Tải bản đầy đủ (.doc) (95 trang)

bản quyền sản phấm và nhãn hiệu hàng hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (536.53 KB, 95 trang )


Lời mở đầu
Trong thời kỳ phát triển của nền kinh tế trí thức, sự phát triển kinh tế chủ
yếu dựa vào trình độ phát triển trí tuệ của con ngời, hàm lợng công nghệ trong
sản phẩm có vai trò ngày càng rất quan trọng. Do vậy, quyền sở hữu trí tuệ bao
gồm quyền sở hữu công nghiệp, quyền tác giả và quyền liên quan đang thực sự
trở thành một yếu tố cơ bản trong thơng mại quốc tế. Đồng thời hiện tợng vi
phạm sở hữu trí tuệ nói chung và quyền sở hữu công nghiệp nói riêng cũng lại
gia tăng nhanh chóng. Vì thế vấn đề bảo hộ các quyền sở hữu công nghiệp đã trở
thành một vấn đề tối cần thiết đối với chủ sở hữu cũng nh đối với quốc gia và
toàn xã hội. Hơn nữa, trong xu thế thế toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới, việc mở
cửa biên giới và phổ cập hoá cạnh tranh khiến cho bảo hộ quyền sở công nghiệp
đã không còn bó hẹp trong phạm vi một quốc gia mà bắt buộc phải có sự tham
gia của nhiều nớc trên thế giới.
Xu thế cạnh tranh, toàn cầu hoá và khu vực hoá hội nhập nền kinh tế thế
giới là xu thế tất yếu và Việt Nam không thể không tham gia vào quá trình này.
Hiện nay Việt Nam đang trong những bớc đầu tiên trên con đờng hội nhập kinh
tế. Điều này thể hiện rất rõ trong chiến lợc thâm nhập thị trờng nớc ngoài và xu
thế hớng về xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam. Trong quá trình mở rộng
thị trờng, vấn đề bảo hộ các quyền sở hữu công nghiệp liên quan đến bản quyền
sản phẩm và nhãn hiệu hàng hoá đã trở thành một vấn để hết sức quan trọng, đó
không chỉ là yêu cầu tất yếu khi hội nhập mà đó là cơ sở pháp lý vững chắc để
các doanh nghiệp Việt Nam bảo vệ quyền lợi, uy tín của mình trên thị trờng nớc
ngoài cũng nh tạo thuận lợi cho hoạt động xuất nhập khẩu của doanh nghiệp.
Tuy nhiên, các doanh nghiệp Việt Nam vẫn cha nhận thức đợc đầy đủ tầm quan
trọng của việc bảo hộ bản quyền sản phẩm và nhãn hiệu hàng hoá. Do đó, nhiều
trờng hợp vi phạm bản quyền sản phẩm nh ăn cắp kiểu dáng, vi phạm xuất xứ
hàng hoá và đặc biệt là vi phạm nhãn hiệu hàng hoá của Việt Nam đã xảy ra trên
thế giới. Vấn đề bảo hộ các quyền sở hữu công nghiệp liên quan đến bản quyền
1


sản phẩm và nhãn hiệu hàng hóa đã thực sự trở thành vấn đề đáng để cho các
doanh nghiệp Việt Nam lu tâm.
Từ nhận thức về tầm quan trọng của việc bảo hộ bản quyền sản phẩm và
nhãn hiệu hàng hoá và với mong muốn đi sâu tìm hiểu về vấn đề nóng bỏng và
hết sức lý thú này để hiểu rõ hơn về bản quyền sản phẩm và nhãn hiệu hàng hoá
trong thực tiễn hoạt động xuất khẩu hàng hoá Việt Nam cũng nh những kiến
thức có liên quan, em đã mạnh dạn chọn đề tài Bản quyền sản phẩm và nhãn
hiệu hàng hoá - vấn đề cần quan tâm khi xuất khẩu hàng hoá ra thị trờng n-
ớc ngoài làm đề tài cho khoá luận tốt nghiệp đại học của mình. Với đề tài này,
ngoài phần mở bài và kết luận, khoá luận đợc chia thành 3 chơng nh sau:
- Chơng 1: Những lý luận chung liên quan đến bản quyền sản phẩm và
nhãn hiệu hàng hoá
- Chơng 2: Vấn đề về bản quyền sản phẩm và nhãn hiệu hàng hoá
trong thực tiễn hoạt động xuất khẩu hàng hoá Việt Nam
- Chơng 3: Một số giải pháp cho vấn đề bản quyền sản phẩm và nhãn hiệu
hàng hoá Việt Nam ở nớc ngoài.
Trong quá trình nghiên cứu, tìm hiểu về đề tài nói trên, em đã nhận đợc sự
chỉ bảo, hớng dẫn tận tình của PGS.TS Lê Đình Tờng và của sự giúp đỡ của bạn
bè. Tuy nhiên, đề tài nghiên cứu là một vấn đề còn khá mới mẻ, trong khi đó việc
tìm kiếm, thu thập thông tin tài liệu còn rất nhiều khó khăn, những tài liệu này
còn cha tập trung, mới chỉ có những thông tin rời rạc phân tán; hơn nữa là một
sinh viên sắp tốt nghiệp đang ở những bớc ban đầu trong nghiên cứu khoa học,
do vậy khó tránh khỏi những thiếu sót hạn chế trong khoá luận. Với lòng biết ơn
sâu sắc, em mong nhận đợc những ý kiến chỉ bảo quý báu của thầy cô cũng nh
bạn bè để em có thể nhận thức đầy đủ hơn về vấn để mà em nghiên cứu.
Chơng 1
2

Những lý luận chung liên quan đến bản quyền sản
phẩm và nhãn hiệu hàng hoá

1. Những khái niệm về quyền sở hữu công nghiệp liên quan
đến bản quyền sản phẩm và nh n hiệu hàng hoáã
1.1. Khái niệm quyền sở hữu công nghiệp liên quan đến bản quyền sản
phẩm
Quyền sở hữu công nghiệp
Điều 780 BLDS định nghĩa: Quyền sở hữu công nghiệp là quyền sở hữu
cá nhân đối với giải pháp, sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp,
nhãn hiệu hàng hoá, quyền sử dụng đối với tên gọi xuất xứ của hàng hoá và
quyền sở hữu đối với đối tợng khác do pháp luật quy định
Theo công ớc Paris (Điều 1), Sở hữu công nghiệp không những chỉ áp dụng
cho công nghiệp và thơng mại theo đúng nghĩa của nó mà còn cho tất cả các sản
phẩm công nghiệp và sản phẩm tự nhiên
Chủ thể của quyền sở hữu công nghiệp
Tác giả:
Tác giả và đồng tác giả là ngời đã tạo ra các tác phẩm trí tuệ đợc thể hiện
dới dạng sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp (Đ779BLDS)
Tác giả là ngời sáng tạo và là chủ thể của quan hệ pháp luật về quyền sở
hữu công nghiệp. Sự sáng tạo của tác giả đợc chứng minh bằng chính nội dung
khoa học của đối tợng sở hữu công nghiệp mà tác giả đã tạo ra.
Chủ sở hữu các đối t ợng công nghiệp
Chủ sở hữu các đối tợng công nghiệp là cá nhân, pháp nhân, các chủ thể
khác đợc cơ quan nhà nớc có thẩm quyền cấp hoặc chuyển giao văn bằng bảo hộ
sáng chế, giải giáp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hoá và các
đối tợng sở hữu công nghiệp khác.
3

Ng ời có quyền sử dụng tên gọi xuất xứ hàng hoá
Theo điều 795 của Bộ luật dân sự, cá nhân, pháp nhân, các chủ thể khác đợc
cơ quan nhà nớc có thẩm quyền cấp văn bằng bảo hộ tên gọi xuất xứ hàng hoá là
ngời có thẩm quyền sử dụng hợp pháp tên gọi xuất xứ hàng hoá đó.

Khách thể của quyền sở hữu công nghiệp
Việc xác định khách thể của quan hệ pháp luật trong bảo hộ công nghiệp
nhằm bảo vệ lợi ích hợp pháp của chủ thể tham gia vào quan hệ đó. Khách thể
của quyền sở hữu công nghiệp là kết quả của hoạt động sáng tạo thể hiện bằng
các đối tợng sở hữu công nghiệp.
Thực chất đối tợng đợc bảo hộ ở đây là lợi ích kinh tế của chủ sở hữu công
nghiệp, ngời có quyền sử dụng các đối tợng sở hữu công nghiệp, tuy nhiên phải
phù hợp với lợi ích xã hội.
Sáng chế và giải pháp hữu ích.
Sáng chế là giải pháp kỹ thuật mới so với trình độ kỹ thuật trên thế giới, có
trình độ sáng tạo, có khả năng áp dụng trong lĩnh vực kinh tế-xã hội. (Đ782
BLDS)
Giải pháp hữu ích là giải pháp kỹ thuật mới so với trình độ kỹ thuật trên thế
giới, có trình độ sáng tạo, có khả năng áp dụng trong các lĩnh vực kinh tế-xã hội.
(Đ783 BLDS)
Nh vậy sáng chế và giải pháp hữu ích phải có tính chất mới so với trình độ
kỹ thuật trên thế giơí. Tính mới ở đây phải đợc hiểu là tới lúc nộp đơn xin bảo
hộ, cha có ai sử dụng nó một cách rõ ràng hay đã công bố. Chúng phải có khả
năng áp dụng trong các lĩnh vực kinh tế-xã hội. Đây là điểm khác so với phát
minh khoa học. Ngoài ra sáng chế còn phải có trình độ sáng tạo tức là phải là
một tiến bộ về kỹ thuật so với trình độ chung của thế giới.
Kiểu dáng công nghiệp
4

Kiểu dáng công nghiệp là hình dáng bên ngoài của sản phẩm, đợc thể hiện
bằng đờng nét, hình khối, màu sắc hoặc sự kết hợp giữa những yếu tố đó, có tính
mới so với thể giới và dùng làm mẫu để chế tạo sản phẩm công nghiệp hoặc thủ
công nghiệp.(Đ784 BLDS)
Một kiểu dáng công nghiệp đợc coi là mới nếu nó khác biệt cơ bản so với
các kiểu dáng công nghiệp tơng tự và cha đợc sử dụng ở đâu, bằng bất cứ hình

thức nào trên thế giới. Theo công ớc Paris(1976), trờng hợp một kiểu dáng đợc
trình bày tại một cuộc triển lãm quốc tế đợc công nhận trớc ngày nộp đơn thì
kiểu dáng công nghiệp đó vẫn đợc coi là mới nếu trong vòng sáu tháng kể từ
ngày bắt đầu triển lãm, đơn đăng ký bảo hộ đợc nộp tới cơ quan nhà nớc có
thẩm quyền.
Tên gọi xuất xứ hàng hóa.
Tên gọi xuất xứ hàng hoá là tên địa lý của nớc, địa phơng dùng để chỉ xuất
xứ của một mặt hàng từ nớc địa phơng đó với điều kiện những mặt hàng này có
các tính chất, chất lợng đặc thù dựa trên điều kiện địa lý độc đáo và u việt, bao
gồm các yếu tố tự nhiên, con ngời hoặc kết hợp cả hai yếu tố đó.(Đ786 BLDS)
Tên gọi xuất xứ của hàng hoá đợc xem nh là một đối tợng đặc biệt của sở
hữu trí tuệ đợc pháp luật bảo hộ. Tên gọi xuất xứ hàng hoá không phải là nhãn
hiệu thơng mại, tên gọi xuất xứ hàng hoá đợc gắn với những mặt hàng có tính
chất đặc thù xuất phát từ các yếu tố độc đáo của địa lý, con ngời địa phơng mà
tên gọi xuất xứ hàng hoá chỉ dẫn.
Nhãn hiệu hàng hoá
Nhãn hiệu hàng hoá là những dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hoá, dịch vụ
cùng loại của các cơ sở sản xuất, kinh doanh khác nhau. Nhãn hiệu hàng hoá có
thể là từ ngữ, hình ảnh hoặc sự kết nối các yếu tố đó đợc thể hiện bằng một hoặc
nhiều màu sắc. (Đ785 BLDS)
Thực chất nhãn hiệu hàng hoá không phải một hoạt động trí tuệ, nó chỉ là
những dấu hiệu có sẵn trong tài sản chung của cộng đồng, đợc cá nhân, pháp
5

nhân chọn để đánh dấu hàng hoá,dịch vụ của mình. Tuy vậy, việc sử dụng nó-đại
diện cho uy tín của cá nhân, pháp nhân-tạo nên giá trị kinh tế, thơng mại. Nh vậy
nó là biểu trng cho năng lực và thành tích của một cơ sở sản xuất, kinh doanh về
một loại hàng hoá hay dịch vụ.
Hiện nay tình trạng nhãn hiệu hàng hoá của Việt Nam bị vi phạm ở nớc
ngoài là rất nhiều và đây thực sự là vấn đề đợc các doanh nghiệp Việt Nam hiện

nay rất quan tâm khi xuất khẩu hàng hoá ra thị trờng nớc ngoài. Cho nên đi sâu
tìm hiểu hơn về vấn đề này là rất cần thiết.
2.1. Những khái niệm về nhãn hiệu hàng hoá
Khái niệm nhãn hiệu hàng hoá.
Theo công ớc Paris 1983 về bảo hộ sở hữu công nghiệp, nhãn hiệu hàng hoá
đợc coi là một trong các đối tợng sở hữu công nghiệp. Nhng khái niệm nhãn hiệu
hàng hoá theo pháp luật các nớc trên thế giới là hoàn toàn không đồng nhất, mỗi
quốc gia đều đa ra khái niệm riêng trong pháp luật nớc mình. Chẳng hạn, theo
đạo luật nhãn hiệu hàng hoá Trademark ACT B.E.2534 của Thái Lan, nhãn hiệu
đợc hiểu là những hình ảnh, tên, từ ngữ, chữ cái chữ ký hoặc sự kết hợp các màu
sắc, hình dáng vật thể hoặc bất cứ sự kết hợp nào của những yếu tố trên. Theo
luật nhãn hiệu hàng hoá của Mỹ, nhãn hiệu hàng hoá có thể là từ, ngữ, dấu hiệu
hay hình vẽ, hoặc sự kết hợp của từ, ngữ, dấu hiệu hay hình vẽ xác định và phân
biệt nguồn gốc của hàng hoá hoặc dịch vụ của ngời này với ngời khác.
Pháp lại đa ra một định nghĩa khác về nhãn hiệu hàng hoá trong Bộ luật sở
hữu công nghiệp 1991: nhãn hiệu hàng hoá, nhãn hiệu thơng mại hay nhãn hiệu
dịch vụ là một dấu hiệu đợc thể hiện bằng hình để phân biệt sản phẩm của một
cá nhân hoặc một pháp nhân. Cũng theo quy định của bộ luật này, nhãn hiệu
hàng hoá có thể đợc hình thành từ tên, tên ngời, tên dòng họ, tên vùng đất, dấu
hiệu, hình tợng, sự kết hợp màu sắc, thậm chí Pháp còn quy định về nhãn hiệu
âm thanh, nhãn hiệu xúc giác và nhãn hiệu khứu giác.
6

Khái niệm về nhãn hiệu hàng hoá của Pháp đa ra trong bộ luật công nghiệp
năm 1991 vẫn dựa trên nền tảng là đạo luật năm 1975. Nhng Anh và một số nớc
khác lại đa ra khái niệm nhãn hiệu hàng hoá dựa trên chỉ thị 89/104/EEC của
Hội đồng các bộ trởng liên minh châu Âu ngày 21/12/1988 nh sau: nhãn hiệu
hàng hoá là bất cứ dấu hiệu nào đợc biểu hiện bằng hình, đồ thị có khả năng
phân biệt hàng hoá dịch vụ của một nhà kinh doanh này với nhà kinh doanh
khác. Nhãn hiệu hàng hoá có thể bao gồm từ ngữ, kể cả tên ngời, hình vẽ, chữ

cái, con số hoặc hình dạng của hàng hoá hoặc cách đóng gói.
Nh vậy ta có thể thấy nhãn hiệu hàng hoá theo pháp luật của từng nớc có
thể đợc định nghĩa theo nhiều cách khác nhau, nhng các nớc đều nhấn mạnh vào
đặc tính có khả năng phân biệt. Tơng tự nh vậy, trong đạo luật nhãn hiệu hàng
hoá, nhãn hiệu dịch vụ và tên gọi xuất xứ hàng hóa của Liên bang Nga năm 1995
có quy định: nhãn hiệu hàng hoá và nhãn hiệu dịch vụ, dới đây gọi chung là
nhãn hiệu hàng hoá, là những dấu hiệu có khả năng phân biệt hàng hoá hoặc dịch
vụ tơng ứng của một cá nhân hoặc pháp nhân nhất định với hàng hoá dịch vụ t-
ơng ứng của cá nhân hoặc pháp nhân khác.
Bộ luật dân sự của Việt Nam cũng có một định nghĩa tơng tự về nhãn hiệu
hàng hoá quy định ở điều 785 nh sau: Nhãn hiệu hàng hóa là những dấu hiệu
dùng để phân biệt hàng hoá dịch vụ cùng loại của các cở sở sản xuất kinh doanh
khác nhau. Nhãn hiệu hàng hóa có thể là từ ngữ, hình ảnh hoặc sự kết hợp các
yếu tố đó đợc thể hiện bằng một hoặc nhiều màu sắc.
Từ các quy định trên về nhãn hiệu hàng hoá, chúng ta có thể rút ra những
đặc điểm chung về nhãn hiệu hàng hoá nh sau:
- Nhãn hiệu hàng hoá là một dấu hiệu cấu thành bằng từ, ngữ, hình ảnh,
hoặc sự kết hợp nào các yếu tố đó đợc thể hiện bằng một hoặc nhiều màu sắc.
- Nhãn hiệu hàng hoá bao gồm cả nhãn hiệu hàng hoá, nhãn hiệu dịch vụ có
khả năng phân biệt sản phẩm hàng hoá hoặc dịch vụ của một nhà cung ứng hàng
hoá dịch vụ đó với một nhà cung ứng dịch vụ dùng loại.
7

Hiện nay, khái niệm về nhãn hiệu hàng hóa trong Hiệp định TRIPS đợc coi
là khái niệm đầy đủ nhất và chung nhất cho các nớc, theo đó, nhãn hiệu hàng hoá
đợc định nghĩa là: Bất kỳ một dấu hiệu, hoặc sự kết hợp của những dấu hiệu, có
khả năng phân biệt hàng hoá dịch vụ của một nhà doanh nghiệp với hàng hóa
dịch vụ của những nhà doanh nghiệp khác. Những dấu hiệu đó có thể là những từ
bao gồm tên ngời, chữ cái, chữ số, yếu tố hình và sự kết hợp màu sắc cũng nh sự
kết hợp bất kỳ của những dấu hiệu đó.

1.3 Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp
Yêu cầu bảo hộ sở hữu công nghiệp xuất phát từ thực tế là các đối tợng của
quyền sở hữu công nghiệp có thể bị vi phạm nh vi phạm về kiểu dáng công
nghiệp, vi phạm về xuất xứ hàng hoá, nhãn hiệu hàng hoá, gây ra sự nhầm lẫn
giữa hàng giả và hàng thật, làm thiệt hại cho cả ba đối tợng là nhà nớc, ngời tiêu
dùng và nhà kinh doanh.
Ngời nào sử dụng các đối tợng sở hữu công nghiệp trong thời hạn bảo hộ
mà không xin phép chủ sở hữu đối tợng đó thì bị coi là xâm phạm quyền sở hữu
công nghiệp trừ các trờng hợp về hạn chế quyền sở hữu công nghiệp (Đ804
BLDS).
Bảo hộ sở hữu công nghiệp chính là việc nhà nớc đặt ra các quy phạm pháp
luật và các biện pháp nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của ngời chủ đối t-
ợng sở hữu công nghiệp.
1.4. Bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá
Bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá chính là việc nhà nớc đặt ra các quy phạm pháp
luật và các biện pháp nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu
nhãn hiệu hàng hoá. Pháp luật bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá là tổng hợp các quy
phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình tạo ra,
đăng ký và sử dựng nhãn hiệu hàng hóa và bảo vệ quyền của chủ sở hữu nhãn
hiệu hàng hoá.
8

Tuy nhiên cũng giống nh các quyền sở hữu công nghiệp khác,quyền sở hữu
nhãn hiệu hàng hóa mang tính chất lãnh thổ tuyệt đối. Điều này có nghĩa là
quyền đó chỉ phát sinh sau khi nhãn hiệu hàng hoá đợc đăng ký và chỉ có giá trị
trong phạm vi lãnh thổ quốc gia đăng ký.
Nh vậy, muốn bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá ở nớc ngoài thì việc bảo hộ phải
đợc quy định trong các điều ớc quốc tế (song phơng và đa phơng) hoặc việc bảo
hộ đợc tiến hành trên nguyên tắc có đi có lại đợc quy định trong pháp luật các n-
ớc về sở hữu công nghiệp.

Bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá ở nớc ngoài cũng chính là bảo hộ nhãn hiệu
hàng, nhng việc bảo hộ lại đợc thực hiện ở nớc ngoài, do đó việc bảo hộ sẽ đợc
điều chỉnh bởi pháp luật nớc ngoài.
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trờng, các hành vi vi phạm quyền
sở hữu nhãn hiệu hàng hoá xảy ra ngày càng nhiều với nhiều phơng thức, thủ
đoạn đa dạng. Do vậy, các phơng thức bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá cũng trở nên
linh hoạt, đa dạng. Thông thờng, khi bị vi phạm chủ nhãn hiệu hàng hoá có
quyền:
- Yêu cầu ngời đang có hành vi vi phạm phải chấm dứt ngay hành vi vi
phạm hay cạnh tranh không lành mạnh đó. Ngời đã có hành vi vi phạm phải huỷ
bỏ những sản phẩm đã sản xuất do ăn cắp nhãn hiệu hàng hoá, gây hại cho ngời
tiêu dùng và làm giảm uy tín của chủ sở hữu.
- Yêu cầu cơ quan nhà nớc có thẩm quyền buộc ngời có hành vi vi phạm
phải chấm dứt hành vi vi phạm và bồi thờng thiệt hại.
Chủ thể có hành vi vi phạm quyền sở hữu nhãn hiệu hàng hoá có thể bị xử
lý bằng các biện pháp hành chính, dân sự hoặc thậm chí có thể bị truy tố về tội
hình sự và phải chịu hình phạt tơng ứng
2. Tầm quan trọng của việc bảo hộ bản quyền sản phẩm và nh nã
hiệu hàng hoá khi xuất khẩu hàng hoá ra thị trờng nớc ngoài.
9

Trong tất cả các chơng trong Hiệp định Thơng mại Việt Mỹ, chơng II về
quyền sở hữu trí tuệ là chơng dài nhất và phức tạp nhất. Điều này cho thấy vấn
đề về sở hữu trí tuệ là vấn đề rất đợc các đối tác nớc ngoài quan tâm. Thế nhng,
do ảnh hởng của chính sách kinh tế bao cấp trong nhiều năm và t tởng cũ vẫn
còn ảnh hởng nặng nề đến cách thức doanh nghiệp Việt Nam tiến hành kinh
doanh, đơn giản và ít chú trọng đến các vấn đề pháp lý liên quan, đặc biệt là về
quyền sở hữu trí tuệ. Chính vì thế đây có thể coi là nguyên nhân dẫn đến hàng
loạt rắc rối xung quanh vấn đề bản quyền sản phẩm và nhãn hiệu hàng hoá khi
xuất khẩu ra thị trờng nớc ngoài trong thời gian gần đây. Hiện tợng hàng hoá

Việt Nam bị đánh cắp thơng hiệu ở nớc ngoài đã làm sáng tỏ một vấn đề mà nhẽ
ra các doanh nghiệp Việt Nam đã phải sáng tỏ từ lâu, đó là tầm quan trọng của
việc đăng kí bản quyền sản phẩm và nhãn hiệu hàng hoá khi tiến hành xuất khẩu
hàng hoá. Đối với một sản phẩm để chế tạo ra nó cần một chi phí lớn để nghiên
cứu, phát triển và xây dựng uy tín, thế nhng chi phí sao chép lại không cao, tính
chất đơn giản trong việc sao chép phần mềm máy vi tính là một ví dụ điển hình
cho thấy cần thiết bản quyền về sản phẩm phải đợc pháp luật bảo hộ. Tơng tự đối
với nhãn hiệu hàng hoá, việc xây dựng đợc nhãn hiệu cho sản phẩm có chỗ đứng
trong lòng ngời tiêu dùng không phải là chuyện dễ nhng để ăn cắp, nhái lại nhãn
hiệu đó nhằm tiêu thu hàng hoá kém chất lợng hơn là hiện tợng rất phổ biến hiện
nay, cho nên cần thiết phải chú ý đến vấn đề bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá của
mình.
Do tầm quan trọng đặc biệt của việc bảo hộ sở hữu trí tuệ thể hiện trên các
mặt xã hội, kinh tế, khoa học nên đây không còn là vấn đề quốc gia mà đã trở
thành vấn đề toàn cầu. Bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá và bản quyền sản phẩm nói
riêng và bảo hộ sở hữu trí tuệ nói chung đi từ sơ khai đến ý thức tự giác, ý thức
pháp luật của mỗi ngời, thể hiện trong tất cả các khâu lu thông của sản phẩm,
xâm nhập thị trờng, phát triển thị trờng cho sản phẩm và tạo uy tín cho sản phẩm.
2.1 Trong giai đoạn xâm nhập thị trờng
10

Giai đoạn xâm nhập thị trờng là giai đoạn rất quan trọng và khó khăn cho
doanh nghiệp, là bớc đầu tạo điều kiện để tiêu thụ sản phẩm trên thị trờng mới.
Trong giai đoạn này doanh nghiệp tập trung vào việc làm sao đa sản phẩm đến
tay ngời tiêu dùng, làm sao để ngời tiêu dùng quen với nhãn hiệu sản phẩm. để
đa một sản phẩm ra thị trờng mới đòi hỏi phải có rất nhiều nỗ lực - trớc hết đó là
phải có sản phẩm đáp ứng nhu cầu ngời tiêu dùng về mặt chất lợng cũng nh thị
hiếu, sản phẩm đó phải đáp ứng nhu cầu của ngời tiêu dùng cả về mặt chất lợng
cũng nh thị hiếu, sản phẩm đó phải có lợi thế nhất định so với sản phẩm cùng
loại (chẳng hạn nh về mặt tiện ích hay giá cả), phải hiểu tờng tận thị trờng mình

định tham gia về mọi khía cạnh (pháp luật, trong đó có quy định về bảo hộ sở
hữu trí tuệ, tiêu chuẩn chất lợng, các đối thủ cạnh tranh hiện hữu và tiềm năng).
Nh vậy, rõ ràng là vấn đề bảo hộ sở hữu trí tuệ cho sản phẩm, đặc biệt là nhãn
hiệu hàng hoá là một trong các yếu tố phải đợc xem xét cân nhắc với hàng loạt
các yếu tố khác và là cái không thể thiếu trong chiến lợc xâm nhập vào một thị
trờng cụ thể.
Sau khi tạo ra một sản phẩm và để đa sản phẩm đó đến với ngời tiêu dùng,
doanh nghiệp phải trải qua một giai đoạn khó khăn, lâu dài và tốn kém. Đó là
việc quảng bá sản phẩm đó trên thị trờng, làm sao cho khách hàng nghe thấy,
nhìn thấy và nhận biết đợc sản phẩm. Khách hàng quan tâm đến các thông tin về
sản phẩm và tìm hiểu ý nghĩa về thơng hiệu của sản phẩm. Giai đoạn này đòi hỏi
doanh nghiệp phải trải qua một giai đoạn khó khăn và tốn kém để khách hàng
chấp nhận và thích thú với sản phẩm và ghi nhớ về nhãn hiệu hàng hóa cho nhu
cầu mua sắm của mình. Tuy nhiên, khi đã có một thơng hiệu mang tầm quốc tế
và đã đợc nhắc đến nhiều thì để xâm nhập sản phẩm đó vào một thị trờng mới sẽ
ít tốn kém hơn nhiều, doanh nghiệp dờng nh không tốn nhiều chi phí cho hoàn
thiện sản phẩm và dễ đợc nhiều ngời tiêu dùng nhận biết hơn. Tuy nhiên nếu sản
phẩm đã nổi tiếng và có uy tín thì rất dễ bị ăn cắp nhãn mác, kiểu dángcho nên
phải đăng ký bảo hộ cho sản phẩm đó để bảo vệ uy tín của sản phẩm, chống lại
các hành vi giả mạo và cạnh tranh không lành mạnh, gây nhầm lẫn cho ngời tiêu
11

dùng. Trong giai đoạn xâm nhập thị trờng vấn đề bảo hộ cho sản phẩm lại càng
quan trọng vì đây là giai đoạn mà doanh nghiệp đang tập trung mọi nỗ lực để sản
phẩm của mình có thể đợc ngời tiêu dùng ghi nhận. Bất cứ một hình ảnh xấu nào
về sản phẩm trong giai đoạn này cũng có thể gây tác hại rất lớn cho những giai
đoạn sau của vòng đời sản phẩm.
Vấn đề quan trọng mà chúng ta đang quan tâm hiện nay là tình hình các
doanh nghiệp Việt Nam khi xâm nhập hàng hoá sang thị trờng nớc ngoài, đặc
biệt là thị trờng Mỹ thì xảy ra tranh chấp do có công ty nớc ngoài đã đăng kí

nhãn hiệu sản phẩm đó và các doanh nghiệp không đợc phép xuất khẩu sang thị
trờng đó nếu không đợc phép của công ty nớc ngoài kia. Cụ thể nh thuốc lá
Vinataba bị các doanh nghiệp Indonesia đăng kí thơng hiệu trớc tại 12 nớc trên
thế giới; thơng hiệu nớc mắm Phú quốc bị một số nhà sản xuất nớc mắm tại Thái
Lan sử dụng để đa sản phẩm ra bán rộng rãi ở thị trờng Mỹ, Châu Âu cách đây
hàng chục năm với tên gọi nớc mắm Phú Quốc sản xuất tại Thái Lan. Ngoài ra,
còn rất nhiều sản phẩm khác nh bánh phồng tôm Sa Giang, kẹo dừa Bến Tre, cà
phê Trung Nguyên cũng bị mất về tay các công ty nớc ngoài. Và vì thế hàng
hoá của các doanh nghiệp chúng ta bị cấm xâm nhập, lu thông vì vi phạm bản
quyền về sản phẩm và nhãn hiệu hàng hoá, tiến trình mở rộng xuất khẩu ra thị tr-
ờng bị ngừng trệ và coi nh sản phẩm không thể xâm nhập vào đợc những thị tr-
ờng mới, thị phần bị mất, thậm chí hàng hoá còn bị tịch thu. Một số chủ các
nhãn hiệu nói trên đã tiến hành kiện tụng và sau một số quá trình pháp lí đã đòi
lại đợc sản phẩm của mình, nhng một số khác lại rơi vào quá trình kiện tụng tốn
kém, không những thế còn làm ảnh hởng đến uy tín của sản phẩm đó.
Bài học thực tế của các doanh nghiệp Việt Nam trong thời gian gần đây cho
thấy tầm quan trọng của việc đăng kí bảo hộ cho sản phẩm trớc khi đa hàng hoá
vào thị trờng là để đảm bảo cho quá trình xâm nhập hàng hoá đó khôngbị gián
đoạn hay thậm chí không thể thực hiện đợc. Nếu không quan tâm đến vấn đề này
thì không những không xâm nhập đợc thị trờng mà còn bị các công ty nớc ngoài
lợi dụng để bán sản phẩm của họ bằng tên tuổi và sự uy tín thơng hiêụ hàng hoá
12

của mình, đây là thiêt thòi rất lớn. Phải coi bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá nói riêng
và các vấn đề khác liên quan đến bản quyền sản phẩm nói chung là chiến lợc cần
quan tâm đi trớc khi tiến hành xuất khẩu hàng hoá ra thị trờng nớc ngoài.
Từ thực tế gần đây, các doanh nghiệp Việt Nam đã nhận thức đợc tầm quan
trọng của đăng kí bản quyền sản phẩm và nhãn hiệu hàng hoá, cụ thể nhiều
doanh nghiệp đã đa ra nguyên tắc chiến lợc thơng hiệu đi trớc hàng hoá, khắc
phục thói quen đa hàng hoá ra thị trờng rồi mới tính đến thơng hiệu. Các doanh

nghiệp đã chú ý xây dựng chiến lợc sở hữu trên cơ sở đã nghiên cứu kỹ thị trờng
mà mình đã dự định xúc tiến giao thơng.
2.2. Nhãn hiệu hàng hoá tạo chỗ đứng cho sản phẩm trên thị trờng.
Để xâm nhập một sản phẩm vào một thị trờng mới đã khó khăn nhng để sản
phẩm đó đến đợc với ngời tiêu dùng, đợc ngời tiêu dùng ghi nhớ và sẽ truy cập
đến nhãn hiệu sản phẩm đó khi có nhu cầu mua sắm thì lại càng khó khăn hơn.
Nhãn hiệu hàng hoá đóng góp vai trò rất quan trọng trong việc đa sản phẩm hàng
hoá đi vào lòng ngời tiêu dùng và tạo chỗ đứng cho sản phẩm trên thị trờng.
Một chiến lợc để làm cho nhãn hiệu hàng hoá trở nên tin cậy có thể làm
cho doanh nghiệp chống lại các đối thủ, làm cho quảng cáo thêm tin cậy. Nhãn
hiệu hàng hoá giúp các khách hàng xây dựng đợc lòng trung thành với sản phẩm
công ty và có tác dụng lớn vì nó luôn in sâu vào đầu óc khách hàng.
Trong khi khách hàng tìm những sản phẩm dịch vụ để đáp ứng mong muốn
hay giải quyết các vấn đề của họ, ngời ta đi tìm cái đủ tốt. Vậy thì thơng hiệu
xây dựng lòng tin mà trong vô số lời mời chào đã xuất hiện cái đủ tốt. Nhãn
hiệu hàng hoá cung cấp một hứa hẹn về độ tin cậy về sản phẩm. Ngời ta thờng
nói: Chúng ta đứng sau sản phẩm của chúng ta. Nhãn hiệu truyền tải một cảm
giác tích cực, nhãn hiệu truyền thông trực tiếp ở mức các cảm giác và do đó dễ
đi vào lòng ngời nh một niềm tin mãi mãi.
Thời đại bình đẳng sản phẩm, sản phẩm và dịch vụ nào không hoàn thiện
thì sẽ nhanh chóng bị loại ra khỏi thị trờng. Trong một thị trờng đã bão hoà,
13

những sản phẩm tơng đơng nhau thì ngời tiếp thị phải làm nh thế nào để chọn
một sản phẩm này mà không phải là sản phẩm kia. Thơng hiệu nâng một vấn đề
đơn giản lên thành một lĩnh vực cảm giác và tự biểu lộ. Lúc đó nhãn hiệu đợc
xem nh là một lời hứa hẹn, nó đảm bảo rằng sản phẩm hay dịch vụ đó sẽ sống
cùng với tên.
Ngày 14/8/1996, Trung Quốc cho ban hành Quy định tạm thời về việc
đăng kí nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng trong đó điều 1 của Quy định này nêu rõ:

Thơng hiệu nổi tiếng là thơng hiệu đã đăng ký có danh tiếng và đợc ngời tiêu
dùng chấp nhận. Nh vậy, định nghĩa trên nêu ra những yếu tố nh sự tín nhiệm
của ngời tiêu dùng, địa vị của nhãn hiệu trên thị trờng, tính ổn định của chất lợng
hàng hóa gắn liền với nhãn hiệu. Có nghĩa là nhãn hiệu hàng hoá sẽ giúp ích rất
nhiều cho ngời tiêu dùng trong việc gợi nhớ về sản phẩm, chất lợng sản phẩm.
Vì thế có thể nói nhãn hiệu tạo chỗ đứng cho sản phẩm trên thị trờng, ngời tiêu
dùng sẽ lựa chọn nhãn hiệu mà họ đã ghi nhớ.
Từ vai trò quan trọng của nhãn hiệu hàng hoá nói trên, ta thấy đợc sự cần
thiết phải bảo hộ nhãn hiệu cho sản phẩm của mình vì có nh thể mới có thể giữ
khách hàng trung thành với sản phẩm của mình. Bảo hộ sở hữu công nghiệp nói
chung và nhãn hiệu hàng hoá nói riêng sẽ giúp cho việc bảo vệ uy tín của sản
phẩm, chống lại các hành vi giả mạo và cạnh tranh không lành mạnh. Nguyên
tắc của bảo hộ là dành cho chủ sở hữu đợc độc quyền sử dụng đối tợng sở hữu
công nghiệp đã đợc bảo hộ nhằm mục đích kinh doanh. Nhờ độc quyền đó, chủ
sở hữu có khả năng lập chiến lợc phân phối và kiểm soát thị trờng sản phẩm của
mình một cách hợp lý.
2.3. Nhãn hiệu hàng hoá - tài sản quý của doanh nghiệp trong việc tạo
uy tín cho sản phẩm.
Ngời mua có thể đánh giá chất lợng hàng hoá bằng thơng hiệu, đặc biệt là
vì họ không thể phán xét các đặc điểm của sản phẩm ngay khi mua hàng. Không
có nhãn hiệu khách hàng sẽ cảm thấy khó khăn hơn rất nhiều khi mua sắm. Nếu
14

khi đi mua hàng, ngời mua lựa chọn một số nhãn hiệu của một số loại sản phẩm
mà họ đã ghi nhớ. Ví dụ nh khi nói đến xe môtô ở Việt Nam, ngời ta nói đến các
nhãn hiệu Honda, Yamaha, Suzuki, SYM... Những ngời thích uống bia sẽ nhắc
đến Bia Hà Nội, bia 333, bia Heneiken, bia Tiger... Trẻ em thì luôn nhớ đến sữa
Vinamilk, bánh Kinh Đô... Những sản phẩm này đã đợc ngời tiêu dùng thừa
nhận bằng chính sự ghi nhớ đó. Do đo, nhãn hiệu sản phẩm luôn thể hiện một
mức chất lợng đáng tin cậy cho sản phẩm của doanh nghiệp, là căn cứ để tạo

niềm tin cho ngời tiêu dùng.
Có một điều chắc chắn không thể phủ nhận là doanh nghiệp nào có ý thức
đầu t quảng bá cho nhãn hiệu sản phẩm của họ thì uy tín hình ảnh của sản phẩm
trên thị trờng sẽ đợc củng cố. Sức mạnh của nhãn hiệu sản phẩm sẽ tạo cho sản
phẩm lợi thế cạnh tranh so với sản phẩm của đối thủ cạnh tranh. Năng lực cạnh
tranh bằng thơng hiệu là danh tiếng, uy tín dựa trên tổng hợp tất cả sự khác biệt
và những nét đặc trng đã đợc khách hàng chấp nhận. Lợi thế cạnh tranh bằng
nhãn hiệu hàng hoá thể hiện ở chỗ: tính chất độc đáo của sản phẩm có nhãn hiệu
sẽ đợc pháp luật bảo hộ tránh sự sao chép bất hợp pháp, giảm bớt chi phí
Marketing vì mức độ biết đến và trung thành với sản phẩm đã cao. Xây dựng đợc
một nhãn hiệu hàng hoá cho sản phẩm còn quan trọng vì nó tạo cho sản phẩm đó
lơị thế khi đàm phán với nhà phân phối, đối thủ cạnh tranh.Chính vì thế, nhãn
hiệu hàng hoá tạo uy tín cho sản phẩm dựa trên chất lợng đã tạo ra sự tin dùng
của ngơi tiêu dùng đối với sản phẩm đó.
Từ thực tế xuất khẩu hàng nông sản Việt Nam cho thấy đôi điều về vấn đề
này. Nông sản đợc coi là thế mạnh xuất khẩu của Việt Nam chiếm 1/4 tỷ trọng
kim ngạch xuất khẩu, nhng cho đến nay mặt hàng này chủ yếu xuất khẩu dới
dạng thô, giá trị thấp. Giá cà phê Việt Nam xuất khẩu suy giảm không chỉ vì
nguyên liệu d thừa mà chủ yếu là do cha có thơng hiệu. Theo nhận định của các
công ty cà phê trên thế giới, chất lợng cà phê Việt Nam không thua kém gì cà
phê của Brazil nhng vì không có thơng hiệu nên giá không thể bằng giá cà phê
Brazil vì ngời tiêu dùng trên thế giới cha đợc biết đến cà phê Việt Nam. Theo
15

lời ông Vũ Tiến Lộc, phó chủ tịch phong thơng mại và công nghiệp Việt Nam thì
đầu ra cho sản phẩm Việt Nam đang mở, đây là cơ hội cho các doanh nghiệp
Việt Nam thoát khỏi cảnh lấy công làm lãi nhng để làm đợc điều này doanh
nghiệp phải bán sản phẩm bằng nhãn hiệu sản phẩm của chính mình, có nh thế
mới mở rộng đợc thị trờng xuất khẩu và tăng đợc lợi nhuận. Thực tế này cho
thấy, dù có chất lợng cao rồi nhng để có đợc thị phần thị trờng cũng nh để sản

phẩm có uy tín mà cụ thể đối với hàng nông sản nói trên, uy tín đợc thể hiện qua
giá cả và lợi nhuận thu đợc từ xuất khẩu, thì tạo cho sản phẩm một nhãn hiệu
riêng là rất cần thiết.
Mặt khác, uy tín của nhãn hiệu hàng hoá phải đợc xây dựng trên nền tảng
chất lợng. Chất lợng sản phẩm và uy tín của thơng hiệu là hai nhân tố bổ sung
cho nhau tạo nên uy tín của sản phẩm. Bên cạnh uy tín của nhãn hiệu thì chất l-
ợng sản phẩm là yếu tố quan trọng, có tính chất quyết định khiến ngời tiêu dùng
lựa chọn sản phẩm này mà không lựa chọn sản phẩm kia. Chất lợng không chỉ đ-
ợc đo lờng bằng những tiêu chuẩn đo lờng mà thực sự thì chất lợng đợc đo lờng
bằng mức độ tín nhiệm, sự yêu thích và tin dùng đối với nhãn hiệu sản phẩm và
đã đạt đợc sự tin dùng đó là đã tạo uy tín cho sản phẩm.. Một số công ty vì sản
phẩm của họ không còn đợc yêu thích nữa hoặc cần nâng cấp uy tín sản phẩm
lên một tầm cao hơn ngời ta sẵn sàng từ bỏ nhãn hiệu cũ bằng một nhãn hiệu
mới. Từ mời năm nay, Unilever đã không đầu t nữa cho quảng cáo loại nớc tẩy
Wisk, để tập trung cho các sản phẩm khác nh Omo, Persil, Skip và Corol. Thiếu
sức chống đỡ, mức bán hàng Wisk năm 1999 có phần giảm sút, làm giảm nhẹ
0.1% tổng doanh số. Thế là nhãn hiệu ấy đợc đình chỉ ngay để không lây lan đến
cục diện chung. Nhạy bén với tình hình thị trờng, năm 1999, tập đoàn kinh
doanh nớc nhuộm tóc Eugene Perma quyết định cho rút lui ngay lập tức một loại
sản phẩm mang nhãn hiệu izae. Một nhà lãnh đạo trong tập đoàn cho biết:
Chúng tôi muốn xoá bỏ izae và thay thế ngay bằng Keranove nổi tiếng hơn
trong các loại Shampooing. Khi mua lại của hãng Milo sản xuất các loại kẹo
thơm hồi năm 1994, Unilever vội vàng làm biến mất nhãn hiệu Titan của chủ cũ
16

để khỏi ảnh hởng xấu đến nhãn hiệu cuả mình. Đồng thời hãng này đã cải tiến
chất lợng sản phẩm cũ bằng cách cho ra đời sản phẩm kẹo thơm Magnum với h-
ơng vị độc đáo và dạng mới với hình dáng mới. Điều này đã làm tăng doanh số
của tập đoàn do khách hàng a chuộng sản phẩm mới của hãng. Khi Samsung
chia tay với hệ thống siêu thị Val Mart Store Inc, nhiều nhà kinh doanh ngạc

nhiên bởi đây là hệ thống bán lẻ các sản phẩm nổi tiếng mang nhãn hiệu
Samsung. Nhng các quan chức của tập đoàn này cho biết dù cảm thấy khó khăn
nhng họ vẫn phải làm vì có nh thế họ mới nâng giá trị nhãn hiệu Samsung lên
một tầm cao hơn và thực tế là vì điều này mà Samsung đã tăng đợc 22% giá trị
cho các sản phẩm mang nhãn hiệu Samsung. Vào ngày 6/8/2001, khi hãng
Interbrand công bố nghiên cứu mới nhất của họ về 100 nhãn hiệu hàng đầu thế
giới thì Samsung đã đợc xếp thứ 42, tức là tăng lên 22% so với thời điểm trớc khi
tập đoàn này làm cuộc chia tay với thơng hiệu nói trên.
Một số ví dụ trên cho thấy sự ảnh hởng lẫn nhau giã chất lợng sản phẩm và
uy tín thơng hiệu trong việc tạo ra uy tín cho sản phẩm thông qua sự tin dùng của
khách hàng dành cho sản phẩm đó. Thực tế là nhãn hiệu hàng hoá đóng vai trò
rất quan trọng trong việc tạo ra uy tín cho sản phẩm. Uy tín này đợc đánh giá
bằng sự yêu thích của ngời tiêu dùng.
Tuy nhiên, để giữ đợc uy tín đó đó ngoài việc không ngừng nâng cao chất l-
ợng sản phẩm còn phải chú ý bảo vệ cho sản phẩm của mình khỏi những hiện t-
ợng bị ăn cắp kiểu dáng, nhãn hiệu. Vì bất cứ sự làm nhái, làm giả hay lợi dụng
uy tín của sản phẩm nào cũng làm ảnh hởng rất lớn tới sự a thích của ngơì tiêu
dùng vì không phải ngời tiêu dùng nào cũng phân biệt đợc hàng giả, hàng thật.
Một lần nữa, thông qua tầm quan trọng của nhãn hiệu đối với sản phẩm, sự cần
thiết của bảo hộ quyền sở hữu cho sản phẩm nói chung và nhãn hiệu hàng hóa
nói riêng lại đợc khẳng định.
3. Các vấn đề pháp lý liên quan đến bản quyền về sản phẩm và nh nã
hiệu sản phẩm Việt Nam khi xuất khẩu ra thị trờng nớc ngoài
17

3.1. Pháp luật Việt Nam.
3.1.1. Hệ thống các văn bản pháp luật.
Các văn bản luật
- Bộ luật dân sự năm 1995 (phần thứ 6 chơng II), quy định cụ thể các
vấn đề liên quan đến bảo hộ sở hữu trí tuệ.

- Bộ luật hình sự năm 2000 ( điều 170 và 171), quy định về tội phạm và
hình phạt có liên quan đến bảo hộ sở hữu trí tuệ.
Các văn bản h ớng dẫn giải thích luật
- Nghị định 63/CP (24/10/1996) đợc sửa đổi và bổ sung theo nghị định
06/2001/ND-CP (01/02/2001) quy định chi tiết về sở hữu công nghiệp;
- Nghị định 12/1999/ND-CP (6/3/1999) về xử phạt hành chinh trong lĩnh
vực sở hữu công nghiệp;
- Nghị định 54/2000/ND-CP (3/10/2000) về bảo hộ đối với bí mật kinh
doanh, chỉ dẫn địa lý, tên thơng mại và bảo hộ quyền chống cạnh tranh không
lành mạnh liên quan đến sở hữu trí tuệ;
- Nghị định 13/2001/ND-CP về bảo hộ giống cây trồng mới;
- Các thông t hớng dẫn thi hành các nghị định nói trên, cụ thể:
+ Thông t 3055/TT-SHCN ngày 31/12/1996 của bộ Khoa học, công nghệ và
môi trờng;
+ Thông t số 23/TC-TCT ngày 9/5/1997 của Bộ Tài chính về phí và lệ phí
sở hữu công nghiệp;
+ Thông t số 825/2000/TT- Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trờng hớng
dẫn thi hành nghị định 12/1999/ND-CP;
Ngoài ra, vấn đề bảo hộ sở hữu trí tuệ liên quan đến bản quyền sản
phẩm và nhãn hiệu hàng hoá còn đợc đề cập đến trong các văn bản pháp luật
hiện hành khác nh: Luật đầu t nớc ngoài năm 2000; Luật thơng mại năm 1997.
Các điều ớc quốc tế mà Việt Nam tham gia.
- Công ớc Paris về bảo hộ sở hữu công nghiệp 1883 (Việt Nam tham gia năm 1981);
18

- Thoả ớc Madrid năm 1892 về đăng ký Nhãn hiệu Quốc tế (Việt Nam tham
gia năm 1981);
- Thoả ớc Nice về phân loại quốc tế hàng hoá và dịch vụ để đăng ký nhãn
hiệu hàng hoá năm 1957;
- Hiệp định khung về hợp tác Sở hữu trí tuệ giữa các nớc ASEAN (12/1995);

- Bản ghi nhớ về hợp tác Sở hữu trí tuệ giữa Việt Nam và ASEAN (09/1995);
Ngoài ra, vấn đề bảo hộ sở hữu trí tuệ có liên quan đến bản quyền sản phẩm
và nhãn hiệu hàng hoá còn đợc đề cập trong những hiệp định liên quan đến thơng
mại giữa Việt Nam và các nớc trên thế giới.
3.1.2. Các quy định pháp luật hiện hành.
3.1.2.1. Đối t ợng đ ợc bảo hộ.
Đối tợng thuộc sở hữu công nghiệp có liên quan đến bản quyền sản phẩm
và nhãn hiệu hàng hoá đợc pháp luật Việt Nam bảo hộ là: sáng chế, giải pháp
hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hoá, tên gọi xuất xứ hàng hoá.
3.1.2.2. Chủ sở hữu các đối t ợng đ ợc bảo hộ
- Chủ thể đợc cấp văn bằng bảo hộ;
- Chủ sở hữu đăng ký quốc tế hàng hoá theo Thoả ớc Madrid đã đợc chấp
nhận bảo hộ tại Việt Nam;
- Cá nhân, pháp nhân hoặc chủ thể khác đợc chuyển giao một cách thích
hợp quyền sở hữu đối với sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp,
nhãn hiệu hàng hoá.
3.1.2.3. Các loại văn bằng bảo hộ và thời gian có hiệu lực
- Văn bằng bảo hộ sáng chế là văn bằng độc quyền sáng chế, có hiệu lực từ
ngày cấp đến hết 20 năm kể từ ngày nộp đơn hợp lệ;
- Văn bằng bảo hộ giải pháp hữu ích là văn bằng độc quyền giải pháp hữu
ích, có hiệu lực từ ngày câp đến hết 5 năm kể từ ngày nộp đơn hợp lệ;
19

- Văn bằng bảo hộ kiểu dáng công nghiệp là văn bằng độc quyền về kiểu
dáng công nghiệp, có hiệu lực kể từ ngày cấp đến 5 năm kể từ ngày nộp đơn hợp
lệ; có thể đợc gia hạn thêm 2 lần, mỗi lần 5 năm;
- Văn bằng bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá là Giấy chứng nhận đăng ký nhãn
hiệu hàng hoá, có hiệu lực từ ngày cấp đến hết 10 năm tính từ ngày nộp đơn hợp
lệ và có thể gia hạn thêm nhiều lần, mỗi lần 10 năm;
3.1.2.4. Quyền đ ợc cấp đối với chủ sở hữu các văn bằng bảo hộ .

- Quyền nộp đơn yêu cầu cấp văn bằng bảo hộ sáng chế, giải pháp
hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hoá dùng cho sản phẩm, hàng
hoá, dịch vụ mình đã hoặc sẽ sản xuất hoặc cung cấp;
- Quyền u tiên nộp đơn, yêu cầu nộp đơn trong vòng sáu tháng kể từ đơn
nộp đầu tiên. Tuy nhiên, ngời nộp đơn cũng có quyền rút quyền u tiên nhằm trì
hoẵn việc công bố đơn yêu cầu cấp văn băng bảo hộ;
- Quyền sử dụng các loại văn bằng đợc bảo hộ nhằm vào mục đích kinh
doanh, quyền chuyển giao toàn bộ hoặc một phần quyền sử dụng các văn bằng
bảo hộ thông qua hợp đồng li-xăng, hợp đồng này cũng phải đăng ký tại cục sở
hữu công nghiệp (Điều 35 Nghị định 63/CP sửa đổi);
- Quyền yêu cầu Cơ quan nhà nớc có thẩm quyền xử lý hoặc khởi kiện tại
Toà án có thẩm quyền những ngời có hành vi xâm phạm quyền bảo hộ công
nghiệp của mình;
- Quyền để thừa kế, từ bỏ sở hữu các văn bằng bảo hộ (điều 37 Nghị định
63/CP sửa đổi);
3.1.2.5. Đăng ký bảo hộ sở hữu công nghiệp.
Cá nhân, pháp nhân Việt Nam muốn đăng ký bảo hộ sở hữu trí tuệ liên
quan đến bản quyền sản phẩm và nhãn hiệu hàng hoá có thể nộp đơn tại:
- Cục sở hữu công nghiệp Việt Nam tại Hà Nội,
- Uỷ quyền cho tổ chức dịch vụ đại diện sở hữu công nghiệp các tỉnh
20

Cá nhân, pháp nhân nớc ngoài có thể đăng ký tại hai cơ quan nói trên hoặc
nộp đơn quốc tế qua Văn phòng quốc tế của WIPO trong đó có chỉ định Việt
Nam.
3.1.2.6. Xử lý vi phạm
Việt Nam cũng có những quy định về xử phạt hành vi vi phạm độc quyền
bảo hộ các đối tợng sở hữu trí tuệ liên quan đến bản quyền sản phẩm và nhãn
hiệu sản phẩm Theo đó, các quyết định liên quan đến các đối tợng trên của
Cục sở hữu Công nghiệp có thể đợc khiếu nại ở Bộ Khoa học Công nghệ và Môi

trờng hoặc Toà án.
3.2. Quy định pháp luật có liên quan đến bản quyền sản phẩm và nhãn
hiệu hàng hoá trong các điều ớc quốc tế
3.2.1. Công ớc Paris (1883) về Bảo hộ Quyền sở hữu công nghiệp (Việt
Nam tham gia năm 1981)
Đây là công ớc đầu tiên trên thế giới về sở hữu công nghiệp, ban đầu chỉ có
11 nớc tham gia. Từ thời điểm ký kết đến nay, công ớc đã trải qua nhiều lần sửa
đổi tại các hội nghị quốc tế nh hội nghị Lahay (1925), Luân Đôn (1938), Lisbon
(1958), Stockholm (1967), Brucxen (1990), Oasinhton (1991). Hiện nay có
khoảng hơn 100 nớc tham gia công ớc. Công ớc không hạn chế với tất cả các nớc
trên thế giới.
Mục đích của công ớc Paris là xây dựng các quy định khung có lợi cho việc
đăng ký bảo hộ các đối tợng thuộc sở hữu trí tuệ của công dân nớc này đối với
công dân nớc khác thuộc thành viên công ớc. Các nớc tham gia lập thành một
liên minh quốc tế về bảo hộ sở hữu công nghiệp. Nội dung cơ bản của công ớc
tập trung vào một số vấn đề sau:
3.2.1.1. Nguyên tắc bảo hộ - nguyên tắc đãi ngộ quốc dân.
Điều 2 công ớc xác định rõ nguyên tắc đối xử quốc gia sẽ đợc áp dụng.
Công dân bất kỳ nớc thành viên nào cũng đợc hởng sự bảo hộ quyền sở hữu công
21

nghiệp nh các công dân nớc thành viên khác. Nghĩa là tại một nớc là thành viên
của công ớc, công dân của bất kỳ thành viên nào cũng là thành viên của công ớc
sẽ đợc hởng mọi quyền lợi mà luật tơng ứng của nớc đó quy định hoặc sẽ quy
định cho công dân nớc mình.
3.2.1.2. Quyền u tiên
Công ớc Paris quy định: công dân của nớc thành viên khi nộp đơn hợp lệ
xin đăng ký bảo hộ tại một trong các nớc thành viên của công ớc, hoặc ngời thừa
kế hợp pháp của ngời đó sẽ đợc hởng quyền u tiên nộp đơn đăng ký bảo hộ cho
hàng hoá, sản phẩm đó ở các nớc thành viên trong thời hạn quy định của công -

ớc. Thời hạn này đợc xác định là 6 tháng tính từ ngày sau ngày nộp đơn đầu tiên
cho kiểu dáng công nghiệp và nhãn hiệu hàng hoá và là 1 năm đối với Bằng sáng
chế và giải pháp hữu ích, nếu ngày tính đến ngày cuối cùng của thời hạn là ngày
lễ chính thức hoặc ngày Cơ quan sở hữu Công nghiệp không nhận đơn tại nớc có
yêu cầu bảo hộ, thời hạn u tiên sẽ đợc kéo dài tới ngày làm việc đầu tiên tiếp
theo đó.
Ngời muốn hởng quyền u tiên trên cơ sở nộp đơn trớc sẽ phải làm tờ khai
ghi rõ ngày nộp và nớc nhận đơn đó. Các nớc thành viên có thể yêu cầu ngời đó
phải nộp bản sao đợc cơ quan nhà nớc có thẩm quyền đã nhận đơn xác nhận của
đơn nộp trớc, bản sao này có thể phải nộp kèm theo giấy xác nhận ngày nộp đơn
đó do chính cơ quan nhà nớc có thẩm quyền nói trên cấp và bản dịch.
Công ớc đã đ a ra những quy định chung cho tất cả các n ớc tham gia kí
kết phải thực hiện:
Đối với bằng sáng chế:
Các bằng sáng chế đợc cấp ở những nớc kí kết là độc lập với nhau; việc cấp
một Bằng sáng chế trong một nớc kí kết không bắt các nớc khác phải cấp một
bằng Sáng chế. Việc bán các sản phẩm có chứa đựng các yếu tố của tiến trình
Sáng chế bị lệ thuộc hoặc giới hạn của Luật Quốc gia. Mỗt quốc gia kí kết có thể
dùng các biện pháp bắt buộc nhằm ngăn chặn việc lạm dụng quyền, khi có sự
22

lạm dụng Công ớc cho phép Bằng Sáng chế có thể bị cấp lixăng không tự nguyện
hoặc có thể bị huỷ bỏ.
Đối với kiểu dáng công nghiệp:
Kiểu dáng công nghiệp phải đợc bảo vệ trong mọi quốc gia kí kết và sự bảo
vệ có thể bị mất nếu các mặt hàng kết hợp thiết kế không đợc sản xuất ở các
quốc gia đó.
Đối với nhãn hiệu hàng hoá:
Công ớc không quy định thật rõ ràng về nhãn hiệu hàng hoá. Các việc và
trình ký cho nhãn hiệu hàng hoá đợc quy định ở mỗi nớc kí kết bởi Luật trong n-

ớc. Nếu nhãn hiệu đợc đăng ký tại một quốc gia thì chúng không thể bị từ chối
tại một quốc gia khác trừ một số trờng hợp ngoại lệ. Khi một nhãn hiệu đợc đăng
ký đầy đủ trong một quốc gia gốc, nó phải đợc chấp nhận đơn trình và phải đợc
bảo vệ theo nguyên bản trong các nớc đã ký kết. Mọi nớc kí kết phải từ chối
đăng ký và cấm sử dụng Nhãn hiệu mà đợc làm lại, bắt chớc hoặc định tạo ra
nhầm lẫn với một nhãn hiệu đã đợc các cơ quan Nhà nớc có thẩm quyền đánh
giá là có biết đến ở nớc đó.
3.2.2. Thoả ớc Madrid (1891) về đăng ký Nhãn hiệu quốc tế (Việt Nam
tham gia 1981)
Thoả ớc đợc kí năm 1981, sửa đổi tại Hague năm 1952, tại London năm
1957, tại Stockholm năm 1967 và đợc sửa đổi năm 1979. Thoả ớc mở với các
quốc gia là thành viên của Công ớc Paris. Đây là thoả ớc đợc kí kết nhằm điều
chỉnh các vấn đề đăng kí nhãn hiệu hàng hoá ở các nớc đăng kí. Đến nay có
khoảng 40 nớc là thành viên của thoả ớc.
Sự ra đời của thoả ớc Madrit nhằm mục đích quy định các điều kiện thuận
lợi cho việc đăng kí nhãn hiệu hàng hoá tại các nớc thành viên của thoả ớc. Với
mục đích đó thoả ớc quy định những vấn đề nh sau:
Đơn xin bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá nộp theo Thoả ớc đợc gọi là Đăng kí
quốc tế. Đơn đăng kí quốc tế phải nộp cho cơ quan có thẩm quyền của nớc nhận
23

đơn. Nớc nhận đơn là nớc mà ngời nộp đơn là công dân, ngời nộp đơn c trú hoặc
ngời nộp đơn có cơ sở sản xuất kinh doanh tại đó. Theo quy định của của Thoả -
ớc nớc nhận đơn đợc gọi là nớc xuất xứ của đơn.
Ngời nộp đơn phải đăng kí Nhãn hiệu tại Văn phòng Nhãn hiệu Thơng mại
quốc gia hoặc địa phơng là nớc xuất xứ của đơn. Khi làm xong, ngời đó phải
thông qua Văn phòng địa phơng hoặc quốc gia để đăng kí quốc tế. Một đơn đăng
kí quốc tế có hiệu lực khi đợc công bố bởi Văn phòng quốc tế và thông báo với
nớc kí kết. Trong thời hạn một năm, kể từ ngày đăng kí quốc tế, các nớc thành
viên phải đa ra kết luận bảo hộ đối với nhãn hiệu hàng hoá trong đơn quốc tế,

nếu không tuyên bố, sự Đăng kí quốc tế có hiệu lực cho sự Đăng kí quốc gia.
3.2.3. Hiệp định TRIPS (1993). Hiệp định về các vấn đề liên quan đến th-
ơng mại của quyền sở hữu trí tuệ.
Tại vòng đàm phán urugoay về thuế quan và mậu dịch của GATT vào ngày
15/12/1993, hiệp định TRIPS- Hiệp định về các vấn đề liên quan đến thơng mại
của quyền sở hữu trí tuệ ra đời. Hiệp định TRIPS bắt đầu có hiệu lực từ ngày từ
ngày 1/1/1996 đối với tất cả các nớc là thành viên của GATT (nay là WTO) và
một số nớc khác nh Trung Quốc, Đài Loan. Cho đến nay đây là hiệp định da ph-
ơng tổng thể nhất về lĩnh vực SHTT.
Hiệp định gồm 7 phần, 73 điều. Hiệp định đề cập đến một số vấn đề chính
nh sau:
Hiệp định ghi nhận các tiêu chuẩn để bảo hộ các đối tợng của quyền sở
hữu công nghiệp là: Sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hoá, thiết
kế bố trí mạng thích hợp, bí mật thơng mại. Hiệp định quy định rõ về việc bảo hộ
nhãn hiệu hàng hóa nổi tiếng, bảo hộ chống lại hành vi sử dụng nhãn hiệu hàng
hoá trùng hoặc tơng tự.
Hiệp định quy định các biện pháp để thực thi có hiệu quả quyền sở hữu
công nghiệp. Các biện pháp đó nhằm vào các thủ tục hành chính, thủ tục xét xử,
các quy định về hải quan và các biện pháp chế tài dân sự, hình sự
24

Hiệp định quy định áp dụng hai nguyên tắc cơ bản của WTO là nguyên tắc
đãi ngộ quốc gia và nguyên tắc tối huệ quốc. Tuy Việt Nam cha phải là thành
viên của TRIPS nhng nếu muốn gia nhập WTO thì nhất thiết phải tham gia Hiệp
định TRIPS, hơn nữa, một số điều ớc song phơng mà Việt Nam đã tham gia nh
lại có những quy định giống nh TRIPS nh hiệp định thơng mại Việt Mỹ. Cho nên
việc nghiên cứu kỹ hiệp định này là rất cần thiết.
3.3. Quy định về bảo hộ bản quyền sản phẩm và nhãn hiệu hàng hoá
theo luật các nớc.
Các điều ớc quốc tế về bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá nói riêng và sở hữu trí

tuệ nói chung thờng chỉ đề ra những tiêu chuẩn chung cho việc bảo hộ. Còn quy
định cụ thể về bảo hộ sở hữu trí tuệ lại nằm trong các văn bản pháp luật tơng ứng
của từng quốc gia. Do vậy, muốn tìm hiểu chi tiết về bảo hộ sở hữu trí tuệ chúng
ta phải xem xét nghiên cứu pháp luật của từng quốc gia. Nh đã nói ở trên, việc
bảo hộ bản quyền sản phẩm và nhãn hiệu hàng hoá của Việt Nam ở nớc ngoài
phụ thuộc vào pháp luật của mỗi quốc gia nơi mà hàng hoá của Việt Nam đợc
xuất khẩu. Mà pháp luật của mỗi quốc gia lại có những điểm khác biệt so với các
quôc gia khác. Chúng ta không thể đi sâu nghiên cứu pháp luật của từng quốc gia
mà chỉ có thể xem xét sơ lợc pháp luật bảo hộ sở hữu trí tuệ liên quan đến bản
quyền sản phẩm ở một số quốc gia trên thế giới.
Đạo luật đầu tiên về sở hữu trí tuệ ra đời ở Anh từ thế kỷ 12, ngày 16 tháng
12 năm 1949, Anh đã ban hành Điều lệ kiểu dáng công nghiệp DLTW 4/1964 và
luật Sáng chế năm 1977, đồng thời Anh là một trong những quốc gia đầu tiên
của Công ớc Paris. Đối với Mỹ, Chính phủ nớc này vào năm 1952 cũng thông
qua luật Sáng chế và Điều lệ kiểu dáng công nghiệp DLTW-1/1960. Nhật Bản là
nớc có hệ thống Luật về sở hữu trí tuệ rất đầy đủ và tơng đối hoàn hảo.Quốc hội
Nhật đã xây dựng hệ thống Luật về sở hữu trí tuệ khá sớm. Năm 1950, Nhật Bản
ban hành Luật Sáng chế, sửa đổi năm 1970, 1975 và 1978. Ngày 13/4/1959,
Quốc hội Nhật đã thông qua Điều lệ về kiểu dáng công nghiệp DLTW-2/1961.
Còn theo báo cáo của Cục sở hữu công nghiệp Việt Nam, các nớc ASEAN và
25

×