Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

Suy thoái kinh tế, thực trạng và giải pháp chống suy thoái kinh tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (519.13 KB, 27 trang )


Suy thoái kinh tế,thực trạng và giải pháp chống suy thoái kinh tế
LỜI MỞ ĐẦU
Như chúng ta đã biết,từ năm 2007 đến đầu năm 2008 thế giới đã chịu tác động mạnh
mẽ của cuộc khủng hoảng tài chính bắt nguồn từ nước Mỹ,từ đó lan rộng ra cả thế
giới,trong đó có Việt Nam,nước ta đã có những dấu hiệu suy thoái rõ rệt,tỉ lệ tăng
trưởng thấp,lạm phát cao,đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn.Để chống suy
thoái,chính phủ đã có một số biện pháp đẩy mạnh tăng trưởng như kích cầu…Và
trong giai đoạn hiện nay,kinh tế thế giới đã bắt đầu có những dấu hiệu suy thoái trở
lại,tỉ lệ thất nghiệp tăng lên,thị trường chứng khoán suy yếu,nhu cầu dầu mỏ suy
yếu…Trước tình hình trên,chính phủ đã làm gì để chống lại cuộc suy thoái kinh tế.
Sau đây nhóm em xin trình bày về đề tài”suy thoái kinh tế,thực trạng và giải pháp
chống suy thoái kinh tế” để khái quát về suy thoái kinh tế và phân tích một số giải
pháp,kiến nghị để chống suy thoái kinh tế.
Xin chân thành cảm ơn!

Suy thoái kinh tế,thực trạng và giải pháp chống suy thoái kinh tế
1. CƠ SỞ LÝ THUYẾT
1.1. Định nghĩa
 Theo kinh tế học : Suy thoái kinh tế (tiếng Anh: recession/economic
downturn) được định nghĩa là sự suy giảm của Tổng sản phẩm quốc nội thực trong thời
gian hai hoặc hơn hai quý liên tiếp trong năm (nói cách khác, tốc độ tăng trưởng kinh
tế âm liên tục trong hai quý).
 Theo Cơ quan nghiên cứu kinh tế quốc gia (NBER) của Hoa Kỳ : Suy
thoái kinh tế là một sự suy giảm đáng kể của GDP, thu nhập, việc làm, sản xuất công
nghiệp, và doanh số bán hàng bán buôn-bán lẻ trong hoạt động kinh tế kéo dài nhiều
tháng .
1.2. Một số đăc điểm thường gặp của suy thoái
Tiêu dùng của người dân giảm mạnh, hàng tồn kho của các loại hàng hóa lâu
bền trong các doanh nghiệp tăng lên ngoài dự kiến. Việc này dẫn đến nhà sản xuất cắt
giảm sản lượng kéo theo đầu tư vào trang thiết bị, nhà xưởng cũng giảm và kết quả


là GDP thực tế giảm sút.
Cầu về lao động giảm, đầu tiên là số ngày làm việc của người lao động giảm
xuống tiếp theo là hiện tượng cắt giảm nhân công và tỷ lệ thất nghiệp tăng cao.
Khi sản lượng giảm thì lạm phát sẽ chậm lại do giá đầu vào của sản xuất giảm
bởi nguyên nhân cầu sút kém. Giá cả dịch vụ khó giảm nhưng cũng tăng không nhanh
trong giai đoạn kinh tế suy thoái.
Lợi nhuận của các doanh nghiệp giảm mạnh và giá chứng khoán thường giảm
theo khi các nhà đầu tư cảm nhận được pha đi xuống của chu kỳ kinh doanh. Cầu
về vốn cũng giảm đi làm cho lãi suất giảm xuống trong thời kỳ suy thoái.
1.3. Các kiểu suy thoái
1.3.1. Suy thoái hình chữ V
Đây là kiểu suy thoái diễn sura trong thời gian ngắn, tốc độ suy thoái lớn; đồng
thời, thời gian phục phồi cũng ngắn và tốc độ phục hồi nhanh; điểm đồi chiều giữa hai
pha này rõ ràng. Đây là kiểu suy thoái thường thấy.

Suy thoái kinh tế,thực trạng và giải pháp chống suy thoái kinh tế
Biểu đồ 1: Suy thoái hình chữ V.
Theo hình, nền kinh tế suy thoái nhanh nhưng phục hồi nhanh, thời gian nền
kinh tế ở dưới đáy rất ngắn thường kéo dài vài quý. Đây là kịch bản lạc quan nhất, IMF
đã dự báo mô hình này cho nền kinh tế toàn cầu trong dự báo tháng 01/2010. Khi sự
suy thoái hiện nay bắt đầu ở Mỹ, nhiều ý kiến hy vọng rằng nền kinh tế này sẽ suy
thoái theo chữ V. Thật không may nhiều nhà kinh tế, trong đó có Nouriel Roubini
không ủng hộ ý kiến này và thực tế có lẽ cũng đang diễn ra như vậy.
1.3.2. Suy thoái hình chữ U
Đây là kiểu suy thoái mà thời gian phục hồi rất chậm. Nền kinh tế sau một thời
kỳ suy thoái mạnh tiến sang thời kỳ vất vả để thoát khỏi suy thoái. Trong thời kỳ thoát
khỏi suy thoái, có thể có các quý tăng trưởng dương và tăng trưởng âm xen kẽ nhau.
Biểu đồ 2: Suy thoái hình chữ U.
1.3.3. Suy thoái hình chữ W
Đây là kiểu suy thoái liên tiếp. Nền kinh tế vừa thoát khỏi suy thoái được một

thời gian ngắn lại tiếp tục rơi ngay vào suy thoái.

Suy thoái kinh tế,thực trạng và giải pháp chống suy thoái kinh tế
Biểu đồ 3: Suy thoái hình chữ W.
Suy thoái này cũng được biết đến là kiểu suy thoái của nền kinh tế lún sâu 2 lần
(double-dipped). Theo hình này, nền kinh tế suy thoái và theo sau là phục hồi nhỏ và
tạm thời, sau khi gia tăng tạm thời như một vài tháng nền kinh tế trở lại suy giảm thấp
hơn một lần nữa, trước khi nền kinh tế thực sự đi vào phục hồi đầy đủ. Tình hình này là
do những quyết định về chính sách tiền tệ không rõ ràng, không năng động và không
hiệu quả cũng như nền kinh tế đụng phải những “vùng lõm” trước một sự kiện bất ngờ
khác như là: tiến trình sắp xếp hệ thống ngân hàng diễn ra “chậm và khó nhọc”, sự
phức tạp của hệ thống kinh tế tài chính ngày càng đan xen, sự ủng hộ chính trị cho các
gói giải cứu tài chính ngân hàng giảm đi.
1.3.4. Suy thoái hình chữ L
Đây là kiểu suy thoái mà nền kinh tế rơi vào suy thoái nghiêm trọng rồi suốt một
thời gian dài không thoát khỏi suy thoái. Một số nhà kinh tế gọi tình trạng suy thoái
không lối thoát này là khủng hoảng kinh tế.
Biểu đồ 4: Suy thoái hình chữ L.

Suy thoái kinh tế,thực trạng và giải pháp chống suy thoái kinh tế
2. THỰC TRẠNG
2.1. Suy thoái kinh tế thế giới giai đoạn 2007 – 2009:
2.1.1. Thực trạng suy thoái kinh tế thế giới giai đoạn 2007 – 2009:
 Các nước phát triển:
Các nước phát triển nói chung bắt đầu suy giảm tốc độ tăng trưởng từ quý III
năm 2007 và GDP bắt đầu giảm từ quý III năm 2008. Quý IV năm 2008 ghi nhận mức
thu hẹp GDP của các nước phát triển nói chung lên đến 7,97%.
Hoa Kỳ là trung tâm của suy thoái kinh tế toàn cầu mặc dù không phải là nước
suy thoái nghiêm trọng nhất. Quỹ Tiền tệ Quốc tế ước lượng rằng nền kinh tế Hoa Kỳ
năm 2009 thu hẹp 2,6%. Tỷ lệ thất nghiệp ở Hoa Kỳ đã tăng từ mức 4,9% vào tháng 12

năm 2007 lên 9,5% vào tháng 6 năm 2009.
Biểu đồ 5: Tăng trưởng GDP Mỹ từ quý 4/2007đến hết quý 3/2009 (Nguồn:
CNNMoney).
Bộ trưởng Bộ Tài chính Ba Lan Jacek Rostowski nói: “Chúng ta nên nhận thức
về nguy cơ của cuộc chiến này bởi nó không chỉ liên quan tới “thể trạng” của thế hệ
hiện nay hay kế tiếp, mà còn về việc chúng ta chiến đấu cho sự an toàn của thế hệ hiện
nay và thế hệ mai sau.
"Nếu khu vực đồng tiền chung châu Âu bị chia rẽ, Liên minh châu Âu cũng khó
thoát khỏi cảnh bị chia rẽ. Khó có thể tưởng tượng rằng châu Âu được an toàn như hiện
nay mà lại không có Liên minh châu Âu”, ông Rostowski nói thêm.
Trong các nước OECD, chỉ có Hy Lạp, Hàn Quốc, Ba Lan, Slovaky là không bị
rơi vào suy thoái kinh tế, song vẫn bị suy giảm tốc độ tăng trưởng.
Các nước công nghiệp hóa mới châu Á đều là những nền kinh tế theo định
hướng xuất khẩu. Suy giảm tăng trưởng kinh tế thế giới đã làm GDP của các nước này
đang từ chỗ tăng tới 5,1% trong năm 2007 giảm xuống chỉ còn tăng 1,5% trong năm
2008 và dự kiến sẽ giảm 5,2% trong năm 2009.
Nhiều tờ báo châu Âu như Libération và Le Figaro của Pháp đã bày tỏ thái độ
bất bình về sự chần chừ của châu Âu. Theo các báo này dẫn phân tích của giới kinh tế

Suy thoái kinh tế,thực trạng và giải pháp chống suy thoái kinh tế
học, trong bối cảnh khu vực đồng Euro đang bị đe dọa như hiện nay, 17 quốc gia thành
viên không những không đưa ra được giải pháp trấn an thị trường, mà còn lại công khai
cãi vã với nhau về những biện pháp đã được thông qua.
Peter Cardillo, chuyên gia kinh tế trưởng của hãng Rockwell Global Capital ở
New York, cho biết điều cốt yếu là các quốc gia công nghiệp đã cố gắng thuyết phục
thị trường đồng Euro vẫn tồn tại, khu vực đồng Euro không tan rã và Hy Lạp có thể
không vỡ nợ.
Ấn Độ, Brasil và Trung Quốc bị suy giảm tốc độ tăng trưởng trong năm 2008
nhưng đã nhanh chóng trở lại tăng trưởng nhanh trong năm 2009.
Còn theo Mark Leibovit, chiến lược gia của VRGold Trader.com, “tôi e rằng,

nhiều chỉ báo cho thấy giá vàng có thể xuyên thủng ngưỡng hỗ trợ 1.702 USD/ounce,
dù không phải là ngay trong tuần này, nhưng điều này sẽ sớm xảy ra. Khối lượng giao
dịch đang suy giảm và điều này có thể sẽ tiếp tục xảy ra trong tuần này”. Tuần qua, giá
vàng bốc hơi gần 2,5%, mức giảm mạnh nhất kể từ đầu tháng 5.
 Các nước đang phát triển:
Trong các nước đang phát triển, những nước thuộc SNG bị tác động nghiêm
trọng. Các nước này bị đồng thời nhiều cú sốc: những rối loạn tài chính khiến cho các
nước này trở nên khó tiếp cận các nguồn tài chính nước ngoài, nhu cầu đối với hàng
xuất khẩu của họ giảm, giá nguyên liệu-năng lượng giảm, kiều hối giảm.
Mexico bị suy giảm nhiều nhất do nền kinh tế này gắn kết chặt chẽ với kinh tế
Hoa Kỳ. GDP của Mexico giảm tới 3,7% trong năm 2009. Những nước lớn khác có
GDP giảm là Argentina, Ecuador và Venezuela.
Tất cả các nước ở Trung Đông đều bị suy giảm kinh tế. Những nước Trung
Đông xuất khẩu nhiều dầu lửa là Ả Rập Saudi, UAE và Kuwait còn bị giảm GDP. Kinh
tế Israel cũng bị giảm 1,7% trong năm 2009.
Kinh tế các nước châu Phi gặp khó khăn chủ yếu do xuất khẩu của họ bị giảm
(do lượng cầu thế giới giảm và do giá nguyên liệu-năng lượng giảm) và kiều hối bị
giảm. Các nước Ghana, Kenya, Nigeria, Nam Phi và Tunisia bị giảm nguồn vốn nước
ngoài (FDI và đầu tư gián tiếp).
2.1.2. Tác động của suy thoái kinh tế thế giới đến Việt Nam:
a. Tác động tiêu cực:
 Đối với thị trường tài chính:
Mặc dù Việt Nam không chịu tác động trực tiếp, nhưng tác động gián tiếp cũng
khá lớn. Tác động này được thể hiện thông qua việc các khoản nợ ngắn hạn của các
doanh nghiệp Việt Nam gặp khó khăn khi lãi suất cho vay liên ngân hàng quốc tế tăng.
Tiền gửi ngân hàng nước ngoài và các ngân hàng trong nước sẽ bị giảm lợi tức do lãi
suất ngân hàng tại các nước này đang giảm sút, do các nước này cần nới lỏng tiền tệ để
tránh lâm vào suy thoái sâu rộng.

Suy thoái kinh tế,thực trạng và giải pháp chống suy thoái kinh tế

Thị trường chứng khoán Việt Nam cũng có thể bị ảnh hưởng nhưng cũng không
đáng kể do sự liên kết giữa thị trường Việt Nam với thế giới là không cao. Điều đáng lo
ngại là việc phát hành và huy động vốn trên thị trường quốc tế là khó khăn và chi phí
tăng cao.
Thị trường chứng khoán tại Mỹ và châu Á đi xuống đã làm giá cổ phiếu của
nước ta tụt giảm nghiêm trọng – hai lần chọc thủng đáy. Thế cho nên mới biết sự suy
thoái toàn cầu cũng sẽ tác động không tốt đến thị trường chứng khoán nước ta .
Kiều bào ta ở Mỹ, châu Âu hay các nước khác cũng sẽ gặp khó khăn khi mà các
nước này lâm vào suy thoái. Dòng tiền ngoại hối do đó sẽ giảm sút đáng kể, làm GNP
cũng giảm theo.
 Đối với hoạt động xuất nhập khẩu:
Nền kinh tế Mỹ bị suy thoái sẽ ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu của Việt
Nam, vì Mỹ là thị trường xuất khẩu lớn của Việt Nam hiện nay. Điều này được thể
hiện thông qua hai tác động sau: Thứ nhất, nhu cầu nhập khẩu hàng hoá của Mỹ đối với
Việt Nam có xu hướng giảm sút. Việc giảm sút nhu cầu sẽ làm cho việc xuất khẩu các
sản phẩm của ta vào các thị trường này sẽ ít đi.
Hiện nay, chúng ta xuất khẩu đến 60% GDP vì vậy tình hình này sẽ tác động rất
xấu đến tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. Hơn nữa, tình trạng này còn kéo theo
một hậu quả khác về mặt xã hội là các công ty sản xuất hàng xuất khẩu sẽ thu hẹp sản
xuất, thậm chí là phá sản và sa thải nhiều nhân công.
Bên cạnh đó, tỷ giá VND/USD bị tác động nhiều và cần được điều chỉnh linh
hoạt do đồng Việt Nam được xác định giá gắn với đôla Mỹ. Khi USD giảm giá trên thị
trường thế giới thì có thể dẫn tới lạm phát trong nước nếu VND không lên giá, và khi
đó người tiêu dùng chịu giá cả tăng do nhập khẩu.
 Đối với đầu tư nước ngoài:
Hầu hết các doanh nghiệp Mỹ và Châu Âu sẽ giảm đầu tư trực tiếp ra nước
ngoài, nên việc thu hút FDI ở hai thị trường này của Việt Nam đều bị tác động đáng kể.
Hơn thế nữa, chi phí huy động vốn toàn cầu có thể ngày càng tăng do biên độ tín dụng
gia tăng dẫn tới khả năng thu hút đầu tư bị hạn chế; tiêu dùng có thể giảm sút dẫn tới
việc giải ngân FDI giảm.

Các dự án đầu tư có thể bị trễ vì sự suy thoái của các nước mà Việt Nam vay nợ
hay có thể là chậm trễ việc thu nhận vốn ODA.
Hầu hết các nước trên thế giới đều phải đối mặt với tốc độ tăng trưởng kinh tế
chậm hoặc âm. Việt Nam cũng không thoát khỏi yếu tố này và lạm phát vẫn là một vấn
đề tiềm ẩn ảnh hưởng tới sự phát triển kinh tế Việt Nam.
 Đối với du lịch:

Suy thoái kinh tế,thực trạng và giải pháp chống suy thoái kinh tế
Một lĩnh vực cũng khá nhạy cảm với suy thoái kinh tế thế giới là du lịch. Thu
nhập sụt giảm khiến du khách giảm chi tiêu, cộng với tỷ giá hối đoái trong nước thay
đổi liên tục khiến giá tour tăng cao gây khó khăn cho nhiều đoàn du khách nước ngoài.
Việc ngân sách giảm sút có tác động rất nhiều đến nền kinh tế vì chính phủ sẽ có
ít tiền hơn để cho chi tiêu đầu tư phát triển hay các dịch vụ công cộng.Điều này vừa
gián tiếp vừa trực tiếp tác động vào đời sống nhân dân.
b. Tác động tích cực:
Nhập khẩu của ta sẽ được lợi nhiều, vì những hàng hóa từ bên ngoài vào sẽ có
giá cả thấp hơn trước (đồng đôla hay các loại ngoại tệ khác sa sút).
Hoạt động xuất khẩu có thể tăng do nhiều mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam có
nhiều lợi thế so sánh như hàng dệt may ; nhập khẩu có thể chọn lọc do nhiều nước
trên thế giới phải bán các mặt hàng, công nghệ do kinh tế đi xuống.
Việc giảm các loại nguyên vật liệu này tuy gây khó khăn cho nền kinh tế nhưng
cũng tác động tích cực tới nền kinh tế như: Hạn chế lạm phát; xăng dầu giảm dẫn tới
chi phí vận chuyển và giá của nhiều loại vật liệu xây dựng như sắt, thép, xi măng, cát,
đá cũng giảm, tiêu dùng nhiều hơn sẽ kích thích tăng trưởng kinh tế; góp phần thúc
đẩy thị trường bất động sản hồi phục sau một thời gian "đóng băng".
Đem đến những bài học mang tính thực tiễn cho nền kinh tế Việt Nam. Từ
những bài học này nền kinh tế Việt Nam sẽ có các bước đi nhằm tránh được lâm vào
vết xe đổ của các nước lâm vào khủng hoảng hay suy thoái hiện nay.
Ngành ngân hàng từ này sẽ vững chãi hơn vì những bài học từ sự sụp đổ của các
ngân hàng lớn trên thế giới đã tác động không nhỏ đến nhận thức và kinh nghiệm của

ngành ngân hàng nước ta. Bên cạnh đó, sự sáp nhập các ngân hàng nhỏ lẻ, yếu kém sẽ
mang lại sức sống mới cho ngành ngân hàng.
Vượt qua được thời kì khó khăn vừa qua, các doanh nghiệp trong nước đã
trưởng thành hơn rất nhiều khi đã có kinh nghiệm đối phó với các tình huống khó khăn
của thị trường. Điều này là rất tốt cho nền kinh tế nước ta vì mỗi doanh nghiệp là một
tế bào của xã hội, một khi các tế bào khỏe mạnh thì cơ thể kinh tế sẽ khỏe mạnh theo.
2.2. Thực trạng suy thoái hiện nay
2.2.1. Thực trạng kinh tế hiện nay ở các nước, khu vực trên thế giới
Theo dự báo của IMF, kinh tế toàn cầu sẽ tăng trưởng chậm lại trong năm 2011
với mức tăng 4,2% so với mức 4,8% của năm 2010; trong đó, các nền kinh tế mới nổi
và đang phát triển sẽ tăng trưởng 6,4% so với mức 7,1%; các nước phát triển, tăng
trưởng dự báo chỉ đạt tương ứng 2,2% so với mức 2,7% với một số nền kinh tế có tốc
độ tăng trưởng đang chậm lại đáng kể từ 6 tháng cuối năm 2010 và 6 tháng đầu năm

Suy thoái kinh tế,thực trạng và giải pháp chống suy thoái kinh tế
2011. Trong các nước châu Á đang phát triển. Điều đó cho thấy trong năm 2011, bối
cảnh kinh tế toàn cầu vẫn còn không ít khó khăn.
Biểu đồ 6: Tăng trưởng kinh tế thế giới, Mỹ, khu vực đồng Euro, Nhật Bản, các
nước châu Á đang phát triển và Việt Nam (Nguồn:World Economic Outlook, IMF).
Lạm phát đang trở thành mối lo hàng đầu của tất cả các quốc gia, khi mà chỉ số
chung của các loại hàng hóa nguyên liệu thô đã tăng 8% chỉ trong vài tháng do ảnh
hưởng từ các chương trình nới lỏng tiền tệ của nhiều nền kinh tế lớn trong năm 2010 và
tình hình bất ổn chính trị tại Bắc Phi, Trung Ðông.
Biểu đồ 7: Lạm phát tại các nước phát triển, các nước mới nổi và đang phát
triển, các nước châu Á đang phát triển và Việt Nam (bình quân năm) (Nguồn:World
Economic Outlook, IMF).
Mỹ: Thực trạng kinh tế vẫn rất khó khăn và triển vọng tăng trưởng kinh tế vẫn
rất mờ mịt.“Khả năng kinh tế thế giới lại trượt vào suy thoái rất dễ trở thành sự thật”,
ông Tom Porcelli, chuyên gia kinh tế trưởng tại Mỹ của công ty RBC Capital Markets,
phát biểu.


Suy thoái kinh tế,thực trạng và giải pháp chống suy thoái kinh tế
Các nhà làm luật Mỹ đưa ra một kế hoạch nhằm cắt giảm 1,2-1,5 nghìn tỷ USD
trong thâm hụt ngân sách trong vòng 10 năm tới đây. Chuyên gia Porcelli e ngại, nếu
Washington không đạt được thỏa thuận - mà điều này là rất có khả năng xảy ra - các
nhà làm luật Mỹ sẽ thúc đẩy một dự luật mới cấm việc tự động cắt giảm ngân sách.
Nợ công của Mỹ đã tiến đến giai đoạn nguy hiểm khi "cán đích" 14.300 tỷ USD
vào 12/6/2011. Việc "hoàn thành sớm" chỉ tiêu nợ công đã đặt Chính phủ Mỹ vào tình
trạng căng thẳng, vừa phải cắt giảm chi tiêu, vừa phải đấu trận "chung kết" với Quốc
hội về mức trần nợ công mới.Nếu trận "chung kết" này có "tỷ số" bất lợi cho nhánh
hành pháp, sẽ có nhiều điều "tồi tệ" đang chờ đón kinh tế Mỹ.
Với những bất ổn trong điều hành kinh tế Mỹ, không chỉ Goldman Sachs hạ dự
báo tăng trưởng GDP của Mỹ từ 3% xuống 2% mà IMF cũng cho rằng GDP 2011 từ
2.9% xuống 2.7% và hơn 50% người dân Mỹ cho rằng kinh tế Mỹ sẽ suy thoái. Với
những nhận định nêu trên, năm 2011 rất nhiều khả năng sẽ là năm "tồi tệ" đối với kinh
tế Mỹ.
Trung Quốc: Trung Quốc đang "mệt mỏi" với lạm phát và những bất ổn trong
nội tại nền kinh tế.
Biểu đồ 8: Lạm phát tại Trung Quốc từ tháng 1/2009 đến 5/2011 ( Nguồn:
Trading Economics ).
Châu Á đang ở thời khắc lịch sử, ngoại trừ Nhật Bản, lạm phát bao trùm khắp
các nền kinh tế lớn. Không chỉ Trung Quốc, Ấn Độ và Hàn Quốc đều đứng trước tình
trạng lạm phát tăng cao và đều phải tăng lãi suất. Các giải pháp tăng dự trữ bắt buộc,
tăng lãi suất ban hành từ cuối năm 2010 cũng chưa ngăn chặn được đà tăng lạm phát.
Theo chuyên gia Ông Seiji Kawazoe – Chuyên gia kinh tế Ngân hàng
Sumitomo:
Nền kinh tế các nước châu Á tiếp tục tăng trưởng mạnh trong khi các thị trường
phát triển như Mỹ, châu Âu, Nhật lại có sức bật yếu hơn. Với môi trường lãi suất tích
cực, xu thế này có thể sẽ còn tiếp tục được duy trì trong thời gian tới.
Dù bất cứ nguyên nhân nào thì lạm phát tăng cao, tăng liên tục từ cuối năm

2010 đến nay cũng đặt cho kinh tế Trung Quốc những thử thách nghiêm trọng và chưa

Suy thoái kinh tế,thực trạng và giải pháp chống suy thoái kinh tế
lường hết những hậu quả, những tác động tiêu cực sẽ đến với nền kinh tế lớn thứ 2 thế
giới này.
Còn theo chuyên gia Ông Prasenjit K.Basu- Kinh tế trưởng Ngân hàng Đầu
tư Daiwa:
Cả ISM và OECD CLI đều dự đoán xuất khẩu châu Á năm 2010 sẽ tăng mạnh
nhất trong 20 năm qua do cầu nội bộ trong các nước đang phát triển sẽ kích thích cầu
xuất khẩu của khu vực.
Châu Á không tránh khỏi bị ảnh hưởng bởi suy thoái kinh tế của các nước thành
viên OECD, nhưng với lượng xuất khẩu tới các nước đang phát triển tăng, sự phụ
thuộc vào thị trường OECD đã giảm đáng kể. Với thặng dư tài khoản vãng lai lớn như
hiện nay, chúng tôi tin rằng châu Á có nhiều tiềm năng thúc đẩy nhu cầu trong khu vực
trong năm 2010 và những năm tiếp theo.
Châu Âu: Châu Âu đã không tìm được tiếng nói chung trong việc giải cứu Hy
Lạp lần 2 và thất nghiệp - căn bệnh trầm kha.
Hình như đồng Euro sau 12 năm ra đời đang có hiệu quả với các quốc gia có
nền kinh tế lớn như Đức hoặc Pháp. Các quốc gia có qui mô nhỏ hơn có thể chưa theo
kịp và vướng vào "vòng xoáy" nợ công với những rủi ro chưa lường hết được.
Sau cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới vào năm 2008, một số người đã đưa ra
dự báo lạc quan. "Sự ổn định tỉ lệ thất nghiệp tại châu Âu diễn ra trong 6 tháng cuối
năm 2010 có thể cho ta hy vọng một sự cải thiện vào năm 2011 - tức 1 năm rưỡi sau
khi nền kinh tế thế giới hồi phục - bởi vì biến chuyển của sự tăng trưởng luôn tác động
đến việc làm" .
Nhật Bản: Nhật Bản sau thảm họa đang "rối bời" câu chuyện tăng trưởng.
Kinh tế Nhật Bản năm 2011 "đứng yên" là điều không bất ngờ. Các chuyên gia
kinh tế cho rằng năm tài khoá 2011, GDP của Nhật Bản sẽ giảm từ 1,5% xuống còn
0,2%. Phản ánh những khó khăn của kinh tế Nhật Bản sau thảm hoạ.Kinh tế Nhật Bản
trong giai đoạn hiện nay luôn có những "ngược chiều" khi so với các nền kinh tế lớn

khác.
Do vậy muốn nền kinh tế thứ 3 thế giới này thay đổi theo hướng tích cực hơn,
câu trả lời không thể khác, đó là phải có thời gian và cần phải có "cách mạng" nhằm
thay đổi những "bất cập", những "hạn chế" trong kinh tế Nhật Bản hiện nay.
Tình hình kinh tế thế giới những tháng đầu năm 2011 có những diễn biến hết
sức phức tạp và chịu tác động sâu sắc của các biến động chính trị ở Bắc Phi, Trung
Ðông và thảm họa động đất, sóng thần ở Nhật Bản. Trong bối cảnh chung đó, kinh tế
Việt Nam không tránh khỏi chịu ảnh hưởng tiêu cực và gặp phải một số khó khăn.
Trong đó, nổi lên là vấn đề lạm phát tăng cao trở thành thách thức đối với công tác điều
hành vĩ mô cả năm 2011, năm đầu tiên thực hiện Nghị quyết Ðại hội Ðảng toàn quốc
lần thứ XI.

Suy thoái kinh tế,thực trạng và giải pháp chống suy thoái kinh tế
2.2.2. Tác động trực tiếp kinh tế Việt Nam
Kinh tế Việt Nam đạt được hầu hết các chỉ tiêu đề ra của năm 2010 (17/21 chỉ
tiêu) đã tạo đà tăng trưởng cho những tháng đầu năm 2011 (xuất khẩu những tháng đầu
năm tăng 33%, cao gấp ba lần kế hoạch đề ra, hoạt động sản xuất tiếp tục phục hồi với
giá trị sản xuất công nghiệp tăng hơn 14% ). Tuy nhiên, kinh tế thế giới những tháng
đầu năm đã tác động trực tiếp đến kinh tế Việt Nam:
Lạm phát trở thành nguy cơ lớn nhất đối với nền kinh tế (chỉ số giá tiêu dùng
quý I tăng 6,12%, mức tăng cao nhất so cùng kỳ ba năm trở lại đây) do nguyên nhân
nhập khẩu lạm phát' từ thế giới, ở trong nước giá lương thực, thực phẩm tăng liên tục
vì mất mùa do tình hình thời tiết phức tạp và nhất là quá trình tăng trưởng thời gian qua
của nền kinh tế phụ thuộc nhiều vào việc bơm vốn.
Cán cân thương mại thâm hụt ở mức cao (trung bình nhập siêu mỗi tháng một
tỷ USD) do giá các nguyên, nhiên liệu nhập khẩu tăng mạnh, trong khi xuất khẩu gặp
nhiều khó khăn, do nhu cầu tiêu dùng thế giới phục hồi chậm. Vấn đề nhập siêu đang
gây áp lực lên dự trữ ngoại hối quốc gia, tác động tới tỷ giá USD/VND, đồng thời gián
tiếp làm gia tăng nguy cơ lạm phát đối với nền kinh tế.
Biểu đồ 9: Cán cân thương mại hàng tháng của Việt Nam từ tháng 1.2008 -

7.2011 (tỉ USD).
Khủng hoảng chính trị ở Bắc Phi, Trung Ðông đã tác động đến quan hệ kinh tế
của Việt Nam với các nước khu vực này, nhất là lĩnh vực thương mại, du lịch và xuẩt
khẩu lao động. Chỉ riêng việc hơn 10.000 lao động Việt Nam từ Li-bi về nước cùng
một thời điểm cũng là một bài toán đặt ra đối với thị trường lao động và việc bảo đảm
an sinh xã hội ở khu vực nông thôn.
Thu hút đầu tư FDI, viện trợ nước ngoài ODA mặc dù chưa có tín hiệu chịu tác
động rõ nét, nhưng về lâu dài sẽ bị ảnh hưởng tiêu cực do nhiều nước phải thực hiện
các biện pháp thắt chặt chi tiêu, hạn chế đầu tư, nhất là việc Nhật Bản phải tập trung tài
chính để tái thiết đất nước sau thảm họa thiên tai.
Đường chỉ số chu kỳ kinh tế làm trơn cho thấy sau khi suy giảm liên tiếp trong
các quý của năm 2008 và quý I/2009, nền kinh tế Việt Nam đã phục hồi trở lại kể từ
quý II/2009 và duy trì trạng thái tăng trưởng dương, liên tiếp từ quý II/2009 đến quý
IV/2010 và có khả năng tiếp tục xu thế tăng trưởng cao trong các quý của năm 2011.

Suy thoái kinh tế,thực trạng và giải pháp chống suy thoái kinh tế
Biểu đồ 10: Chỉ số chu kỳ kinh tế và chu kỳ kinh tế làm trơn ( Nguồn: Vụ
DBTKTT ).
Theo ông Prasenjit K.Basu- Kinh tế trưởng Ngân hàng Đầu tư Daiwa:
Tình trạng vay nợ tăng mạnh tại Việt Nam có ảnh hưởng đến hệ thống ngân
hàng, các kích thích tài chính làm tăng thâm hụt tới 9% GDP. Tổng tín dụng ước tính
tăng 38% trong năm 2009, nhanh hơn nhiều so với 27% tốc độ tăng tiền gửi - do đó
đẩy tỷ lệ cho vay trên tiền gửi tới khoảng 150%. Tỷ lệ tăng tín dụng giảm còn 10,3%
trong tháng 6/2010, nhưng mục tiêu 25% vào năm 2010 là quá cao.
Việt Nam vẫn là điểm đến tiềm năng của các MNCs, đặc biệt là MNCs châu Á,
và chúng tôi cho rằng những bất lợi về kinh tế vĩ mô không làm mất đi tính hấp dẫn
của thị trường này. Dòng vốn FDI nhanh chóng hồi phục trong quý 2-3 năm 2009 (trên
10% GDP), chúng tôi dự đoán tỷ lệ này sẽ ổn định ở 8%-10% GDP trong trung hạn và
đây sẽ là một nguồn hỗ trợ cân bằng đối ngoại quan trọng.
Còn theo chuyên gia Võ Trí Thành – Phó Viện trưởng Viện Quản lý kinh tế

trung ương:
“Kinh tế vĩ mô Việt Nam trong 7 tháng đầu năm có cải thiện. Tuy có cải thiện
nhưng kinh tế Việt Nam vẫn còn tồn đọng nhiều rủi ro. Những rủi ro trong kinh tế vĩ
mô tôi muốn nói ở đây không chỉ là vấn đền lạm phát mà còn liên quan đến nhiều mặt
như bất ổn của thị trường tài chính, thâm hụt ngân sách và một số rủi ro khác của hệ
thống tài chính ngân hàng”.
Trong ngắn hạn, kinh tế vĩ mô ổn định là yếu tố quan trọng cho tăng trưởng
GDP. GDP năm 2010 được dự đoán khoảng 8% nhưng tôi nghĩ nên ở mức 6-6,5%,
đứng ở góc độ chính sách sẽ điều chỉnh tốt hơn để vừa có tốc độ tăng trưởng hợp lý
vừa ổn định được kinh tế vĩ mô trong lâu dài.
Rủi ro vĩ mô vẫn còn, song tôi nghĩ vẫn có thể kiếm soát được, vì như tôi đã
nói Chính phủ ưu tiên ổn định kinh tế vĩ mô.
2.2.3. Nguy cơ suy thoái kinh tế thế giới mới
Theo tổng kết của chuyên gia nước ngoài, lịch sử của chu kỳ tăng trưởng kinh tế
thường kéo dài 3 năm. Thông qua những ẩn số sau để chứng minh cho nhận định này:
 Ẩn số từ tâm trạng bi quan:

Suy thoái kinh tế,thực trạng và giải pháp chống suy thoái kinh tế
Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới giai đoạn 2008-2009 lại được xem là tác
động có mức độ tiêu cực nhất kể từ sau Đại khủng hoảng giai đoạn 1929-1932 của
nước Mỹ.
"Bất an" có lẽ là tâm trạng khá phổ biến hiện thời ở nhiều quốc gia. Những cuộc
tranh luận, tranh cãi vẫn không ngớt diễn ra giữa các giám đốc điều hành doanh
nghiệp, nhà kinh tế, người dân và công nhân về liệu có xảy ra suy thoái kép hay không,
liệu nền kinh tế Mỹ đang tăng tốc hay đang hướng đến một sự va chạm mạnh.
Bất chấp năm 2010 đã trôi qua khá yên tĩnh với gói kích thích chương trình nới
lỏng định lượng QE2 của Cục Dự trữ liên bang Mỹ (FED), mà do đó đã tạo đà đi lên
cho thị trường chứng khoán quốc gia này cùng nhiều thị trường chứng khoán ở châu
Âu, năm 2011 lại bắt đầu bằng những chấn động lớn về cuộc cách mạng hoa nhài ở
Bắc Phi và vùng Trung Đông, sau đó nền kinh tế thế giới lại bị bồi tiếp bằng thảm họa

sóng thần ở Nhật Bản, dẫn tới việc quốc gia này bị chính thức đặt vào tình trạng suy
thoái.
Vào tháng 4/2011, những chỉ số kinh tế chính ở Mỹ đã chững lại. Tình hình này
đương nhiên dẫn đến hệ quả là số lượng công việc mới giậm chân tại chỗ chứ không
gia tăng như các nhà phân tích mong đợi. Tỷ lệ thất nghiệp, sau khi được kéo giảm từ
10% xuống 9%, đã đứng im trong một thời gian khá lâu và đang làm cho các nhà làm
chính sách sốt ruột. Bởi xem ra với đà hồi phục chậm chạp như thế này, vào cuối năm
2011, người ta sẽ khó có thể kéo tỷ lệ thất nghiệp xuống còn 8% như dữ liệu.
 Ẩn số từ nợ công:
Bảng số liệu: Nợ công của một số nước trên thế giới.
Số nợ của các nước Nam Âu còn có thể lớn hơn nhiều: Hy Lạp 236 tỷ USD, Tây
Ban Nha 1.100 tỷ USD, Bồ Đào Nha 286 tỷ USD, Ireland 867 tỷ USD và Ý 1.400 tỷ
USD - tổng cộng gần 4.000 tỷ USD.
Nợ công châu Âu lại tiếp dẫn sang nợ công của Mỹ. Trong lịch sử, nước Mỹ đã
70 lần nâng trần nợ công và tiền lệ truyền thống như thế làm cho các đời tổng thống
Mỹ không phải quá lo lắng về những lần nâng trần nợ tiếp theo.

Suy thoái kinh tế,thực trạng và giải pháp chống suy thoái kinh tế
Trong cuộc khủng hoảng 2008-2009, khối kinh tế Bắc Âu vẫn được xem là khu
vực duy trì được sự ổn định tốt nhất thế giới, được đánh giá cao hơn cả đà tăng trưởng
khá cao nhưng thất thường của thị trường các quốc gia mới nổi. Nhưng từ đầu tháng
4/2011, như một sự cộng hưởng, chỉ số chứng khoán của các nước Bắc Âu như Hà
Lan, Đan Mạch, Na Uy, Thụy Điển, Thụy Sỹ đồng loạt đi xuống.
 Ẩn số từ thị trường bất động sản:
Thị trường bất động sản của Mỹ - được coi là đại diện cho hệ thống bất động
sản của thế giới - vẫn giữ nguyên không khí u ám kể từ sau cuộc khủng hoảng kinh tế
năm 2008. Điểm đáng chú ý là khi xem xét các trường hợp cho vay mua nhà, giới phân
tích Mỹ nhận ra sau khủng hoảng, giá nhà ở Mỹ đã giảm đến 40% và hiện nay vẫn còn
đến đến 80% căn nhà có giá thấp hơn giá trị khoản tín dụng mà chủ nhân của căn nhà
đi vay ngân hàng để mua nó.

 Ẩn số từ thị trường chứng khoán:
Giá dầu hạ đến 18% so với đỉnh điểm đầu tháng 5/2011 cũng là một yếu tố
khiến nhà đầu tư lạc quan hơn vào ngành công nghiệp. Yếu tố đó cũng giúp cho các
nhà máy Nhật Bản dần lấy lại thế cân bằng sau sự chao đảo mạnh do thảm họa sóng
thần gây ra.
Tuy vậy, trước mắt dường như vẫn là con đường đầy chông gai đối với các thị
trường chứng khoán thế giới. Ngay cả thị trường các nước mới nổi như Hàn Quốc,
Thái Lan, Hồng Kông, Indonesia, Malaysia, Đài Loan, Trung Quốc cũng đã bước vào
chu kỳ suy giảm với mức sụt đáng kể. Sự suy giảm này không đặc trưng bằng trạng
thái lao dốc mà là cách giảm giằng co, gần giống thị trường chứng khoán Mỹ. Xu
hướng thoái vốn khỏi thị trường chứng khoán cũng là một đặc điểm trong 6 tháng đầu
năm 2011. Thị trường chứng khoán Mỹ đã bốc hơi lượng vốn hóa khoảng 6 tỷ USD,
trong khi dòng tiền chảy vào các quỹ đầu tư cổ phiếu có dấu hiệu giảm.
Hiện nay, xét về ưu thế giá, bất động sản là kênh hấp dẫn nhất của thị trường
kinh doanh Mỹ. Nếu được hỗ trợ bởi dòng tiền đến từ thị trường chứng khoán, với điều
kiện chứng khoán Mỹ tiếp tục xu hướng suy giảm đến cuối năm 2011, cũng có thể thị
trường bất động sản nước này sẽ có cơ hội để hồi phục phần nào.
 Ngoài những ẩn số trên thì hiểm họa chực chờ từ Trung Quốc:
Từ năm 2009, nhiều lời cảnh báo từ các chuyên gia phân tích kinh tế của Mỹ đã
hướng đến thị trường bất động sản Trung Quốc, liên quan đến vấn đề bong bóng bất
động sản có thể nổ tung vào một thời điểm nào đó. Đến nay, sự thật là quả bong bóng
bất động sản vẫn còn nguyên dạng và chỉ mới có dấu hiệu xì hơi.
Thế nên, điều mà người ta hồi hộp chờ đợi chính là lúc mà quả bong bóng bắt
đầu chu kỳ tan vỡ của nó. Khi đó, không chỉ nhiều doanh nghiệp bất động sản và kéo
theo hệ thống ngân hàng từ địa phương tới trung ương của Trung Quốc lâm vào tình
thế trầm kha, mà hệ lụy của nó chắc chắn sẽ gây tác động rất tiêu cực đến những nền

Suy thoái kinh tế,thực trạng và giải pháp chống suy thoái kinh tế
kinh tế chủ yếu của khu vực châu Á như Nhật Bản, Hàn Quốc, và có thể ảnh hưởng
xấu đến châu Âu vốn đang ngập chìm chưa có lối thoát trong nợ công.

3. NGUYÊN NHÂN SUY THOÁI KINH TẾ
Những nguyên nhân đích thực của suy thoái kinh tế là đối tượng tranh luận sôi
nổi giữa các nhà lý thuyết và những người làm chính sách mặc dù đa số thống nhất
rằng các kỳ suy thoái kinh tế gây ra bởi sự kết hợp của các yếu tố bên trong (nội sinh)
theo chu kỳ và các cú sốc từ bên ngoài (ngoại sinh). Ví dụ, những nhà kinh tế học chủ
nghĩa Keynes và những lý thuyết gia theo lý thuyết chu kỳ kinh tế thực sẽ bất đồng về
nguyên nhân của chu kỳ kinh tế,nhưng sẽ thống nhất cao rằng các yếu tố ngoại sinh
như giá dầu, thời tiết, hay chiến tranh có thể tự chúng gây ra suy thoái kinh tế nhất thời,
hoặc ngược lại, tăng trưởng kinh tế ngắn hạn. Trường phái kinh tế học Áo giữ quan
điểm rằng lạm phát bởi cung tiền tệ gây ra suy thoái kinh tế ngày nay và các thời kỳ
suy thoái đó là động lực tích cực theo nghĩa chúng là cơ chế tự nhiên của thị trường
điều chỉnh lại những nguồn lực bị sử dụng không hiệu quả trong giai đoạn “tăng
trưởng” hoặc lạm phát. Phần lớn học giả theo thuyết tiền tệ tin rằng những thay đổi
triệt để về cơ cấu kinh tế không phải là nguyên nhân chủ yếu; nguyên nhân của các thời
kỳ suy thoái ở Mỹ là bởi quản lý tiền tệ yếu kém.
Nguyên nhân chính là do các nền kinh tế mất kiểm soát trong việc in tiền
giấy.Trước đây tiền tương ứng với vàng và được xem như hàng hóa, hết vàng thì không
in tiền nữa. Nhưng hiện nay tiền có tính pháp định do nhà nước in ra, không còn là
hàng hóa quy đổi từ vàng. Cứ thế, trong vòng 40 năm qua, chính phủ in tiền và bơm
vào nền kinh tế. Lâu dần, đến một lúc nào đó cả người đi vay và chính phủ đều mất khả
năng kiểm soát thì cuộc khủng hoảng nhanh chóng chuyển sang giai đoạn suy thoái.
Khi làng sóng đầu tư vào các thị trường tăng lên nhanh chóng, đặc biệt là làng
sóng tăng lên của các thị trường phi sản xuất, như thị trường tài chính, thị trường địa
ốc, thị trường ngoại tệ,…. tính ảo của thị trường sẽ xuất hiện. Nghĩa là người mua ở
đây không còn là người “tiêu thụ” sản phẩm mà chủ yếu là những nhà đầu cơ, kể cả
trong thị trường sản xuất cũng mang nặng tính đầu cơ. Quá trình này đã làm cho các thị
trường bành trướng mau lẹ, GDP tăng lên nhanh chóng, cho đến lúc sự mất cân bằng
tăng lên đỉnh điểm và thị trường không thể tiếp tục chứa đựng những hàng hóa - dịch
vụ mà nó phải chứa đựng, cũng như sự mất cân đối đã đạt mức quá sức chịu đựng của
thị trường và phải đi đến sự sụp đổ.

Nhiều thị trường, trong đó có thị trường hàng hóa, thị trường tài chính, thị
trường địa ốc đã phát triển trên cơ sở nhu cầu ảo, trên cơ sở nhu cầu được quyết định
bởi các nhà đầu cơ.
• Về thị trường hàng hóa –dịch vụ ngày nay đều được phát triển chủ yếu
thông qua các hợp đồng tương lai, các hợp đồng quyền chọn, hoặc hợp đồng kỳ hạn.
Thông qua việc ký kết các hợp đồng này các nhà đầu cơ đã vẽ nên một thị trường tiêu
thụ hàng hóa – dịch vụ khổng lồ và theo đó các nhà sản xuất – kinh doanh đã đầu tư

Suy thoái kinh tế,thực trạng và giải pháp chống suy thoái kinh tế
cho nó để đáp ứng yêu cầu của các hợp đồng này. Để có nguồn lực tài chính đầu tư cho
sự bành trướng của thị trường chính sách tiền tệ nới lỏng, chính sách phá giá nội tệ
được thực thi để cấp các khoản vay cho các nhà sản xuất kinh doanh, các nhà đầu tư,
cũng như đầu cơ.
• Bên cạnh đó thị trường chứng khoán cũng được cấp nhiệt bởi các nhà
làm giá đầu cơ, bong bóng giá được thổi phồng nhanh chóng.Khi thị trường chứng
khoán sắp chao đảo,những nhà đầu cơ có kinh nghiệm đã vội vàng thoát khỏi thị
trường chứng khoán,còn những nhà đầu cơ trẻ chưa có kinh nghiệm phải đối mặt với
sự tụt giá của thị trường chứng. Trong tình huống như vậy chính phủ thấy nguy cơ của
rủi ro tín dụng của các ngân hàng đang đến một cách âm ỉ các chính sách thắt chặt tín
dụng sẽ được đưa ra nhằm khóa cửa cống tín dụng đang chảy ra ào ạt.
• Khủng hoảng thanh khoản xảy ra trước hết là nó đến với người đi vay,
trong khi thị trường chứng khoán đang nóng,một số nhà đầu cơ sẵn sàng vay vốn từ
ngân hàng để mua các loại chứng khoán vì họ nghĩ sẽ thu được lợi nhuận từ việc mua
cổ. Khi người vay không trả được nợ đến lượt các Ngân hàng cho vay gặp khó khăn.
• Thị trường địa ốc cũng có hiện tượng tương tự, các nhà đầu cơ lớn thi
nhau làm giá để kích thích thị trường và kiếm lợi đã kích thích các nhà đầu tư xây dựng
lao vào lập các dự án lớn và thu hút vốn từ những nhà đầu tư nhỏ, những người muốn
đầu cơ vào địa ốc để tìm kiếm cơ hội đổi đời. Từ đó các hiện tượng cầm cố bất động
sản để vay mượn phát triển nhanh chóng, cho đến khi bong bóng địa ốc tan vở, thì
thảm trạm mất khả năng chi trả xảy ra, các ngân hàng cho vay mua bán bất động sản

lâm vào tình trạng rủi ro không thể chống đở được.
Một nguyên nữa không thể không nói đến la trong kinh tế thị trường những nhà
đầu cơ có kinh nghiệm, nhanh nhạy họ luôn thu được những khoản lợi nhuận kếch sù.
Và tất yếu một số đông những nhà đầu cơ khác sẽ mất đi một số tài sản tương tự.
Không thể nói khủng hoảng tài chính kéo theo suy thoái kinh tế toàn cầu. Sự
khủng hoảng đã tiềm ẩn trong các nền kinh tế, ngay cả trong nền kinh tế nhỏ và mới
phát triển như Việt Nam. Nên khủng hoảng tài chính là cái bắt đầu của suy thoái kinh
tế toàn cầu.
Ngoài ra nó còn thể hiện ở: Tỷ lệ mất việc làm tăng cao đáng báo động. Giá
thực phẩm, nhiên liệu và các mặt hàng thiết yếu khác tăng lên. Nhiều doanh nghiệp
trên tất cả các lĩnh vực bị suy giảm nghiêm trọng doanh số bán hàng doanh thu và lợi
nhuận của họ giảm mạnh.
-Chính sách kinh tế của Chính Phủ có thể được sử dụng để tránh suy thoái kinh
tế. Nhưng việc thực hiện các chính sách kinh tế không tốt hay thất bại có thể dẫn đến
suy thoái kinh tế. Có một số chính sách kinh tế có thể dẫn đến một sự bùng nổ và phá
sản. Điều này có nghĩa rằng nền kinh tế đang chạy ở một tốc độ không bền vững.Lạm
phát ngày càng tăng.

Suy thoái kinh tế,thực trạng và giải pháp chống suy thoái kinh tế
-Việc bùng nổ của bong bóng thị trường nhà ở của Hoa Kỳ và cuộc khủng
hoảng tín dụng đang diễn ra của các nước khác là một số yếu tố góp phần cho một cuộc
suy thoái toàn cầu.
Tóm lại, suy thoái kinh tế có thể được mang lại bởi những cú sốc bên ngoài
cũng như nội bộ kinh tế và mở rộng sự mất cân bằng trong nền kinh tế.
4. GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ CHỐNG SUY THOÁI KINH TẾ
4.1. Giải pháp phòng ngừa và khắc phục suy thoái kinh tế
4.1.1. Giải pháp quan trọng là thực hiện chính sách kích cầu
 Tài trợ thông qua phát hành trái phiếu
Việc tài trợ chi tiêu có thể được thực hiện thông qua phát hành trái phiếu (vay nợ)
trong nước.Biện pháp tài trợ này có thể chia thành vay nợ từ công chúng hoặc từ hệ thống

các ngân hành thương mại.Hai biện pháp vay nợ trong nước này sẽ khác nhau ở khả năng
tác động đến cung tiền và lạm phát trình bày dưới đây.
Giả sử Chính phủ phát hành trái phiếu ra công chúng và dùng số tiền huy động
được để tài trợ cho gói kích cầu.Trong trường hợp này cơ sở tiền tệ sẽ không đổi và
không có tác động gì đến cung tiền lẫn sức ép lạm phát.
Ngược lại, nếu Chính phủ vay nợ hệ thống ngân hàng thương mại thì tác động
của việc làm này đối với cung tiền và lạm phát có thể sẽ rất khác.Việc vay nợ từ các
ngân hàng thương mại sẽ gây sức ép đối với dự trữ của các ngân hàng thương mại và
các ngân hàng thương mại sẽ đòi hỏi trợ giúp về khả năng thanh khoản từ Ngân hàng
Nhà nước.
 Tài trợ thông qua miễn giảm thuế
Nguồn tài trợ quan trọng thứ hai dùng để kích cầu là miễn giảm, hoãn, chậm việc
thu thuế để doanh nghiệp có nguồn đầu tư. Đây là một biện pháp có lợi và có thể giúp
duy trì hoặc mở
rộng sản xuất cho các doanh nghiệp hưởng lợi.
 Tài trợ thông qua quỹ dự trữ
Chính phủ có thể sử dụng quỹ dự phòng hoặc quỹ dự trữ ngoại hối tại NHNN để
tài trợ cho gói kích cầu. Hiện nay, mức dự trữ ngoại hối của Việt Nam chỉ còn khoảng
10 tỉ USD trong năm 2011 và có lẽ chỉ là vừa đủ ngưỡng đảm bảo an toàn của hệ thống
tỉ giá (đặc biệt về mặt tâm lý).
 Tài trợ thông qua Ngân hàng Nhà nước
Đây chính là cách in tiền để tài trợ cho thâm hụt ngân sách. Biện pháp tài trợ này
ngay lập tức sẽ dẫn đến tăng trưởng cơ sở tiền tệ và cung tiền. Kênh tài trợ cho thâm hụt
này có thể thực hiện theo hai cách. Thứ nhất, Chính phủ có thể trực tiếp thông qua
Ngân hàng Nhà nước in tiền để tài trợ cho chi tiêu.Thứ hai, Chính phủ ban đầu có thể
vay tiền của công chúng và hệ thống ngân hàng thương mại thông qua phát hành trái

Suy thoái kinh tế,thực trạng và giải pháp chống suy thoái kinh tế
phiếu.
 Tài trợ thông qua vay nợ nước ngoài

Theo báo cáo nợ nước ngoài của Bộ Tài Chính, tổng dư nợ nước ngoài tính đến
hết năm 2011 đã vào khoảng 32,5 tỷ USD (tương đương gần 42,2% GDP). Hơn nữa, khả
năng
vay nợ thêm nước ngoài trong bối cảnh khủng khoảng kinh tế toàn cầu cộng với
việc tạm
ngừng cấp vốn ODA từ Nhật Bản là rất khó. Tác động của việc tài trợ chi gói
kích cầu thông qua biện pháp vay nợ nước ngoài, nếu có, sẽ phụ thuộc nhiều vào chủ
trương theo đuổi chế độ tỉ giá của Ngân hàng Nhà nước trong thời gian tới. Nếu Ngân
hàng Nhà nước theo đuổi chính sách ổn định tỉ giá quanh mức công bố như hiện nay, thì
điều này có nghĩa Ngân hàng Nhà nước sẽ phải can thiệp mua vào lượng dư cung ngoại
tệ do Chính phủ đã bơm vào nền kinh tế sau khi vay nước ngoài. Cơ sở tiền tệ và cung
tiền cuối cùng sẽ tăng và gây ra lạm phát.
 Tài trợ thông qua tích luỹ nợ
Cuối cùng, Chính phủ có thể tài trợ cho gói kích cầu thông qua việc trì hoãn trả
nợ. Đây là
một trong những biện pháp quan trọng và thường xuyên được thực hiện ở
các nền kinh tế
chuyển đổi. Việc tích luỹ thêm nợ có thể làm trì hoãn những tác động
xấu có thể có của các biện pháp tài trợ gói kích cầu.
4.1.2. Một số giải pháp cụ thể hiện nay
Một là, thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt. Cho dù do nhiều nguyên nhân,
nhưng lạm phát luôn có nguyên nhân tiền tệ. Chính phủ chủ trương kiểm soát chặt chẽ
tổng phương tiện thanh toán và tổng dư nợ tín dụng ngay từ đầu năm. Ngân hàng nhà
nước, thông qua việc chủ động, linh hoạt sử dụng hợp lý các công cụ chính sách tiền tệ
theo nguyên tắc thị trường để thực hiện bằng được yêu cầu này. Điều cần nhấn mạnh là
trong khi kiên quyết thắt chặt tiền tệ, cần bảo đảm tính thanh khoản của nền kinh tế và
hoạt động của các ngân hàng, tổ chức tín dụng, tạo điều kiện cho sản xuất hàng hoá và
xuất khẩu phát triển.
Hai là, thực hiện chính sách tài khóa thắt chắt, cắt giảm đầu tư công, giảm bội
chi ngân sách nhà nước và chi phí thường xuyên của các cơ quan sử dụng ngân sách,

kiểm soát chặt chẽ đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước, cố gắng giảm tỷ lệ thâm hụt
ngân sách.
Ba là, tập trung sức phát triển sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, khắc phục
nhanh hậu quả của thời tiết và dịch bệnh để tăng sản lượng lương thực, thực phẩm.
Hiện nay, tiềm năng tăng trưởng của nước ta còn rất lớn, nhất là khi Việt Nam đã là
thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), đầu tư nước ngoài và đầu tư tư
nhân tăng mạnh, thị trường xuất khẩu được mở rộng; Vì vậy, phát triển sản xuất là giải
pháp gốc, tạo hiệu quả nhiều mặt, vừa tăng nguồn cung cho thị trường trong nước và
xuất khẩu, góp phần kiềm chế lạm phát, giảm nhập siêu, vừa thúc đẩy tăng trưởng kinh
tế, lại không gây phản ứng phụ.

Suy thoái kinh tế,thực trạng và giải pháp chống suy thoái kinh tế
Bốn là, bảo đảm cân đối cung cầu về hàng hoá, đẩy mạnh xuất khẩu, giảm nhập
siêu. Cân đối cung cầu về hàng hoá, nhất là các mặt hàng thiết yếu cho sản xuất và đời
sống nhân dân là tiền đề quyết định để không gây ra đột biến về giá, ngăn chặn đầu cơ.
Cán cân thương mại là một chỉ tiêu vĩ mô rất quan trọng. Nhập siêu tăng trong
năm các năm đều ở mức hai con số, đã đe doạ đến cân đối vĩ mô, đòi hỏi phải áp dụng
các biện pháp kiên quyết để hạn chế tình trạng này trên cơ sở đẩy mạnh xuất khẩu,
kiểm soát nhập khẩu.
Năm là, triệt để tiết kiệm trong sản xuất và tiêu dùng.Hiện nay, tình trạng lãng
phí trong sản xuất và tiêu dùng diễn ra khá phổ biến ở các cơ quan, đơn vị.Tiềm năng
tiết kiệm trong sản xuất và tiêu dùng là rất lớn. Vì vậy, Chính phủ yêu cầu các cơ quan
nhà nước cắt giảm chi tiêu hành chính, các doanh nghiệp phải rà soát tất cả các khoản
chi nhằm hạ giá thành và phí lưu thông. Chính phủ kêu gọi mọi người, mọi nhà triệt để
tiết kiệm tiêu dùng, nhất là nhiên liệu, năng lượng. Đây là giải pháp vừa có tác dụng
giảm sức ép về cầu, giảm nhập siêu, vừa góp phần nâng cao hiệu quả của cả nền sản
xuất xã hội.
Sáu là, tăng cường công tác quản lý thị trường, kiểm soát việc chấp hành pháp
luật nhà nước về giá. Kiên quyết không để xảy ra tình trạng lạm dụng các biến động
trên thị trường để đầu cơ, nâng giá, nhất là các mặt hàng thiết yếu cho sản xuất và tiêu

dùng, như: xăng dầu, sắt thép, xi măng, thuốc chữa bệnh, lương thực, thực phẩm…;.
Bảy là, mở rộng việc thực hiện các chính sách về an sinh xã hội.
Trước tình hình giá cả tăng cao, ảnh hưởng đến đời sống của nhân dân, nhất là
vùng nghèo, hộ nghèo, vùng bị thiên tai, người lao động có thu nhập thấp, Chính phủ
đã chủ trương mở rộng các chính sách về an sinh xã hội.
Chính phủ đã quyết định tăng mức lương tối thiểu cho những người lao động
thuộc khối cơ quan nhà nước, lực lượng vũ trang, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị -
xã hội với mức lương cơ bản từ 830 nghìn hiện nay lên 1.05 triệu vào năm 2012. Chính
phủ cũng quy định điều chỉnh mức lương tối thiểu theo hướng tăng lên đối với lao
động Việt Nam làm việc cho doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, cơ quan, tổ chức
nước ngoài, tổ chức quốc tế và cá nhân người nước ngoài tại Việt Nam, lao động làm
việc ở công ty, doanh nghiệp, hợp tác xã, tổ hợp tác, trang trại, hộ gia đình, cá nhân và
các tổ chức khác của Việt Nam có thuê mướn lao động.
Tám là, nâng cao năng lực cạnh tranh để giữ vững và phát triển thị phần, duy trì
và mở rộng sản xuất kinh doanh… là giải pháp để khôi phục và phát triển doanh
nghiệp hậu suy thoái kinh tế.Ngoài ra, doanh nghiệp cũng cần rà soát lại những công
đoạn của quá trình sản xuất kinh doanh, lập chương trình đổi mới công nghệ và thiết bị
nhằm hiện đại hoá quá trình sản xuất…
Chín là, đẩy mạnh có hiệu quả công tác thông tin, tuyên truyền chính sách pháp
luật, tài chính sâu rộng tới xã hội; xây dựng mối quan hệ hợp tác cởi mở với cơ quan
báo chí, thông qua đó tạo hiệu ứng tuyên truyền chính sách tài chính để xã hội hiểu và

Suy thoái kinh tế,thực trạng và giải pháp chống suy thoái kinh tế
ủng hộ thực hiện. Công tác tuyên truyền cần quan tâm thực hiện từ khâu nghiên cứu
chính sách, xây dựng chính sách, ban hành chính sách…
4.2. Kiến nghị ổn định kinh tế vĩ mô trong thời kì suy thoái kinh tế
Kiến nghị 1:Để nền kinh tế phát triển bền vững trong trung và dài hạn cần bảo
đảm ổn định kinh tế vĩ mô một cách vững chắc và coi đây là ưu tiên hàng đầu trong
thời gian tới.
Phân tích nghịch lý ngược chiều giữa tăng trưởng và ổn định vĩ mô trong kinh tế

giai đoạn 2006-2010, Ủy ban-Viện đưa ra kiến nghị cho rằng dù đạt mục tiêu tăng
trưởng đề ra nhưng lạm phát cao và bất ổn vĩ mô với tần suất dày hơn, mức độ gay gắt
hơn, kéo dài trong nhiều năm đã làm giảm đi những thành tựu mà tăng trưởng mang
lại.
Kiến nghị 2: Đổi mới mô hình tăng trưởng và tái cấu trúc nền kinh tế theo
hướng bền vững là một yêu cầu cấp bách để giải quyết tận gốc rễ các nguyên nhân gây
ra bất ổn vĩ mô trong ngắn hạn.
Kiến nghị 3: Thay đổi chiến lược phát triển công nghiệp dựa chủ yếu vào khu
vực kinh tế Nhà nước mà không xét tới yếu tố lợi thế so sánh, khuyến khích các ngành
và khu vực có lợi thế so sánh và hiệu quả hơn.
Ủy ban-Viện cho rằng với chính sách công nghiệp đang theo đuổi, các tập đoàn
và tổng công ty Nhà nước nhận được nhiều ưu đãi về tín dụng và chiếm tỉ trọng chi
phối trong các dự án đầu tư công lớn. Trong khi đó, khu vực tư nhân dù được đánh giá
là hiệu quả hơn so với khu vực Nhà nước trong tạo việc làm và xuất khẩu, lại đang bị
“lấn át”.
Kiến nghị 4: Để giải quyết triệt để thâm hụt thương mại, một trong những cân
đối vĩ mô quan trọng trong nền kinh tế, bên cạnh chính sách tỉ giá, công cụ hành chính
hay phát triển công nghiệp hỗ trợ thì vấn đề mấu chốt cần xử lý trong trung và dài hạn
là chênh lệch tiết kiệm và đầu tư trong nền kinh tế.
Thâm hụt thương mại là một trong những mất cân đối vĩ mô nghiêm trọng trong
10 năm qua. Từ đánh giá này, Ủy ban-Viện cho rằng khi nào chênh lệch giữa tiết kiệm
và đầu tư - nguyên nhân gốc rễ của thâm hụt thương mại - chưa được thu hẹp thì vấn
đề nhập siêu chắc chắn sẽ tiếp tục kéo dài.
Kiến nghị 5: Kiên quyết cắt giảm đầu tư công và tăng cường kỷ luật tài khóa để
giảm thâm hụt ngân sách và ổn định nợ công là yếu tố quan trọng để bảo đảm ổn định
kinh tế vĩ mô và tăng trưởng bền vững trong trung và dài hạn.
Kiến nghị 6: Xây dựng nguyên tắc và cơ chế phối hợp trong việc hoạch định và
thực thi chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ một cách nhất quán và cùng hướng tới
các mục tiêu ưu tiên của đất nước.
Kiến nghị 7: Tái cấu trúc khu vực doanh nghiệp Nhà nước để bảo đảm nhiệm vụ

cơ bản là khắc phục những khiếm khuyết của thị trường và cung cấp hàng hóa, dịch vụ

Suy thoái kinh tế,thực trạng và giải pháp chống suy thoái kinh tế
công cộng thay vì đóng vai trò chủ đạo bằng cách đầu tư dàn trải và kém hiệu quả như
hiện nay.
Kiến nghị 8: Phát triển đồng bộ và cơ cấu lại hệ thống ngân hàng thương mại,
giảm thiểu rủi ro qua hệ thống giám sát an toàn thị trường tài chính nói chung và các
ngân hàng thương mại nói riêng là nền tảng cơ bản để ổn định kinh tế vĩ mô và phát
triển bền vững.
Kiến nghị phân tích những rủi ro lớn mà hệ thống tài chính - ngân hàng đang
phải đối diện như: rủi ro thanh khoản, rủi ro đạo đức đi kèm với rủi ro nợ xấu, rủi ro
chéo với các thị trường tài sản gồm rủi ro tín dụng bất động sản và rủi ro chéo liên
quan đến thị trường chứng khoán. “Hệ thống ngân hàng Việt Nam hiện nay trở nên rất
nhạy cảm và dễ tổn thương trước những cú sốc vĩ mô bất lợi” - kiến nghị đánh giá.
Kiến nghị 9: Kiểm soát hiệu quả các dòng vốn vào-ra (FDI, ODA ) là yếu tố
quan trọng trong việc bảo đảm ổn định vĩ mô cũng như giảm thiểu rủi ro khủng hoảng
tài chính trong trung và dài hạn.
Kiến nghị 10: Trong trung và dài hạn, phát triển nông nghiệp, nông thôn cần
được coi là chính sách ưu tiên trong các chiến lược và kế hoạch phát triển kinh tế - xã
hội tổng thể.
KẾT LUẬN
Trong xu hướng toàn cầu hóa, khu vực hóa kinh tế hiện nay, mọi quốc gia đều
nổ lực đưa nền kinh tế của mình theo kịp và hội nhập vào xu hướng chung của thế giới.
Và qua những phân tích về vấn đề trên chúng ta có thể thấy được những ảnh hưởng và
tác động của suy thoái đến nền kinh tế là vô cùng to lớn đối với tất cả các nước trên thế
giới. Suy thoái làm cho nền kinh tế có nhiều bất ổn, tốc độ tăng trưởng kinh tế chậm
chạp, lạm phát thì tăng nhanh và khó kiểm soát làm cho đời sống xã hội của người dân
gặp vô cùng khó khăn. Qua đó cũng thấy được công cuộc chống suy thoái kinh tế là
một nhiệm vụ và chiến lược quan trọng hàng đầu trong việc ổn định kinh tế vĩ mô và
phát triển kinh tế. Để đưa ra các giải pháp và thực hiện nó là một việc không hề dễ

dàng và chính phủ đang thực hiện một cách đúng đắn những đường lối chính sách để
đưa nền kinh tế nước ta từng bước vượt qua suy thoái và gặt hái được một số thành tựu
đáng kể. Chúng ta hi vọng chính phủ sẽ tiếp tục đưa ra những biện pháp đúng đắn
trong thời gian tới để thoát khỏi suy thoái cũng như ngăn chặn được những cuộc suy
thoái trên thế giới đang ảnh hưởng trực tiếp đến chúng ta, góp phần ổn định kinh tế vĩ

Suy thoái kinh tế,thực trạng và giải pháp chống suy thoái kinh tế
mô và đẩy mạnh cải cách doanh nghiệp nhà nước sẽ tạo ra một sự tin tưởng lớn hơn, từ
đó có thể giảm thiểu tác động tiêu cực của suy thoái kinh tế toàn cầu tới Việt Nam.
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
NBER Cục nguyên cứu kinh tế quốc gia
IMF Quỹ Tiền tệ Quốc tế
OECD Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế
BRIC Brazil, Russia, India And China
G20 Nhóm các nền kinh tế lớn
SNG Cộng đồng các Quốc gia Độc lập
GDP Tổng sản phẩm quốc nội
GNP Tổng sản lượng quốc gia
FDI Đầu tư trực tiếp nước ngoài
ODA Hỗ trợ phát triển chính thức
FED Cục Dự trữ liên bang Mỹ
WTO Tổ chức Thương mại thế giới.

Suy thoái kinh tế,thực trạng và giải pháp chống suy thoái kinh tế
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Website của Tổng cục Thống kê, Ngân hàng Nhà nước, Bộ Tài chính.
Tạp chí Ngân hàng số 4/2011
/> /> />%C3%A1p-ng%C4%83n-ch%E1%BA%B7n-suy-gi%E1%BA%A3m-kinh-t%E1%BA
%BF
o/2011/07/05/cxn_vn-s%E1%BA%BD-la-qu%E1%BB

%91c-gia-duy-nh%E1%BA%A5t-suy-thoai-tren-th%E1%BA%BF-gi%E1%BB%9Bi-b
%E1%BA%AFt-d%E1%BA%A7u-t%E1%BB%AB-quy-4-c%E1%BB%A7a-2011-va-
keo-dai-it-nh%E1%BA%A5t-2-nam/
/>kep
/>co-the-bat-dau-khi-nao.html
/>con-bao-tai-chinh-my.htm
/>My-suy-thoai/20084/4993.datviet
http://thongtin phap luatdansu.wordpress.com/2009/05/20/2923/

Suy thoái kinh tế,thực trạng và giải pháp chống suy thoái kinh tế

×