Tải bản đầy đủ (.pdf) (38 trang)

Giáo trình tài chính tiền tệ chương 1 những vấn đề cơ bản của tiền tệ cđ phương đông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (883.23 KB, 38 trang )

Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TIỀN TỆ
I. Sự ra đời của tiền tệ và phát triển của tiền tệ:
1. Sự ra đời của tiền tệ
Khi nghiên cứu về quá trình ra đời của tiền tệ, C. Mác chỉ ra rằng: “Trình bày
nguồn gốc phát sinh của tiền tệ, nghĩa là phải khai triển các biểu hiện của giá trị, biểu
hiện bao hàm trong quan hệ giá trị của hàng hóa, từ hình thái ban đầu giản đơn nhất và
ít thấy rõ nhất cho đến hình thái tiền tệ là hình thái ai nấy đều thấy” (C. Mác, Tư Bản,
Quyển I, Tập I, trang 75, NXB Sự thật - Hà Nội 1963)
Quá trình ra đời của tiền tệ được trải qua bốn hình thái giá trị:
- Hình thái giản đơn hay ngẫu nhiên
- Hình thái mở rộng
- Hình thái chung
- Hình thái tiền tệ
Từ hình thái giá trị giản đơn hay ngẫu nhiên đến hình thái tiền tệ là một quá trình
lịch sử lâu dài.
Chính trong quá trình phát triển của sản xuất và trao đổi hàng hóa đã xuất hiện vật
ngang giá chung.
Vật ngang giá chung là những hàng hóa có thể trao đổi trực tiếp được với nhiều
hàng hóa khác. Vật ngang giá chung ban đầu là những hàng hóa có giá trị sử dụng thiết
thực. Về sau là những hàng hóa có ý nghĩa tượng trưng. Khi trao đổi hàng hóa trở
thành nhu cầu thường xuyên và mở rộng, thì nhiều hàng hóa có tác dụng vật ngang giá
chung trở nên mâu thuẫn với nhu cầu ngày càng tăng của thị trường, thì trường đòi hỏi
phải thừa nhận một vật ngang giá đơn nhất. Khi vật ngang giá chung cố định ở một thứ
hàng hóa thì sinh ra hình thái tiền tệ. Khi đó, tất cả hàng hóa đều biểu hiện giá trị của
nó trong một thứ hàng hóa, mà thứ hàng hóa đó trở thành vật ngang giá chung.
Vậy, tiền tệ xuất hiện sau một quá trình phát triển lâu dài của trao đổi và các hình
thái giá trị.
2. Sự phát triển của tiền tệ
Tiền tệ được phát triển qua các hình thức sau:

Tiền bằng HH


thông thường

Tiền
vàng

Tiền đúc bằng kim
loại kém giá

Tiền
giấy

Tiền chuyển
khoản
CPD College
(1) Tiền bằng hàng hóa thông thường.
- Những hàng hóa đóng vai trò vật ngang giá chung để trao đổi nhiều lần với hàng
hóa khác.
- Hàng hóa đó là quý, hiếm, gọn, nhẹ, dễ bảo quản, dễ chuyên chở và phù hợp với
tập quán trao đổi từng địa phương tại thời kỳ đó.
- Hàng hóa tiền tệ là: da thú, vỏ sò, vòng đá, muối, vải…
(2) Tiền vàng.
- Tiền vàng xuất hiện đầu tiên vào những năm 685 - 652 (TK thứ 7) trước công
nguyên ở vùng Lidia - Tiểu Á (niên đại thuộc triều vua Lidia), đồng tiền vàng có in
hình nổi để đảm bảo giá trị.
- Thế kỷ 16 nhiều nước sử dụng vàng làm tiền, có nước vừa sử dụng tiền vàng, vừa
sử dụng tiền bạc.
- Tiền vàng trở nên thông dụng và lưu thông phổ biến vào TK 19 và đầu TK 20.
- Ngày nay vàng được đưa vào dự trữ cho các quốc gia và cá nhân, đồng thời nó
được sử dụng trong thanh toán quốc tế cho một số trường hợp: xuất nhập khẩu hàng
hóa tiểu ngạch, trả tiền mua hàng khi quốc gia đó không được vay nợ, số chênh lệch

trong thanh toán Clearing
(3) Tiền đúc bằng kim loại kém giá.
- Tiền đúc bằng các thứ kim loại thường: đồng, chì, kẽm, nhôm…
- Lưu thông chủ yếu trong các triều đại phong kiến, do nhà vua giữ độc quyền phat
hành.
- Ngày nay nhiều nước vẫn dùng tiền đúc lẻ, do Ngân hàng Trung ương phát hành.
(4) Tiền giấy.
- Tiền được làm bằng nguyên liệu giấy.
- Tiền giấy được phát hành từ các triều đại phong kiến: Trung Hoa đời nhà Tống
TK11, ở Việt Nam thời vua Hồ Quý Ly TK15.
- Giấy bạc ngân hàng là loại tiền giấy thực sự cần thiết cho lưu thông xuất hiện từ
đầu TK 17 ở Hà Lan, do ngân hàng Amstecdam phát hành.
- Ngày nay, Ngân hàng Trung ương các nước đều phát hành giấy bạc ngân hàng
vào lưu thông.
(5) Tiền chuyển khoản.
CPD College
- Hình thức tiền tệ này được sử dụng bằng cách ghi chép trong sổ sách kế toán (của
ngân hàng và khách hàng)
- Tiền chuyển khoản xuất hiện lần đầu tiên tại nước Anh vào giữa TK19. Lúc này
do để tránh những quy định chặt chẽ trong việc phát hành giấy bạc ngân hàng, các
ngân hàng Anh đã phát minh ra hệ thống thanh toán trong sổ sách ngân hàng.
- Tiền chuyển khoản được sử dụng thông qua các công cụ thanh toán:
Giấy tờ thanh toán (Séc,
UNC, NPTT…)

Thẻ thanh toán (ghi
nợ, ký quỹ, TD…)

Thanh toán tức thời (qua
hệ thống máy vi tính đã

nối mạng)
- Ngày nay tiền chuyển khoản chiếm tỷ trọng lớn (khoảng 80%) trong tổng phương
tiện thanh toán.
3. Khái niệm về tiền tệ:
Tùy theo cách tiếp cận ở những góc độ khác nhau về công dụng của tiền tệ mà các
nhà kinh tế học từ cổ điển đến hiện đại đã đưa ra những định nghĩa về tiền theo quan
niệm riêng của mình.
Định nghĩa 1, theo quan điểm của C. Mác: “Tiền tệ là một hàng hóa đặc biệt,
đóng vai trò vật ngang giá chung để đo giá trị của các hàng hóa khác và là phương
tiện thực hiện quan hệ trao đổi”.
Định nghĩa 2, theo quan điểm các nhà kinh tế học hiện đại: “Tiền là bất cứ một
phương tiện nào được xã hội chấp nhận làm phương tiện trao đổi với mọi hàng hóa,
dịch vụ và các khoản thanh toán khác trong nền kinh tế”.
4. Các chức năng của tiền tệ
Nếu trong thời kỳ sơ khai của nền kinh tế hàng hóa người ta chỉ sử dụng tiền tệ như
một công cụ trao đổi thì cũng với sự phát triển của sản xuất và lưu thông hàng hóa,
tiền tệ đã thể hiện ngày càng đa dạng hơn các chức năng vốn có của mình.
 Theo học thuyết K.Marx (1818-1883), tiền tệ có 5 chức năng cơ bản:
 Chức năng thước đo giá trị
 Chức năng phương tiện lưu thông
 Chức năng phương tiện thanh toán
 Chức năng phương tiện cất trữ
 Chức năng tiền tệ quốc tế
 Theo ManKiw, tiền tệ có 3 chức năng cơ bản:
CPD College
 Bảo tồn giá trị (cất trữ)
 Đơn vị hạch toán
 Phương tiện trao đổi
Trong giới hạn của chương trình, học phần này chỉ đi sâu vào nghiên cứu các chức
năng cơ bản của tiền tệ theo học thuyết K.Marx.

a. Chức năng thước đo giá trị
Tiền tệ dùng để biểu hiện và đo lường giá trị của các hàng hoá. Muốn đo lường giá
trị của các hàng hoá, bản thân tiền tệ phải có giá trị. Vì vậy, tiền tệ làm chức năng
thước đo giá trị phải là tiền vàng. Để đo lường giá trị hàng hoá không cần thiết phải là
tiền mặt mà chỉ cần so sánh với lượng vàng nào đó một cách tưởng tượng.
Sở dĩ có thể làm được như vậy, vì giữa giá trị của vàng và giá trị của hàng hoá
trong thực tế đã có một tỷ lệ nhất định. Cơ sở của tỷ lệ đó là thời gian lao động xã hội
cần thiết hao phí để sản xuất ra hàng hoá đó. Giá trị hàng hoá được biểu hiện bằng tiền
gọi là giá cả hàng hoá. Do đó, giá cả là hình thức biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng
hoá.
Để làm chức năng thước đo giá trị thì bản thân tiền tệ cũng phải được đo lường.
Do đó, phải có đơn vị đo lường tiền tệ. Đơn vị đó là một trọng lượng nhất định của
kim loại dùng làm tiền tệ. ở mỗi nước, đơn vị tiền tệ này có tên gọi khác nhau. Đơn vị
tiền tệ và các phần chia nhỏ của nó là tiêu chuẩn giá cả. Tác dụng của tiền khi dùng
làm tiêu chuẩn giá cả không giống với tác dụng của nó khi dùng làm thước đo giá trị.
Là thước đo giá trị, tiền tệ đo lường giá trị của các hàng hoá khác; là tiêu chuẩn giá
cả, tiền tệ đo lường bản thân kim loại dùng làm tiền tệ. Giá trị của hàng hoá tiền tệ
thay đổi theo sự thay đổi của số lượng lao động cần thiết để sản xuất ra hàng hoá đó.
Giá trị hàng hoá tiền tệ (vàng) thay đổi không ảnh hưởng gì đến "chức năng" tiêu
chuẩn giá cả của nó, mặc dù giá trị của vàng thay đổi như thế nào. Ví dụ, một USD
vẫn bằng 10 xen.
b. Phương tiện lưu thông:
Với chức năng làm phương tiện lưu thông, tiền làm môi giới trong quá trình trao
đổi hàng hoá. Để làm chức năng lưu thông hàng hoá ta phải có tiền mặt. Trao đổi hàng
hoá lấy tiền làm môi giới gọi là lưu thông hàng hoá.
Công thức lưu thông hàng hoá là: H- T - H, khi tiền làm môi giới trong trao đổi
hàng hoá đã làm cho hành vi bán và hành vi mua có thể tách rời nhau cả về thời gian
CPD College
và không gian. Sự không nhất trí giữa mua và bán chứa đựng mầm mống của khủng
hoảng kinh tế.

Trong lưu thông, lúc đầu tiền tệ xuất hiện dưới hình thức vàng thoi, bạc nén. Dần
dần nó được thay thế bằng tiền đúc. Trong quá trình lưu thông, tiền đúc bị hao mòn
dần và mất một phần giá trị của nó. Nhưng nó vẫn được xã hội chấp nhận như tiền đúc
đủ giá trị.
Như vậy, giá trị thực của tiền tách rời giá trị danh nghĩa của nó. Sở dĩ có tình
trạng này vì tiền làm phương tiện lưu thông chỉ đóng vai trò chốc lát. Người ta đổi
hàng lấy tiền rồi lại dùng nó để mua hàng mà mình cần. Làm phương tiện lưu thông,
tiền không nhất thiết phải có đủ giá trị. Lợi dụng tình hình đó, khi đúc tiền nhà nước
tìm cách giảm bớt hàm lượng kim loại của đơn vị tiền tệ. Giá trị thực của tiền đúc ngày
càng thấp so với giá trị danh nghĩa của nó. Thực tiễn đó dẫn đến sự ra đời của tiền
giấy.
Bản thân tiền giấy không có giá trị mà chỉ là dấu hiệu của giá trị và được công
nhận trong phạm vi quốc gia.
c. Phương tiện cất trữ.
Làm phương tiện cất trữ, tức là tiền được rút khỏi lưu thông đi vào cất trữ. Sở dĩ
tiền làm được chức năng này là vì: tiền là đại biểu cho của cải xã hội dưới hình thái giá
trị, nên cất trữ tiền là một hình thức cất trữ của cải. Để làm chức năng phương tiện cất
trữ, tiền phải có đủ giá trị, tức là tiền vàng, bạc. Chức năng cất trữ làm cho tiền trong
lưu thông thích ứng một cách tự phát với nhu cầu tiền cần thiết cho lưu thông. Nếu sản
xuất tăng, lượng hàng hoá nhiều thì tiền cất trữ được đưa vào lưu thông. Ngược lại,
nếu sản xuất giảm, lượng hàng hoá lại ít thì một phần tiền vàng rút khỏi lưu thông đi
vào cất trữ.
d. Phương tiện thanh toán:
Với chức năng này, tiền tệ không còn là môi giới của trao đổi hàng hóa mà là khâu
bổ sung cho quá trình trao đôit, tiền tệ vận động tách rời sự vận động của hàng hóa,
đồng thời nó là vật kết thúc quá trình trao đổi.
Thực hiện chức năng này, tiền tệ không những được sử dụng để thanh toán cho
việc trao đổi hàng hóa mà còn được sử dụng vào những nhu cầu vay mượn, nộp thuế,
trả lương
CPD College

Khi tiền tệ thực hiện chức năng này đã làm cho lượng tiền mặt cần thiết cho lưu
thông giảm đi tương đối vì sự mưa bán chịu và thực hiện thanh toán bù trừ lẫn nhau.
e. Chức năng tiền tệ quốc tế:
Chức năng tiền tệ quốc tế được biểu hiện khi tiền tệ vượt khỏi biên giới quốc gia để
trở thành phương tiện mua hàng, phương tiện thanh toán trên phạm vi toàn thế giới.
5. Vai trò của tiền tệ:
Tiền tệ đóng vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế; nó được ví như máu với cơ
thể của con người. Thiếu tiền tệ thì nền kinh tế khó có thể tồn tại và phát triển, được
thể hiện trên các phương diện sau:
- Tiền tệ là phương tiện để mở rộng và phát triển sản xuất.
- Tiền tệ là phương tiện để thực hiện và mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế.
- Tiền tệ là phương tiện phục vụ mục đích của người sở hữu chúng.
6. Các chế độ lưu thông tiền tệ
Chế độ lưu thông tiền tệ là tổ chức lưu thông tiền tệ của một quốc gia hay tổ chức
quốc tế trong phạm vi không gian và thời gian nhất định. Trong đó, các yếu tố hợp
thành cuả chế độ lưu thông tiền tệ được kết hợp thống nhất bằng các đạo luật và văn
bản quy định.
 Các chế độ lưu thông tiền tệ
- Chế độ lưu thông tiền kim loại:
Chế độ lưu thông tiền kim loại lấy kim loại làm thước đo giá trị và phương tiện lưu
thông.
Theo sự phát triển của nền kinh tế hàng hóa, chế độ lưu thông tiền kim loại cũng
phát triển từ thấp đến cao. Nghĩa là kim loại được chọn làm bản vị tiền tệ cũng thay
đổi từ các kim loại thông thường đến các kim loại quý, và được chia làm 2 loại:
 Chế độ lưu thông tiền kém giá: tiền đồng, tiền kẽm.
 Chế độ lưu thông tiền đủ giá: tiền bạc, tiền vàng.
Chế độ lưu thông tiền đủ giá (kim loại quý) được xem là đặc trưng khởi đầu của
nền kinh tế thị trường, nó cũng được phát triển theo từng giai đoạn, bao gồm các chế
độ lưu thông tiền tệ chủ yếu sau:
(a) Chế độ bản vị bạc: là chế độ lưu thông tiền tệ trong đó bạc được sử dụng làm

thước đo giá trị và phương tiện lưu thông.
CPD College
(b) Chế độ song bản vị: là chế độ lưu thông tiền tệ trong đó bạc và vàng được sử
dụng làm thước đo giá trị và phương tiện lưu thông.
Trong chế độ song bản vị, bạc và vàng là hai kim loại có quyền lực ngang nhau và
đúc tiền bằng hai thứ kim loại này đều được thanh toán không hạn chế theo giá trị thực
tế của chúng.
Chế độ song bản vị là chế độ lưu thông tiền tệ chuyển tiếp từ chế độ bản vị bạc
sang chế độ bản vị vàng.
(c) Chế độ bản vị vàng: là chế độ lưu thông tiền tệ trong đó vàng được sử dụng làm
thước đo giá trị và phương tiện lưu thông.
Chế độ bản vị vàng có 3 đặc điểm:
+ Tiền vàng được đúc tự do theo tiêu chuẩn giá cả mà nhà nước quy định.
+ Các loại tiền dấu hiệu lưu hành song song với vàng được phép tự do chuyển đổi ra
tiền vàng theo giá trị danh nghĩa.
+ Vàng được tự do lưu thông giữa các nước.
Chế độ bản vị vàng là chế độ tiền tệ đặc trưng của chủ nghĩa tư bản. Tuy nhiên, sự
phát triển kinh tế của chủ nghĩa tư bản, lưu thông hàng hóa và dịch vụ ngày càng mở
rộng nên thị trường thiếu phương tiện lưu thông do không đủ vàng để đúc. Do đó, chế
độ bản vị vàng dần được thay thế bằng các loại tiền dấu hiệu giá trị.
- Chế độ lưu thông tiền dấu hiệu:
Tiền dấu hiệu là những phương tiện thay thế cho tiền vàng trong lưu thông để thực
hiện các quan hệ trao đổi hàng hóa và dịch vụ.
Tiền dấu hiệu không có giá trị nội tại, chúng chỉ có giá trị danh nghĩa theo luật định
và thay thế tiền đủ giá trong lưu thông ở những chức năng mà lưu thông không yêu
cầu phải sử dụng tiền đủ giá, đó là các chức năng phương tiện lưu thông và phương
tiện thanh toán.
Tiền dấu hiệu gồm:
(a) Giấy bạc ngân hàng: là phương tiện chỉ để thay thế tiền vàng trong chức năng
phương tiện lưu thông và phương tiện thanh toán. Khi thực hiện chức năng này, giấy

bạc ngân hàng đóng vai trò là vật môi giới trung gian cho quá trình trao đổi hoặc thực
hiện việc thanh toán để kết thúc quá trình trao đổi.
Đặc điểm của lưu thông giấy bạc ngân hàng:
+ Do ngân hàng trung ương độc quyền phát hành.
CPD College
+ Vàng đã trở lại vị trí kim loại quý có giá trị cao.
+ Dự trữ vàng và ngoại tệ mạnh là cơ sở đảm bảo gián tiếp cho nó.
(b) Các loại dấu hiệu giá trị khác: bao gồm các loại chủ yếu như: séc, kỳ phiếu
thương mại, ngân phiếu thanh toán, bút tệ và tiền điện tử.
6. Các khối tiền tệ.
a. Khối lượng tiền cần thiết cho lưu thông (Mn)
Khối lượng tiền cần thiết cho lưu thông là khối lượng tiền do tổng nhu cầu của nền
kinh tế quốc dân trong mọi thời kỳ quyết định.
Khối lượng tiền cần thiết cho lưu thông tỷ lệ thuận với tổng số giá cả hàng hóa và
tỷ lệ nghịch với tốc độ lưu thông bình quân của tiền tệ.
P x H
Công thức tính: Mn =
V
Trong đó: P: Mức giá cả hàng hóa.
H: Tổng khối lượng hàng hóa đưa vào lưu thông.
V: Tốc độ lưu thông bình quân của tiền tệ.
b. Khối lượng tiền trong lưu thông (Ms)
Khối lượng tiền trong lưu thông là khối lượng tiền thực có trong lưu thông, do yếu
tố chủ quan của con người phát hành để đưa vào lưu thông.
Khối lượng tiền trong lưu thông là chỉ tất cả các phương tiện được chấp nhận làm
trung gian trao đổi với mọi hàng hóa, dịch vụ và các khoản thanh toán khác tại một thị
trường và trong một thời gian nhất định.
Các thành phần của khối lượng tiền trong lưu thông:
- M1: khối tiền tệ giao dịch:
+ Tiền mặt (tiền vàng, GBNH, tiền đúc lẻ)

+ Tiền gửi không kỳ hạn.
- M2: khối tiền tệ giao dịch mở rộng.
+ M1
+ Tiền gửi có kỳ hạn.
- M3: khối tiền tệ tài sản
+ M2
+ Tiền trên các chứng từ có giá
- Ms: Khối lượng tiền trong lưu thông.
CPD College
+ M3.
+ Các phương tiện thanh toán khác.
So sánh giữa Ms và Mn có thể xảy ra một trong ba trường hợp :

Ms
Tỷ số (1):
Mn
= 1 -> Tiền và hàng cân đối
Ms
Tỷ số (2):
Mn
< 1 -> Hiện tượng thiểu phát
Ms
Tỷ số (3):
Mn
> 1 -> Hiện tượng lạm phát
7. Cung và cầu tiền tệ
a. Cung tiền cho lưu thông
Cung tiền cho lưu thông là chỉ việc phát hành vào lưu thông một khối lượng tiền tệ
nhất định nhằm đáp ứng nhu cầu sử dụng tiền.
- Các kênh cung tiền:

+ Ngân hàng Trung ương cung tiền qua các kênh: Tái chiết khấu thương phiếu và
các chứng từ có giá của các Ngân hàng Thương mại và các Tổ chức tín dụng, phát
hành tiền qua thị trường vàng và ngoại tệ, Ngân hàng Trung ương phát hành tiền cho
Ngân sách Nhà nước vay, Ngân hàng Trung ương cung cấp tiền qua thị trường mở.
+ Các Ngân hàng Thương mại và Tổ chức tín dụng cung tiền chuyển khoản.
• Cơ sở cung tiền chuyển khoản:
Các ngân hàng hoạt động trong cùng hệ thống (hệ thống ngân hàng 2 cấp và liên
kết với nhau)
Thực hiện nghiệp vụ tín dụng và thanh toán không dùng tiền mặt giữa các ngân
hàng.
• Quá trình cung tiền.
ĐVT: Triệu đồng
Các NHTM Tiền gửi (ck) tạo ra Dự trữ bắt buộc (*)

Cho vay
A
B
C
D
100
90
81
72,9
10
9
8,1
7,29
90
81
72,9

65,61
CPD College

Tất cả các NHTM 1000 100 900
b. Cầu tiền tệ
Tổng nhu cầu tiền tệ được xác định bởi nhu cầu tiền tệ của các tác nhân và thể nhân
trong nền kinh tế. Đây là số lượng tiền được giữ lại cho mục đích nào đó.
Cầu tiền tệ là số lượng tiền mà các tác nhân và thế nhân cần để thỏa mãn nhu cầu
chi dùng. Nó được xác định bằng khối lượng tiền cần thiết cho lưu thông (Mn)
- Các loại cầu tiền tệ:
+ Nhu cầu tiền cho giao dịch;
+ Nhu cầu tiền cho dự phòng;
+ Nhu cầu tiền để đầu tư;
- Các nhân tố ảnh hưởng: Nhu cầu tiền tệ của nền kinh tế tăng lên hay giảm xuống
nó phụ thuộc vào các nhân tố sau: thu nhập thực tế, lãi suất danh nghĩa, giá cả




















CPD College
Chương 2: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TÀI CHÍNH
I. Sự ra đời và phát triển của tài chính:
Tài chính là một phạm trù kinh tế - lịch sử. Sự ra đời, tồn tại và phát triển của nó
gắn liền với sự phát triển của xã hội loài người
Lịch sử loài người đã chứng minh rằng, lúc đầu con người sống thành từng bầy,
kiếm ăn một cách tự nhiên chưa có sản xuất và trao đổi hàng hóa, chua có chiếm hữu
tư nhân nên chưa có tiền tệ. Đến cuối thời kỳ công xã nguyên thủy, phân công lao
động xã hội ra đời và đã xuất hiện mầm mống của sự trao đổi. Trao đổi ở đây mang
tính chất ngẫu nhiên, vật đổi lấy vật. Khi phân công lao động xã hội phát triển, chế độ
tư hữu về tư liệu sản xuất xuất hiện, nền sản xuất hàng hóa ra đời.
Sản xuất hàng hóa là sản xuất ra sản phẩm để trao đổi, mua bán, chứ không phải để
tiêu dùng. Và việc trao đổi hàng hóa có thể tiến hành trực tiếp hàng đổi lấy hàng hoặc
có thể mua bán thông qua tiền tệ.
Tiền tệ xuất hiện là cơ sở, thước đo chung cho tất cả mọi hoạt động của nền kinh tế
và đã tạo nên một cuộc cách mạng trong công nghệ phân phối, chuyển từ phân phối
bằng hiện vật (phân phối phi tài chính) sang phân phối bằng giá trị (phân phối tài
chính) và tài chính ra đời từ đây.
Vây, chính trong nền sản xuất hàng hóa với việc sử dụng tiền tệ trong phân phối đã
làm nãy sinh phạm trù tài chính.
Mặc khác, khi chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất xuất hiện thì xã hội phân chua giai
cấp và có đấu tranh giai cấp, trong điều kiện lịch sử đó Nhà nước ra đời. Để đảm bảo
cho nhà nước tồn tại và thực hiện chức năng của mình, nhà nước phải tạo lập một quỹ
tiền tệ gọi là ngân sách nhà nước. Nhà nước không những tác động đến sự vận động
của tiền tệ mà còn tạo ra môi trường pháp lý cho sự tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ.
Tóm lại, tài chính là một phạm trù kinh tế, sự ra đời và tồn tại của tài chính gắn

liền với sự ra đời và tồn tại quan hệ hàng hóa - tiền tệ. Tài chính nhà nước ra đời và
tồn tại gắn liền với sự ra đời và tồn tại của nền kinh tế hàng hóa - tiền tệ và Nhà nước.
2. Bản chất của tài chính:
Việc xác định đúng đắn bản chất của tài chính có ý nghĩa khá quan trọng, tạo cơ sở
cho việc phân biệt phạm trù này với phạm trù kinh tế khác, giúp cho việc sử dụng tốt
phạm trù tài chính trong phát triển kinh tế xã hội. Tài chính thông qua tiền tệ tiến hành
CPD College
phân phối tổng sản phẩm xã hội của tài chính đã làm cho nhiều người lầm tưởng tài
chính là tiền tệ.
Bản chất của tài chính được xác định ở những mặt sau:
- Sự vận động độc lập tương đối của các nguồn tài chính để trực tiếp (hay thông
qua thị trường) tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ như mặt trực quan của tài chính.
- Đằng sau những hiện tượng bề mặt đó là các quan hệ kinh tế trong phân phối của
cải xã hội dưới hình thức phân phối các nguồn tài chính.
- Việc tạo lập và sử dụng quỹ tiền tệ là phương thức phân phối dặc thù giúp phân
biệt phạm trù tài chính với phạm trù phân phối khác như giá cả, tiền lương, lãi suất
Nội dung kinh tế của phạm trù tài chính như sau:
Tài chính được đặc trưng bằng sự vận động độc lập tương đối của tiền tệ với chức
năng phương tiện thanh toán và phương tiện cất trữ trong quá trình tạo lập hay sử dụng
các quỹ tiền tệ đại diện cho những sức mua nhất định của các chủ thể kinh tế - xã hội.
Tài chính phản ảnh tổng hợp các mối quan hệ kinh tế trong phân phối các nguồn
lực tài chính thông qua tạo lập hay sử dụng các quỹ tiền tệ nhằm đáp ứng yêu cầu tích
lũy hay tiêu dùng của các chủ thể trong xã hội.
Vậy, tài chính có thể hiểu là tổng thể những mối quan hệ kinh tế giữa các thực thể
tài chính phát sinh trong quá trình hình thành, phân phối và sử dụng các nguồn lực tài
chính.
3. Chức năng của tài chính:
Chức năng của tài chính là sự cụ thể hóa bản chất của tài chính, nó mở ra nội dung
của tài chính và vạch rõ tác dụng xã hội của tài chính. Trong đời sống xã hội, tài chính
có 2 chức năng cơ bản sau:

a. Chức năng phân phối:
 Khái niệm:
Phân phối tài chính là chức năng mà nhờ vào đó các nguồn lực đại diện cho những
bộ phận của cải xã hội được đưa vào các quỹ tiền tệ khác nhau để sử dụng cho những
mục đích khác nhau, đáp ứng những nhu cầu khác nhau của các chủ thể kinh tế - xã
hội.
 Đối tượng phân phối tài chính:
- Là toàn bộ của cải xã hội dưới hình thức giá trị.
- Là tổng thể các nguồn tài chính có trong xã hội.
CPD College
- Là tiền tệ đang vận động một cách độc lập tương đối với hai chức năng phương
tiện thanh toán và phương tiện cất trữ trong quá trình tạo lập và sử dụng các quỹ
tiền tệ.
 Chủ thể phân phối tài chính:
- Người có quyền sở hữu các nguồn tài chính.
- Người có quyền sử dụng các nguồn tài chính (người đi vay)
- Người có quyền lực chính trị (nhà nước)
- Người chịu sự ràng buộc bởi các quan hệ xã hội (tổ chức chính trị xã hội)
 Đặc điểm phân phối tài chính:
- Luôn gắn liền với sự hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ nhất định
- Chỉ diễn ra dưới hình thức giá trị, không kèm theo sự thay đổi hình thái giá trị
- Diễn ra thường xuyên liên tục, bao gồm phân phối lần đầu và phân phối lại:
Phân phối lần đầu: là quá trình phân phối chỉ diễn ra ở lĩnh vực sản xuất cho những
chủ thể có tham gia vào quá trình sản xuất.
Phân phối lại: là quá trình tiếp tục phân phối những phần thu nhập cơ bản đã hình
thành qua phân phối lần đầu ra phạm vi toàn xã hội để dáp ứng các nhu cầu khác nhau
trong xã hội.
b. Chức năng giám đốc:
 Khái niệm:
Là chức năng mà nhờ vào đó việc kiểm tra bằng đồng tiền được thực hiện đối với

quá trình vận động của nguồn tài chính trong quá trình tạo lập và sử dụng các quỹ tiền
tệ theo những mục đích đã định.
 Đối tượng giám đốc tài chính:
- Quá trình vận động của các nguồn tài chính
- Quá trình tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ
 Chủ thể giám đốc tài chính:
Cũng chính là chủ thể phân phối tài chính
 Đặc điểm giám đốc tài chính:
- Không đồng nhất với mọi khả năng giám đốc bằng đồng tiền trong xã hội
- Có tính toàn diện, thường xuyên liên tục, rộng rãi và kịp thời
Hai chức năng của tài chính có mối quan hệ chặt chẽ, hữu cơ với nhau, làm tiền đề
và bổ sung cho nhau:
CPD College
Phân phối tào ra nhu cầu và khả năng kiểm tra giám sát bằng đồng tiền đối với toan
bộ quá trình phân phối.
Chức năng giám đốc được thực hiện đảm bảo cho việc thực hiện chức năng phân
phối phù hợp với các quy luật kinh tế khách quan nâng cao tính hiệu quả của phân
phối.
4. Vai trò của tài chính trong nền kinh tế thị trường:
a. Tài chính là công cụ phân phối sản phẩm quốc dân:
Phân phối sản phẩm quốc dân là thuộc tính vốn có khách quan của tài chính và nó
có vai trò quan trọng trong mọi lĩnh vực hoạt động của đời sống kinh tế - xã hội.
Tài chính tiến hành phân phối tổng sản phẩm quốc dân để hình thành quỹ đầu tư
phát triển và quỹ tiêu dùng. Nhằm đảm bảo cho nhà nước tồn tại và thực hiện các
nhiệm vụ kinh tế xã hội. Thực hiện công bằng xã hội nhằm nâng cao phúc lợi toàn
dân, tăng việc làm, góp phần tăng thu nhập và tăng trưởng kinh tế.
b. Tài chính là công cụ quản lý và điều tiết vĩ mô nền kinh tế - xã hội:
Trong nền kinh tế thị trường vai trò kinh tế của nhà nước được tập trung ở hiệu quả
quản lý kinh tế vĩ mô nền kinh tế - xã hội thông qua các mục tiêu quan trọng sau đây:
- Tăng trưởng kinh tế bằng cách nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực tài

chính.
- Giải quyết việc làm, chống lạm phát bằng cách khuyến khích người lao động tự
tạo việc làm.
- Kiềm chế lạm phát thông qua chính sách tài chính và các chính sách kinh tế
khác.
- Cải thiện cán cân thanh toán quốc tế, ổn định và dự báo được tỷ giá hối đoái.
Các công cụ tài chính chủ yếu mà nhà nước sử dụng trong việc quản lý và điều tiết
vĩ mô nền kinh tế:
- Ngân sách nhà nước, thông qua hoạt động thu chi NSNN, điều chính hoạt động
của nền kinh tế.
- Thuế là công cụ quan trọng trong việc huy động nguồn thu và điều tiết vĩ mô
nền kinh tế, điều hòa thu nhập.
- Tiền tệ - tín dụng
- Quỹ dự trự tài chính
- Quỹ bảo hiểm
CPD College
c. Tài chính là công cụ điều tiết vi mô:
Thông qua công cụ tài chính nhà nước tác động vào hoạt động của các doanh
nghiệp một cách gián tiếp như đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, ưu đãi về thuế, tín
dụng tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tiến hành sản xuất kinh doanh một cách chủ
động và đứng vững trong nền kinh tế thị trường.
5. Hệ thống tài chính:
Hệ thống tài chính là tập hợp các khâu tài chính trong các lĩnh vực hoạt động khác
nhau nhưng giữa chúng có mối quan hệ hữu cơ với nhau trong quá trình phân phối để
tạo lập và sử dụng các nguồn tài chính.
Khâu tài chính bao gồm những quan hệ tài chính có cùng đối tượng phục vụ, cùng
gắn liền với quá trình hình thành và sử dụng 1 loại quỹ tiền tệ tương ứng.
Khâu tài chính có các đặc điểm sau:
- Phải có một “tụ điểm” các nguồn tài chính.
- Phải gắn liền với một chủ thể kinh tế -xã hội nhất định

- Phải đồng nhất về hình thức các quan hệ tài chính và tính mục đích của các quỹ
tiền tệ.
* Hệ thống tài chính trong nền kinh tế
Căn cứ vào đặc điểm hình thành, phân phối và sử dụng các nguồn lực tài chính
cùng với phạm vi tác động và chức năng hoạt động, hệ thống tài chính của nước ta
chia làm các khâu:
 Tài chính nhà nước:
Là khâu chủ đạo trong hệ thống tài chính quốc gia, là tổng thể các hoạt động thu,
chi bằng tiền do Nhà nước tiến hành trong quá trình tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ
của Nhà nước nhằm phục vụ việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước.
Tài chính nhà nước bao gồm:
- Quỹ ngân sách nhà nước.
- Các quỹ ngoài ngân sách (quỹ bảo hiểm xã hội, quỹ hưu trí )
- Tài chính các đơn vị quản lý hành chính.
- Tài chính các đơn vị sự nghiệp.
Trong đó, quỹ NSNN giữ vai trò chủ đạo, thực hiện các nhiệm vụ cụ thể sau:
- Động viên, tập trung các nguồn tài chính cho việc tạo lập quỹ NSNN.
CPD College
- Phân phối và sử dụng quỹ NSNN cho việc thực hiện các nhiệm vụ kinh tế- xã
hội.
- Giám đốc kiểm tra đối với các khâu tài chính khác và mọi hoạt động kinh tế xã
hội gắn liền với quá trình thu - chi NSNN.
 Tài chính doanh nghiệp
Là khâu cơ sở trong hệ thống tài chính quốc gia, là nơi thu hút nguồn tài chính từ
các khâu khác để hoạt động, đồng thời cũng chính là nơi tạo ra nguồn tài chính để
cung ứng cho các khâu tài chính khác.
Nhiệm vụ của tài chính doanh nghiệp:
- Bào đảm vốn và phân phối vốn hợp lý cho các nhu cầu sản xuất kinh doanh.
- Tổ chức chu chuyển vốn liên tục và có hiệu quả.
- Phân phối doanh thu và lợi nhuận của doanh nghiệp theo quy định pháp luật.

- Kiểm tra mọi quá trình vận động của các nguồn tài chính trong doanh nghiệp;
đồng thời kiểm tra mọi hoạt động sản xuất kinh doanh gắn liền với quá trình đó.
 Tài chính trung gian:
Là một khâu trong hệ thống tài chính quốc gia. Đặc điểm chung của các trung gian
tài chính là gắn liền với việc hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ như là một tụ điểm
của các nguồn tài chính trong quá trình vận động trước khi sử dụng cho các mục đích
tích lũy hay tiêu dùng của các chủ thể kinh tế - xã hội.
Hoạt động của khâu tài chính trung gian được thể hiện thông qua:
- Các tổ chức tín dụng( gọi tắt là tín dụng)
- Các tổ chức bào hiểm( gọi tắt là bào hiểm)
- Các công ty tài chính
- Các quỹ tài chính trung gian khác
Trong đó, quan trọng nhất là tín dụng và bảo hiểm.
Tín dụng: là một khâu quan trọng của hệ thống tài chính, nó là cầu nối trung gian
giữa việc huy động và cung ứng các nguồn vốn trong nền kinh tế tạm thời nhàn rỗi.
Đặc trưng cơ bản của tín dụng là gắn liền với các quỹ tiền tệ được tạo lập bằng việc
thu hút các nguồn tài chính tạm thời nhàn rỗi và sử dụng để cho vay theo nguyên tắc
hoàn trả có thời hạn và có lợi tức.
Nhiệm vụ của tín dụng:
- Huy động vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi từ các khâu tài chính khác.
CPD College
- Thực hiện cho vay đối với các khâu tài chính khác.
- Thực hiện các nghiệp vụ môi giới trung gian
Bảo hiểm: là một dịch vụ tài chính trung gian. Các quỹ bảo hiểm được tạo lập từ
sự đóng góp của những người tham gia bảo hiểm (tự nguyện hay bắt buộc) và được sử
dụng để bồi thường thiệt hại cho những người tham gia bảo hiểm khi họ gặp rủi ro bất
ngờ, bị thiệt hại vật chất trong phạm vi bảo hiểm theo nguyên tắc “ lấy số đông bù số
ít”
Nhiệm vụ của bảo hiểm:
- Thu phí bảo hiểm và chi bồi thường

- Sử dụng tạm thời quỹ bảo hiểm như các quỹ tín dụng
 Tài chính quốc tế:
Trong điều kiện nền kinh tế phát triển theo xu hướng toàn cầu hóa và hội nhập kinh
tế quốc tế thì tài chính quốc tế và khâu tài chính có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Tài
chính quốc tế thực hiện mục tiêu cân bằng kinh tế đối nội, đôi ngoại, kiểm soát chặt
chẽ các luồng vốn quốc tế nhằm đảm bảo cho nền kinh tế tăng trưởng ổn định và bền
vững. Hoạt động tài chính quốc tế bao gồm:
- Tín dụng quốc tế
- Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
- Đầu tư gián tiếp
- Hoạt động thanh toán quốc tế
 Tài chính hộ gia đình và các tổ chức xã hội:
(a) Tài chính hộ gia đình:
- Được hình thành từ các khoản thu nhập thường xuyên hoặc không thường xuyên
của các thành viên trong gia đình (bao gồm: tiền lương, tiền công, thu nhập của các
thành viên trong gia đình do lao động, sản xuất kinh doanh, thừa kế, biếu tặng )
- Được sử dụng chủ yếu cho mục đích tiêu dùng, để đáp ứng nhu cầu sinh hoạt của
gia đình.
- Có thể được sử dụng để đầu tư vào sản xuất kinh doanh trong phạm vi kinh tế hộ
gia đình hay tham gia mua cổ phiếu, trái phiếu.
(b) Tài chính các tổ chức xã hội:
- Được hình thành từ sự đóng góp hội phí của các thành viên trong tổ chức, các
khoản quyên góp, ủng hộ, tài trợ
CPD College
- Được sử dụng để đảm bảo hoạt động của tổ chức.
- Có thể tham gia vào thị trường tài chính thông qua quỹ tín dụng hay các hình thức
khác như tín phiếu, trái phiếu
Tóm lại, trong nền kinh tế thị trường, các khâu của hệ thống tài chính vừa có quan
hệ trực tiếp với nhau, vừa có quan hệ gián tiếp với nhau thông qua thị trường tài
chính.



























CPD College
Chương 3: NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
I. Những vấn đề chung về ngân sách nhà nước (NSNN)
Thuật ngữ NSNN đã có từ rất lâu, từ khi chế độ công xã nguyên thủy tan rã, xã hội

bắt đầu phân chia giai cấp mở đầu cho chế độ nô lệ và cũng từ đó đã nãy sinh những
xung đột về giai cấp đòi hỏi phải có một lực lượng có đủ khả năng, quyền lực để fiair
quyết các xung đột đó. Lực lượng đó không ai khác hơn là nhà nước. Các nhân tố hình
thành nên NSNN ra đời cùng với sự xuất hiện của Nhà nước và sự phát triển của các
mối quan hệ hàng hóa - tiền tệ.
Nhà nước ra đời đã ban hành các quy định về đóng góp của các thành viên tròn xã
hội cho Nhà nước để chi tiêu, thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của mình. Những
đóng góp này mang tính bắt buộc và cưỡng chế mà người ta gọi là “thuế” dưới nhiều
hình thức khác nhau như hiện vật, sức lao động, tính mạng con người.
Cùng với sự phát triển của sản xuất và trao đổi hàng hóa, tiền tệ cũng xuất hiện với
tư cách là vật ngang giá chung, từ đó cac khoản thi từ thuế của Nhà nước được tính và
thu bằng hình thức mới là “tiền”, xuất hiên phạm trù “tài chính Nhà nước”. Tiền thân
của tài chính Nhà nước là NSNN.
Cho đến kỷ nguyên phong kiến, việc thu chi NSNN mang tính tùy tiện, chủ yếu là
theo quyết định của Nhà vua. Do đó, mỗi khoản thu chi không có kế hoạch trước,
không theo niên độ, cũng không có sự tính toán phân loại và không có luật lệ điều
chỉnh. Chỉ đến khi chi nghĩa tư bản ra đời, giai cấp tư sản đòi Nhà nước phải hỗ trợ tài
chính cho lĩnh vực kinh tế, đòi thiết lập trình tự lập kế hoạch chi tiêu và cơ chế kiểm
tra, giám sát đối với chi tiêu của Nhà nước, tách ngân sách của người đứng đầu Nhà
nước ra khỏi ngân sách của hệ thống bộ máy nhà nước, từ đó các nhân tố của NSNN
mới được qui tụ đầy đủ và NSNN mới được hình thành với các đặc trưng của nó.
1. Khái niệm:
NSNN là toàn bộ các khoản thu chi của Nhà nước trong dự đoán đã được các cơ
quan có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một năm để đảm bảo thực
hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước.
2. Bản chất:
NSNN là hệ thống các mối quan hệ kinh tế giữa Nhà nước với các chủ thể trogn xã
hội, phát sinh trong quá trình phân phối các nguồn tài chính, thông qua việc hình thành
CPD College
và sử dụng quỹ tiền tệ của Nhà nước nhằm phục vụ cho việc thực hiện các chức năng,

nhiệm vụ của Nhà nước.
3. Đặc điểm:
- Các hoạt động thu chi NSNN luôn gắn liền với quyền lực của nhà nước, được nhà
nước tiến hành dựa trên những quy định luật pháp nhất định.
- Đằng sau hoạt động thu chi đó luôn luôn chứa đựng các nội dung kinh tế xã hội, các
quan hệ kinh tế, các quan hệ lợi ích nhất định. Trong các quan hệ lợi ích đó, lợi ích
quốc gia, lợi ích toàn xã hội bao giờ cũng được đặt lên hàng đầu và chi phối các mặt
lợi ích khác trong thu chi NSNN.
- Hoạt động của NSNN là hoạt động phân phối các nguồn tài chính.
4. Vai trò:
NSNN giữ vai trò chỉ đạo trong hệ thống tài chính, nó có vai trò quan trọng trong
việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của nhà nước; được thể hiện trên những khía
cạnh sau:
 Là công cụ huy động các nguồn tài chính để đảm bảo nhu cầu chi tiêu của Nhà
nước và thực hiện sự cân đối tài chính của Nhà nước.
 Là công cụ điều tiết, quản lý vĩ mô nền kinh tế - xã hội:
Vai trò này xuất phát từ yêu cầu khắc phục những khuyết tật vốn có của nền kinh tế
thị trường và được thể hiện trên các mặt kinh tế, xã hội và thị trường. Cụ thể:
+ Về mặt kinh tế: kích thích tăng trưởng kinh tế.
+ Về mặt thị trường: góp phần ổn định thi trường, giá cả và chống lạm phát.
+ Về mặt xã hội: góp phần điều chỉnh thu nhập, thực hiện công bằng xã hội.
II. Nội dung Ngân sách nhà nước:
1. Thu ngân sách nhà nước:
a. Khái niệm:
Thu NSNN là hệ thống các quan hệ kinh tế giữa nhà nước với xã hội, phát sinh
trong quá trình Nhà nước huy động các nguồn tài chính để hình thành nên quỹ tiền tệ
của Nhà nước nhằm thỏa mãn nhu cầu chi tiêu của mình.
b. Đặc điểm:
- Thu NSNN là tiền đề cần thiết để duy trì quyền lực chính trị và thực hiện các
chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước.

CPD College
- Thu NSNN luôn gắn chặt với thực trạng kinh tế và sự vận động của các phạm trù
kinh tế khác như: giá cả, thu nhập, lãi suất…
c. Nội dung:
Các khoản thu NSNN bao gồm:
 Các khoản thu từ thuế, phí và lệ phí.
 Các khoản thu từ hoạt động kinh tế của Nhà nước.
 Các khoản đóng góp của các tổ chức và cá nhân.
 Các khoản viện trợ
 Các khoản thu khác theo quy định của pháp luật
 Các khoản do Nhà nước vay để bù đắp bội chi NSNN.
d. Những nhân tố ảnh hưởng đến thu NSNN:
 Thu nhập GDP (tổng sản phẩm quốc dân) bình quân đầu người.
 Khả năng xuất khẩu tài nguyên
 Tỷ suất lợi nhuận (doanh lợi) trong nền kinh tế.
 Mức độ trang trải các khoản chi phí của Nhà nước.
 Tổ chức bộ máy thu nộp
e. Những nguyên tắc thiết lập hệ thống thu NSNN:
 Những nguyên tắc mang tính quan điểm định hướng:
- Thu thuế theo lợi ích: việc thiết lập hệ thống thuế phái căn cứ vào lợi ích mà
người nộp thuế có thể nhận được từ những hàng hóa xã hội mà Nhà nước cung cấp.
- Thu thuế theo khả năng: Việc thiết lập các mức thuế phải dựa vào khả năng thu
nhập của mỗi người.
 Những nguyên tắc cụ thể:
- Ổn định và lâu dài: Ổn định mức thu, ổn định các sắc thuế, không được gây xáo
trộn lớn trong hệ thống thuế, lựa chọn đối tượng tính thuế ít biến động.
- Đảm bảo sự công bằng: Không phân biệt đại vị xã hội, yjamjf phần kinh tế, công
bằng đối với mọi người chịu thuế.
CPD College
- Rõ ràng, chắc chắn: các điều luật của các sắc thuế phải rõ ràng, cụ thể, rành mạch

về mức thuế cũng như cơ sở tính thuế.
- Đơn giản: mỗi sắc thuế phải hạn chế số lượng thuế suất, xác định rõ mục tiêu
chính.
2.Chi ngân sách nhà nước:
a. Khái niệm:
Chi NSNN là hệ thống các quan hệ kinh tế giữa Nhà nước với xã hội, phát sinh
trong quá trình phân phối và sử dụng quỹ tiền tệ của Nhà nước nhằm thực hiện các
chức năng, nhiệm vụ của Nhà Nước theo những nguyên tắc nhất định.
Chi NSNN là sự kết hợp giữa hai quá trình phân phối và sử dụng quỹ NSNN:
- Quá trình phân phối là quá trình cấp phát kinh phí từ NSNN để hình thành các
loại quỹ trước khi đưa vào sử dụng.
- Quá trình sử dụng là quá trình trực tiếp chi dùng khoản tiền cấp phát từ NS mà
không trải qua việc hình thành các loại quỹ trước khi đưa vào sử dụng.
b. Đặc điểm:
- Chi NSNN gắn chặt với bộ máy Nhà nước và các chức năng nhiệm vụ mà Nhà
nước đảm đương trong từng thời kỳ.
- Chi NSNN gắn với quyền lực của Nhà nước. Nội dung, cơ cấu, mức độ các khoản
chi đều do cơ quan quyền lực cao nhất của Nhà nước là Quốc hội quyết định.
- Chi NSNN mang tính không hoàn trả trực tiếp.
- Chi NSNN luôn gắn chặt với sự vận động của các phạm trù giá trị khác như: tiền
lương, giá cả, lãi suất, Tỷ giá hối đoái….
c. Nội dung:
Các khoản chi NSNN bao gồm:
 Các khoản chi đầu tư phát triển
 Các khoản chi thường xuyên
 Các khoản chi trả nợ (trong và ngoài nước).
 Các khoản chi khác theo qui định của pháp luật.
CPD College
d. Những nhân tố ảnh hưởng đến chi NSNN
- Chế độ xã hội và nhiệm vụ của Nhà nước trong từng giai đoạn xây dựng và phát

triển nền kinh tế-xã hội.
- Sự phát triển của lực lượng sản xuất, yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước
- Khả năng tăng trưởng, khả năng tích lũy của nền kinh tế.
- Trình độ tổ chức quản lý chi NSNN.
e. Nguyên tắc tổ chức chi NSNN:
- Gắn chặt khả năng thu để bố trí các khoản chi;
- Đảm bảo yêu cầu tiết kiệm và hiệu quả;
- Thực hiện phương châm” Nhà nước và nhân dân cùng làm”.
- Phân biệt rõ nhiệm vụ phát triển kinh tế -xã hội của từng cấp theo luật định để bố
trí các khoản chi cho thích hợp.
3. Cân dối thu – chi NSNN:
Cân đối NSNN phản ánh sự điều chỉnh mối quan hệ tương tác giữa thu và chi
NSNN nhằm đạt được các mục tiêu kinh tế - xã hội mà nhà nước đã đề ra ở tầm vĩ mô
cũng như trong từng lĩnh vực và địa bàn cụ thể.
Cân đối NSNN là quan hệ cân bằng giữa thu và chi NSNN hằng năm.
Mối tương quan giữa thu và chi NSNN trong một năm tài khóa được biểu hiện qua
các trạng thái sau:
- Ngân sách nhà nước cân bằng: Thu NSNN = Chi NSNN.
- Ngân sách nhà nước bội thu (thặng dư): Thu NSNN > Chi NSNN.
- Ngân sách nhà nước bội chi (thâm hụt): Thu NSNN < Chi NSNN.
Bội chi NSNN trên quy mô lớn được coi là một nguyên nhân trực tiếp gây ra lạm
phát tác động xấu đến phát triển kinh tế - xã hội và đời sống nhân dân.
Các giải pháp chính khống chế bội chi NSNN, kiềm chế lạm phát:
- Tăng thu, giảm chi.
CPD College
- Vay nợ trong nước và ngoài nước (phát hành trái phiếu, công trái…)
- Phát hành tiền giấy để bù đắp.
III. Tổ chức hệ thống NSNN và phân cấp NSNN:
1. Tổ chức hệ thống NSNN:

a. Khái niệm:
Hệ thống NSNN là tổng thể các cấp ngân sách gắn bó hữu cơ và hỗ trợ lẫn nhau
trong quá trình thực hiện nhiệm vụ thu – chi NSNN
b. Cơ cấu:
Tổ chứ hệ thống NSNN ở nước ta qua nhiểu lần cải tiến và sửa đổi, hiện nay theo
luật NSNN quy định: “NSNN bao gồm ngân sách trung ương và ngân sách các cấp
chính quyền địa phương”
- Ngân sách trung ương gồm các đơn vị dự toán của các cơ quan trung ương (Bộ,
cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, tổ chức xã hội thuộc trung ương, tổ chức
đoàn thể trung ương )
- Ngân sách địa phương gồm 3 cấp ngân sách (ngân sách tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương; ngân sách quận huyện; ngân sách phường xã).
Quan hệ giữa các cấp ngân sách được thực hiện theo nguyên tắc:
- Ngân sách trung ương và ngân sách mỗi cấp chính quyền được phân cấp nguồn
thu và nhiệm vụ chi cụ thể.
- Nhiệm vụ chi thuộc cấp ngân sách nào do cấp ngân sách đó cân đối.
- Thực hiện phân chia theo tỷ lệ phần trăm đối với các khoản thu phân chia giữa
các cấp ngân sách và bổ chung từ ngân sách cấp trên cho ngân sách cấp dưới để đảm
bảo công bằng, phát triển cân đối giữa các vùng, các địa phương.
- Ngoài cơ chế bổ sung nguồn thu và cơ chế ủy quyền không được dùng ngân sách
của cấp này để chi cho nhiệm vụ của cấp khác.
2. Phân cấp quản lý NSNN:
a. Khái niệm:
CPD College
Phân cấp NSNN là việc giải quyết các mối quan hệ giữa chính quyền nhà nước
trung ương với các cấp chính quyền địa phương trong việc xử lý các vấn để của hoạt
động NSNN.
Phân cấp NSNN là sự phân định trách nhiệm, quyền hạn, nghĩa vụ và lợi ích của
các cấp chính quyền nhà nước trong quản lý NSNN.
b. Nội dung của phân cấp NSNN:

- Phân cấp về quyền lực ban hành các chính sách, chế độ, tiêu chuẩn định mức tài
chính.
- Phân cấp về vật chất (xác định các khoản thu và chi các cấp ngân sách)
Đây là mối quan hệ trong việc phân chia nhiệm vụ chi và nguồn thu cũng như trong
cân đối ngân sách của các cấp chính quyền nhà nước.
- Phân cấp về chu trình ngân sách (quan hệ về quản lý trong chu trình vận động của
NSNN) từ khâu lập ngân sách đến chấp hành và quyết toán ngân sách. Nó bao gồm cả
quan hệ trong kiểm tra và thanh tra NSNN.
Phân cấp ngân sách về thực chất là giải quyết tất cả các mối quan hệ giữa chính
quyền nhà nước trung ương với các cấp chính quyền địa phương có liên quan tới hoạt
động của NSNN.
IV. Chu trình quản lý ngân sách nhà nước:
1. Chu trình ngân sách nhà nước và năm ngân sách:
Chu trình NSNN là quá trình nối tiếp nhau gồm các công việc: hình thành ngân
sách, chấp hành ngân sách và quyết toán ngân sách.
Năm ngân sách (còn gọi là năm tài khóa hay năm tài chính) được quy định trùng
với năm dương lịch, bắt đầu từ ngày 1/1 và kết thúc vào ngày 31/12 hằng năm.
Trong một năm ngân sách, có 3 công việc được thực hiện, tương tự cho ba khâu
của các chu trình ngân sách khác nhau. Cụ thể là:
- Chấp hành ngân sách của chu trình ngân sách hiện tại.
- Quyết toán ngân sách của chu trình trước.
- Hình thành ngân sách cho chu trình sau.
CPD College

×