Luận văn ThS Khoa học Giáo Dục Chuyên ngành: Lí luận và PPDH Hoá học
PHẦN I : MỞ ĐẦU
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
I.1 - Trong thế kỉ 21- kỉ nguyên của thông tin, sự phát triển của nền giáo dục
được coi là một trong những nhân tố cơ bản quyết định sự phát triển bền vững của
mọi quốc gia, dân tộc. Sự nghiệp đổi mới toàn diện của đất nước ta coi đổi mới nền
giáo dục là một trong những mục tiêu trọng tâm. Công cuộc đổi mới này đòi hỏi
nền giáo dục phải đào tạo ra những con người lao động tự chủ, năng động, sáng tạo.
Để đáp ứng được yêu cầu đổi mới và phát triển giáo dục, quán triệt mục tiêu
đào tạo con người mới toàn diện, vai trò của giáo viên trong nhà trường phải không
ngừng được nâng cao. Trong quá trình truyền thụ kiến thức, người giáo viên phải có
trchs nhiệm điều khiển quá trình nhận thức, phát triển năng lực nhận thức, rèn luyện
tư duy sáng tạo, bồi dưỡng khả năng tự học, tự đọc, tự nghiên cứu thật tốt, nhất là
với các em học sinh khối lớp chuyên, chọn.
I.2 - Chủ trương của Đảng và nhà nước ta về việc đối mới phương pháp dạy
và học thể hiện trong nghị quyết của Đại hội Đảng lần thứ X:"Ưu tiên hàng đầu cho
việc nâng cao chất lượng Dạy và Học, nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên và
tăng cường cơ sở vật chất của nhà trường, phát huy khả năng sáng tạo và độc lập
suy nghĩ của học sinh"[14]
I.3 - Các em học sinh, đặc biệt là các em thuộc lớp chuyên Hoá ngoài việc
học tập trên lớp thường cần dành nhiều thời gian cho việc tự học, tự đọc. Tuy nhiên
một trong những khó khăn mà các em gặp phải trong quá trình tự học là việc tìm tài
liệu. Hiện nay có rất nhiều loại sách, tài liệu tham khảo được lưu hành cùng với sự
phổ biến rộng rãi của mạng Internet cung cấp cho các em nguồn tài liệu khổng lồ.
Chính điều đó gây khó khăn cho các em khi phải lựa chọn, phân loại sách để đọc,
để học và nghiên cứu. Nhiều học sinh không biết phải tự học, tự đọc như thế nào để
đạt được hiệu quả học tập cao.
Để kịp thời tiếp cận với sự đổi mới nền giáo dục của các nước trên thế giới,
đối mới phương pháp học cần được tiến hành song song với việc đổi mới phương
pháp dạy học. Tăng cường năng lực tự học cho học sinh nói chung và học sinh
________________________________________________________________________
Nguyễn Thị Toàn
1
Luận văn ThS Khoa học Giáo Dục Chuyên ngành: Lí luận và PPDH Hoá học
Chuyên Hoá nói riêng là một yếu tố quan trọng góp phần vào việc nâng cao chất
lượng giáo dục.
Xuất phát tự những lý do trên, tôi đã lựa chọn đề tài: "Nâng cao năng lực tự
học cho học sinh chuyên Hoá học bằng tài liệu tự học có hướng dẫn theo modun
- ( Phần Hoá học vô cơ lớp 12)".
Trong khuôn khổ của đề tài này chúng tôi chỉ giới hạn nghiên cứu, lựa chọn
và phối hợp sử dụng một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy và học phần
Hoá học vô cơ lớp 12- cho học sinh chuyên hoá học.
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu xây dựng một số biện pháp nâng cao năng lực tự học cho hóc
sinh phần hoá học vô cơ lớp 12- chương trình Chuyên nhằm nâng cao chất lượng
dạy và học cho học sinh chuyên Hoá học.
III. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
1. Quá trình học hoá học vô cơ lớp 12 ở trường THPT đối với học sinh
Chuyên hoá học.
2. Các biện pháp nâng cao năng lực tự học hoá học phần hoá vô cơ lớp 12-
THPT cho học sinh Chuyên hoá học.
3. Phạm vi, giới hạn nghiên cứu là quá trình dạy và học hoá học THPT phần
vô cơ lớp 12- chương trình Chuyên.
IV. GIẢ THUYẾT KHOA HỌC
Nếu thiết kế được một tài liệu tự học có hướng dẫn theo modun đảm bảo
được yêu cầu và chất lượng sẽ phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo cho
học sinh phổ thông, đặc biết là học sinh chuyên hoá học. Đồng thời tài liệu sẽ giúp
nâng cao năng lực tự học, tự kiểm tra, tự nghiên cứu. Đây sẽ là một công cụ giúp
các em học sinh tự học, tự hoàn thiện suốt đời.
V. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
1. Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn về vấn đề tự học có hướng dẫn của
học sinh phổ thông , đặc biệt với học sinh chuyên hoá học.
________________________________________________________________________
Nguyễn Thị Toàn
2
Luận văn ThS Khoa học Giáo Dục Chuyên ngành: Lí luận và PPDH Hoá học
- Tìm hiểu quá trình tự học có hướng dẫn và phương pháp dạy học hoá học THPT.
-Ứng dụng phương pháp tự học theo tài liệu có hướng dẫn đối với học sinh chuyên
hoá học.
2. Biên soạn một tài liệu tự học có hướng dẫn bao gồm các vấn đề lý thuyết,
bài tập phần hoá học vô cơ lớp 12- THPT chương trình chuyên giúp học sinh
chuyên hoá học có thể tự học có hiệu quả.
3. Thử nghiệm đánh giá tính khả thi và hiệu quả sử dụng tài liệu có hướng
dẫn cho học sinh chuyên hoá học ở trường phổ thông.
- Tổ chức thực nghiệm sư phạm.
- Xử lý thống kê các số liệu và rút ra kết luận.
VI. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
a. Phương pháp nghiên cứu lý luận
- Nghiên cứu các văn bản, chỉ thị của Đảng, Nhà nước, Bộ Giáo dục và đào
tạo có liên quan đến đề tài.
- Nghiên cứu các tài liệu về lý luận dạy học, tâm lý học, giáo dục học và các
tài liệu liên quan đến đề tài.
- Nghiên cứu chương trình và sách giáo khoa hoá học THPT đặc biệt là
chương trình hoá học lớp 12 -chuyên hoá phần hóa học vô cơ.
- Căn cứ vào nhiệm vụ đề tài, sử dụng phối hợp các phương pháp phân tích,
tổng hợp, phân loại, hệ thống hoá…khi nghiên cứu tài liệu.
b. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Quan sát, trò chuyện với học sinh nhằm đánh giá thực trạng tổ chức hoạt
động tự học của HS hiện nay.
- Trao đổi với các nhà giáo dục, các GV về kinh nghiệm dạy học,…
- Điều tra thăm dò trước và sau thực nghiệm sư phạm.
- Nghiên cứu kế hoạch học tập của HS giỏi hoá học ở các lớp chuyên, chọn.
c. Phương pháp thực nghiệm sư phạm
- Tổ chức thực nghiệm đối chứng với từng nhóm học sinh ngẫu nhiên trong
lớp 12 chuyên hoá về việc sử dụng tài liệu tự học có hướng dẫn theo modun.
________________________________________________________________________
Nguyễn Thị Toàn
3
Luận văn ThS Khoa học Giáo Dục Chuyên ngành: Lí luận và PPDH Hoá học
- Đánh giá hiệu quả sử dụng tài liệu tự học có hướng dẫn nhằm nâng cao
hiệu quả học tập của học sinh.
d- Phương pháp thống kê toán học:
- Xử lý kết quả thực nghiệm bằng toán học thống kê.
VII. NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN VĂN
1. Hệ thống hoá cơ sở lý luận về nâng cao chất lượng dạy học và tổ chức tự
học có hướng dẫn cho học sinh chuyên hoá học.
2. Soạn thảo tài liệu tự học có hướng dẫn theo modun phần vô cơ lớp 12
chương trình chuyên hoá học.
________________________________________________________________________
Nguyễn Thị Toàn
4
Luận văn ThS Khoa học Giáo Dục Chuyên ngành: Lí luận và PPDH Hoá học
PHẦN II: NỘI DUNG
Chương I: TỔNG QUAN VỀ CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
I. QUÁ TRÌNH DẠY HỌC
I.1 Hoạt động học[9], [20]
- Học là hoạt động làm biến đổi bản thân, tái tạo lại kiến thức của nhân loại,
tạo ra năng lực mới cho bản thân mà trước hết là hoạt động tự lực nhận thức. Con
đường tốt nhất, có hiệu quả nhất để nâng cao chất lượng học tập và đạt được mục
tiêu giáo dục là: học bằng hành động tự học, thông qua đó chiếm lĩnh tri thức, hình
thành năng lực, thái độ. Đối tượng của hoạt động học là tri thức và những kĩ năng kĩ
xảo tương ứng với nó.
- Học là hành động chủ thể thích ứng với tình huống, qua đó chủ thể chiếm
lĩnh kinh nghiệm xã hội biến thành năng lực thể chất, năng lực tinh thần, hình thành
và phát triển nhân cách cá nhân. Học là hoạt dộng nhận thức đặc biệt, vì nhận thức
là sự phản ánh những hiện tượng, sự kiện và quá trình nhận thức. Bất kì sự nhận
thức nào đều là một quá trình tích cực, được thể hiện ở chỗ:
+ Sự phản ánh sự vật, hiện tượng của hiện thực diễn ra trong quá trình hoạt động
của não bộ. Sự phản ánh bản chất của đối tượng được phản ánh đòi hỏi phải trải qua
hoạt động tư duy phức tạp.
+ Sự phản ánh đó đòi hỏi sự lựa chọn, sự sáng tạo. Hoạt động của người học không
chỉ bằng sự tiếp nhận những kết quả sẵn có do GV truyền đạt mà bằng sự hoạt động
nhận thức của người học mới có kết quả.
Các kết quả nghiên cứu về dạy học cho thấy trong quá trình phát triển của mỗi cá
nhân đều có tính tích cực bên ngoài và tính tích cực bên trong. Tính tích cực bên
ngoài được biểu hiện ở sự thực hiện nề nếp, yêu cầu của GV. các thao tác hành vi
bên ngoài có thể kiểm soát được. Mặt khác do bản thân người học có động cơ, mục
đích học tập, khi tiếp thu các tác động bên ngoài đã biến thành những nhu cầu nhận
thức một cách tự giác, tự lực. Đó chính là tính tích cực bên trong dẫn đến sự độc lập
phát triển của mỗi cá nhân.
________________________________________________________________________
Nguyễn Thị Toàn
5
Luận văn ThS Khoa học Giáo Dục Chuyên ngành: Lí luận và PPDH Hoá học
Bản chất của hoạt động học là sự chiếm lĩnh tri thức khoa học của người học.
Trong hoạt động học cũng có hai trạng thái là học thụ động và học chủ động (học
tích cực). Bất cứ hình thức học nào cũng phải trải qua quá trình tự học mới có kết
quả vì học là tự cải tạo mình, làm biến đổi nhận thức của bản thân.
* Hoạt động học hoá học:
-Học hoá học không phải là chỉ ghi nhớ mà là học cách tư duy, khám phá,
tìm tòi, xây dựng kiến thức cho người học và áp dụng chúng vào thực tiễn. Học hoá
học là một loại hoạt động nhận thức mang tính đặc thù riêng. Một mặt nó tuân theo
quy luật chung của hoạt động nhận thức sáng tạo, mặt khác phải phù hợp với đặc
điểm của khoa học hoá học.
- Những đặc trưng cơ bản của hoạt động học hoá học:
Hoạt động học hoá học giống hoạt động học của các môn khoa học thực nghiệm
khác. Đối tượng của hoạt động chính là các hiện tượng hoá học luôn biến đổi và
chuyển động không ngừng. Qua quá trình học, học sinh phát hiện được những dấu
hiệu, tính chất chung nhất và biến thành tri thức của bản thân.
- Hoạt động học hoá học của học sinh là hoạt động có mục đích với những
động cơ phù hợp gắn liền với nội dung học tập như: nắm tri thức, kĩ năng, kĩ xảo để
sử dụng trong đời sống sản xuất đem lại lợi ích cụ thể và tự rèn luyện cho mình khả
năng tư duy sáng tạo. Đó là điều kiện cần thiết tạo cho học sinh hứng thú, say mê
học tập.
- Chủ thể của hoạt động học hoá học chính là học sinh. Trong quá trình học
đòi hỏi học sinh phải thực hiện và hoàn thiện một loạt các kĩ năng như: viết phương
trình phản ứng, giải thích các hiện tượng…; các kĩ xảo như: thao tác chính xác,
đúng thứ tự , đúng kĩ thuật, …
- Để hoạt động học hoá học của học sinh có kết quả cao, trong quá trình học
tập cần có sự giúp đỡ và định hướng hoạt động học tập của GV đối với học sinh.
I.2 Hoạt động dạy [18]
- Hoạt động dạy là hoạt động của giáo viên tổ chức và hướng dẫn hoạt động
của học sinh, tổ chức và điều khiển tối ưu hoá quá trình chiếm lĩnh tri thức khoa học
________________________________________________________________________
Nguyễn Thị Toàn
6
Luận văn ThS Khoa học Giáo Dục Chuyên ngành: Lí luận và PPDH Hoá học
để thông qua đó hình thành và phát triển nhân cách cho người học. Quan trọng nhất
là tạo tính tích cực trong hoạt động học của học sinh, làm cho học sinh ý thức được
kiến thức cần lĩnh hội và biết cách chiếm lĩnh nó. Tính tích cực trong hoạt động học
của học sinh quyết định chất lượng học tập.
- Hoạt động dạy có hai chức năng luôn liên hệ chặt chẽ với nhau, đó là:
Truyền thụ thông tin dạy học và điều khiển hoạt động học. Mối tương quan của hai
chức năng này thay đổi qua lịch sử phát triển của PPDH và việc lựa chọn các
PPDH.
Hình 1.1: Sự vận động và tương tác giữa các yếu tố của quá trình dạy học.
Quá trình dạy học luôn có sự tác động qua lại giữa ba yếu tố: mục tiêu, nội
dung và phương pháp. Trong dạy học - tự học thì yếu tố quyết định kết quả học tập
là hoạt động tự học của học sinh. Cho nên có thể nói cốt lõi của yếu tố phương pháp
là phương pháp hoạt động nhận thức của học sinh. Hoạt động của giáo viên là nhằm
tổ chức, điều khiển, tạo điều kiện cho học sinh hoạt động có kết quả. Phương tiện
dạy học có tác dụng cung cấp cho học sinh những tư liệu khách quan để thực hiện
những hoạt động nhận thức.
________________________________________________________________________
Nguyễn Thị Toàn
PP
GV
V
PT
HĐ tự học của HS
MT
ND
Kiến thức, kĩ năng, thái độ của HS
7
Luận văn ThS Khoa học Giáo Dục Chuyên ngành: Lí luận và PPDH Hoá học
Theo quan niệm dạy trên có thể hiểu khái niệm hướng dẫn tự học là sự hỗ trợ
của giáo viên trong việc định hướng cho học sinh. Nội dung định hướng bao gồm:
định hướng mục tiêu, nội dung , phương pháp học tập. Nhiệm vụ của giáo viên là
xây dựng: kế hoạch hành động, hệ thống phiếu tự học, và tài liệu tự học có hướng
dẫn với hệ thống câu hỏi, bài toán nhận thức, tổ chức thảo luận theo tập thể mà khi
đó giáo viên là cố vấn, người điều khiển, hướng dẫn… để học sinh tự tổ chức nhận
thức nhằm giải quyết nhiệm vụ học tập.
Như vậy tổ chức hoạt động tự học của học sinh trong quá trình dạy học đã
thực sự đặt học sinh vào vị trí chủ thể của quá trình nhận thức tích cực mà vẫn
không hạ thấp vai trò của giáo viên. Khi điều khiển hoạt động tự học của học sinh,
giáo viên không hoàn toàn áp đặt về nội dung, phương pháp, nhịp điệu tiến hành mà
căn cứ vào mục đích dạy học để thiết kế các nhiệm vụ nhận thức thành các phương
án thực hiện.
* Hoạt động dạy hoá học: là hoạt động dạy cho học sinh biết làm việc, nghiên
cứu, xây dựng kiến thức, rèn luyện kĩ năng đặc thù của bộ môn hoá học. Dạy cho học
sinh biết hoạt động theo phương pháp nhận thức của khoa học hoá học.
Giáo viên với vai trò là người tổ chức, điều khiển, hướng dẫn học sinh hoạt
động nhận thức chiếm lĩnh tri thức phải hiểu chính xác khoa học các kiến thức cần
dạy, lựa chọn giảng dạy một cách logic, phù hợp với mọi đối tượng học sinh.
I.3 Xu hướng đổi mới PPDH trong giai đoạn hiện nay[9], [29], [5]
Chiến lược phát triển giáo dục (2001-2002) đã chỉ rõ: Một trong những giải
pháp thực hiện mục tiêu giáo dục là đổi mới phương pháp giáo dục: "Đổi mới và
hiện đại hoá phương pháp giáo dục, chuyển việc truyền đạt tri thức thụ động: thầy
giảng, trò ghi sang hướng người học chủ động tư duy trong quá trình tiếp cận tri
thức, dạy cho người học phương pháp tự học, tự thu nhận thông tin một cách có hệ
thống và có tư duy phân tích, tổng hợp, phát triển được năng lực của mỗi cá nhân,
tăng cường tính chủ động , tính ttự chủ của học sinh…"[5]
Như chúng ta đã biết: Sự học, tự đào tạo là một con đường phát triển suốt đời
của mỗi con người trong điều kiện kinh tế, xã hội nước ta hiện nay và cả mai sau;
________________________________________________________________________
Nguyễn Thị Toàn
8
Luận văn ThS Khoa học Giáo Dục Chuyên ngành: Lí luận và PPDH Hoá học
đó cũng là giáo dục được nâng cao khi tạo ra được năng lực sáng tạo của người học,
khi biến được quá trình giáo dục thành quá trình tự giáo dục. Quy mô giáo dục được
mở rộng khi có phong trào toàn dân tự học. Vì vậy cuộc vận động tích cực, có kế
hoạch và phương pháp, kiên trì và khẩn trương, thường xuyên và rộng khắp nhằm
từng bước chuyển đổi từ lối "dạy học thụ động , truyền thụ một chiều, thày dạy trò
ghi nhớ" phổ biến hiện nay thành " thầy dạy- trò tự học" tạo ra năng lực tự học cho
học sinh cùng phong trào toàn dân tự học, tự đào tạo mang lại chất lượng đích thực
và phát triển tài năng của mỗi con người.
Để thực hiện các yêu cầu trên không có con đường nào khác là ngoài việc
truyền đạt kiến thức, người thầy phải khơi dậy và phát triển tối đa năng lực tự học,
tự sáng tạo của học sinh.
Hiện nay, trong hệ thống phương pháp dạy học đang nổi lên các phương
pháp dạy lấy học sinh làm trung tâm: "Phương pháp dạy học tích cực", " Phương
pháp khám phá". Nói chung với các phương pháp này, người học giữ vai trò chủ
động tích cực trong học tập và không còn ở thế thụ động như trước đây. Hay nói
cách khác "thầy giáo không còn là là người truyền đạt kiến thức sẵn có mà là người
định hướng, tổ chức cho học sinh tự khám phá, tự tìm ra tri thức". Trong dạy học
lấy học sinh làm trung tâm, phương pháp dạy học coi trọng việc rèn luyện cho học
sinh phương pháp tự học, học sinh tự chịu trách nhiệm về kết quả học tập của mình,
tham gia tự đánh giá và đánh giá lẫn nhau.
II. PHƯƠNG PHÁP TỰ HỌC CÓ HƯỚNG DẪN THEO MODUN ĐỐI VỚI
HỌC SINH CHUYÊN HÓA
II.1 Modun [9],[19]
II.1.1 Khái niệm modun
Modun là đơn vị kĩ thuật độc lập, có khả năng lắp ráp ( hoặc tháo gỡ) với
nhau tuỳ theo mục đích sử dụng. Ví dụ như việc lắp ráp nhiều con tàu vũ trụ thành
một trạm vũ trụ và tháo gỡ từng con tàu ra khỏi trạm. Vận dụng tư tưởng đó, người
ta thiết kế ra phương pháp modun dạy học nhằm phục vụ cho những hệ dạy học tự
học - cá thể hoá - có hướng dẫn. Vậy modun dạy học là gì?
________________________________________________________________________
Nguyễn Thị Toàn
9
Luận văn ThS Khoa học Giáo Dục Chuyên ngành: Lí luận và PPDH Hoá học
Modun dạy học là đơn vị chương trình dạy học tương đối độc lập, được cấu
trúc một cách đặc biệt nhằm phục vụ cho người học và chứa đựng cả mục tiêu dạy
học, nội dung dạy học, phương pháp dạy học và hệ thống công cụ đánh giá kết quả
lĩnh hội, gắn bó chặt chẽ với nhau thành một hệ toàn vẹn.
II.1.2 Cấu trúc modun[19]
Modun dạy học bao gồm ba phần hợp thành: hệ vào, thân modun và hệ ra.
-Hệ vào: diễn ra theo ba pha, mỗi pha có một chức năng riêng.
Pha 1: CHọn modun và tìm hiểu mục tiêu cụ thể của modun.
Pha 2: Kiểm tra có chọn lọc trình độ có thể có của HS về mục tiêu kết thúc của
modun.
Pha 3: Kiểm tra những điều kiện tiên quyết.
- Thân modun: Bao gồm một loạt những tiểu modun tương ứng với những
chương, mục tiêu chung hoặc một loạt những mục tiêu cần một khoảng thời gian
nhất định để lĩnh hội.
Cấu trúc một tiểu modun:
+ Phần mở đầu: Đặt học sinh vào một tình huống học tập.
Giúp học sinh tiếp cận với những mục tiêu cụ thể của tiểu modun.
Cung cấp cho học sinh kinh nghiệm học tập.
Cho HS lựa chọn nếu cần thiết nhiều con đường giải quyết vấn đề nhận thức.
+ Một loạt tình huống, qua đó người học sẽ nắm vững những mục tiêu.
+ Phần tổng hợp.
+ Một test cho phép người học đáng giá những mục tiêu nào của tiêu modun đã đạt
và khi cần thiết có thể dẫn đến những modun phụ đạo.
- Hệ ra : bao gồm:
+ Một số tổng kết chung.
+ Test kết thúc: nhằm kiểm tra mục tiêu toàn bộ của modun.
+ Một hệ thống phân nhánh tới: . hoặc đơn vị phụ đạo.
. hoặc đơn vị đào sâu thêm hiểu biết.
. hoặc gợi ý chọn modun tiếp theo
________________________________________________________________________
Nguyễn Thị Toàn
10
Luận văn ThS Khoa học Giáo Dục Chuyên ngành: Lí luận và PPDH Hoá học
II.1.3 Đặc điểm của modun
1. Là một đơn vị học trình độc lập, chứa đựng cả mục tiêu, nội dung và
phương pháp học và bao gồm một tập hợp những tình huống dạy học được lắp đặt
theo một logic nhất định. Đó là tài liệu tự học có hướng dẫn.
2. Logic của modun bao gồm cả những mênhj lệnh hướng dẫn người học, để
họ tự lực thực hiện trên con đường tiến tới chiếm lĩnh hoàn toàn nội dung modun.
Vì thế modun chứa đựng những con đường lĩnh hội khác nhau, thích hợp với kiểu
dạy học cá thể hoá, với những trình độ khác nhau.
3. Modun dạy học bao gồm nhiều test kiểm tra ( sơ bộ ban đầu để kiểm tra
kiến thức điều kiện, test trung gian và cả test kết thúc,…) Nhờ cách này mà người
học có thể tự kiểm tra ( liên hệ nghịch trong) và người dạy có thể biết được trình độ
tiến triển của sự lĩnh hội ( liên hệ nghịch ngoài).
4. Tiếp cận này cho phép người học tiến lên theo nhịp độ thích hợp với năng
lực riêng( có thể nhanh hay chậm). Chỉ khi nào xong modun trước mới được phép
học modun sau. Và tiếp cận này thích hợp với hệ đánh giá theo tín chỉ, rất mềm dẻo
linh hoạt.
5. Tiếp cận modun còn cho phép phân hoá- chuyên biệt hoá mục tiêu đào
tạo. Tuỳ theo cách lắp ráp các modun lại với nhau và với các modun phụ đạo hoặc
đề cao, ta có thể thiết kế được nhanh chóng những chương trình môn học có những
trình độ đa dạng về cùng một đề tài. Đó là những chương trình huấn luyện modun
hoá.
II.2 Hình thức tự học[7]
II.2.1 Khái niệm tự học
Tự học là hoạt động học hoàn toàn không có giáo viên, học sinh không có sự
tiếp xúc với giáo viên, là hình thức học tập hoàn toàn không có sự tương tác thầy
trò, do đó học sinh phải tự lực thông qua tài liệu, qua hoạt động thực tế, qua thí
nghiệm để chiếm lĩnh tri thức.
II.2.2 Các hình thức tự học
________________________________________________________________________
Nguyễn Thị Toàn
11
Luận văn ThS Khoa học Giáo Dục Chuyên ngành: Lí luận và PPDH Hoá học
- Tự học hoàn toàn ( không có giáo viên): Thông qua tài liệu, qua tìm hiểu
thực tế, học kinh nghiệm của người khác.Với hình thức tự học này, học sinh gặp
nhiều khó khăn do có nhiều lỗ hổng kiến thức, khó thu xếp tiến độ kế hoạch tự học,
không tự đánh giá được kết quả tự học của mình…Từ đó dễ chán nản và không tiếp
tục tự học.
- Tự học cho một giai đoạn của quá trình học tập: ví dụ như làm bài tập ở
nhà, Để giúp học sinh có thể tự học ở nhà theo hình thức này đạt kết quả tốt giáo viên
cần tăng cường kiểm tra, đáng giá kết quả học bài, làm bài ở nhà của học sinh.
- Tự học thông qua phương tiện truyền thông ( học từ xa): Học sinh được
nghe giáo viên giảng giải, nhưng không được tiếp xúc với giáo viên, không được
hỏi và nhận sự giúp đỡ của giáo viên khi gặp khó khăn. Với hình thức này, học sinh
cũng không đánh giá được kết quả học tập của mình.
- Tự học có hướng dẫn qua tài liệu hướng dẫn. Trong tài liệu này trình bày cả
nội dung, cách xây dựng kiến thức và kiểm tra kết quả sau mỗi phần. Nếu chưa đạt
kết quả theo yêu cầu thì tài liệu chỉ dẫn cách tra cứu, bổ xung, làm lại cho đến khi đạt.
- Tự lực thực hiện một số hoạt động học dưới sự lãnh đạo chặt chẽ của giáo
viên ở lớp.
Qua việc nghiên cứu các hình thức tự học ở trên thấy rằng mỗi hình thức tự học có
những mặt ưu điểm và nhược điểm nhất định. Để nhằm khắc phục được những
nhược điểm của các hình thức tự học đã có này và xuất phát từ đặc điểm của học
sinh giỏi hoá học, một hình thức tự học mới: "tự học theo tài liệu có hướng dẫn"
được đề xuất.
II.2.3 Tự học có hướng dẫn
- Học sinh muốn học tập có hiệu quả cần phải tự học. Nhưng không thể để
cho học sinh tự mò mẫm để rút ra cách tự học mà cần phải nghiên cứu cách hướng
dẫn cho học sinh và tạo ra những điều kiện để học sinh có thể thực hiện thành công
hoạt động tự học.
- Hướng dẫn việc tự học là chỉ cho người học cách thức để chiếm lĩnh tri
thức một cách có hiệu quả, sáng tạo đồng thời hướng dẫn học sinh tự đánh giá năng
________________________________________________________________________
Nguyễn Thị Toàn
12
Luận văn ThS Khoa học Giáo Dục Chuyên ngành: Lí luận và PPDH Hoá học
lực của bản thân. Qua đó tự mỗi học sinh sẽ có những điều chỉnh phù hợp với việc
học tập của mình.
II.3 Năng lực tự học [7],[31]
II.3.1 Khái niệm năng lực tự học
Năng lực tự học là khả năng tự mình sử dụng các năng lực trí tuệ và có khi
cả năng lực cơ bắp cùng các động cơ, tình cảm, nhân sinh quan, thế giới quan để
chiếm lĩnh một lĩnh vực hiểu biết nào đó của nhân loại, biến lĩnh vực đó thành sở
hữu của mình.
II.3.2 Một số năng lực tự học cần bồi dưỡng cho HS THPT [31]
Để học giỏi hoá học, học sinh phổ thông cần có kiến thức hoá học cơ bản
vững vàng, sâu sắc và hệ thống. Bên cạnh đó không thể thiếu năng lực tư duy sáng
tạo, kĩ năng thực hành tốt và phương pháp nghiên cứu khoa học. Tất cả những điểm
đó thể hiện ở một số năng lực sau:
a) Năng lực tiếp thu kiến thức: Đó là khả năng nhận thức vấn đề nhanh, có hứng thú
nhất là trong nhứng bài, vấn đề mới.
b) Năng lực suy luận logic: Là khả năng phân tích sự vật hiện tượng, vấn đề qua các
dấu hiệu đặc trưng của chúng, biết thay đổi góc nhìn, xét đủ các điều kiện và còn
biết quay lại điểm xuất phát để tìm đường đi mới.
c) Năng lực lao động sáng tạo: Là khả năng tổng hợp các yếu tố, các thao tác để
thiết kế một dãy các hoạt động nhằm đạt kết qủa theo nhiều cách khác nhau nhằm
tìm ra con đường ngắn nhất, hiệu quả nhất. Biết vận dụng linh hoạt, mềm dẻo
những kiến thức cơ bản và hướng nhận thức đó vào tình huống mới, không theo
đường mòn.
d) Năng lực kiểm chứng: Biết suy xét đúng- sai từ một loạt sự kiện, tạo ra các sự tương
phản để khẳng định hoặc bác bỏ một vấn đề nào đó, biết rút ra kết luận sau kiểm
nghiệm.
e) Năng lực thực hành: Hoá học là bộ môn khoa học thực nghiệm nên học sinh giỏi
hoá học cần có khả năng về thực nghiệm, tiến hành thí nghiệm hoá học: Biết sử
dụng thành thạo các hệ thống kí hiệu, quy ước, trật tự hoá học; biết thực hiện các
________________________________________________________________________
Nguyễn Thị Toàn
13
Luận văn ThS Khoa học Giáo Dục Chuyên ngành: Lí luận và PPDH Hoá học
thao tác trong khi làm thí nghiệm, kiên trì trong quá trình thí nghiệm nhằm làm sáng
tỏ vấn đề lí thuyết qua thực nghiệm.
II.3.3 Hệ thống kĩ năng học tập
* Kĩ năng là tổng hợp những thao tác, cử chỉ phối hợp hài hoà, hợp lí nhằm đảm
bảo cho hành động đạt kết quả cao với sự tiêu hao năng lượng tinh thần, cơ bắp ít
nhất trong những điều kiện thay đổi.
* Các kĩ năng học tập:
- Kĩ năng phát hiện và giải quyết vấn đề: Là kĩ năng nắm bắt được yêu cầu của vấn
đề một cách nhanh chóng. Từ đó đưa ra hướng giải quyết vấn đề đang nghiên cứu.
- Kĩ năng sáng tạo, tư duy độc lập: Là kĩ năng giải quyết vấn đề một cách nhanh,
chính xác, độc lập. Kĩ năng này giúp giải quyết vấn đề đỡ tốn năng lượng và thời
gian nhất.
II.3.4 Sơ bộ điều tra về khả năng tự học của học sinh
Thông qua phiếu thăm dò ý kiến và trao đổi trực tiếp với giáo viên, học sinh
các lớp chuyên Hoá học, chúng tôi có nhận xét như sau:
1. Về việc đọc tài liệu trước khi nghe giảng trên lớp: Đa số các em đều có ý
thức đọc bài mới trước khi đến lớp nhưng chỉ chú tâm vào những phần kiến thức có
vẻ hấp dẫn, thú vị, còn lại thì bỏ qua.Như vậy dẫn tới việc chuẩn bị bài chưa đạt hiệu
quả. Nguyên nhân chính là vì các em chưa nắm được mục đích yêu cầu của bài học.
2. Đối với học sinh chuyên Hoá học, yêu cầu của bài học không chỉ dừng lại
ở mức độ biết mà chủ yếu ở mức độ hiểu và vận dụng các kiến thức được học.
Ngoài ra còn cần rèn luyện những kĩ năng thông qua quá trình học tập.
3. Một thực tế là học sinh rất ngại học lý thuyết, chỉ thích làm bài tập. Các
em quên mất rằng lý thuyết chiónh là cơ sở quan trọng nhất để giúp các em giải
quyết được nhanh, đúng các bài tập. Kiến thức cơ bản chính là những nội dung mà
các em cần nắm vững, khắc sâu trong quá trình học tập của mình. Các bài tập nhiều
khi chỉ là để giúp các em hiểu rõ, vận dụng và khắc sâu kiến thức.
4. Việc trình bày một bài giải sao cho hiêu quả cũng là một vấn đề hay gặp.
Các em học sinh giỏi có thể tìm ra hướng giải và đáp số của bài tập một cách nhanh
________________________________________________________________________
Nguyễn Thị Toàn
14
Luận văn ThS Khoa học Giáo Dục Chuyên ngành: Lí luận và PPDH Hoá học
chóng, nhưng trình bày ra sao thì không phải em nào cũng làm được. Trong quá
trình trao đổi, rất nhiều em muốn giáo viên giảng và trình bày kĩ hơn trong quá trình
chữa bài tập.
5. Một thực tế đáng buồn là trong trường phổ thông, ngay cả các lớp chuyên
Hoá học, các em rất ít được làm thí nghiệm. Chính vì vậy môn Hoá học trở nên xa
vời, "lý thuyết" đối với các em.
Xuất phát từ thực tế như vậy, trong quá trình biên soạn cuốn tài liệu tự học
có hướng dẫn này, chúng tôi cố gắng đưa ra mục tiêu của bài, những phần lý thuyết
trọng tâm cơ bản nhất, các bài tập thực nghiệm, và những bài tập đỏi hỏi tư duy
sáng tạo để các em có thể tự hoàn thiện kiến thức của mình qua quá trình tự học.
II.4 Tài liệu tự học có hướng dẫn theo modun [19 ],
II.4.1 Thế nào là tài liệu tự học có hướng dẫn theo modun?
Tự học có hướng dẫn có thể được thực hiện trực tiếp giữa thầy và trò: Thực
hiện trong bài lên lớp ( phương pháp đàm thoại, phương pháp dạy học nêu vấn đề,
phương pháp tích cực hoá hoạt động của học sinh…); thực hiện bằng hình thức giao
nhiệm vụ ( ra bài tập về nhà, phiếu học tập,…) cũng có thể thực hiện gián tiếp giữa
giáo viên và học sinh thông qua " Tài liệu tự học có hướng dẫn theo modun". Tài
liệu tự học có hướng dẫn theo modun là tài liệu được biên soạn theo những đặc
trưng và cấu trúc của một modun. Tài liệu liệu có thể được phân thành nhiều loại:
theo nội dung lý thuyết hoặc nội dung bài tập.
II.4.2 Tài liệu tự học có hướng dẫn theo modun phần lý thuyết [19], [17]
Đây là một tài liệu vừa cung cấp nội dung kiến thức vừa hướng dẫn hoạt
động học tập của học sinh đồng thời hướng dẫn cả hoạt động kiểm tra, đánh giá
kiến thức của học sinh.
Về việc đọc tài liệu trước khi nghe giảng trên lớp: đa số các em đều có ý thức
đọc bài học mới trước khi đến lớp nhưng chủ yếu các em chỉ đọc lướt qua một lần
để " nhớ được gì thì nhớ" hoặc chỉ chú tâm vào một vài phần kiến thức có sự hấp
dẫn, thú vị. Những phần kiến thức còn lại các em sẽ bỏ qua, chờ nghe giáo viên
giảng trên lớp. Như vậy dẫn đến việc chuẩn bị bài của các em chưa đạt hiệu quả.
________________________________________________________________________
Nguyễn Thị Toàn
15
Luận văn ThS Khoa học Giáo Dục Chuyên ngành: Lí luận và PPDH Hoá học
Nguyên nhân chính của hiện tượng này là do các em chưa nắm được mục đích yêu
cầu của bài học. Thông qua việc trả lời các câu hỏi hướng dẫn học lý thuyết và kiểm
tra lại với đáp án các em đã có thể nắm một cách tương đối đầy đủ, chắc chắn các
kiến thức trọng tâm và bước đầu vận dụng chúng.
Việc tự học của học sinh cũng gặp phải nhiều khó khăn trong khâu tự kiểm
tra đánh giá. Các em rất khó tự đánh giá mức độ đúng, đủ của những kiến thức mà
mình thu được trong quá trình tự học do không có một tài liệu kiểm tra chính xác,
chi tiết chi từng bài học.
Để khắc phục khó khăn này của các em và để các em có thể tự kiểm tra kiến
thức của mình một cách nhanh chóng, trong tài liệu này có hai đề bài tập trắc
nghiệm khách quan gồm các câu hỏi lý thuyết và bài tập ở mức độ khó, bám theo
nội dung kiến thức của bài. Dựa vào những đề bài tập này với thời gian cho phép
( thường là 15 phút) và so sánh đáp án đã được trình bày với thang điểm cụ thể các
em học sinh có thể kiểm tra các kiến thức của mình một cách chính xác xem ở mức
độ nào, còn hổng kiến thức nào. Qua đó các em có thể tự đánh giá mức độ đạt yêu
cầu của quá trình tự học của bản thân.
* Cấu trúc của modun tự học có hướng dẫn phần lý thuyết:
- Phần hướng dẫn tự học lý thuyết: Đưa ra các câu hỏi cụ thể về kiến thức trọng tâm
cần nắm để học sinh có thể dựa vào đó để tìm hiểu kiến thức.
- Test 1: Kiểm tra cơ bản: Đây là bài kiểm tra ở mức độ hiểu cơ bản để giúp học
sinh kiểm tra kiến thức tự học.
- Phần tài liệu tự học lý thuyết: Cung cấp các kiến thức trọng tâm về phần học giúp
học sinh tự học một cách chính xác phần kiến thức trọng tâm của bài.
- Test 2: Kiểm tra nâng cao: Kiểm tra ở mức độ khó hơn dành cho học sinh sau khi
đã tự học xong phần tài liệu tự học lý thuyết.
II.4.3 Tài liệu tự học có hướng dẫn theo modun phần bài tập [19], [17]
- Ở trường phổ thông, bài tập hoá học giữ vai trò quan trọng trong việc thực
hiện mục tiêu đào tạo- Bài tập vủa là mục đích, vừa là nội dung lại vừa là phương
pháp dạy học hiệu nghiệm. Bài tập cung cấp cho học sinh cả kiến thức, con đường
________________________________________________________________________
Nguyễn Thị Toàn
16
Luận văn ThS Khoa học Giáo Dục Chuyên ngành: Lí luận và PPDH Hoá học
giành lấy kiến thức và niềm vui sướng của sự phát hiện- tìm ra đáp số- một trạng
thái hưng phấn- hứng thú nhận thức- một yếu tố tâm lý góp phần rất quan trọng
trong việc nâng cao tính hiệu quả của hoạt động thực tiễn của con người. Điều này
đặc biệt được chú ý trong nhà trường của các nước phát triển.
Vật bài tập hoá học là gì? Nên hiểu khái niệm này như thế nào cho trọn vẹn,
đặc biệt là giáo viên nên sử dụng bài tập hoá học như thế nào để đạt hiệu quả trí đức
dục cao nhất?
* Khái niệm bài tập hoá học [13], [25]
- Theo từ điển tiếng Việt: Bài tập là yêu cầu của chương trình cho học sinh
làm để vận dụng những đuề đã học và cần giải quyết vấn đề bằng PP khoa học.
- Theo các nhà lý luận dạy học Liên Xô ( cũ), bài tập bao gồm cả câu hỏi lý
thuyết và bài toán mà trong khi hoàn thành chúng học sinh vừa nắm được vừa hoàn
thiện tri thức hay kĩ năng nào đó, bằng cách trả lời miệng, trả lời viết hay kèm theo
thực nghiệm. Ở nước ta, sách giáo khoa hoặc sách tham khảo, thuật ngữ "bài tập"
được dùng theo quan điểm này.
-Về mặt lý luận dạy học, để phát huy tối đa tác dụng của bài tập hoá học
trong quá trình dạy học, người giáo viên phải sử dụng và hiểu nó theo quan điểm hệ
thống và lý thuyết hoạt động. Một học sinh lớp 1 không thể xem bài toán thuộc
chương trình lớp 12 là "bài tập" và ngược lại, đối với học sinh lớp 12, bài tập thuộc
chương trình lớp 1 không còn là "bài tập" nữa! Bài tập chỉ có thể là "bài tập" khi nó
trở thành đối tượng hoạt động của chủ thể, khi có một người nào đó có nhu cầu
chọn nó làm đối tượng, mong muốn giải nó, tức là khi có một "người giải". Vì vậy,
bài tập và người học có mối liên hệ mật thiết tạo thành một hệ thống toàn vẹn,
thống nhất và liên hệ chặt chẽ với nhau: Bài tập- đối tượng; Người giải- chủ thể.
Bài tập là một hệ thông tin chính xác bao gồm hai tập hợp gắn bó chặt chẽ, tác
động qua lại với nhau, đó là những điều kiện và những yêu cầu. Người giải bao gồm
hai thành tố là cách giải và phương tiện giải ( cách biến đổi, thao tác trí tuệ…).
Thông thường trong sách giáo khoa và tài liệu lý luận dạy học bộ môn, người
ta hiểu bài tập là những bài luyện tập được lựa chọn một cách phù hợp với mục đích
________________________________________________________________________
Nguyễn Thị Toàn
17
Luận văn ThS Khoa học Giáo Dục Chuyên ngành: Lí luận và PPDH Hoá học
chủ yếu là nghiên cứu các hiện tượng hoá học, hình thành khái niệm, phát triển tư
duy hoá học và rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn.
Hình 1.2- Sơ đồ cấu trúc của hệ bài tập.
BÀI TẬP HỆ GIẢI
Những điều kiện Phép giải
Những yêu cầu Phương tiện giải
* Tác dụng của bài tập hoá học:
- Bài tập hoá học là một trong những phương tiện hiệu nghiệm cơ bản nhất để
dạy học sinh vận dụng các kiến thức đã học vào thực tế cuộc sống, sản xuất và tập
nghiên cứu khoa học, biến những kiến thức đã thu được qua bài giảng thành kiến
thức của chính mình. Kiến thức nhớ lâu khi được vận dụng thường xuyên như M.A
Đanilôp nhận định:" Kiến thức sẽ được nắm vững thực sự , nếu học sinh có thể vận
dụng thành thạo chúng vào việc hoàn thành những bài tập lý thuyết và thực hành.
- Đào sâu, mở rộng kiến thức đã học một cách sinh động, phong phú, chỉ có
vận dụng kiến thức vào giải bài tập học sinh mới nắm vững kiến thức một cách sâu
sắc.
- Là phương tiện để ôn tập, củng cố, hệ thống hoá kiến thức một cách tốt nhất.
- Rèn luyện kĩ năng hóa học cho học sinh như: kĩ năng viết và cân bằng phương
trình phản ứng, kĩ năng tính toán theo công thức và phương trình hoá học, kĩ năng thực
hành như cân, đo, nung sấy, đun nóng, lọc, nhận biết hoá chất,…
- Phát triển năng lực nhận thức, rèn trí thông minh cho học sinh ( học sinh có
hiểu sâu mới hiểu được trọn vẹn). Một số bài tập có tình huống đặc biệt ngoài cách
giải thông thường còn có cách giải độc đáo nếu học sinh có tầm nhìn sắc sảo. Thông
thường nên yêu cầu học sinh giải bằng nhiều cách: có thể tìm ra cách giải ngắn nhất,
hay nhất, đó là cách rèn luuyện tư duy thông minh cho học sinh. Khi giải bài toán
bằng nhiều cách dưới các góc độ khác nhau, khả năng tư duy của học sinh tăng lên
________________________________________________________________________
Nguyễn Thị Toàn
18
Luận văn ThS Khoa học Giáo Dục Chuyên ngành: Lí luận và PPDH Hoá học
gấp nhiều lần so với việc học sinh giải nhiều bài toán bằng một cách và không phân
tích đến nơi đến chốn.
- Bài tập hoá học còn được sử dụng như một phương tiện nghiên cứu tài liệu
mới ( hình thành khái niệm, định luật, ) khi trang bị kiến thức mới, giúp học sinh
tích cực, tự lực lĩnh hội kiến thức một cách sâu sắc và bền vững. Điều này thể hiện
rõ khi học sinh làm bài tập thực nghiệm định lượng.
Bài tập hoá học phát huy tính tính cực, tự lực của học sinh và hình thành
phương pháp học tập hợp lý.
- Bài tập hoá học còn là phương tiện để kiểm tra kiến thức, kĩ năng của học
sinh một cách hiệu quả.
- Bài tập hoá học có tác dụng giáo dục đạo đức tác phong, rèn luyện tính kiên
trì, trung thực, chính xác khoa học và sáng tạo, phong cách làm việc khoa học(có tổ
chức, kế hoạch,…), nâng cao hứng thú học tập bộ môn. Điều này thể hiện rõ khi
giải bài tập thực nghiệm.
Bản thân một bài tập hoá học chưa có tác dụng gì cả: Không phải một bài tập
hoá học "hay" thì luôn có tác dụng tích cực! Vấn đề phụ thuộc chủ yếu là "người sử
dụng nó". Làm thế nào phải biết trao đúng đối tượng, phải biết cách khai thác triệt
để mọi khía cạnh của bài toán, để học sinh tự mình tìm ra cách giải. lúc đó bài tập
hoá học thật sự có ý nghĩa.
* Phân loại bài tập hoá học:
Có nhiều cách phân loại bài tập hoá học dựa trên các cơ sở khác nhau:
+ Dựa vào mức độ kiến thức ( cơ bản, nâng cao).
+ Dựa vào tính chất bài tập ( định tính, định lượng).
+ Dựa vào hình thái hoạt động của học sinh ( lý thuyết, thực nghiệm).
+ Dựa vào mục đích dạy học (ôn tập, luyện tập, kiểm tra)
+ Dựa vào cách tiến hành trả lời ( trắc nghiệm khách quan, tự luận)
+ Dưạ vào kĩ năng, phương pháp giải bài tập ( lập công thức, hỗn hợp, tổng hợp
chất, xác định cấu trúc, )
________________________________________________________________________
Nguyễn Thị Toàn
19
Luận văn ThS Khoa học Giáo Dục Chuyên ngành: Lí luận và PPDH Hoá học
+ Dựa vào loại kiến thức trong chương trình ( dung dịch, điện hoá, động học, nhiệt
hoá học, phản ứng ôxi hoá khử,…)
+ Dựa vào năng lực của học sinh ( năng lực phát hiện - giải quyết vấn đề, năng lực
vận dụng vào thực tiễn, năng lực sáng tạo…)
* Mối quan hệ giữa nắm vững kiến thức và giải bài tập hoá học:
Theo lý luận dạy học, kiến thức được hiểu là kết quả của quá trình nhận thức,
bao gồm: Một tập hợp nhiều mặt về chất lượng và số lượng của các biểu tượng và
khái niệm lĩnh hội được, giữ lại trong trí nhớ và được tái tạo lại khi có những đòi
hỏi tương ứng.
- Những kiến thức được nắm một cách tự giác, sâu sắc phần lớn là có tích luỹ
thêm kĩ năng, kĩ xảo sẽ trở thành công cụ tư duy của học sinh.
- Theo M.A Đanilov: "Kĩ năng là khả năng của con người biết sử dụng có
mục đích và sáng tạo những kiến thức và kĩ xảo của mình trong quá trình hoạt động
lý thuyết cũng như thực tiễn. Kĩ năng bao giờ cũng xuất phát từ kiến thức, dựa trên
kiến thức. Kĩ năng chính là kiến thức trong hành động, còn kĩ xảo là hành động mà
những hợp thành của nó do luyện tập mà trở thành tự động hoá. Kĩ xảo là ở mức độ
cao của sự nắm vững kĩ năng. Nếu như kĩ năng đòi hỏi ở mức độ nhiều, ít sự tự
kiểm tra tự giác, tỉ mỉ thì kĩ xảo là hành động được tự động hoá, trong đó sự tự kiểm
tra tự giác xảy ra chớp nhoáng và các thao tác được thực hiện rất nhanh, như một
tổng thể, dễ dàng và nhanh chóng.
- Sự nắm vững kiến thức có thể được phân biệt ở 3 mức độ: biết, hiểu và vận
dụng được.
+ Biết một kiến thức nào đó nghĩa là nhận ra nó, phân biệt nó với các kiến thức
khác, kể lại nội hàm của nó một cách chính xác. Đây là mức độ tối thiểu mà học
sinh cần đạt trong giờ học.
+ Hiểu một kiến thức là gắn kiến thức ấy vào một kiến thức đã biết đưa được nó vào
trong hệ thống vốn kinh nghiệm của bản thân, nói cách khác, hiểu một kiến thức là
nêu đúng nội hàm và ngoại diên của nó, xác lập được những quan hệ giữa nó và hệ
________________________________________________________________________
Nguyễn Thị Toàn
20
Luận văn ThS Khoa học Giáo Dục Chuyên ngành: Lí luận và PPDH Hoá học
thống kiến thức, vận dụng được trực tiếp kiến thức ấy vào những tình huống quen
thuộc dẫn đến có khả năng vận dụng nó một cách linh hoạt và sáng tạo.
+ Vận dụng kiến thức vào giải quyết các nhiệm vụ thực tiễn, tức là phải tìm được
kiến thức thích hợp trong vốn kiến thức đã có để giải quyết một nhiệm cụ mới.
Thông qua vận dụng những kiến thức đã nắm vững một cách thực sự, sâu sắc hơn
càng làm chủ quá trình nắm vững kiến thức một cách tự giác, sáng tạo, làm cho mối
quan hệ giữa lý thuyết và thực tiễn càng sâu sắc, càng gần gũi. Mặt khác, trong khi
vận dụng kiến thức, các thao tác tư duy được trau dồi, một số kĩ năng, kĩ xảo được
hình thành và củng cố, hứng thú học tập của học sinh được nâng cao.
- Để đảm bảo cho học sinh nắm vững kiến thức hóa học một cách vững chắc
cần phải hình thành cho họ kĩ năng, kĩ xảo, vận dụng kiến thức thông qua nhiều
hình thức luyện tập khác nhau. Trong đó, việc giải bài tập một cách có hệ thống từ
dễ đến khó là một hình thức rèn luyện phổ biến được tiến hành nhiều nhất. Theo
nghĩa rộng, quá trình học tập là quá trình liên tiếp giải các bài tập. Vì vậy, kiến thức
thực sựđược nắm vững hoàn toàn nếu như họ tự giác, tích cực vận dụng linh hoạt,
tạo thành kiến thức ấy để giải quyết những bài toán khác nhau. Ở đây chúng ta thấy
rõ mối quan hệ biện chứng giữa nắm vững và vận dụng kiến thức trong quá trình
nhận thức của học sinh.
Nắm vững kiến thức Vận dụng kiến thức
* Ý nghĩa của tài liệu tự học có hướng dẫn đối với việc học tập của học sinh
Thông qua tài liệu tự học có hướng dẫn, người học qua quá trình học tập
nghiên cứu tự trang bị cho mình không những tri thức mà còn cả cách tiếp cận và
con đường để chiếm lĩnh tri thức của nhân loại. Tri thức của loài người là vô tận vì
vậy để việc học tập có hiệu quả cao thì người học phải biết mình cần học những gì,
học như thế nào khi tiếp cận một yêu cầu học tập. Người học muốn học có hiệu quả
thì tự bản thân học phải biết cách đáng giá năng lực của mình. Như vậy trong suốt
quá trình tự học, bản thân người học sẽ chủ động thực hiện hoạt động nhận thức và
hoạt động kiểm tra đánh giá quá trình học tập của mình.
________________________________________________________________________
Nguyễn Thị Toàn
21
Luận văn ThS Khoa học Giáo Dục Chuyên ngành: Lí luận và PPDH Hoá học
KẾT LUẬN CHƯƠNG I
Trong chương này chúng tôi đã trình bày:
1. Vị trí tầm quan trọng của việc bồi dưỡng học sinh giỏi, đặc biệt là học sinh
chuyên hoá học nhằm đào tạo nhân tài bộ môn hoá học ở trường THPT hiện nay.
Xác định các năng lực, kĩ năng quan trọng của học sinh giỏi. Từ đó nêu lên phương
pháp dạy và học phù hợp, có chất lượng và đạt hiệu quả cao đối với học sinh giỏi
hoá học.
2. Những cơ sở lý luận cơ bản về phương pháp dạy học hiện đại, xu hướng đổi mới
phương pháp dạy học trong giai đoạn hiện nay, đó là phương pháp dạy học lấy học
sinh làm trung tâm: "Phương pháp tích cực", "phương pháp khám phá" và hệ dạy
học : Tự học- cá thể hoá - có hướng dẫn là một hình thức dạy học hiện đại. Theo đó
đã đưa cơ sở lý luận để biên soạn và tổ chức nội dung dạy học mới, đó là thực hiện
theo tiếp cận modun.
3. Lý luận về tự học và tài liệu tự học có hướng dẫn theo modun với nội dung lý
thuyết và nội dung bài tập.
________________________________________________________________________
Nguyễn Thị Toàn
22
Luận văn ThS Khoa học Giáo Dục Chuyên ngành: Lí luận và PPDH Hoá học
Chương II: THIẾT KẾ NỘI DUNG - PHƯƠNG PHÁP SỬ DỤNG
TÀI LIỆU TỰ HỌC CÓ HƯỚNG DẪN THEO MODUN
(PHẦN HOÁ HỌC VÔ CƠ LỚP 12)
I. GIỚI THIỆU VỀ PHẦN HOÁ HỌC VÔ CƠ LỚP 12-CHƯƠNG TRÌNH
CHUYÊN
I.1. Cấu trúc nội dung phần hoá học vô cơ lớp 12- chương trình chuyên
Gồm 3 chương:
- Chương 14: Đại cương về kim loại
+ Cấu tạo và liên kết trong tinh thể kim loại
+ Tính chất vật lý của kim loại
+ Tinh chất hoá học của kim loại
+ Dãy hoạt động hoá học của các kim loại
+ Hợp kim
+ Ăn mòn kim loại và chống ăn mòn
+ Điều chế kim loại
- Chương 15: Các kim loại kiềm, kiềm thổ, nhôm, thiếc chì
+ Các nguyên tố kim loại nhóm IA
+ Các nguyên tố kim loại nhóm IIA
+ Nhôm
- Chương 16: Các nguyên tố chuyển tiếp
+ Tính chất chung của các nguyên tố chuyển tiếp
+ Điều chế các kim loại chuyển tiếp
+ Giới thiệu một số kim loại chuyển tiếp quan trọng và ứng dụng
+ Sắt
+ Crom
+ Đồng
I.2. Mục tiêu- yêu cầu của phần hoá học vô cơ lớp 12- chuyên hoá học
Chương 14: Đại cương về kim loại
________________________________________________________________________
Nguyễn Thị Toàn
23
Luận văn ThS Khoa học Giáo Dục Chuyên ngành: Lí luận và PPDH Hoá học
1. Về kiến thức:
a- Học sinh cần biết:
- Vị trí các kim loại trong hệ thống tuần hoàn.
- Cấu tạo và liên kết trong tinh thể các kim loại.
- Các tính chất vật lý quan trọng của kim loại.
- Tính chất hoá học chủ yếu của kim loại( tính khử) và biểu hiện của tính chất này
thông qua các phản ứng tiêu biểu với phi kim, với H
2
O, với dung dịch muối, với
dung dịch axit…
- Dãy hoạt động hoá học của kim loại và chiều diễn biến của các phản ứng ôxi hoá
khử.
b- Học sinh cần hiểu:
- Nguyên nhân dẫn đến các tính chất vật lý của kim loại và hợp kim như: ánh kim,
tính dẻo, tính dẫn điện, dẫn nhiệt, tính cứng, nhiệt độ nóng chảy, tỉ khối.
- Vì sao kim loại có tính khử.
- Cơ sở khoa học của việc xây dựng dãy hoạt động hoá học của các kim loại.
- Nguyên nhân và chiều hướng diễn biến của các phản ứng ôxi hoá khử.
- Vì sao các kim loại bị ăn mòn và bảo vệ chúng như thế nào.
- Tại sao các kim loại khác nhau phải có phương pháp điều chế khác nhau.
c. Học sinh vận dụng:
- Từ đặc điểm cấu tạo và liên kết trong tinh thể kim loại và hợp kim để so sánh,
giải thích sự biến đổi các tính chất vật lý, hoá học của kim loại , hợp kim.
- Sử dụng thế điện cực để xét đoán chiều phản ứng, tính hằng số cân bằng của
phản ứng, hiểu được cấu tạo, nguyên tắc hoạt động của pin, acquy.
- Nắm được bản chất, điều kiện, cơ chế của các dạng ăn mòn kim loại và các biện
pháp bảo vệ chống ăn mòn kim loại.
- Nắm được nguyên tắc chung điều chế kim loại và các phương pháp điều chế
thích hợp cho các nhóm kim loại có tính khử khác nhau.
2. Về kĩ năng:
________________________________________________________________________
Nguyễn Thị Toàn
24
Luận văn ThS Khoa học Giáo Dục Chuyên ngành: Lí luận và PPDH Hoá học
- Kĩ năng giải các bài tập có liên quan đến thế điện cực như: so sánh các cặp oxi
hoá khử, dự doán chiều và khả năng diễn biến của các phản ứng ôxi hoá khử, ảnh
hưởng của nồng độ đến thế điện cực, tính sức điện động của pin.
- Kĩ năng viết các phương trình phản ứng ôxi hoá khử xảy ra trong pin, trong quá
trình điện phân, trong các quá trình ăn mòn.
- Kĩ năng giải các bài tập định lượng liên quan đến nồng độ, lượng chất tham gia,
tạo thành sau phản ứng, điện phân…
- Kĩ năng giải các bài tập định tính: viết các phương trình phản ứng xảy ra trong
các pin, trong quá trình điện phân, ăn mòn, các bài tập có liên quan đến giải thích
các hiện tượng trong thực nghiệm.
3. Về thái độ:
Có ý thức vận dụng các biện pháp bảo vệ kim loại trong đời sống và trong lao
động cá nhân và cộng đồng xã hội.
Chương 15: Các kim loại kiềm, kiềm thổ, nhôm, thiếc chì
1. Về kiến thức:
a- Học sinh cần biết:
- Vị trí, cấu hình electron trong nguyên tử, ứng dụng của kim loại kiềm, kim loại
kiềm thổ, nhôm và một số hợp chất quan trọng của chúng.
- Tác hại của nước cứng và các biện pháp làm mềm nước.
b- Học sinh cần hiểu:
- Tính chất của kim loại kiềm, kim loại kiềm thổ, nhôm.
- Tính chất hoá học của một số hợp chất của Natri, canxi, nhom.
- Phương pháp điều chế kim loại kiềm, kim loại kiềm thổ, nhôm.
- Khái niệm nước cứng, nước có tính cứng tạm thời, nước có tính cứng vĩnh cửu.
c- Học sinh vận dụng:
2. Về kĩ năng:
- Biết tìm hiểu tính chất chung của nhóm nguyên tố theo quy trình: Dự đoán tính
chất → Kiểm tra dự đoán → Rút ra kết luận.
- Viết các PTHH biểu diễn tính chất hoá học của chất.
________________________________________________________________________
Nguyễn Thị Toàn
25