giải quyết tốt trong chiến lược marketing của
mình. Các chuyên gia dày dạn kinh nghiệm và có nhiều thành công trong lĩnh vực bán
hàng đã đưa ra lời khuyên: “Muốn thành công, hãy chú ý đến địa điểm, luôn chú ý đến
địa điểm và địa điểm”. Thực ra, địa điểm rất quan trọng vì nó liên quan đến các quyết
định về phân phối hàng hoá và khả năng bán hàng của doanh nghiệp. Khi xây dựng
chiến lược về địa điểm và phân phối hàng hoá cần phải nghiên cứu và giải quyết tốt các
nội dung:
- Lựa chọn địa điểm;
- Lựa chọn và tổ chức kênh phân phối;
- Tổ chức và điều khiển quá trình phân phối hiện vật.
Xúc tiến là một trong bốn tham số quan trọng có thể kiểm soát được trong
marketing hỗn hợp. Hoạt động xúc tiến giúp cho các doanh nghiệp có cơ hội phát
triển các mối quan hệ thương mại với các bạn hàng trong nước cũng như các bạn
hàng nước ngoài, là công cụ hữu hiệu trong việc chiếm lĩnh thị trường và tăng tính
cạnh tranh của hàng hoá, dịch vụ của các doanh nghiệp trên thị trường. Các hoạt
động xúc tiến sẽ tạo hình ảnh đẹp về doanh nghiệp trước con mắt khách hàng, lợi thế
cạnh tranh của doanh nghiệp không ngừng tăng lên. Nó là công cụ hữu hiệu giúp cho
cung cầu gặp nhau, kích thích người tiêu dùng mua sản phẩm mà doanh nghiệp kinh
doanh. Nội dung của hoạt động xúc tiến bao gồm:

- Quảng cáo;
- Khuyến mại;
- Hội chợ triển lãm;
- Bán hàng trực tiếp;
- Quan hệ công chúng và các hoạt động khuếch trương khác.
1.2.6. Đánh giá kết quả nhập khẩu
Đánh giá kết quả kinh doanh là một hoạt động mà bất cứ một doanh nghiệp nào
cũng phải thực hiện nhằm xem xét hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
trong một thời kỳ nhất định. Từ những phân tích về các chỉ tiêu doanh thu, lợi nhuận,
chi phí, tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu...doanh nghiệp có thể rút ra được những
15


điểm mạnh của mình đồng thời nhận ra được những tồn tại và tiến tới khắc phục nó.
Thông thường khi đánh giá hoạt động kinh doanh nhập khẩu, thường sử dụng các chỉ
tiêu:
1.2.6.1. Chỉ tiêu tỷ suất ngoại tệ hàng nhập khẩu (R
NK
)
Tỷ suất ngoại tệ nhập khẩu là đại lượng so sánh giữa khoản thu (tính bằng đồng
nội tệ) do việc nhập khẩu đem lại (DT
NK
) với chi phí đầu vào (tính bằng ngoại tệ) đã
phải bỏ ra để mua bán hàng nhập khẩu (CP
NK
).
Có công thức: R
NK
=
Trong đó:

DT
NK
: Doanh thu nội tệ do nhập khẩu
CP
NK
: Chi phí ngoại tệ chi ra và cho vay
1.2.6.2. Lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận
Lợi nhuận là chỉ tiêu phản ánh tổng hợp kết quả của từng hợp đồng xuất khẩu,
là chỉ tiêu phản ánh kết quả cuối cùng và quan trọng nhất. Lợi nhuận được thể hiện
dưới hai dạng số tuyệt đối và số tương đối.
 Ở dạng tuyệt đối, lợi nhuận là hiệu số giữa khoản doanh thu và chi phí bỏ
ra trong quá trình sản xuất kinh doanh.
Công thức tính lợi nhuận nhập khẩu như sau:
P = TR - TC
Trong đó: P : Lợi nhuận
TR : Tổng doanh thu nhập khẩu
TC : Tổng chi phí nhập khẩu
Doanh nghiệp phải thống kê đầy đủ chi phí phát sinh trong quá trình thực hiện
hợp đồng nhập khẩu đồng thời phải tính đến giá trị của tiền theo thời gian và mức
lạm phát của đồng tiền.
 Ở dạng tương đối được thể hiện bằng tỷ suất lợi nhuận. Tỷ suất lợi nhuận
có thể tính theo: giá thành, vốn sản xuất hoặc doanh thu.
- Chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận tính theo giá thành phản ánh mức lợi nhuận thu được từ
một đơn vị chi phí cho hoạt động nhập khẩu (hiệu quả của một đồng chi phí)
16


P
Z
=

Trong đó:
P
Z:
tỷ suất lợi nhuận theo giá thành
Z: Giá thành sản phẩm
P: Lợi nhuận
- Chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận tính theo vốn kinh doanh (hệ số sinh lời của vốn)
phản ánh mức lợi nhuận thu được từ một đơn vị vốn kinh doanh.
P
V
=
Trong đó:
P
V
: Tỷ suất lợi nhuận tính theo vốn
V
cd
: Giá trị còn lại bình quân của tài sản cố định trong kỳ
V
ld
: Số dư vốn lưu động bình quân trong kỳ
- Tỷ suất lợi nhuận tính theo doanh thu phản ánh mức lợi nhuận thu được từ
một đơn vị doanh thu tiêu thụ sản phẩm nhập khẩu.
P
dt
=
Trong đó:
P
dt
: Tỷ suất lợi nhuận tính theo doanh thu

D: Doanh thu từ tiêu thụ sản phẩm.
1.2.6.3. Chỉ tiêu thời gian hoàn vốn
Thời gian hoàn vốn hoặc thời gian bù vốn là một chỉ số hiệu quả kinh tế đơn
giản và được sử dụng tương đối phổ biến trong đánh giá hoạt động kinh doanh.
Thời gian hoàn vốn là khoảng thời gian mà vốn đầu tư bỏ ra kinh doanh có thể
thu hồi được, nhờ lợi nhuận và khấu hao cơ bản thu được hàng năm
T
V
=
Trong đó:
K
C
: Mức khấu hao hàng năm
I : Khoản tiền trả tiền lợi tức
V
dt
: Tổng số tiền (kể cả tự có và đi vay) bỏ ra để kinh doanh
P : Lợi nhuận thu được trong năm
17


T
V
: Thời gian hoàn vốn (năm)
Để đơn giản trong quá trình tính toán, người ta không tính đến tỷ lệ lãi, nghĩa là
lãi suất được coi bằng 0 và khi đó I = 0. Theo đó, trong mọi trường hợp, hoạt động
nhập khẩu được coi là có hiệu quả cao khi thời gian hoàn vốn là ngắn.
1.3. CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẨU
Sự thành công trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, nếu không tính
đến vận may, nó chỉ xuất hiện khi kết hợp hài hoà các yếu tố bên trong với hoàn cảnh

bên ngoài.
Hoạt động trong môi trường kinh doanh quốc tế nói chung và trong hoạt động
kinh doanh nhập khẩu nói riêng chịu ảnh hưởng của yếu tố bên trong, bên ngoài
doanh nghiệp. Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng này giúp doanh nghiệp nhận biết
được các nhân tố đó, nhận biết được xu hướng vận động của nó và tác động của nó
đến hoạt động nhập khẩu. Qua đó giúp doanh nghiệp có những biện pháp khai thác
những nhân tố có ảnh hưởng tích cực, hạn chế các nhân tố có ảnh hưởng tiêu cực.
1.3.1. Các nhân tố bên trong
Cơ hội và chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp luôn phụ thuộc chặt chẽ vào
các yếu tố phản ánh tiềm lực của doanh nghiệp. Một cơ hội có thể rất “hấp dẫn” đối
với doanh nghiệp này nhưng lại có thể là “hiểm hoạ” đối với doanh nghiệp khác vì
những yếu tố thuộc tiềm lực bên trong của mỗi doanh nghiệp. Tiềm lực của doanh
nghiệp không phải là bất biến, có thể phát triển mạnh lên hay yếu đi, có thể thay đổi
toàn bộ (tổng quát) hay bộ phận (một vài yếu tố). Để đánh giá, phân tích tiềm lực của
doanh nghiệp có thể dựa vào các yếu tố cơ bản sau:
1.3.1.1. Năng lực tài chính của doanh nghiệp
Là một yếu tố tổng hợp phản ánh sức mạnh của doanh nghiệp thông qua khối
lượng (nguồn) vốn mà doanh nghiệp có thể huy động vào kinh doanh, khả năng phân
phối (đầu tư) có hiệu quả các nguồn vốn, khả năng quản lý có hiệu quả các nguồn
vốn trong kinh doanh thể hiện qua các chỉ tiêu: vốn chủ sở hữu (vốn tự có), vốn huy
động, tỷ lệ tái đầu tư về lợi nhuận, giá cổ phiếu của doanh nghiệp trên thị trường, khả
năng trả nợ ngắn hạn và dài hạn, các tỷ lệ về khả năng sinh lợi…
18


Vốn kinh doanh của doanh nghiệp lớn hay nhỏ là một trong những điều kiện
quan trọng nhất để xếp doanh nghiệp vào loại quy mô lớn, trung bình, nhỏ hay siêu
nhỏ và cũng là một trong những điều kiện để sử dụng các nguồn tiềm năng hiện có và
tương lai về sức lao động, nguồn hàng, mở rộng và phát triển thị trường, mở rộng lưu
thông hàng hoá, là điều kiện để phát triển kinh doanh quốc tế.

Vốn là một nhân tố quan trọng trong sản xuất và nó quyết định đến tốc độ tăng
sản lượng của doanh nghiệp. Nó cũng là một nguồn lực quan trọng để phát huy tài
năng của ban lãnh đạo doanh nghiệp; nó là điều kiện để thực hiện các chiến lược,
sách lược kinh doanh; nó cũng là chất keo để nối chắp, kết dính các quá trình, các
quan hệ kinh tế và nó cũng là dầu nhớt bôi trơn cho cỗ máy kinh tế hoạt động.
1.3.1.2. Trình độ của đội ngũ cán bộ công nhân viên
Đây là những người hoạt động theo nghiệp vụ chuyên môn. Đối với công nhân
là những người trực tiếp tạo ra sản phẩm, nếu tay nghề tốt thì sản phẩm làm ra đạt kết
quả chất lượng cao. Đối với cán bộ thì phải có nghiệp vụ chuyên môn giỏi để có thể
giao dịch, đàm phán, ký kết hợp đồng. Doanh nghiệp có thể đào tạo đội ngũ cán bộ
công nhân viên đạt trình độ cao để phục vụ cho hoạt động nhập khẩu.
1.3.1.3. Trình độ tổ chức, quản lý
Trình độ tổ chức quản lý là sự hoàn hảo của cấu trúc tổ chức, tính hiệu quả của hệ
thống quản lý và công nghệ quản lý. Mỗi doanh nghiệp là một hệ thống với những mối
liên kết chặt chẽ với nhau hướng tới mục tiêu. Một hệ thống là tập hợp các phần tử (bộ
phận, chức năng, nhiệm vụ). Một doanh nghiệp muốn đạt được mục tiêu của mình thì
đồng thời phải đạt đến một trình độ tổ chức, quản lý tương ứng. Khả năng tổ chức, quản lý
doanh nghiệp dựa trên quan điểm tổng hợp, bao quát tập trung vào những mối quan hệ
tương tác của tất cả các bộ phận tạo thành tổng thể, tạo nên sức mạnh thực sự cho doanh
nghiệp.
Trình độ tổ chức, quản lý ảnh hưởng đến chất lượng hoạt động sản xuất của
doanh nghiệp nói chung và hoạt động xuất khẩu nói riêng.
Người lãnh đạo cần phải xây dựng được chiến lược kinh doanh và đề ra các
chính sách kinh doanh giúp cho doanh nghiệp có thể dễ dàng lựa chọn phương thức
19


hành động. Cần phải biết nhìn xa, trông rộng để xây dựng được các chiến lược kinh
doanh hợp lý, tổ chức nhân sự cho phù hợp với quy mô, tính chất của hoạt động sản
xuất kinh doanh, phù hợp với trình độ quản lý, kỹ năng quản trị doanh nghiệp.

1.3.1.4. Khả năng nghiên cứu, phát triển và việc ứng dụng khoa học kỹ thuật
vào sản xuất
Khả năng nghiên cứu, phát triển và việc ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất
có ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất, chi phí, giá thành và chất lượng hàng hoá được
đưa ra đáp ứng khách hàng. Liên quan đến mức độ (chất lượng) thoả mãn nhu cầu, khả
năng cạnh tranh, lựa chọn cơ hội và các tác nghiệp khác của doanh nghiệp trên thị
trường.
Cơ sở vật chất kỹ thuật phản ánh nguồn tài sản cố định của doanh nghiệp có thể
huy động vào kinh doanh như thiết bị, nhà xưởng, văn phòng… phản ánh tiềm lực
vật chất và liên quan đến quy mô, khả năng, lợi thế kinh doanh của doanh nghiệp.
1.3.1.5. Tiềm lực vô hình
Tiềm lực vô hình của doanh nghiệp chính là uy tín, vị thế của doanh nghiệp trên
thương trường, thương hiệu, các mối quan hệ của doanh nghiệp…Lợi thế vô hình này
của doanh nghiệp không phải có ngay khi mới thành lập mà được hình thành trong
quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh lâu dài của doanh nghiệp. Tiềm lực này
không thể nhìn thấy hay định giá nhưng nó lại đóng vai trò quyết định đến khả năng
cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường trong nước và quốc tế.
1.3.2. Các nhân tố bên ngoài
1.3.2.1. Các nhân tố trong nước
Đây là nhóm các nhân tó ảnh hưởng không chịu sự kiểm soát của doanh nghiệp
do vậy mà doanh nghiệp phải tìm cách thích nghi với nó. Các nhân tố đó là:
• Chính trị và luật pháp
Để thành công trong kinh doanh, các doanh nghiệp cần phải phân tích dự đoán
về chính trị và luật pháp cùng xu hướng vận động của nó bao gồm:
- Sự ổn định về chính trị;
- Đường lối ngoại giao;
20


- Sự cân bằng các chính sách của Nhà nước;

- Vai trò và chiến lược phát triển kinh tế của Đảng và Chính phủ;
- Sự điều tiết và khuynh hướng can thiệp của Chính phủ vào đời sống kinh tế;
- Sự phát triển các quyết định bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng;
- Hệ thống luật pháp, sự hoàn thiện và hiệu lực thi hành chúng.
• Chính sách kinh tế của Nhà nước
Chế độ chính sách trong nước giữ vai trò quan trọng vì nó quyết định đến sự
thuận lợi hay khó khăn cho doanh nghiệp khi tiến hành kinh doanh nhập khẩu. Trong
điều kiện hiện nay, các chính sách kinh tế của nhà nước thường hướng đến mục tiêu
thúc đẩy xuất khẩu và bảo hộ sản xuất trong nước với những ngành được coi là trọng
điểm.
Các chính sách của nhà nước ảnh hưởng đến hoạt động nhập khẩu của doanh
nghiệp là:
- Chính sách nhập khẩu của nhà nước bao gồm chính sách thuế nhập khẩu, hạn
ngạch nhập khẩu, quy định về nhóm mặt hàng được khuyến khích nhập khẩu, nhóm
mặt hàng hạn chế nhập khẩu và cấm nhập khẩu.
- Chính sách tỷ giá hối đoái: đây là một yếu tố vô cùng quan trọng và ảnh
hưởng trực tiếp đến hoạt động nhập khẩu của doanh nghiệp. Tác động của tỷ giá hối
đoái lên hoạt động nhập khẩu như sau: nếu đồng ngoại tệ giảm giá tức là với một
lượng nội tệ như cũ, doanh nghiệp mua được nhiều ngoại tệ hơn do đó có nhiều
nguồn vốn hơn để kinh doanh hàng nhập khẩu, đây là một trong những biện pháp
khuyến khích nhập khẩu. Và ngược lại khi đồng ngoại tệ tăng giá, nó khuyến khích
xuất khẩu.
- Các thủ tục hành chính như thủ tục xin giấy phép, thủ tục hải quan…
• Yếu tố kỹ thuật và công nghệ
Yếu tố kỹ thuật và công nghệ làm cơ sở cho yếu tố kinh tế là sức mạnh dẫn đến
sự ra đời sản phẩm mới sẽ tác động vào mô thức tiêu thụ và hệ thống bán hàng.
Ngược lại, yếu tố kỹ thuật bị ảnh hưởng của cách thức quản lý vĩ mô.
• Yếu tố tỷ giá hối đoái
21



Tỷ giá hối đoái có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động xuất nhập khẩu của doanh
nghiệp. Nó có thể làm thay đổi kết quả hoạt động kinh doanh nhập khẩu của doanh
nghiệp. Một sự thay đổi tỷ giá có thể đẩy mạnh hoặc kìm hãm hoạt động nhập khẩu.
Tỷ giá thay đổi trong thời gian thực hiện hợp đồng xuất khẩu có thể làm cho doanh
nghiệp thu được lợi nhuận cao hoặc lỗ trong hợp đồng.
Khi ký kết hợp đồng, doanh nghiệp cần chú ý đến tỷ giá. Nếu tỷ giá lớn hơn tỷ suất
ngoại tệ thì doanh nghiệp có thể thực hiện hợp đồng và ngược lại. Mặt khác doanh
nghiệp cần chú ý đến tỷ giá hối đoái, có các dự báo về tỷ giá để tránh sự biến động của
tỷ giá.
• Mức độ cạnh tranh của doanh nghiệp trong nước
Sự cạnh tranh một mặt có tác dụng thúc đẩy sự vươn lên của các doanh nghiệp, mặt
khác nó chèn ép, đè bẹp những doanh nghiệp yếu kém. Mức độ cạnh tranh được thể hiện
ở số lượng doanh nghiệp tham gia vào hoạt động nhập khẩu cùng ngành hoặc mặt hàng
và khối lượng hàng hoá mà doanh nghiệp đó bán trên thị trường trong nước. Ngoài ra,
các doanh nghiệp nhập khẩu còn phải chịu sự cạnh tranh từ chính những doanh nghiệp
sản xuất trong nước. Do đó, khả năng cạnh tranh là yếu tố sống còn của doanh nghiệp.
• Trình độ phát triển thông tin liên lạc
Đây là các nhân tố rất quan trọng, nó phục vụ hữu hiệu cho hoạt động xuất nhập
khẩu. Đó là những thông tin về trình độ phát triển của hệ thống thông tin liên lạc, hệ
thống ngân hàng, hệ thống vận tải, bảo hiểm, bến cảng, kho bãi. Các yếu tố quan hệ chặt
chẽ với hoạt động xuất nhập khẩu. Nếu các yếu tố trên phát triển ở trình độ cao thì sẽ
thuận lợi cho hoạt động xuất nhập khẩu và ngược lại.
1.3.2.2. Nhóm các nhân tố ngoài nước
Các nhân tố này không những nằm ngoài khả năng kiểm soát của doanh nghiệp
mà nó còn nằm ngoài khả năng kiểm soát của một quốc gia. Nó có thể ảnh hưởng
trực tiếp hoặc gián tiếp tới hoạt động nhập khẩu của doanh nghiệp.
• Tình hình chính trị, pháp luật, chính sách của quốc gia xuất khẩu: nhân tố
này tác động đến hoạt động nhập khẩu của doanh nghiệp như ký kết được hợp đồng
22



hoặc không ký kết được hợp đồng, khó thực hiện hoặc thuận lợi khi thực hiện hợp
đồng.
• Chính sách thương mại của nước xuất khẩu sẽ có thể khuyến khích hoặc hạn
chế hoạt động nhập khẩu của doanh nghiệp. Nếu chính sách đó cấm hoặc hạn chế
xuất khẩu hàng hoá mà doanh nghiệp kinh doanh thì gây khó khăn rất lớn cho doanh
nghiệp kinh doanh và ngược lại.
• Sự biến động của thế giới về mặt hàng mà doanh nghiệp nhập khẩu: Toàn cầu
hoá và hội nhập khiến cho giữa cho sự phụ thuộc và tác động của các nước với nhau
ngày càng cao. Những biến động của thị trường sản phẩm nhập khẩu hay những biến
động của hàng hoá liên quan đều có tính chất lan truyền và ảnh hưởng đến nền kinh
tế thế giới. Do đó, hoạt động nhập khẩu của doanh nghiệp cũng chịu sự tác động của
những biến động thế giới.
Trên đây là những nhân tố chính ảnh hưởng đến hoạt động nhập khẩu của doanh
nghiệp. Các nhân tố có ảnh hưởng khác nhau có tác động khác nhau tạo nên sự phức
tạp và khó khăn trong hoạt động nhập khẩu của doanh nghiệp. Vì vậy các doanh
nghiệp phải thường xuyên nắm bắt những thay đổi để phản ứng kịp thời tránh những
rủi ro đáng tiếc xảy ra khi tham gia hoạt động nhập khẩu.
1.4. VAI TRÒ CỦA HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẨU PHÔI THÉP ĐỐI VỚI NGÀNH
THÉP VIỆT NAM TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP
1.4.1. Sơ lược ngành thép Việt Nam
Ngành thép Việt Nam được xây dựng từ đầu những năm 60 của thế kỷ 20 bắt
đầu bằng việc hình thành khu liên hợp gang thép Thái Nguyên với sự giúp đỡ của
Trung Quốc năm 1959. Đến năm 1963 khu liên hợp gang thép Thái Nguyên cho ra
đời mẻ thép cán đầu tiên. Khu liên hiệp gang thép Thái Nguyên được xây dựng trên
cơ sở công nghệ truyền thống (lò cao) với nguồn nguyên liệu quặng sắt trong nước.
Do chiến tranh, việc xây dựng dở dang kéo dài không đồng bộ cho tới những năm
cuối của thập kỷ 80, công suất sản xuất thép của Khu liên hợp gang thép Thái nguyên
chỉ có công suất luyện cán thép 100.000 tấn/năm.

23


Năm 1976, Công ty luyện kim đen miền Nam được thành lập trên cơ sở tiếp quản
các nhà máy luyện, cán thép mini của chế độ cũ để lại ở thành phố Hồ Chí Minh và Biên
Hòa, sử dụng công nghệ lò điện với tổng công suất khoảng 80.000 tấn thép cán/năm.
Giai đoạn từ 1976 đến 1989: Ngành thép gặp rất nhiều khó khăn do kinh tế đất
nước lâm vào khủng hoảng, ngành thép không phát triển được và chỉ duy trì mức sản
lượng từ 40 ngàn đến 85 ngàn tấn thép/năm.
Giai đoạn từ 1989 đến 1995: Thực hiện chủ trương đổi mới, mở cửa của Đảng
và Nhà nước, ngành thép bắt đầu có tăng trưởng, sản lượng thép trong nước đã vượt
mức trên 100 ngàn tấn/năm. Tuy nhiên, sản phẩm thép cung cấp trong nước vẫn còn
khá đơn điệu, thép xây dựng là sản phẩm chủ yếu và truyền thống.
Từ 1996 trở lại đây: Ngành thép vẫn giữ được mức độ tăng trưởng khá cao, tiếp
tục được đầu tư đổi mới và đầu tư chiều sâu.
Với việc mở rộng phạm vị cho phép tham gia vào hoạt động sản xuất kinh
doanh các sản phẩm thép, thị trường thép Việt Nam đã trở nên sôi động hơn rất
nhiều. Ngoài Tổng công ty Thép Việt Nam và các cơ sở quốc doanh thuộc địa
phương và các ngành, còn có sự tham gia của các liên doanh, các công ty cổ phần,
công ty 100% vốn nước ngoài và các công ty tư nhân. Sau 10 năm đổi mới và tăng
trưởng, ngành thép Việt Nam đã đạt một số chỉ tiêu như sau: luyện thép lò điện đạt 500
ngàn tấn/năm, công suất cán thép đạt 2,6 triệu tấn/năm (kể cả các đơn vị ngoài Tổng
công ty Thép Việt Nam). Từ 2000 trở lại đây, FDI chảy vào ngành thép rất lớn, nhiều
nhà máy sản xuất thép và phôi ra đời, tăng tốc độ lượng thép sản xuất được.
Tuy nhiên, theo đánh giá của các chuyên gia, ngành thép của ta vẫn còn quá nhỏ
bé và phụ thuộc nhiều vào nguồn nguyên liệu nước ngoài, thêm vào đó cơ cấu sản
phẩm chưa phong phú, công nghệ đa số là lạc hậu từ thập niên 70,80 của thế kỷ XX.
Đây là những vấn đề cốt lõi căn bản của ngành thép Việt Nam cần được giải quyết
trong những năm sắp tới nhằm đưa ngành thép hội nhập và phát triển.
Việt Nam đặt ra mục tiêu phấn đấu trở thành một nước công nghiệp theo hướng

hiện đại vào năm 2020, công nghiệp thép được xác định một số tiêu chí như sau:
- GDP bình quân đầu người: 1.500 USD
24


- Nhu cầu tiêu thụ thép: 21 triệu tấn (dài/dẹt=50/50)
- Tiêu thụ thép bình quân đầu người: 200 kg
- Sản xuất thép thô: 10 triệu tấn.
- Sản xuất thép cán trong nước đáp ứng 50% nhu cầu thép dẹt và 80% nhu cầu
thép dài.
- Cơ cấu sản xuất sản phẩm dài/dẹt là: 62/38.
- Công nghệ: xây dựng nhà máy thép liên hợp BF-BOF 4,5 triệu tấn/năm và một
vài trung tâm sản xuất thép lò điện Mini-mill (tỷ lệ thép sản xuất lò BOF/EAF là
60/40).
1.4.2. Công nghệ sản xuất thép
Hiện nay, Việt Nam đang áp dụng đồng thời hai quy trình công nghệ sản xuất
thép. Đó là công nghệ lò cao truyền thống và công nghệ lò điện, cả hai công nghệ này
đều cho bán thành phẩm là phôi thép.
• Sản xuất theo công nghệ lò điện: nguyên liệu đầu vào là thép phế và được
thực hiện theo quy trình sau: Thép phế - > lò điện hồ quang - > lò thùng - > đúc
liên tục - > Phôi thép - > nung phôi - > cán thép - > Thép thành phẩm
Như vậy, muốn tạo ra thép thành phẩm thì phải sản xuất được phôi thép. Tuy
nhiên, hiện nay lượng thép phế trong nước không cung cấp đủ. Ở nước ta, nguồn thép
phế trong nước đã bị khai thác để xuất khẩu và sử dụng trong thời kỳ chiến tranh và
đang dần cạn kiệt. Còn thép phế thải từ sản xuất và tiêu dùng trong xã hội rất hạn chế
do nền kinh tế còn kém phát triển, hàng năm chúng ta chỉ thu gom được 300.000
Tấm/năm. Theo ước tính, hàng năm chúng ta cần 2,2 – 2,4 triệu tấn thép phế để phục
vụ cho sản xuất phôi thép từ đó tạo ra thép thành phẩm, tuy nhiên trong nước mới chỉ
đáp ứng được 800.000 Tấn/năm, số còn lại thì phải nhập khẩu.
• Sử dụng công nghệ lò cao truyền thống: nguyên liệu đầu vào là quặng sắt. Tại

Việt Nam, chỉ có nhà máy gang thép Thái Nguyên và một số ít nhà máy có công suất
nhỏ là có dây chuyền sản xuất theo công nghệ lò cao truyền thống.
Tuy nhiên công nghệ này sử dụng quặng sắt nguyên khối và than cốc nên cần
tới 3 công đoạn để sản xuất thép nấu chảy trong đó có kết tụ quặng và luyện than cốc.
25

×