Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

Phát triển kinh tế bền vững ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (397.58 KB, 14 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
-------*****-------




NGUYỄN HỮU SỞ



PHÁT TRIỂN KINH TẾ BỀN VỮNG
Ở VIỆT NAM



Chuyên ngành: Kinh tế chính trị
Mã số : 62 31 01 01





TÓM TẮT
LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ









HÀ NỘI - 2009























Công trình được hoàn thành tại: Trường Đại học Kinh tế,
Đại học Quốc gia Hà Nội.





Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS.TS. Phan Huy Đường;
2. TS. Trần Anh Tài.



Phản biện 1: PGS.TS. Nguyễn Thế Chinh,
Viện Chiến lược Chính sách Tài nguyên và Môi trường.



Phản biện 2: PGS.TS. Lê Huy Đức,
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân.



Phản biện 3: PGS.TS. Lê Bộ Lĩnh,
Uỷ ban Khoa học Công nghệ
và Môi trường Quốc hội.


Luận án được bảo vệ trước Hội đồng cấp nhà nước chấm luận án tiến sĩ họp tại trường Đại học Kinh tế,
Đại học Quốc gia Hà Nội,
vào hồi 16 giờ 30, ngày 24 tháng 5 năm 2009.
Tại Hội trường 406 nhà E4 Trường ĐH Kinh tế - ĐHQGHN, 144 đường Xuân Thủy, Cầu Giấy, Hà
Nội.






iCó thể tìm hi
ểu luận án tại: + Thư viện Quốc gia Việt Nam
+ Trung tâm Thông tin - Thư viện, Đại học Quốc gia Hà Nội.
.


















DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC
CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN

1. “Thách thức về giảm nghèo đối với mục tiêu phát triển bền vững ở Việt Nam”, Tạp chí Lao động và Xã
hội, Số 313 + 314, tháng 9 và 10 năm 2008.
2. “Xoá đói giảm nghèo trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam” (tham gia), Đề tài khoa học

đặc biệt cấp Đại học Quốc gia Hà Nội, Mã số: KQ-06-05, nghiệm thu năm 2008.
3. “Toàn cầu hoá, tăng trưởng và đói nghèo trong quá trình hội nhập kinh tế thế
giới”, Tạp chí Cộng sản, Số
782, tháng 12 năm 2007.
4. “Nỗ lực ổn định khí hậu toàn cầu”, Tạp chí Cộng sản, chuyên san Hồ sơ Sự kiện, Số 21, năm 2007.
5. “Môi trường tự nhiên với tăng trưởng kinh tế ở nước ta”, Đề tài khoa học cấp trường, Mã số: KT-06.04,
nghiệm thu năm 2007.
6. “Hiệu quả của chính sách phát triển kinh tế nông nghiệp”, Tạp chí Nông nghiệp và phát triển nông thôn,
Số
6, năm 2003.






Nội, ngày 20 tháng 4 năm 2009
NGƯỜI KÊ KHAI




Nguyễn Hữu Sở

1

Lời nói đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
PTKTBV nhấn mạnh đến khả năng phát triển liên tục lâu dài, không gây ra những hậu quả tai hại khó khôi phục
ở những lĩnh vực khác, nhất là thiên nhiên và xã hội. Phát triển kinh tế mà làm hủy hoại môi trường là phát triển không

bền vững, phát triển mà chỉ dựa vào những loại tài nguyên có thể cạn kiệt (mà không lo trước đến ngày chúng cạn kiệt)
là phát triển không bền vững. Ch
ẳng hạn, trữ lượng dầu mỏ thế giới theo một số tính toán chỉ có thể khai thác được
khoảng 50 - 60 năm nữa; trữ lượng than đá thì còn khoảng trên dưới 120 năm nữa... Vậy, nếu các ngành kinh tế chỉ dựa
vào những nguồn năng lượng này thì không thể bảo đảm tính bền vững lâu dài được. Đồng thời muốn kéo dài sự tồn tại
của các ngành kinh tế dựa vào các nguồn năng l
ượng hóa thạch thì chỉ có thể là phải sử dụng tiết kiệm chúng hoặc là tìm
nguồn năng lượng thay thế.
Ngoài ra, có quan điểm còn cho rằng, mô hình phát triển kinh tế mà để phụ thuộc quá nhiều vào ngoại lực
(như FDI) cũng là khó bền vững, vì nguồn ấy có nhiều rủi ro, không chắc chắn. Nói ngắn gọn, phát triển kinh tế là
không bền vững nếu nó thật "nóng", không thể giữ lâu, nền kinh tế chóng rơi vào khủ
ng hoảng, hay ít nhất cũng
chậm lại trong tương lai.
Không thể chối cãi: "phát triển kinh tế bền vững" là một khái niệm một phạm trù đang được toàn thế giới
lưu tâm. "Phát triển kinh tế bền vững” có nội hàm rất rộng, mỗi thành tố trong đó đều có một ý nghĩa riêng. Một
mẫu hình PTBV là mỗi địa phương, vùng, quốc gia…không nên thiên về thành tố này và xem nhẹ thành tố kia. Vấn
đề là áp dụng nó như th
ế nào ở các cấp độ trên và trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội.
Nhưng chỉ để ý đến liên hệ giữa môi trường sinh thái, tài nguyên thiên nhiên và tăng trưởng kinh tế là chưa
toàn diện, chưa bao quát hết nội hàm của khái niệm "bền vững" trong phát triển kinh tế. Khái niệm đó sẽ toàn diện
và toàn vẹn hơn nếu được áp dụng vào hai thành tố nòng cốt khác của phát triển, đó là văn hóa và xã hội. Để
chuyể
n hoá khái niệm PTKTBV từ cấp độ lý thuyết áp dụng vào thực tiễn, khái niệm cần được làm sáng tỏ sau đó
áp dụng trực tiếp đối với các lĩnh vực khác nhau của đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội.
Nhiều công trình nghiên cứu khác đã đi sâu nghiên cứu hệ thống và công phu về PTBV. Tuy nhiên, như trên
đã phân tích, PTBV có nội hàm rất rộng, bao gồm nhiều thành tố, mỗi thành tố trong đó đều có một ý nghĩa riêng. B
ởi
vậy, các nghiên cứu chuyên biệt về PTKTBV đang chưa được thực hiện một cách thật hệ thống, nhất là đặt nó trong
mối liên hệ tương tác với các thành tố quan trọng khác của PTBV. Mặt khác, thực tiễn phát triển kinh tế của Việt Nam
đã bộc lộ những dấu hiệu của tính không bền vững. Từ những lý do trên, Luận án đã được lựa chọn với đề tài “Phát

triển kinh t
ế bền vững ở Việt Nam”.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Từ giữa thập niên 80 thế kỷ XX, "phát triển bền vững về kinh tế" đã trở thành một đề tài được thế giới loài
người không những quan tâm đặc biệt, mà còn tập trung nhiều trí tuệ để giải quyết các vấn đề của nó. Cội nguồn của
sự xuất hiện vấn đề và ngày càng trở nên bức thiế
t mang tính toàn cầu là ở chỗ, nó phản ánh sự quan ngại đối với một
số quốc gia muốn tăng trưởng kinh tế quá nhanh, tạo bước đi vội vã, chọn cách phát triển thiển cận, miễn sao tăng thu
nhập hiện tại cho nhanh, mà không để ý đến những nguy hại dài lâu của lối phát triển ấy đến môi trường sinh thái (tàn
phá rừng, sa mạc hóa...), đến trữ lượng hữu hạn của tài nguyên thiên nhiên (quặng mỏ, dầ
u hỏa, khí đốt), đến tình
trạng khoét sâu thêm hố ngăn cách giàu nghèo.
"Phát triển kinh tế bền vững” là khái niệm mới ở Việt Nam. Tiến hành xây dựng và thao tác hoá khái niệm
này phù hợp với thực tiễn đất nước và bối cảnh thế giới hiện nay sẽ có ý nghĩa quan trọng. Các nghiên cứu khoa học
môi trường, khoa học xã hội, trong đó đặc biệt là kinh tế học, xã hội học và luật học đã có những đóng góp nh
ất định
cho việc hoàn thiện hệ thống quan điểm lý luận về PTKTBV ở nước ta trong những thập niên sắp tới.
Trong một công bố trên Tạp chí Xã hội học (2003) của tác giả Bùi Đình Thanh với tiêu đề "Xã hội học Việt Nam
trước ngưỡng của thế kỷ XXI", tác giả cũng chỉ ra 7 hệ chỉ báo cơ bản về PTBV: Chỉ báo kinh tế, xã hội, môi trường. Khái
niệm “phát triể
n bền vững” được biết đến ở Việt Nam vào khoảng cuối thập niên 80 đầu thập niên 90. Mặc dù xuất hiện ở
Việt Nam khá muộn nhưng nó lại sớm được thể hiện ở nhiều cấp độ.
Về mặt học thuật, thuật ngữ này được giới khoa học nước ta tiếp thu nhanh. Đã có hàng loạt công trình
nghiên cứu liên quan mà đầu tiên phải kể đến là công trình do giới nghiên cứu môi trườ
ng tiến hành như "Tiến tới

2
môi trường bền vững” (1995) của Trung tâm Nghiên cứu tài nguyên và môi trường, Đại học Tổng hợp Hà Nội.
Công trình này đã tiếp thu và thao tác hoá khái niệm PTBV theo báo cáo Brundtland như một tiến trình đòi hỏi
đồng thời trên bốn lĩnh vực: Bền vững về mặt kinh tế, bền vững về mặt nhân văn, bền vững về mặt môi trường, bền

vững về mặt kỹ thuật. "Nghiên cứu xây dựng tiêu chí phát triể
n bền vững cấp quốc gia ở Việt Nam - giai đoạn I”
(2003) do Viện Môi trường và PTBV, Hội Liên hiệp các Hội Khoa học kỹ thuật Việt Nam tiến hành. Trên cơ sở
tham khảo bộ tiêu chí PTBV của Brundtland và kinh nghiệm các nước: Trung Quốc, Anh, Mỹ, các tác giả đã đưa ra
các tiêu chí cụ thể về PTBV đối với một quốc gia là bền vững kinh tế, bền vững xã hội và bền vững môi trường.
Đồng thời c
ũng đề xuất một số phương án lựa chọn bộ tiêu chí PTBV cho Việt Nam.
Công trình nghiên cứu "Quản lý môi trường cho sự phát triển bền vững” (2000) do Lưu Đức Hải và cộng
sự tiến hành đã trình bày hệ thống quan điểm lý thuyết và hành động quản lý môi trường cho PTBV. Công trình
này đã xác định PTBV qua các tiêu chí: bền vững kinh tế, bền vững môi trường, bền vững văn hoá đã tổng quan
nhiều mô hình PTBV như mô hình 3 vòng tròn kinh kế, xã h
ội, môi trường giao nhau của Jacobs và Sadler (1990),
mô hình tương tác đa lĩnh vực kinh tế, chính trị, hành chính, công nghệ, quốc tế, sản xuất, xã hội của WCED
(1987), mô hình liên hệ thống kinh tế, xã hội, sinh thái của Villen (1990), mô hình 3 nhóm mục tiêu kinh tế, xã hội,
môi trường của World Bank.
Ngoài ra, trong giới khoa học xã hội còn có các công trình như "Đổi mới chính sách xã hội - Luận cứ và
giải pháp" (1997) của Phạm Xuân Nam. Trong công trình này, tác giả làm rõ 5 hệ chỉ báo thể hiện quan điểm
PTBV: Phát triển xã hộ
i, phát triển kinh tế, bảo vệ môi trường, phát triển chính trị, tinh thần, trí tuệ, văn hoá, vai trò
phụ nữ và chỉ báo quốc tế. Nhìn chung, các công trình nghiên cứu này có một điểm chung là thao tác hoá khái niệm
PTBV theo Brundtland. Tuy nhiên, cần nói thêm rằng, những thao tác này còn mang tính liệt kê, tính thích ứng của
các chỉ báo với thực tế Việt Nam, cụ thể là ở cấp độ địa phương, vùng, miền, hay các lĩnh vực hoạt động của đời
sống xã hội vẫn ch
ưa được làm rõ.
Tiếp theo là Đề tài cấp Bộ “Phát triển bền vững từ quan niệm đến hành động” của PGS.TS. Hà Huy Thành
(chủ nhiệm), Viện nghiên cứu Môi trường và PTBV là cơ quan chủ trì thực hiện. Đề tài đã nghiên cứu tổng quan
nội dung cơ bản và quá trình hình thành và phát triển của khái niệm, khung khổ, chương trình hành động, chỉ tiêu
PTBV của Liên hợp quốc và các quốc gia, khu vực trên thế giới. Trên cơ sở đ
ó, rút ra những bài học về PTBV phù
hợp với điều kiện của Việt Nam.

Trong “Chương trình nghị sự 21 của Việt Nam có đưa ra nhiều vấn đề cần ưu tiên để thực hiện PTBV, trong đó
5 lĩnh vực cần được ưu tiên để PTBV về kinh tế, đó là: duy trì tăng trưởng nhanh và bền vững; thay đổi mô hình sản xuất
và tiêu dùng theo hướng thân thiện với môi trường; thực hiện quá trình công nghiệp hóa s
ạch; phát triển nông nghiệp và
nông thôn bền vững; PTBV các vùng và địa phương.
Trong bài “Bàn thêm về PTBV” đăng trên Tạp chí nghiên cứu PTBV số tháng 6/2006 của Bùi Tất Thắng,
Viện chiến lược – Bộ Kế hoạch và đầu tư, đã phân tích PTBV về mặt kinh tế để thực hiện PTBV là tốc độ tăng
trưởng phải cao và quan trọng là có sự thay đổi cơ cấu kinh tế, cùng với việc nâng cao đời sống của dân chúng và
bảo vệ môi tr
ường, nguồn tài nguyên thiên nhiên…
Lê Bảo Lâm với tác phẩm “Các nhân tố ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế dài hạn: Lý thuyết và thực tiễn
ở Việt Nam” (2007) và một số các tác phẩm khác của các tác giả: Nguyễn Mạnh Hùng, “Kinh tế – xã hội Việt Nam
hướng tới chất lượng tăng trưởng hội nhập phát triển bền vững”; Nguyễn Văn Thương, “Tăng trưởng kinh tế Việt
Nam - những rào cản cần v
ượt qua”; Phạm Ngọc Trung, “Chất lượng tăng trưởng của Việt Nam”;…cũng chỉ
nghiên cứu và bàn luận đến những vấn đề xoay quanh việc sử dụng các nhân tố được chú ý và cần phải tiếp tục sử
dụng một cách có hiệu quả để nhằm tạo ra sự tăng trưởng của kinh tế Việt Nam. Các vấn đề đã được nghiên cứu
trong nhóm các tác giả trên cũng chỉ mới
đưa ra, một cách rời rạc và chưa có tính chất hệ thống lý thuyết về sự
PTKTBV, chỉ đưa ra những phân tích, đánh giá về vấn đề xã hội, hay môi trường và một số tiêu chí trong nghiên
cứu sự phát triển một cách “bền vững” đối với Việt Nam.
Trong tác phẩm “Phát triển bền vững của Việt Nam: Thành tựu, cơ hội, thách thức và triển vọng”, NXB Lao
động – xã hội, Hà Nội – 2007, GS.TSKH. Nguyễn Quang Thái và PGS.TS. Ngô Thắng Lợi
đã nghiên cứu, phân tích
thực trạng phát triển của kinh tế xã hội của Việt Nam trong thời gian đổi mới, phân tích những yếu tố hay điều kiện để
có thể giúp Việt Nam đạt được những tiến bộ khả quan để thực hiện PTBV, trong đó có đề cập đến những nội dung
của vấn đề tăng trưởng với chất lượng cao thể hiện ở những tiêu chí nh
ư xác định cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ

×