1
MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG BIỂU ......................................................................................... i
DANH MỤC HÌNH VẼ ............................................................................................. ii
DANH MỤC VIẾT TẮT .......................................................................................... iii
LỜI MỞ ĐẦU.............................................................................................................5
CHƯƠNG 1 Lý luận chung về thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào thị trường chứng
khoán Việt Nam. .........................................................................................................7
1.1. Sự cần thiết khách quan thu hút nhà đầu tư nước ngoài tham gia vào thị trường
chứng khoán................................................................................................................7
1.1.1. Vai trò của thị trường chứng khoán đối với nền kinh tế Việt Nam. ............7
1.1.2. Sự cần thiết khách quan thu hút nhà đầu tư nước ngoài tham gia vào thị
trường chứng khoán. ................................................................................................. 11
1.2. Vài nét về nguồn vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài trên thị trường chứng khoán
Việt Nam. ................................................................................................................. 14
1.2.1. Khái niệm đầu tư gián tiếp nước ngoài và các hình thức đầu tư vào thị
trường chứng khoán Việt Nam. ................................................................................. 14
1.2.2. Đặc điểm của vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài. ..................................... 16
1.2.3. Các giai đoạn thu hút vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài vào Việt Nam từ
năm 1990 đến nay. .................................................................................................... 17
1.2.4. Một vài tác động tiêu cực của vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài. ............ 18
1.3. Những nhân tố tác động đến việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào thị trường
chứng khoán.............................................................................................................. 22
1.3.1. Bối cảnh chính trị, hệ thống pháp luật. .................................................. 23
2
1.3.2. Tiềm năng thị trường, trung gian tài chính. ........................................... 24
1.3.3. Chất lượng thông tin. ............................................................................ 24
1.3.4. Biện pháp kiểm soát dòng vốn. ............................................................. 24
1.3.5. Chính sách tỷ giá hối đoái. .................................................................... 25
1.3.6. Lạm phát- lãi suất. ................................................................................ 25
1.4. Một số nghiên cứu trên thế giới về tác động của nhân tố thị trường tới lượng
vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài vào thị trường chứng khoán. ................................... 26
1.4.1. Các bài nghiên cứu dùng nhân tố chất lượng thông tin để đánh giá tác
động. ............................................................................................................. 26
1.4.2. Các bài nghiên cứu dùng nhân tố kiểm soát vốn làm trung tâm. ............ 28
1.4.3. Các bài nghiên cứu với nhân tố chính là Tỷ giá hối đoái và Lạm phát. .. 30
Kết luận chương 1 ..................................................................................................... 31
CHƯƠNG 2 Tác động của các nhân tố thị trường trong việc thu hút vốn đầu tư gián
tiếp nước ngoài vào thị trường chứng khoán. ............................................................ 32
2.1. Thực trạng thu hút vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài vào thị tường chứng khoán
Việt Nam. ................................................................................................................. 32
2.1.1. Giai đoạn từ 1991-1997. ....................................................................... 32
2.1.2. Giai đoạn từ 1997-2000. ....................................................................... 33
2.1.3. Giai đoạn từ 2000-2007. ....................................................................... 34
2.1.4. Giai đoạn từ năm 2007 đến nay ............................................................. 44
2.2. Kiểm định mối quan hệ giữa tỷ giá hối đoái, lãi suất và mức độ đầu tư của nhà
đầu tư nước ngoài vào thị trường chứng khoán Việt Nam. ........................................ 48
2.2.1. Vai trò của vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài thông qua thị trường chứng
khoán với tăng trưởng kinh tế vĩ mô Việt Nam.......................................................... 49
3
2.2.2. Kiểm định tác động của các nhân tố thị trường: Tỷ giá hối đoái, Lãi suất,
Chỉ số giá tiêu dùng đến lượng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài trên thị trường chứng
khoán Việt Nam. ....................................................................................................... 53
Kết luận chương 2 ..................................................................................................... 63
CHƯƠNG 3 Một vài kiến nghị hoàn thiện chính sách tỷ giá hối đoái, lãi suất, lạm
phát để tăng cường thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào thị trường chứng khoán Việt
Nam. ........................................................................................................... 65
3.1. Bài học thu hút và quản lý vốn đầu tư gián tiếp của các nước........................ 65
3.1.1. Bài học từ Ấn Độ. .................................................................................... 65
3.1.2. Bài học từ Trung Quốc. ........................................................................... 69
3.2. Tiềm năng phát triển và những khó khăn thách thức của dòng vốn FPI trên thị
trường chứng khoán trong thời gian gần đây. ............................................................ 71
3.2.1. Tiềm năng phát triển của dòng vốn FPI trên thị trường chứng khoán. ...... 71
3.2.2. Những khó khăn còn tồn tại trên thị trường chứng khoán. ........................ 73
3.3. Một số kiến nghị về chính sách ổn định kinh tế vĩ mô và thu hút vốn đầu tư
gián tiếp nước ngoài vào thị trường chứng khoán Việt Nam. ..................................... 74
3.3.1. Một số đề xuất cho 3 nhân tố mục tiêu. .................................................... 74
3.3.2. Những giải pháp bổ trợ khác. ................................................................... 77
Kết luận chương 3 ..................................................................................................... 81
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 82
PHỤ LỤC ................................................................................................................. 83
PHỤ LỤC 1 .............................................................................................................. 83
PHỤ LỤC 2 .............................................................................................................. 89
4
PHỤ LỤC 3 ............................................................................................................ 113
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................. 119
5
LỜI MỞ ĐẦU
Trong hai năm trở lại đây, có thể thấy những đề tài nghiên cứu khủng hoảng tài
chính toàn cầu và vấn đề nợ công thường xuyên được các nhà nghiên cứu chọn lựa.
Bởi lẽ, cuộc khủng hoảng kinh tế bắt nguồn ở Mỹ không chỉ nguy hại vì mức độ lan
rộng của nó mà nó ảnh hưởng lớn đến thị trường tài chính toàn cầu, tác động trên
nhiều lĩnh vực như ngoại thương, công nghiệp, ngân hàng và đặc biệt là dòng vốn đầu
tư.
Với việc chính thức trở thành thành viên của tổ chức thương mại thế giới, hội
nhập ngày càng sâu vào nền kinh tế toàn cầu, cuộc khủng tài chính 2008 cũng đã gây
ra cho Việt Nam nhiều vấn đề khó khăn, phức tạp. Trước tình hình này, hầu hết các
nhà nghiên cứu kinh tế Việt Nam bắt đầu đi vào nghiên cứu nguyên nhân khủng
hoảng, tình trạng nợ công, sự thâm hụt ngày càng lớn của cán cân thương mại hay vấn
đề về vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài…nhằm làm rõ tình hình và đề ra những giải
pháp giúp nền kinh tế nước ta vượt qua khủng hoảng hiện tại. Tuy nhiên, trong các
công trình ấy, chúng ta chưa thấy những nghiên cứu đánh giá tác động của khủng
hoảng đến lượng vốn đầu tư vào thị trường chứng khoán- một kênh thu hút vốn đầu tư
quan trọng của hầu hết các nước trong đó có Việt Nam. Dòng vốn đầu tư vào TTCK,
đặc biệt là dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài thực sự có một vai trò rất cần thiết.
Bởi vì, nó không những cung cấp lượng vốn lớn cho nền kinh tế mà còn góp phần điều
tiết, đa dạng hóa thị trường tài chính, phát triển thị trường chứng khoán, tăng trưởng
kinh tế vĩ mô. Tuy vậy, kể từ sau khủng hoảng, khả năng duy trì và thu hút vốn ngoại
của Việt Nam đã giảm xúc rất nhiều, thị trường chứng khoán mất điểm, dòng vốn
ngoại đang tăng trưởng liên tiếp sụt giảm và đảo chiều. Chính vì thế, trong bài nghiên
cứu của mình, chúng tôi quyết định xem xét vai trò của dòng vốn ngoại trên thị trường
chứng khoán Việt Nam với tăng trưởng kinh tế và những biến đổi sau khủng hoảng.
6
Thêm vào đó, chúng tôi tiến hành phân tích tác động của ba nhân tố thị trường: lạm
phát, lãi suất, tỷ giá đến dòng vốn gián tiếp nước ngoài vào TTCK để có những điều
chỉnh chính sách thích hợp. Bằng cách vận dụng các lý thuyết được học, các mô hình
kiểm định để xét mối tương quan giữa ba biến số trên và lượng FPI, chúng tôi cố gắng
đưa ra những kết luận xác đáng về vấn đề này. Trên cơ sở những kết luận rút ra, cùng
với những đặc điểm kinh tế vĩ mô hiện tại, chúng tôi có một vài đề xuất ổn định lại nền
kinh tế thông qua các nhân tố trên để tăng cường thu hút vốn FPI vào nước ta.
Nội dung bài nghiên cứu gồm 3 chương:
Chương 1: Lý luận chung về thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào thị trường chứng
khoán Việt Nam.
Chương 2: Tác động của các nhân tố thị trường trong việc thu hút vốn đầu tư vào
thị trường chứng khoán.
Chương 3: Một vài kiến nghị hoàn thiện chính sách tỷ giá hối đoái, lãi suất, lạm
phát để tăng cường thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào thị trường chứng khoán Việt
Nam.
7
CHƯƠNG 1 Lý luận chung về thu hút vốn đầu tư nước ngoài
vào thị trường chứng khoán Việt Nam.
1.1. Sự cần thiết khách quan thu hút nhà đầu tư nước ngoài tham gia vào thị
trường chứng khoán.
1.1.1. Vai trò của thị trường chứng khoán đối với nền kinh tế Việt Nam.
Tạo lập và phát triển TTCK có ý nghĩa rất quan trọng trong sự nghiệp phát triển
kinh tế của hầu hết các nước trên thế giới. Nó là kênh bổ sung các nguồn vốn trung và
dài hạn cho Nhà nước và doanh nghiệp. Nó như là một yếu tố hạ tầng thiết yếu, một
công cụ có rất nhiều tác dụng. Chính vì vậy, ở các nước trong khu vực nói chung và
Việt Nam nói riêng đang cố gắng xây dựng và phát triển cho mình một TTCK thực thụ
nhằm phát huy hết tiềm lực kinh tế của mình. Mặc dù hiện tại nguồn vốn tín dụng cho
nền kinh tế Việt Nam chủ yếu xuất phát từ hệ thống ngân hàng. Nhưng TTCK Việt
Nam vẫn được kỳ vọng sẽ cung cấp lượng tài chính đầy đủ và kịp thời đáp ứng nhu
cầu đầu tư ngày càng lớn của đất nước bởi những đóng góp to lớn của nó cho nền kinh
tế quốc gia.
1.1.1.1. Tạo vốn cho sự phát triển kinh tế.
Trong cơ chế kinh tế thị trường hiện nay, quan hệ cung cầu không chỉ nói đến
hàng hóa truyền thống, mà đã xuất hiện và ngày càng phát triển quan hệ về tiền và
vốn. Quan hệ này tất yếu sẽ dẫn đến nhu cầu vận động vốn từ nơi thừa sang nơi thiếu.
Tuy nhiên, yêu cầu vận động của tiền vốn là hết sức phức tạp, đa dạng và phong phú.
Để thoả mãn nhu cầu này, phải có một hệ thống các tổ chức tài chính ứng với các công
cụ thuận lợi nhất để thực hiện giao lưu vốn nói trên, phải có một thị trường vốn chính
thống. Và thị trường vốn đỉnh cao là TTCK, là nơi tạo ra môi trường thuận lợi để dung
hoà các lợi ích kinh tế khác nhau của các thành viên thông qua một cơ chế hoạt động
hợp pháp nhằm hạn chế những rủi ro.
8
TTCK như một trung tâm huy động nguồn vốn tiết tiệm lớn nhỏ của từng hộ
dân cư, như một nam châm cực mạnh thu hút nguồn vốn to lớn từ nước ngoài, thu hút
nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi từ các doanh nghiệp, các tổ chức tài chính, chính phủ tạo
thành một nguồn vốn khổng lồ tài trợ cho nền kinh tế, mà các phương thức khác không
thể làm được. Nó tạo ra cơ hội cho các doanh nghiệp có vốn mở rộng sản xuất kinh
doanh và thu được lợi nhuận nhiều hơn. Đồng thời nó góp phần quan trọng trong việc
kích thích các doanh nghiệp làm ăn ngày càng có hiệu quả hơn bằng cách vừa sản xuất
kinh doanh hàng hóa vừa mua bán chứng khoán tạo thêm lợi nhuận. Nó giúp nhà nước
giải quyết vấn đề thiếu hụt ngân sách trên thị trường trái phiếu, có thêm vốn để xây
dựng cơ sở hạ tầng. Nó cũng trực tiếp cải thiện mức sống của người tiêu dùng bằng
cách giúp họ chọn thời điểm cho việc mua sắm của họ tốt hơn.
1.1.1.2. Công cụ để thúc đẩy sự phát triển và ổn định nền kinh tế.
Giúp nhà nước thực hiện chương trình phát triển kinh tế.
Như chúng ta đã biết nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nước là thuế. Nhưng
thông thường, thuế không đủ để cho chính phủ chi tiêu vì vậy cần thêm các khoản thu
phụ khác đó là từ các kỳ phiếu, tín phiếu kho bạc. Nhà nước không phải thông qua
NHTW để phát hành thêm tiền mặt mà phát hành kỳ phiếu vay vốn trong dân cư cho
nên lượng tiền mặt trong lưu thông không tăng lên và không gây áp lực lạm phát.
Hiện nay ở hầu hết các nước, nhà nước phát hành kỳ phiếu thông qua TTCK.
Không có TTCK thì nhà nước vẫn phát hành được kỳ phiếu. Nhưng có TTCK thì nhà
nước sẽ bán được một cách dễ dàng hơn do tính thanh khoản chứng khoán tăng lên. Vì
vậy TTCK là một công cụ hữu hiệu giúp nhà nước trong việc huy động vốn để thực
hiện các chương trình phát triển kinh tế xã hội.
Điều tiết vốn đầu tư.
o TTCK là công cụ thu hút và kiểm soát vốn đầu tư nước ngoài.
9
TTCK là công cụ cho phép vừa thu hút, vừa kiểm soát vốn ĐTNN một cách tốt
nhất, vì nó hoạt động theo nguyên tắc công khai. Nghĩa là mọi đối tượng tham gia mua
bán chứng khoán phải công khai hóa và cập nhật hóa toàn bộ những thông tin liên
quan đến giá trị chứng khoán, và công khai khả năng tài chính trong các giao dịch mua
bán chứng khoán.
Đó là ưu điểm cơ bản của phương thức thu hút vốn ĐTNN thông qua TTCK.
Điều này có ý nghĩa quan trọng đối với nhà nước trong việc ổn định nền kinh tế tránh
sự lệ thuộc về kinh tế vào các nhà ĐTNN.
o TTCK lưu động hóa mọi nguồn vốn trong nước.
Với một TTCK hoạt động tốt, các nhà doanh nghiệp sẵn sàng bỏ vốn đầu tư
phát triển kỹ nghệ, làm cho mọi nguồn vốn được lưu động hóa. Đối với những người
có vốn tiết kiệm nhỏ cũng có thể mua được chứng khoán trên TTCK, mà không sợ bị
kẹt tiền, vì khi cần họ có thể bán số chứng khoán đó ngay. Một khi việc đầu tư vào các
doanh nghiệp có lợi đối với các tầng lớp dân chúng, thì qua TTCK các món tiền tiết
kiệm lớn nhỏ đều sẵn sàng từ bỏ sự bất động hóa, chấp nhận tham gia vào quá trình
đầu tư.
Khắc phục chu kỳ kinh doanh.
o TTCK làm giảm áp lực lạm phát.
Lạm phát luôn là nguy cơ đe doạ sự tăng trưởng ổn định của nền kinh tế. TTCK
hỗ trợ cho hệ thống ngân hàng đặc biệt là Ngân hàng Trung Ương trong việc giảm áp
lực lạm phát. Trên lý thuyết, khi xuất hiện hiện tượng lạm phát, NHTW có thể bán ra
các loại kỳ phiếu trên TTCK với lãi suất cao để thu hút bớt số tiền đang lưu thông về
và làm giảm áp lực lạm phát. TTCK cũng ngăn chặn việc chuyển hoá vốn quá mức
trong nền kinh tế. Đó là khi các ngân hàng thương mại cho các công ty vay nhưng
không thu hồi được do một số công ty làm ăn thua lỗ, số tiền này nằm lại trong lưu
10
thông làm tăng lượng vốn lưu hành. Do đó hệ thống ngân hàng thương mại sẽ hạn chế
cho vay đối với những dự án có khả năng sinh lời thấp. Trong khi đó, TTCK sẽ bù vào
khoản thiếu hụt này và gây áp lực để các dự án đầu tư đạt hiệu quả cao.
o Khắc phục tình trạng suy thoái của nền kinh tế.
Như chúng ta đã biết khi nền kinh tế đang trong tình trạng suy thoái, đó là tổng
sản phẩm sản xuất ra trong nền kinh tế giảm đi. Nó ảnh hưởng một cách mạnh mẽ và
trực tiếp đến đời sống kinh tế, ví dụ như khi sản phẩm sụt giảm thì để tìm được một
việc làm tốt là rất khó khăn. Để khôi phục vấn đề này một trong những biện pháp hữu
hiệu là mở rộng đầu tư sản xuất.
Nói đến đầu tư mở rộng sản xuất phải nói đến vốn mà trong đó TTCK là một tổ
chức tài chính huy động vốn có hiệu quả nhất. Thông qua TTCK các doanh nghiệp có
thể huy động được vốn bằng cách phát hành cổ phiếu hoặc trái phiếu để mở rộng quá
trình sản xuất kinh doanh.
Thúc đẩy hiệu quả kinh tế.
Nếu một công ty làm ăn có lãi, thị giá chứng khoán của nó sẽ tăng và công ty có
thể thuận lợi vay thêm vốn để mở rộng kinh doanh. Ngược lại, nếu một công ty làm ăn
thua lỗ, giá chứng khoán của nó trên thị trường sẽ giảm vì tất cả những người sở hữu
chứng khoán của công ty này sẽ muốn bán chứng khoán đó đi. Việc này làm cho tổng
số vốn của công ty giảm sút, công ty không có khả năng thanh toán các khoản nợ đến
hạn và dẫn tới phá sản.
Do đó, TTCK gây áp lực rất lớn buộc các công ty có chứng khoán lưu hành trên
thị trường phải làm ăn có lãi. Vì có như vậy các công ty mới có cơ hội để tồn tại và
phát triển và từ đó toàn bộ nền kinh tế xã hội mới tốt hơn.
Tóm lại, chúng ta thấy TTCK đóng một vai trò hết sức quan trọng trong nền
kinh tế. Nó là một công cụ kinh tế nhờ đó người ta có thể huy động được những nguồn
11
vốn khác nhau cho đầu tư, là một công cụ để phát triển và ổn định nền kinh tế mà
trong đó bao gồm nhiều vai trò rất đa dạng.
1.1.2. Sự cần thiết khách quan thu hút nhà đầu tư nước ngoài tham gia
vào thị trường chứng khoán.
Trong phần đầu, chúng ta vừa điểm qua những vai trò cốt lỏi của TTCK đối với
tăng trưởng kinh tế Việt Nam. TTCK thực sự là một kênh huy động vốn rất quan
trọng. Tuy nhiên, nếu muốn TTCK có thể phát huy được hết vai trò của nó thì nó phải
thu hút được cả lượng vốn nhàn rỗi trong và ngoài nước. Vì sao lại như vậy? Đi sâu
vào phân tích vấn đề, chúng ta nhận thấy rằng TTCK một nước phát triển mạnh mẽ khi
nào nó thu hút được nhiều vốn và chất lượng nguồn vốn tốt. Trong những năm gần
đây, khi mà nhu cầu về lượng vốn đầu tư của Việt Nam ngày càng lớn thì việc thu hút
dòng vốn nước ngoài ngày càng trở nên bức thiết. Bởi vì, chúng ta không thể mở rộng
sản xuất, phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế, cung ứng vốn theo nhu cầu của doanh nghiệp
nếu chỉ thu hút được vốn của nhà đầu tư nội địa. Bên cạnh đó, xét về chất lượng nguồn
vốn, dòng vốn FPI vào TTCK không chỉ mang lại vốn mà còn có vai trò quan trọng
thúc đẩy thị trường tài chính phát triển theo hướng nâng cao hiệu quả hoạt động, mở
rộng quy mô và tăng tính minh bạch; nâng cao chất lượng quản trị doanh nghiệp...Và
một hiệu quả lớn nhất mà dòng vốn này tạo ra là tăng tính thanh khoản cho TTCK, góp
phần kiến tạo một văn hóa đầu tư mới cho các nhà đầu tư trong nước còn chưa có
nhiều kinh nghiệm.
Cụ thể, chúng ta có thể nêu ra 4 lý do khiến Nhà nước phải quan tâm và có
những biện pháp thu hút nhiều nguồn vốn FPI vào TTCK:
Thứ nhất, trực tiếp làm tăng tổng vốn đầu tư gián tiếp và gián tiếp làm tăng
tổng vốn đầu tư trực tiếp của xã hội.
Dòng vốn FPI khi đổ vào Việt Nam sẽ trực tiếp làm tăng lượng vốn đầu tư gián
tiếp trên thị trường vốn trong nước như một phép cộng đương nhiên vào tổng số dòng
12
vốn này. Hơn nữa, khi vốn FPI gia tăng sẽ làm phát sinh hệ quả tích cực, gia tăng dây
chuyền đến dòng vốn đầu tư trong nước. Nói cách khác, các nhà đầu tư trong nước sẽ
“nhìn gương” các nhà đầu tư gián tiếp nước ngoài và tăng khả năng cung ứng vốn đầu
tư gián tiếp của mình, kết quả tổng đầu tư gián tiếp xã hội sẽ tăng lên.
Hơn nữa, khi dòng vốn FPI gia tăng sẽ là một bảo đảm và tạo động lực hấp dẫn
hơn cho các nhà đầu tư khác mạnh dạn thông qua các quyết định đầu tư trực tiếp mới
của mình. Kết quả là gián tiếp góp phần làm tăng đầu tư trực tiếp xã hội từ phía các
nhà đầu tư cả nước ngoài cũng như trong nước.
Thứ hai, góp phần tích cực vào phát triển thị trường tài chính nói riêng, hoàn
thiện các thể chế và cơ chế thị trường nói chung.
Việc gia tăng và phát triển bộ phận thị trường vốn đầu tư gián tiếp sẽ làm cho
thị trường tài chính (đặc biệt là TTCK) Việt Nam trở nên đồng bộ, cân đối và sôi động
hơn, khắc phục được sự thiếu hụt, trống vắng và trầm lắng, thậm chí đơn điệu, kém
hấp dẫn kéo dài của thị trường này. Hơn nữa, điều kiện và như là kết quả đi kèm với
sự gia tăng dòng vốn FPI là sự phát triển nở rộ các định chế và dịch vụ tài chính –
chứng khoán. Cụ thể là sự xuất hiện các loại quỹ đầu tư, công ty tài chính, các thể chế
tài chính trung gian khác, cũng như các dịch vụ tư vấn, bổ trợ tư pháp và hỗ trợ kinh
doanh, xác định hệ số tín nhiệm, bảo hiểm, kế toán, kiểm toán và thông tin thị trường.
Đồng thời còn kéo theo sự gia tăng yêu cầu và hiệu quả áp dụng các nguyên tắc cạnh
tranh thị trường, trước hết là trên TTCK…. Tất cả những điều này trực tiếp và gián
tiếp góp phần phát triển mạnh mẽ hơn các bộ phận của thị trường tài chính nói riêng,
các thể chế và cơ chế thị trường nói chung trong nền kinh tế chuyển đổi của Việt Nam.
Thứ ba, tăng cường cơ hội và đa dạng hóa phương thức đầu tư, cải thiện chất
lượng nguồn nhân lực và thu nhập của dân chúng.
Việc phát triển thị trường vốn đầu tư gián tiếp cả về bề rộng và chiều sâu sẽ
mang lại những cơ hội mới và sự đa dạng hóa trong lựa chọn các phương thức đầu tư
13
cho các nhà đầu tư tiềm năng nước ngoài lẫn trong nước. Từ người dân, các doanh
nhân đến các tổ chức và pháp nhân đầu tư chuyên nghiệp và không chuyên nghiệp sẽ
có thêm điều kiện lựa chọn sử dụng vốn của mình để đầu tư dưới các hình thức trực
tiếp tự mình hay thông qua các định chế tài chính trung gian để mua – bán các cổ
phiếu, trái phiếu và chứng khoán có giá khác trên thị trường tài chính Việt Nam và
nước ngoài. Việc đầu tư này sẽ cho phép họ thu nhận được lợi nhuận từ sự chênh lệch
giá cả khi mua – bán chứng khoán, cũng như từ sở hữu theo thỏa thuận hoặc thực tế
kết quả kinh doanh của cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp phát hành chứng khoán đó.
Điều này cũng đồng nghĩa với việc cải thiện thu nhập, mức sống của đông đảo các nhà
đầu tư, tùy theo lượng vốn và kỹ năng đầu tư chứng khoán mà họ có. Hơn nữa, thông
qua quá trình tham gia đầu tư gián tiếp này, các nhà đầu tư trong nước và dân chúng sẽ
được dịp “cọ xát”, rèn luyện và bồi dưỡng kiến thức, kinh nghiệm, kỹ năng, bản lĩnh
đầu tư, nâng cao trình độ bản thân nói riêng, chất lượng nguồn nhân lực nói chung,
phù hợp yêu cầu và điều kiện kinh doanh hiện đại.
Thứ tư, nâng cao năng lực và hiệu quả quản lý nhà nước theo các nguyên tắc
và yêu cầu kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế.
Sự gia tăng dòng vốn FPI và phát triển thị trường tài chính sẽ đặt ra những yêu
cầu mới và cũng tạo các công cụ, khả năng mới cho quản lý nhà nước nói chung và
quản lý, quản trị doanh nghiệp nói riêng.
Việc quản lý và quản trị doanh nghiệp phát hành chứng khoán sẽ được thực
hiện nghiêm túc, hiệu quả hơn do yêu cầu về báo cáo tài chính doanh nghiệp và minh
bạch hóa, cập nhật hóa thông tin liên quan đến các chứng khoán mà doanh nghiệp đã
và sẽ phát hành. Hơn nữa, về nguyên tắc, các nhà đầu tư chỉ lựa chọn đầu tư vào
chứng khoán của các doanh nghiệp đáng tin cậy, đang và sẽ có triển vọng, phát triển
tốt trong tương lai. Chính điều này sẽ cho phép quá trình “chọn lọc nhân tạo”, “bỏ
phiếu” cho sự hỗ trợ và phát triển các doanh nghiệp này trở nên khách quan và phù
14
hợp cơ chế thị trường hơn (còn những doanh nghiệp khác mà chứng khoán của họ
không hấp dẫn sẽ phải điều chỉnh lại định hướng và chất lượng quản trị kinh doanh,
sáp nhập hoặc giải thể). Hệ thống luật pháp, cũng như các cơ quan, bộ phận và cá nhân
trong hệ thống quản lý nhà nước liên quan đến thị trường tài chính, nhất là đến FPI sẽ
phải được hoàn thiện, kiện toàn và nâng cao năng lực hoạt động hơn theo yêu cầu, đặc
điểm của thị trường này, cũng như theo các cam kết hội nhập quốc tế. Đồng thời,
thông qua tác động vào thị trường tài chính, nhà nước sẽ đa dạng hóa các công cụ và
thực hiện hiệu quả việc quản lý của mình theo các mục tiêu lựa chọn thích hợp. Trên
cơ sở đó, năng lực và hiệu quả quản lý nhà nước đối với nền kinh tế nói chung, thị
trường tài chính nói riêng sẽ được cải thiện hơn.
Tóm lại, sự có mặt của nhà ĐTNN sẽ làm cho TTCK ngày càng phát triển, phát
huy được hết những thế mạnh và khắc phục được một số điểm yếu cho thị trường. Vì
thế, nguồn vốn ngoại giữ vai trò vô cùng quan trọng trên TTCK Việt Nam. Kết hợp
với những gì mà TTCK mang lại cho nền kinh tế, có thể suy ra rằng, lượng vốn FPI
thông qua TTCK có những ảnh hưởng tích cực đến tăng trưởng kinh tế vĩ mô của Việt
Nam.
1.2. Vài nét về nguồn vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài trên thị trường chứng
khoán Việt Nam.
1.2.1. Khái niệm đầu tư gián tiếp nước ngoài và các hình thức đầu tư vào
thị trường chứng khoán Việt Nam.
1.2.1.1. Khái niệm.
Vốn đầu tư thường được phân loại theo nhiều tiêu chí: phân theo phương thức
đầu tư thì có vốn đầu tư gián tiếp và vốn đầu tư trực tiếp; phân theo nguồn vốn thì có
vốn nước ngoài và vốn trong nước….Theo điều 3 Luật Đầu tư của Việt Nam được
thông qua năm 2005 và có hiệu lực từ tháng 7/2006 đã xác định: “Đầu tư gián tiếp là
hình thức đầu tư thông qua việc mua cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu, các giấy tờ có giá
15
khác; thông qua quỹ đầu tư chứng khoán và thông qua các định chế tài chính trung
gian khác mà nhà đầu tư không trực tiếp tham gia quản lý hoạt động đầu tư”.
Đây là cách hiểu gần với định nghĩa của Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF): FPI là hoạt
động mua chứng khoán (cổ phiếu hoặc trái phiếu) được phát hành bởi một công ty
hoặc cơ quan Chính phủ của một nước khác trên thị trường tài chính trong nước hoặc
nước ngoài.
1.2.1.2. Các hình thức đầu tư gián tiếp nước ngoài.
Theo cách hiểu trên, FPI là các khoản đầu tư gián tiếp do các nhà ĐTNN thực
hiện, thông qua 2 hình thức chủ yếu sau:
Nhà đầu tư trực tiếp mua cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu và các giấy tờ có
giá khác của các doanh nghiệp, của Chính phủ và của các tổ chức tự trị được phép phát
hành trên thị trường tài chính.
Nhà đầu tư gián tiếp thực hiện đầu tư thông qua Quỹ đầu tư chứng khoán
hoặc định chế tài chính trung gian khác trên thị trường tài chính.
Hai đặc trưng cơ bản của FPI là:
Thứ nhất, nhà đầu tư không trực tiếp tham gia quản lý doanh nghiệp phát hành
chứng khoán hoặc các hoạt động quản lý nói chung của cơ quan phát hành chứng
khoán.
Thứ hai, nhà đầu tư không kèm theo cam kết chuyển giao tài sản vật chất, công
nghệ, đào tạo lao động và kinh nghiệm quản lý như trong đầu tư trực tiếp. FPI là đầu
tư tài chính thuần túy trên thị trường tài chính.
Như vậy có thể thấy FPI xuất hiện và phát triển gắn liền với sự hình thành và
phát triển của TTCK quốc gia và quốc tế.
16
Trên thực tế, FPI là dùng để chỉ các hình thức đầu tư không phải là đầu tư trực tiếp
nước ngoài truyền thống (tức đầu tư để lập doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, lập
liên doanh hoặc công ty cổ phần và kinh doanh theo hợp động hợp tác kinh doanh….),
song sự phân biệt này không phải lúc nào cũng rạch ròi và thống nhất. Chẳng hạn, khi
nhà đầu tư dùng vốn của mình để mua cổ phiếu của doanh nghiệp, nếu tỷ lệ cổ phiếu
do nhà đầu tư nắm giữ là thấp hơn mức nhất định (10% theo tiêu chuẩn của IMF và
30% theo tiêu chuẩn của Việt Nam hiện hành) thì là đầu tư gián tiếp, nhưng khi vượt
ngưỡng này thì lại được xếp vào đầu tư trực tiếp và lúc này, nhà đầu tư có thể dùng
quyền bỏ phiếu của mình để can thiệp trực tiếp vào thực tế quản lý, kinh doanh của
doanh nghiệp….
1.2.2. Đặc điểm của vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài.
Tính thanh khoản.
Do tài sản đầu tư tồn tại dưới dạng những công cụ tài chính, nhà ĐTNN có thể
dễ dàng mua bán, trao đổi những chứng khoán mà họ đang nắm giữ bất cứ khi nào họ
muốn. Tính thanh khoản cao của FPI khiến cho hình thức đầu tư này mang tính ngắn
hạn và cũng là đặc tính hấp dẫn nhất của phương thức đầu tư này.
Tính bất ổn và dễ bị đảo ngược
Do có thể thay đổi nhanh để tìm kiếm tỷ suất sinh lợi cao hơn hay để có được
mức độ rủi ro thấp với lợi nhuận chấp nhận được, tức là tính thanh khoản cao, FPI có
đặc tính bất ổn và dễ bị đảo ngược.
Tính bất ổn trong một giới hạn nào đó là có lợi khi nó cung cấp những cơ hội
kinh doanh với lợi nhuận cao và khiến cho thị trường tài chính nội địa thêm năng
động, hiệu quả. Tính bất ổn còn là dấu hiệu cho thấy những nhìn nhận của những nhà
đầu tư về một môi trường đầu tư tiềm năng, hấp dẫn hoặc có những dấu hiệu suy thoái
tiêu cực trong nền kinh tế, tạo động lực để các cơ quan nhà nước khắc phục những yếu
17
kém tồn tại trong quá trình hội nhập và phát triển. Tính bất ổn chỉ ra rằng thị trường
đang tìm kiếm những hình thức phân bổ vốn tốt nhất cho những cơ hội kinh doanh
hiện hành.
Tuy nhiên, nếu bất ổn xảy ra với mức độ lớn, cụ thể là khi có sự đảo ngược
dòng vốn sẽ gây ra những tác động tiêu cực cho nền kinh tế nói chung và hệ thống tài
chính quốc gia nói riêng.
Tính đa dạng
Đầu tư gián tiếp có thể tồn tại dưới nhiều hình thức: trái phiếu, cổ phiếu, giấy
nợ thương mại hoặc dưới dạng các công cụ phái sinh: kỳ hạn, giao sau, quyền chọn…
1.2.3. Các giai đoạn thu hút vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài vào Việt Nam
từ năm 1990 đến nay.
Từ thập niên 90 của thế kỷ trước đến nay, Việt Nam đã trải qua 3 giai đoạn thăng trầm
của nguồn vốn đầu tư gián tiếp.
Giai đoạn 1 (1988 – 1997): là thời kỳ mở đầu, dòng vốn FPI đã vào Việt Nam
theo xu hướng đổi mới. Mở cửa thu hút ĐTNN diễn ra trong phạm vi cả nước và các
chính sách cải cách là động lực, hy vọng chung cho các nhà ĐTNN. Trong giai đoạn
này, ở Việt Nam đã có 7 Quỹ đầu tư nước ngoài được thành lập với tổng số vốn được
huy động khoảng 400 triệu USD.
Giai đoạn 2 (1998 – 2002): là thời kỳ khủng hoảng và hậu khủng hoảng tài
chính – tiền tệ châu Á khiến các dòng đầu tư trực tiếp và gián tiếp nước ngoài đổ vào
châu Á bị chững lại và Việt Nam cũng chịu ảnh hưởng chung của xu hướng này với
việc giảm sút và thu hẹp đáng kể quy mô thu hút của cả FDI và FPI. Trong số 7 Quỹ
đầu tư kể trên có 5 Quỹ rút khỏi Việt Nam, 1 Quỹ thu hẹp trên 90% quy mô quỹ, chỉ
còn duy nhất Quỹ Vietnam Enterprise Investment Fund được thành lập 7/1995 với quy
mô vốn 35 triệu USD (nhỏ nhất trong số 7 Quỹ) là còn hoạt động cho đến nay.
18
Giai đoạn 3 (từ 2003 đến nay): là thời kỳ phục hồi trở lại của dòng vốn FPI vào
Việt Nam cùng với xu hướng tăng cường cải thiện môi trường đầu tư, phát triển các
định chế thị trường tài chính, trong đó có lập sàn giao dịch chứng khoán ở thành phố
Hồ Chí Minh tháng 7/2000 và TTGDCK Hà Nội tháng 3/2005. Đặc biệt có thể kể đến
là chủ trương và quyết tâm của Chính phủ đẩy mạnh cổ phần hóa và nới lỏng tỷ lệ nắm
giữ cổ phần của các nhà ĐTNN trong các DNNN lớn được cổ phần hóa (từ 30% lên
49%)….Chỉ tính đến tháng 6/2006, cả nước đã có 19 Quỹ đầu tư nước ngoài với tổng
vốn 1,9 tỷ USD đang hoạt động ở Việt Nam. Tính đến nay tổng cộng vốn FPI Việt
Nam thu hút tăng từ 2 – 3% so với tổng vốn FDI mà chúng ta đã thu hút được trong
cùng thời kỳ lên hơn 10% (so với tỷ lệ trung bình 30 – 40% của các nước khu vực thì
đây vẫn là 1 tỷ lệ thấp…). Tuy nhiên, có thể cảm nhận khá rõ rệt và xác đáng những
triển vọng rất sáng sủa của dòng vốn FPI đổ vào Việt Nam trong thời gian tới, đặc biệt
từ sau khi Việt Nam triển khai các cam kết hội nhập WTO và thúc đẩy trên thực tế quá
trình cổ phần hóa các DNNN lớn đang hoạt động trong các lĩnh vực độc quyền hoặc
gần như độc quyền hiện nay.
Tóm lại, từ khi xuất hiện ở Việt Nam đến nay, vốn FPI có 3 làn sóng lớn. Làn
sóng đầu tiên vào năm 1990, Việt Nam tiếp cận hình thức đầu tư mới với 7 quỹ đầu tư
với số vốn huy động khoảng 700 triệu USD. Làn sóng thứ 2 xuất hiện 5 năm sau
khủng hoảng tài chính Châu Á. Năm 2002, quỹ Mekong Enterprise Fund hình thành
với số vốn 18.5 triệu USD. Sau đó, Việt Nam liên tục tiếp nhận hơn 10 quỹ với tổng
vốn vượt trên 1 tỷ USD. Từ tháng 7/2006 đã có hơn 20 quỹ nước ngoài với khoảng 2
tỷ USD đang hoạt động tại Việt Nam, đây được xem là làn sóng đầu tư thứ 3 đổ vào
TTCK Việt Nam.
1.2.4. Một vài tác động tiêu cực của vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài.
Bên cạnh tác động tích cực, việc gia tăng thu hút FPI có thể gây ra những tác
động tiêu cực sau:
19
Tăng mức độ nhạy cảm và bất ổn của nền kinh tế
Khác với đầu tư trực tiếp là nguồn vốn đầu tư lâu dài chủ yếu dưới dạng vật
chất, khó chuyển đổi hoặc thanh khoản thấp, vốn FPI được thực hiện dưới dạng đầu tư
tài chính thuần túy với các chứng khoán có thể chuyển đổi và mang tính thanh khoản
cao trên thị trường tài chính.Vì thế, các nhà đầu tư có thể dễ dàng và nhanh chóng mở
rộng hoặc thu hẹp, thậm chí đột ngột rút vốn đầu tư của mình về nước, hay chuyển
sang đầu tư dưới dạng khác, ở nước khác. Mặc dù thực tế, nhà ĐTNN không thể thoái
vốn trong thời gian ngắn và phụ thuộc nhiều vào chính sách kiểm soát vốn của nước
tiếp nhận đầu tư. Chính vì vậy, so với các hình thức đầu tư trực tiếp thì FPI có xu
hướng kém ổn định hơn do đặc tính thị trường và khả năng thanh khoản cao. Có thể kể
ra 3 loại rủi ro:
Rủi ro vĩ mô: Dòng vốn FPI lớn chảy vào có thể làm mất cân bằng vĩ mô
đặc biệt khi chính sách vĩ mô không nhất quán và hướng tới những mục tiêu mâu
thuẫn.
Nguy cơ phổ biến nhất là đồng bản tệ lên giá, chính điều đó phá vỡ cân bằng tài
khoản vốn đồng thời khiến cán cân tài khoản vãng lai xấu đi do tính cạnh tranh của
hàng hóa và dịch vụ trong nước giảm, làm tích tụ nợ nước ngoài. Tuy nhiên, những rủi
ro này sẽ được hạn chế nếu nền kinh tế có các yếu tố cơ bản được cải thiện như cán
cân thanh toán có vị thế, lạm phát thấp so với thế giới hoặc năng suất lao động cao hơn
so với các nước khác.
Rủi ro đầu tư không sinh lời: Đầu tư không sinh lời dẫn đến việc phân bổ
nguồn vốn không hiệu quả. Một số nước quá tải về hấp thụ vốn, tốc độ tăng trưởng
kinh tế suy giảm, nguy cơ này xuất phát từ nội tại yếu kém của quản lý nền kinh tế.
Một trong những điểm yếu là nền tài chính thiếu minh bạch, các kết quả hoạt động
kinh doanh không được đánh giá đúng và công khai, dẫn đến sai lệch thông tin, làm
cho quyết định đầu tư sai.
20
Rủi ro khủng hoảng tài chính tiền tệ: Khủng hoảng tài chính tiền tệ là
khái niệm bao trùm được sử dụng chung cho mọi loại khủng hoảng gắn với mất cân
đối về tài chính và thường là gắn với nghĩa vụ phải thanh toán lớn hơn nhiều phương
tiện dùng để thanh toán tại một thời điểm nào đó. Tính thanh khoản rất cao của nguồn
vốn FPI là nguyên nhân hàng đầu gây ra rủi ro này. Khủng hoảng có thể xảy ra khi các
nhà ĐTNN ồ ạt rút vốn với quy mô lớn, khi nền kinh tế gặp phải các cú sốc, nếu khu
vực tài chính nội địa không có khả năng đương đầu với sự đảo ngược của dòng vốn
hoặc FPI không được điều tiết, giám sát thận trọng.
Ảnh hưởng đến tính độc lập của chính sách tiền tệ và sự ổn định của tỷ giá
Theo mô hình Mundell- Fleming được Robert Mundell và Marcus Fleming phát triển
trong những năm 1960, một quốc gia không thể đồng thời thực hiện cùng một lúc 3
mục tiêu chính sách vĩ mô: đó là chính sách tiền tệ độc lập, ổn định tỷ giá và tự do hóa
dòng vốn.
21
Cùng với quá trình tự do hóa dần tài khoản vốn, NHTW các nước chỉ có thể đạt
được một trong hai mục tiêu còn lại: sự độc lập trong chính sách tiền tệ hay giữ ổn
định tỷ giá. Việc cố phá bỏ các nguyên tắc này sẽ khiến cho các chính sách kinh tế vĩ
mô trở nên mâu thuẫn nhau và dẫn đến những hậu quả tiêu cực cho nền kinh tế. Tuy
nhiên, cũng không phải là không có những biện pháp làm hài hòa những mục tiêu trên
với một mức độ nhất định ở những điều kiện kinh tế cụ thể.
Gia tăng nguy cơ bị mua lại, sáp nhập, khống chế và lũng đoạn tài chính
đối với các doanh nghiệp và tổ chức phát hành chứng khoán
Sự gia tăng tỷ lệ nắm giữ chứng khoán, nhất là các cổ phiếu, cổ phần sáng lập,
được biểu quyết của nhà ĐTNN đến một ngưỡng nào đó sẽ cho phép họ tham dự trực
tiếp vào chi phối và quyết định các hoạt động sản xuất kinh doanh và các chủ quyền
khác của doanh nghiệp. Đó là nguyên nhân mà trong thời gian gần đây nhiều nhà phân
tích cho rằng các tập đoàn kinh tế Việt Nam, các công ty cổ phần lớn có thể bị thôn tín
bởi các tập đoàn quốc tế khác.
Làm tăng quy mô, tính chất và sự cấp thiết đấu tranh với tình trạng tội
phạm kinh tế quốc tế
Đầu tư gián tiếp quốc tế không chỉ làm gia tăng các nguy cơ và tác hại của các
hoạt động đầu cơ, lũng đoạn kinh tế, vi phạm các quy định pháp lý của nước tiếp nhận
đầu tư, mà còn là mảnh đất màu mỡ sinh sôi và phát triển các loại tội phạm kinh tế có
yếu tố nước ngoài, thậm chí xuyên quốc gia. Chẳng hạn như hoạt động lừa đảo, hoạt
động rửa tiền, hoạt động tiếp vốn cho các kinh doanh phi pháp và hoạt động khủng bố,
cùng các loại tội phạm và các đe dọa an ninh phi truyền thống khác.
Sự cộng hưởng của các hoạt động tội phạm và tác động mặt trái của dòng vốn
FPI kể trên, nhất là khi chúng diễn ra một cách “có tổ chức” của giới đầu cơ hay lực
lượng thù địch chính trị quốc tế, sẽ ít nhiều, trực tiếp hay gián tiếp, trước mắt và lâu
dài gây tổn hại tới hoạt động kinh tế lành mạnh và làm tăng tính dễ tổn thương của nền
22
kinh tế nước tiếp nhận đầu tư trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay. Thậm chí trong
một số trường hợp, chúng còn làm mất uy tín nhà nước và gây sụp đổ nội các một
Chính phủ.
Ngoài ra, sự gia tăng dòng vốn FPI vào Việt Nam còn đặt ra yêu cầu chính phủ
và các cơ quan nhà nước phải chủ động đổi mới và sử dụng hiệu quả các công cụ quản
lý kinh tế của mình theo nguyên tắc thị trường hơn, trong đó có việc sử dụng bảo lãnh
nhà nước, quy định tỷ lệ và sử dụng các công cụ dự phòng, dư nợ cũng như các công
cụ khác của các định chế tài chính – tiền tệ quốc gia và địa phương. Tất cả những điều
này là cần thiết để đảm bảo sự thu hút và khai thác có hiệu quả các tác động tích cực
của dòng vốn FPI.
1.3. Những nhân tố tác động đến việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào thị
trường chứng khoán.
Cũng như FDI, động thái dòng vốn FPI chịu ảnh hưởng trực tiếp và mạnh mẽ
của các nhân tố như bối cảnh quốc tế (hòa bình, ổn định vĩ mô, các quan hệ ngoại giao
và môi trường pháp lý quốc tế thuận lợi); nhu cầu và khả năng đầu tư của nhà ĐTNN;
mức độ tự do hóa và sức cạnh tranh (chủ yếu là ưu đãi tài chính và sự thân thiện, thuận
tiện của quản lý nhà nước đối với nhà đầu tư) của môi trường đầu tư trong nước; sự
phát triển của hệ thống tiền tệ và các dịch vụ hỗ trợ kinh doanh nói riêng, của các thể
chế thị trường nói chung ở nước tiếp nhận đầu tư…..
Nhưng khác với đầu tư trực tiếp, vốn FPI chịu ảnh hưởng trực tiếp mạnh hơn từ
phía các nhân tố, như:
o Độ mở cửa của TTCK, chất lượng của các cổ phiếu, trái phiếu do doanh
nghiệp và nhà nước phát hành, cũng như các chứng khoán có giá khác lưu thông trên
thị trường tài chính.
23
o Chính sách kiểm soát vốn đầu tư nước ngoài của Chính phủ nước tiếp
nhận, khả năng quản lý và điều tiết dòng vốn ngoại.
o Sự đa dạng và vận hành có hiệu quả của các định chế tài chính trung
gian (trước hết là các Quỹ đầu tư chứng khoán, công ty đầu tư tài chính các loại, các
Quỹ đầu tư đại chúng, Quỹ đầu tư mạo hiểm, Quỹ thành viên).
o Chất lượng của hệ thống thông tin và dịch vụ chứng khoán, trong đó có
các tổ chức cung cấp dịch vụ tư vấn và dịch vụ định mức hệ số tín nhiệm doanh nghiệp
và chứng khoán.
o Đặc biệt, dòng vốn FPI sẽ chảy mạnh vào trong nước theo mức tỷ lệ
thuận và cấp số nhân cùng với sự gia tăng quá trình cổ phần hóa các DNNN, doanh
nghiệp tư nhân và doanh nghiệp có vốn ĐTNN đang hoạt động hiệu quả ở trong nước,
cũng như cùng với việc nới rộng tỷ lệ nắm giữ cổ phần của các nhà ĐTNN trong các
doanh nghiệp đó.
Tiếp theo, chúng tôi sẽ trình bày một vài tác động của các nhân tố phổ biến đến
vốn FPI vào TTCK Việt Nam.
1.3.1. Bối cảnh chính trị, hệ thống pháp luật.
Ổn định chính trị, phát triển mối quan hệ ngoại giao, hoàn thiện hệ thống pháp
luật đầu tư luôn được xem là những nhiệm vụ quan trọng. Bởi lẻ đất nước đang phát
triển theo cơ chế thị trường, nhu cầu vốn đầu tư trong và ngoài nước rất lớn. Chính trị
bất ổn, pháp lý chưa hoàn chỉnh, có nhiều bất cập, kẻ hở thì sẽ rất khó để các nhà
ĐTNN tin tưởng vào khả năng đem lại lợi nhuận đầu tư, đồng thời tạo điều kiện thuận
lợi cho các hành vi phạm tội quốc tế. Đất nước hòa bình, ngoại giao phát triển sẽ là
môi trường đầu tư an toàn và hấp dẫn đối với các nhà ĐTNN trong bối cảnh chính trị-
xã hội các nước khác có nhiều biến động. Khung pháp lý hoàn thiện, cơ chế đầu tư
tinh gọn cũng sẽ là những nhân tố hỗ trợ tốt cho quá trình thu hút dòng vốn ngoại.
24
1.3.2. Tiềm năng thị trường, trung gian tài chính.
Với một TTCK hình thành chưa lâu như TTCK Việt Nam, sự đánh giá cao về
tiềm năng phát triển, tính bền vững của thị trường và sự hỗ trợ của các trung gian tài
chính…là những yếu tố rất cần thiết. Khi được các nhà đầu tư đánh giá là một thị
trường có nhiều tiềm năng, có hàng hóa đa dạng, chất lượng hàng hóa tốt, dịch vụ tài
chính hoàn thiện và đầy đủ…đồng nghĩa với việc thị trường sẽ có khả năng thu được
một lượng vốn nước ngoài lớn trong tương lai. Ngược lại, thị trường đang được dự báo
tăng trưởng quá nóng, hay có suy thoái thì sẽ rất khó để các nhà ĐTNN đổ vốn vào
trong nước.
1.3.3. Chất lượng thông tin.
Thế giới luôn vận động và không ngừng phát triển. Do đó, ai là người nắm
được thông tin trước nhất, chính xác nhất người đó sẽ có được tất cả. Điều này càng
thể hiện tính đúng đắn rất cao trong lĩnh vực tài chính. Chất lượng thông tin- sự nhanh
chóng, minh bạch và có quản lý của thông tin sẽ là một trong những điều kiện rất quan
trọng thúc đẩy nhà ĐTNN tham gia vào TTCK Việt Nam. Ngược lại, như trong bối
cảnh của Việt Nam hiện nay, bộ phận quản lý của doanh nghiệp còn yếu kém, hệ
thống kế toán kiểm toán còn nhiều bất cập, hệ thống thông tin còn thiếu và yếu, các
báo cáo tài chính doanh nghiệp chưa trung thực…thì sẽ rất khó để các nhà ĐTNN có
đủ niềm tin vào một tương lai tốt của chứng khoán Việt Nam.
1.3.4. Biện pháp kiểm soát dòng vốn.
Các biện pháp kiểm soát vốn của quốc gia nhận đầu tư cũng có tác động không
nhỏ đến việc duy trì và phát triển lượng vốn FPI. Nếu chính phủ có những biện pháp
kiểm soát quá chặt, ngăn cản các luồng vốn vào hay kiểm soát thái quá vào dòng vốn
thoái thì sẽ rất khó để TTCK có thể thu hút vốn ngoại, phát huy hết vai trò của mình.
Nhưng nếu mở cửa thị trường vốn thì rất có thể đẩy nền kinh tế rơi vào tăng trưởng
25
nóng. Chính vì thế, kiểm soát dòng vốn ngoại luôn được chính phủ quan tâm và tìm
phương án phù hợp trong mỗi giai đoạn.
Ngoài ra, sự luân chuyển vốn còn chịu ảnh hưởng bởi các biện pháp kiểm soát
vốn của nước đầu tư. Việc áp dụng các biện pháp này nhằm đối phó với sự yếu kém về
cấu trúc trong vị thế cán cân thanh toán quốc gia. Ngay cả những nước như Úc, Đan
Mạch, Pháp, Na Uy có lúc cũng đã áp dụng biện pháp hạn chế chuyển nội tệ ra nước
ngoài tuy nhiên những năm gần đây đã trở nên thoáng hơn.
1.3.5. Chính sách tỷ giá hối đoái.
Các biến động tỷ giá hối đoái thực được dự báo bởi các nhà đầu tư chứng khoán
cũng có thể ảnh hưởng đến dòng FPI. Nếu nội tệ của một nước được dự kiến tăng giá,
các nhà ĐTNN có thể sẵn sàng đầu tư vào chứng khoán của nước đó để hưởng lợi từ
các biến động tiền tệ. Ngược lại, dòng FPI vào của một quốc gia sẽ giảm nếu đồng nội
tệ của quốc gia đó dự kiến suy yếu, khi các yếu tố khác không đổi.
1.3.6. Lạm phát- lãi suất.
Có thể khẳng định, tự do hóa đầu tư, ổn định tỷ giá và chính sách tiền tệ của
một quốc gia có mối quan hệ rất mật thiết với nhau. Chúng thường được nhắc đến
cùng với thuật ngữ “bộ ba bất khả thi”, bởi vì chúng ta không thể nào vừa hội nhập tài
chính hoàn toàn vừa có chính sách tiền tệ độc lập đồng thời lại duy trì được một chính
sách tỷ giá ổn định. Cả ba luôn phải đặt trong mối quan hệ qua lại lẫn nhau, chính phủ
mỗi quốc gia chỉ có thể một phương án tương đối chấp nhận được phù hợp với mục
tiêu chính sách hiện thời. Vì thế, một khi chính phủ có động thái và tiến hành thay đổi
chính sách tiền tệ (thay đổi lãi suất, tỷ lệ dự trữ bắt buộc…) thì sẽ ảnh hưởng đến hoặc
chính sách tỷ giá hoặc chính sách thu hút đầu tư. Dựa vào lý thuyết “Bộ ba bất khả
thi”, chúng ta có thể thấy được ảnh hưởng của lãi suất đến vốn FPI dù trực tiếp hay
gián tiếp thông qua tỷ giá. Cụ thể, theo lý thuyết, khi lãi suất huy động tăng sẽ làm