Tải bản đầy đủ (.doc) (35 trang)

đề tài tìm hiểu về hiện tượng phú dưỡng trong các hồ ở thủ đô hà nội và các giải pháp chính để kiểm soát hiện tượng này

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (611.44 KB, 35 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HÀ NỘI
Viện Khoa Học Và Công Nghệ Môi Trường
***************

Tiểu luận: NHẬP MÔN KĨ THUẬT MÔI TRƯỜNG
Đề tài: “Tìm hiểu về hiện tượng phú dưỡng trong các hồ ở thủ
đô Hà Nội và các giải pháp chính để kiểm soát hiện tượng này”
Giáo viên hướng dẫn: TS.Văn Diệu Anh
Nhóm sinh viên thực hiện: MSSV
1. Trần Hồng Vân 20123714
2. Nguyễn Đức Việt 20123718
3. Nguyễn Đức Việt 20123719
4. Nguyễn Xuân Vũ 20123730
5. Hoàng Thị Yến 20123736
6. Lê Thị Yến 20123729
7. Nguyễn Võ Hải Yến 20123744
Hà Nội, 11/2013
P a g e 1 | 35
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
1. Tổng quan về hiện tượng phú dưỡng…………………………………4
1.1. Khái niệm và phân loại…………………………………………4
1.1.1. Khái niệm……………………………………………….4
1.1.2. Phân loại……………………………………………… 6
1.2. Nguyên nhân và các yếu tố ảnh hưởng…………………………7
1.2.1. Nguyên nhân……………………………………………7
1.2.2. Các yếu tố ảnh hưởng…………………………………10
1.3. Tác hại của hiện tượng phú dưỡng…………………………….11
1.3.1.Đối với hệ sinh thái…………………………………….11
1.3.2.Đối với con người…………………………………… 13
2. Hiện trạng phú dưỡng các hồ ở Hà Nội…………………………… 14


2.1. Hiện trạng chất lượng nước hồ và phú dưỡng……………… 13
2.2. Nguyên nhân phú dưỡng của các hồ ở Hà Nội……………… 17
3. Giải pháp kiểm soát phú dưỡng…………………………………… 21
3.1. Giải pháp quản lý…………………………………………… 21
3.1.1. Quản lý nguồn nước thải vào hồ………………………22
3.1.2. Nâng cao nhận thức cộng đồng về tác hại cũng như
cách phòng chống phú dưỡng………………………………………….22
3.2. Biện pháp kĩ thuật…………………………………………… 23
3.2.1. Xử lý nguồn nước thải trước khi vào hồ………………23
3.2.2. Xử lý hồ đã bị phú dưỡng…………………………… 24
KẾT LUẬN
P a g e 2 | 35
MỞ ĐẦU
Nước - nguồn tài nguyên vô cùng quý giá nhưng không phải vô tận,
97% nước trên Trái Đất là nước mặn, chỉ 3% còn lại là nước ngọt nhưng
gần hơn 2/3 lượng nước này tồn tại ở dạng sông băng và các mũ băng ở
các cực. Phần còn lại không đóng băng được tìm thấy chủ yếu ở dạng
nước ngầm, và chỉ một tỷ lệ nhỏ tồn tại trên mặt đất và trong không khí.
Tuy nhiên, hiện nay nguồn nước này đang bị ô nhiễm trầm trọng do
nhiều nguyên nhân mà nguyên nhân chính là do hoạt động sản xuất và ý
thức của con người, đe dọa sự tồn tại, phát triển của con người và sinh
vật. Trong đó, ô nhiễm nguồn nước mặt và đặc biệt là hiện tượng phú
dưỡng là một vấn đề lớn, xảy ra tại hầu hết các hồ trên thế giới, gây ra
những hậu quả nghiêm trọng đối với mỗi quốc gia nếu không được can
thiệp, xử lý kịp thời.
Ở Việt Nam, nguồn nước mặt nội địa và nhất là các hồ và hồ chứa
đang bị phú dưỡng ngày càng gia tăng, đặc biệt là các hồ ở đô thị, trong
đó các hồ ở thủ đô Hà Nội là một điển hình. Do vị trí địa lý, kinh tế xã
hội quan trọng của thủ đô Hà Nội nên các hồ ở Hà Nội có vai trò rất lớn,
hệ thống hồ Hà Nội cũng được coi như lá phổi xanh của thành phố, là

“nhà máy” điều hòa khí hậu tiểu khu vực. Vì vậy, có thể thấy việc
nghiên cứu về hiện tượng phú dưỡng ở các hồ trong thủ đô là một vấn đề
rất phức tạp, gặp nhiều khó khăn nhưng tuy nhiên, đây cũng là một chủ
đề thú vị đối với những sinh viên mới bắt đầu học ngành môi trường như
chúng em. Từ đó, dưới sự hướng dẫn và nhận xét, đánh giá của giáo viện
hướng dẫn: Cô Văn Diệu Anh – Viện Khoa học và Công nghệ Môi
trường, chúng em đã thực hiện bài tiểu luận với đề tài: “Tìm hiểu về
hiện tượng phú dưỡng trong các hồ ở thủ đô Hà Nội và các giải pháp
chính để kiểm soát hiện tượng này” với nội dung:
+ Tổng quan về hiện tượng phú dưỡng
+ Hiện trạng phú dưỡng các hồ ở Hà Nội
+ Các giải pháp kiểm soát phú dưỡng.
P a g e 3 | 35
1.Tổng quan về hiện tượng phú dưỡng:
1.1 Khái niệm và phân loại:
Trái đất của chúng ta, hơn 71% diện tích được bao phủ bởi nước.
Nhưng trong số đó, đến 97% là nước mặn và không thể sử dụng được.
Chỉ khoảng 3% là nước ngọt. Nhưng thực tế thì trong 3% ít ỏi đó có đến
68,7% nước ngọt dưới dạng núi băng, sông băng rất khó để khai thác và
sử dụng. Nguồn cung cấp chính cho con người chính là 30,1% nước
ngầm và 0,3% nước mặt ngọt. Chỉ với 0,3% lượng nước mặt được tích
trữ dưới dạng hồ, ao, đầm lầy, sông suối(ao, hồ chiếm 87%, đầm lầy
chiếm 11% và sông chỉ chiếm 2%) thì thật sự rất đáng lo ngại với tình
hình và sự xuống cấp ngiêm trọng của chất lượng nước tại các ao, hồ
hiện nay mà 1 trong những nguyên nhân chủ yếu là do hiên tượng phú
dưỡng. Vậy “hiện tượng phú dưỡng” là gì? [1]
1.1.1.Khái niệm.
Hiện tượng phú dưỡng (eutrophication)( xuất phát từ Hy lạp có
nghĩa là “thừa dinh dưỡng”) là một dạng suy giảm chất lượng nước
thường xảy ra ở các hồ chứa với hiện tượng nồng độ các chất dinh

dưỡng trong hồ (đặc biệt là N và P) tăng quá cao làm bùng phát các loại
thực vật nước (như rong, tảo, lục bình, bèo v.v ), gọi là hiện tượng nở
hoa trong nước và làm tăng các chất lơ lửng, chất hữu cơ, làm suy giảm
lượng ôxy trong nước, nhất là ở tầng dưới sâu gây ảnh hưởng không tốt
đến chất lượng nước và hệ sinh thái trong nước.
P a g e 4 | 35
Hình 1. Hồ xảy ra hiện tượng phú dưỡng.
Chúng ta có thể hiểu rõ hơn tại sao N và P lại là nguyên nhân chính
gây ra hiện tượng phú dưỡng trong ao hồ thông qua ví dụ về loài tảo:
Tảo là loài thực vật phù du, đơn bào, có thể được mô tả bằng công thức:
(CH
2
O)
106
(NH
3
)
16
H
3
PO
4
.
Như vậy, tảo được cấu tạo từ các nguyên tố chính: C, N, P, O, H
Từ công thức trên, tỷ số C:N:P là 106:16:1. Tỷ số N:P = 16: 1 được gọi
là “ giá trị biên độ đỏ (redfield value)”. Giá trị này biểu thị lượng cần
thiết N và P tạo nên rong tảo, từ đó có thể xác định được yếu tố nào là
yếu tố hạn chế tiềm năng phát triển rong tảo.Khi N:P >16 thì P trở thành
yếu tố giới hạn. Ngược lại, N:P <16 thì N trở thành yếu tố giới hạn.
Trong các hệ sinh thái nước ngọt thì yếu tố giới hạn thường là P bởi vì:

Các dòng chảy tràn trên mặt chứa một lượng lớn nitrat
N dưới dạng nitrat dễ bị hòa tan do đó dễ bị rửa trôi ra các hệ sinh thái
nước ngọt.
Một số loài tảo lục và vi khuẩn có khả năng cố định nitơ dưới dạng N
2
từ
khí quyển.[2]
P a g e 5 | 35
1.1.2.Phân loại.
Hồ và hồ chứa có thể xếp loại theo mức độ phú dưỡng thành 4 loại:
dinh dưỡng ít, dinh dưỡng trung bình, phú dưỡng và siêu phú dưỡng
(Bảng 1. Phân loại các mức độ phú dưỡng). Sự phân loại này có được từ
sự nghiên cứu và kiểm nghiệm nhiều về phú dưỡng ở các nước trong tổ
chức hợp tác và phát triển kinh tế (Organization for Economic
Cooperation and Development (OECD)) trong những năm 1970 và đầu
những năm 1980. Nó được dựa trên nồng độ Phốt pho, Ni tơ, và Diệp
lục (Chlorophyll a). Chất diệp lục biểu thị nồng độ của sinh khối thực
vật một cách sơ bộ (trung bình 1% của sinh khối tảo là chất diệp lục).
Bảng 1. Phân loại các mức độ phú dưỡng.[3]
Tham số
Nghèo
dinh
dưỡng
Dinh
dưỡng
trung bình
Phú
dưỡng
Siêu phú
dưỡng

Tổng P trung bình
(µg/l)
3-18 11-96 16-390 >200
Tổng N trung bình
(µg/l)
310-1600 360-1400 390-6100 Cao
Chlorophyll a trung
bình (µg/l)
0.3-4.5 3-11 2.7-78
>100,
khoảng
200-500
Ngoài phương pháp nêu trên, cũng có thể tính toán trạng thái phú
dưỡng nước hồ và nồng độ chất dinh dưỡng trong hồ theo phương pháp
chỉ số trạng thái phú dưỡng.
Phương pháp đánh giá phú dưỡng nước hồ theo chỉ số trạng thái phú
dưỡng TSI (Trophic State Index)
Phương pháp đánh giá chất lượng nước hồ thông qua tính toán chất
lượng nước hoặc giá trị chỉ số trạng thái phú dưỡng phát triển bởi
Carlson năm 1977 và được Lillie sửa chữa cho các hồ ở Wisconsin (Mỹ)
năm 1993. Giá trị TSI dựa trên nồng độ phốt pho (TSIP), nồng độ diệp
lục (TSIC) và độ sâu đĩa secchi (TSID) được tính toán cho các mẫu với
P a g e 6 | 35
các phương trình (1) & (3) và được sử dụng để tính giá trị TSI.
TSIP = 14.42ln(TP)+ 4.15 [TP: microgram / lít] (1)
TSIC = 9.81 ln (CHL) + 30.6 [CHL: microgam/lít] (2)
TSISD = 60 – 14.41 ln(Secchi depth) [ Secchi depth: feet] (3)
Nếu nước hồ có giá trị TSIP nhỏ hơn 40 thì hồ thuộc loại nghèo dinh
dưỡng, đặc điểm thường là nước hồ trong với ít tảo và nồng độ phốt pho
nhỏ và ở những vùng nước sâu nước hồ có ô xy nhiều quanh năm (theo

Cục bảo vệ môi trường Mỹ – DEP). Hồ dinh dưỡng trung bình (giá trị
TSIP trong khoảng 40 đến 50) có lượng dinh dưỡng trung bình và là giai
đoạn đầu, tảo cũng bắt đầu có nhiều, ở một số chỗ nước sâu có thể sảy ra
hiện tượng thiếu ô xy. Đối với hồ đã bị phú dưỡng tương ứng là các vấn
đề về chất lượng nước nghiêm trọng như hoa tảo nở theo mùa, thiếu hụt
ô xy trong nước. Một số tài liệu xác định nước hồ phú dưỡng khi giá trị
TSIP trong khoảng 50 đến 70. Tuy nhiên giá trị nào để xác định nước hồ
bị phú dưỡng được lựa chọn còn tùy vào kinh nghiệm. Hiện tại Cục bảo
vệ môi trường Mỹ (DEP) xác định tiêu chuẩn nước hồ bị phú dưỡng có
TSIP ≥ 65 tương ứng với nồng độ phốt pho tổng ≥ 68 µg/l.
1.2 Nguyên nhân và các yếu tố ảnh hưởng:
1.2.1 Nguyên nhân:
Nguyên nhân gây phú dưỡng là sự thâm nhập một lượng lớn N, P từ các
nguồn thải trong đô thị và nông thôn vào các hồ chứa.
Trong đó ở đô thị việc xả nước thải sinh hoạt có chứa nitrat và
photsphat được xử lí một phần hoặc chưa qua xử lí đã góp phần không
nhỏ trong việc gây ra hiện tượng phú dưỡng. Tại khu vực Hà Nội, phần
lớn lượng nước thải sinh hoạt (khoảng 600.000 m3/ngày) và lượng nước
thải công nghiệp (khoảng 260.000 m3/ngày, khoảng 10% được xử lý)
được đổ thẳng vào các sông, ao, hồ.
Ngoài ra việc sử dụng bột giặt, các chất tẩy rửa có chứa P(photpho) ngày
càng gia tăng và chúng được đưa trực tiếp vào ao hồ khiến lượng
P(photpho) trong các hồ chứa này thừa dư càng nhiều. Bột giặt chứa
P a g e 7 | 35
P( photpho) sản xuất từ năm 1940. Giữa những năm 1950 – 1970 lượng
bột giặt tiêu thụ tăng gấp 5 lần ở Mĩ và gấp 7 lần ở Anh. P từ bột giặt
chiếm 47 -65% tổng số P trong nước cống từ 6 trạm xử lí ở Anh vào
năm 1971. Hàng năm, chỉ tính riêng 2 thành phố Hà Nội và TP. Hồ Chí
Minh đã tiêu thụ trên 32.000 tấn bột giặt/năm và 17.141 tấn chất tẩy
rửa/năm.

Không chỉ nước thải sinh hoạt mà các nguồn thải từ các khu công
nghiệp nhà máy chủ yếu là các ngành công nghiệp rượu bia, chế biến
sữa, thực phẩm và ngành công nghiệp len… cũng đã góp phần không
nhỏ vào quá trình phú dưỡng. Một điều dễ dàng nhận thấy là các KCN
tập trung đa số đều nằm gần các tuyến sông rạch và tất nhiên hệ thống
sông rạch đó chính là nguồn tiếp nhận nước thải trực tiếp. Và khi các
KCN hình thành thì các chất thải của các nhà máy, xí nghiệp trực tiếp đổ
ra sông rạch, làm cho nguồn nước sông rạch ô nhiễm tầm trọng. Một ví
dụ điển hình như sự tập trung số lượng lớn các KCN tập trung nằm dọc
theo hệ thống lưu vực sông Sài Gòn – Đồng Nai, làm cho chất lượng
nước sông ở đây ô nhiễm tầm trọng (các kết quả tính toán cho thấy hiện
tại các KCN hằng ngày thải vào hệ thống sông Sài Gòn – Đồng Nai
khoảng 130000m
3
nước thải, trong đó có khoảng 23,2 tấn cặn lơ lửng
(SS), 19,4 tấn BOD
5
, 41,3 tấn COD, 7,5 tấn Nitơ, 1 tấn Phospho và
nhiều kim loại nặng cùng các chất độc hại khác, theo các tài liệu quy
hoạch phát triển, dự báo vào năm 2010, các con số nói trên tương ứng sẽ
là 1542000 m
3
nước thải/ngày đêm, trong đó có khoảng 278 tấn cặn lơ
lửng, 231 tấn BOD
5
, 493 tấn COD, 89 tấn Nitơ, 12 tấn Phospho, v.v…
(Triết và cộng sự, 2000) Ngành công nghiệp rượu bia ở Anh một ngày
thải ra sông 11.000 m3 có nồng độ 156mg N/l và 20 mg P/l. Nghành chế
biến thực phẩm và nghành công nghiệp len yêu cầu công đoạn rửa rất
nhiều thường có nước thải chứa nhiều N(nito), P(photpho). . Ngành chế

biến sữa, hàm lượng N(nito) trong nước thải là 50mg/l; còn ngành chế
biến thịt hộp hàm lượng N(nito), P(photpho) cao gấp 2,3 lần so với
ngành chế biến sữa.
Nguyên nhân gây ra phú dưỡng còn xuất phát từ nông thôn. Hoạt
động sản xuất nông nghiệp cũng là một trong những tác nhân rất quan
P a g e 8 | 35
trọng gây nên hiện tượng phú dưỡng. Trong trồng trọt, để tăng năng
suất, người ta đã sử dụng một lượng lớn phân bón mà chủ yếu là phân
đạm ( chứa N), phân lân ( chứa P). Tuy nhiên, chỉ có 30-40% lượng
phân bón đưa vào cây có khả năng hấp thụ, còn lại sẽ bị tích tụ trong đất.
Hiện tượng xói mòn xảy ra sẽ cuốn theo lượng phân bón dư thừa đó đổ
ra nguồn nước gây ra phú dưỡng. Ngày nay, lượng phân bón sử dụng
tăng lên nhanh chóng. Lượng phân bón sử dụng ở Việt Nam trung bình
73,5kg/ha (trung bình của thế giới là 95,4 kg/ha). Owen(1970) cho rằng
nông nghiệp chiếm 71% khối lượng nitơ chảy xuống sông Great Ouse ở
miền trung nước Anh.Còn ở Đắc Lắc nông dân bón lượng phân chứa
nitơ là 600 kg/ha cho cà phê dất đỏ vẫn không cho năng suất cao hơn với
việc bón 200kg/ha, lượng dư thừa sẽ đổ vào sông hồ và làm phú dưỡng
hóa.
Từ năm 1950 đến năm 1995, ước tính có khoảng 600.000.000 tấn phốt
pho được áp dụng cho bề mặt trái đất, chủ yếu là trên đất canh tác. Con
người đã sử dụng đất canh tác, đốt rừng: làm giảm diện tích đất che phủ
bởi thực vật, làm đất bị trơ ra khiến hiện tượng xói mòn rửa trôi được
tăng cường, khi xảy ra hiện tượng này một lượng lớn nitrat đã bị rửa trôi
xuống ao, hồ gây ra phú dưỡng. Theo một thí nghiệm được tiến hành ở
Hubard Brook ở vùng núi trắng ở New Hamphire trong vòng 3 năm từ
năm 1960 đến năm 1963.Người ta tiến hành chặt trụi một thung lũng, rồi
đo hàm lượng nitrat đi ra, rồi so sánh với một thung lung được giữ
nguyên .Kết quả cho thấy, lượng nitrat tăng 50 lần so với thung lũng
không bị chặt trụi.

Còn trong chăn nuôi: Trong những năm gần đây, ngành chăn nuôi đã có
bước trưởng thành nhanh chóng, góp phần vào sự phát triển chung của
ngành nông nghiệp. Nhiều trang trại nuôi lợn, gia cầm quy mô lớn đã
được thành lập, các hộ gia đình cũng tăng số lượng vật nuôi. Tuy nhiên
hầu hêt các cơ sở chăn nuôi lớn cũng như nhỏ lẻ chưa quan tâm đến việc
xử lý chất thải, Hiện cả nước có 8,5 triệu hộ chăn nuôi quy mô gia đình,
18.000 trang trại chăn nuôi tập trung, nhưng mới chỉ có 8,7% số hộ xây
dựng công trình khí sinh học (hầm biogas). Tỷ lệ hộ gia đình có chuồng
P a g e 9 | 35
trại chăn nuôi hợp vệ sinh cũng chỉ chiếm 10% và chỉ có 0,6% số hộ có
cam kết bảo vệ môi trường. Vẫn còn khoảng 23% số hộ chăn nuôi không
xử lý chất thải bằng bất kỳ phương pháp nào mà xả thẳng ra môi trường
bên ngoài…Mỗi năm trong cả nước có khoảng 60 triệu tấn chất thải
chăn nuôi, tuy nhiên đa số chưa được xử lý mà được sử dụng trực tiếp
làm phân bón hoặc làm thức ăn cho cá hoặc thải ra môi trường. Phế thải
chăn nuôi chứa nhiều hợp chất Nito, Photpho trong đó chiếm 206mg/l
Nito và 37mg/l Photpho trong các thành phần nước thải, là nguyên nhân
gây ra phú dưỡng. [7] [2]
1.2.2. Các yếu tố ảnh hưởng:
Chất dinh dưỡng luôn là điều kiện tiên quyết gây ra hiện tượng phú
dưỡng. Trong đó hàm lượng N-P là yếu tố quan trọng nhất , bởi hai
nguồn này là cơ sở vật chất ban đầu, là xuất phát điểm quyết định chất
lượng môi trường nước, bởi lẽ nó quyết định đến sự sinh sôi, phát triển
của tảo. Nước giàu chất dinh dưỡng làm cho thực vật quang hợp và phát
triển mạnh, sinh ra 1 lượng sinh khối lớn. Khi chúng chết đi thì tích tụ
lại ở đáy hồ, phân hủy từng phần tiếp tục giải phóng các chất dinh dưỡng
như CO
2
, phospho, nitơ, calci… gây ra hiện tượng phú dưỡng.
Chất dinh dưỡng còn ảnh hưởng bởi các yếu tố:

1.Độ sâu của hồ:
Hồ càng sâu thì các chất dinh dưỡng sẽ bị lắng xuống tầng đáy, cách
xa phạm vi sinh sống ở tầng mặt do vậy hạn chế được hiện tượng “tảo
nở hoa”. Nếu hồ không sâu lắm, loài thực vật có rễ ở đáy bắt đầu phát
triển làm tăng quá trình tích tụ các chất rắn thúc đẩy sự phát sinh của
tảo.
2.Khả năng lưu chuyển nước
Nước mà lưu chuyển càng nhanh thì sẽ kéo các chất dinh dưỡng ra
khỏi hệ sinh thái , khiến cho các loài tảo không đủ thời gian để sử dụng
các chất dinh dưỡng này. Những ao, hồ tụ đọng – ao, hồ mà không có
dòng nước dẫn vào mà nguồn cung cấp nước chủ yếu từ nước ngầm,
nước chảy tràn trên mặt còn nước đi ra do ngấm qua đất hay bốc hơi
P a g e 10 | 35
nước, có nguy cơ lớn dẫn đến hiện tượng phú dưỡng.
3.Các điều kiên khí hậu
Khi có các yếu tố về ánh sáng, nhiệt độ, độ ẩm thích hợp thì sẽ đẩy
nhanh quá trình phát triển của tảo. Chính vì lẽ đó, hiện tượng phú dưỡng
thường gặp vào mùa đông hơn mùa hè vì mùa đông có nhiệt độ thấp,
khả năng bốc hơi nước kém đi nên lượng nitrat di chuyển vào không khí
ít
Tóm lại, hiện tượng phú dưỡng sẽ có tiềm năng phát triển ở hệ sinh
thái nước ngọt mà hội tụ các yếu tố:
Hàm lượng N(nito), P(photpho) cao. [2]
1.3.Tác hại của hiện tượng phú dưỡng:
1.3.1. Tác động của hiện tượng phú dưỡng tới hệ sinh thái
Khi các hồ gia tăng chất dinh dưỡng, các loài tảo phát triển mạnh sẽ
hạn chế ánh nắng mặt trời. Với hồ phú dưỡng, lượng oxy hòa tan đáng
kể khi trời tối do sự hô hấp của tảo, gây thiếu oxy cho các sinh vật thủy
sin. Hiện tượng cá chết nhiều ở hồ Dianchi và Thái Hồ ở Trung Quốc là
một minh chứng cho hiện tượng này. Hiện tượng phú dưỡng có thể gây

ra cạnh tranh giữa các loài trong hệ sinh thái, gây ra sự thay đổi trong
thành phần loài của hệ sinh thái. Ngoài ra, một số tảo nở hoa có chứa các
hợp chất độc hại, tác động lên chuỗi thức ăn, dẫn đến tử vong ở động
vật. [2]
Hậu quả của hiện tượng phú dưỡng là tảo nở hoa dày đặc và rất độc
hại. thực vật phù du có mùi hôi làm giảm môi trường nước một cách rõ
ràng và làm ảnh hưởng xấu đến chất lượng nước. Tảo nở hoa làm giảm
ánh sáng, làm giảm sự phát triển và làm thực vật và động vật chết dần
trong vùng nước bị nhiễm tảo nở hoa, đồng thời làm giảm phần trăm
thành công săn bắt mồi của các động vật ăn thịt khi chúng cần ánh sáng.
Hơn nữa, tỉ lệ cao của nồng độ P cao với hiện tượng phú dưỡng có thể
làm cạn kiệt nguồn CO2 và nồng độ pH tăng đến cùng cực. pH cao có
thể làm sinh vật bị "mù", các hóa chất hòa tan có thể làm chúng mong
chóng chết bằng cách làm suy yếu các giác quan của chúng. Khi tảo chết
P a g e 11 | 35
đi, phn hủy vi sinh vật làm cạn kiệt oxy hòa tan, làm thiếu oxy hoặc
vùng đất chết thiếu oxy vùng đất chết được tìm thấy tại nhiều hồ nước
sạch bao gồm biển hồ Laurentian trong cả mùa hè. Hơn nữa, hiện tượng
thiếu oxy đặc biệt phổ biến trong môi trường biển trên diện rộng, những
con sông giàu dinh dưỡng đã được chứng minh làm ảnh hưởng đến hơn
245000 km. Chính vì lý do này, khiến cho các động vật thủy sinh ở vùng
nước này cũng bị ảnh hưởng trên diện rộng. Thiếu hụt lượng oxy khiến
chúng không thể sống và sinh sản. Dẫn đến hiện tượng các loài thủy sinh
bị chết hàng loạt, ảnh hưởng đến chuỗi thức ăn của chúng và một số loài
có nguy cơ tuyệt chủng cao.
Sự tiếp diễn của hiện tượng phú dưỡng đang đe dọa ngành thủy sản
trên toàn thế giới.
Tảo nở hoa đôi khi gây ra mối nguy hại bởi vì chúng sinh ra các
chất độc hại (ví dụ: microcystin and anatoxin-a; Chorus and Bartram
1999). Đây cũng là nguyên nhân gây ra cái chết hay biến đổi của các

loài thủy sinh trong khu vực bị tảo nở hoa.
Trong thế kỉ qua, tảo độc hại đã gây nên sự xuống cấp của chất
lượng nước, phá hủy ngành thủy sản và làm ảnh hưởng đến sức khỏe
cộng đồng. Trong hệ sinh thái nước ngọt, vi khuẩn lam là thực vật phù
du chủ yểu liên quan đến tảo độc hại. Độc tố của vi khuẩn lam bao gồm
Anabaena, Cylindrospermopsis, Microcystis and
Oscillatorie (Planktothrix) có xu hướng chiếm thành phần dinh dưỡng
cao trong hiện tượng phú dưỡng.
Hầu hết các loài vi tảo biển nở hoa thường đưa đến hậu quả làm cho
môi trường xấu đi, hàm lượng oxy hòa tan suy giảm nhanh chóng, gây
ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống thủy sinh vật.
Tảo chết và chìm xuống đáy thủy vực và bị hủy bởi các vi sinh vật
khác đặc biệt là vi khuẩn.
Kết quả gây nên hiện tượng thiếu ôxy trong các tầng nước làm chết các
loài thủy sản. Quá trình này làm thay đổi thành phần hóa học trong
P a g e 12 | 35
nước, gây tăng các khí độc. Đến nay, các nhà khoa học đã xác nhận có
khoảng trên 300 loài vi tảo đã hình thành sự nở hoa làm thay đổi màu
nước. Trong đó có khoảng 1/4 loài (70 - 80 loài) gây hâiện tượng nở hoa
có khả năng sản sinh độc tố đang là mối đe dọa đến khu hệ động vật và
thực vật tự nhiên ở nước, nghề nuôi trồng thủy sản và sức khỏe của con
người (nguyên nhân do độc tố tảo có thể được tích lũy trong vài loài
động vật thân mềm sò, ốc hay cá… và không bị phá hủy trong quá trình
đun nấu, không ảnh hưởng đến mùi vị của thực phẩm. Do vậy cả ngư
dân cũng như người tiêu dùng khó có thể xác định được các thực phẩm
biển bị nhiễm độc do tảo gây ra. Hiện nay, có 5 loại triệu chứng ngộ độc
do tiêu thụ thực phẩm biển nhiễm độc tố tảo xảy ra với con người. Trong
đó, đặc biệt dạng ngộ độc gây tê liệt cơ (PSP) có thể gây tử vong và
dạng ngộ độc Ciguatera rất phổ biến trong vùng nhiệt đới. Theo các nhà
khoa học, trong vài thập kỷ qua, hiện tượng Thủy triều đỏ và nở hoa

nước đang gia tăng ở cả 2 khía cạnh tần số/cường độ xuất hiện và phân
bố địa lý.[5]
1.3.2. Tác hại của hiện tượng phú dưỡng với con người
1. Ảnh hưởng đến nguồn cung cấp nước
Nhiều vùng đã xử lý nguồn nước ở các hệ sinh thái nước ngọt để
cung cấp cho các hoạt động hàng ngày.Để đưa vào sử dụng, người ta
tiến hành các phương pháp lọc, tuy nhiên sự tăng trưởng của các loài
thực vật trôi nổi đặc biệt là tảo trong quá trình phú dưỡng đã gây cản trở
cho việc làm sạch nước.Số lượng tảo lớn đã làm tắc các bể lọc nước,
nguồn nước sau khi lọc vãn chứa một lượng đáng kể các loại tảo có kích
thước nhỏ.Sản phẩm phân hủy chúng đã tạo phức chất với Fe, Al dẫn
đến tăng lượng kim loại trong nước, đồng thời các sản phẩm phân hủy
đó còn thúc đẩy sự lớn mạnh của vi khuẩn, nấm và động vật không
xương sống.

2. Ảnh hưởng đến sức khỏe
Nguồn nước chứa nhiều nitrat tiềm ẩn mối nguy hại lớn đối với sức
P a g e 13 | 35
khỏe con người.Trẻ em dưới 6 tháng tuổi có thẻ mắc bệnh
Methaemoglobinaemia do uống sữa bình chứa nhiều nitrat.Trẻ nhỏ có
pH dịch vị rất thấp, dễ khử nitrat thành nitrit.Ion nitrit dễ dàng thâm
nhập vào máu, ở đó chúng ion hóa sắt trong phân tử hemoglobin, làm
giảm khả năng vận chuyển máu.Tỉ lệ tử vong của bện này khoảng 60-
80%.
Viện Tiêu chuẩn sức khỏe Châu âu đề nghị tiêu chuẩn về nước uống
nồng độ nitrat không quá 50 mg NO
3
-
/ l.Tiêu chuản nước của Mỹ là 45
mg/l. [7]

3. Ảnh hướng đến giá trị du lịch, giải trí
Khi nước bị phú dưỡng, giá trị này thường giảm đi đáng kể. Việc câu cá,
bơi thuyền có thể bị cản trở do việc tạo váng trên bề mặt khi tảo nở hoa.
Các loài tảo phân hủy thường bốc mùi khó chịu, gây ảnh hưởng cảnh
quan xung quanh. Gần đây, lượng khách du lịch đến với hồ Xuân
Hương, trái tim của Đà Lạt giảm nhanh mà nguyên nhân hồ đang bị rơi
vào tình trạng này. [2]
2.Hiện trạng phú dưỡng các hồ ở Hà Nội:
2.1.Hiện trạng chất lượng nước hồ và phú dưỡng
Hồ là tài sản vô cùng quý báu của các đô thị, là thắng cảnh, là di
tích lịch sử mang lại nhiều giá trị tinh thần cho cộng đồng dân cư. Trong
hệ thống cơ sở hạ tầng đô thị, hồ đô thị có chức năng tiêu thoát nước
mưa, điều hòa khí hậu, là nơi giải trí của cộng đồng dân cư , khu vực
xung quanh nhưng với quá trình đô thị hóa và chỉnh trang đô thị ở nước
ta trong những năm gần đây làm giảm đáng diện tích mặt nước tự nhiên
của các hồ cùng với việc tiếp nhận một lượng lớn các chất thải đã làm
chất lượng nước hồ ngày càng xấu đi và nhiều lúc trở thành vấn đề bức
xúc của xã hội.
P a g e 14 | 35
Hình 2: Ao ngõ Đặng Mai gần hồ Tây bị ô nhiễm nặng
Phần lớn thành phố khác trên đất nước ta, hệ thống hồ đầm đóng vai
trò quan trọng trong việc điều tiết lượng mưa điều hòa khí hậu và tạo
cảnh quan cho cộng đồng sống dân cư. Tuy nhiên trong những năm gần
đây hệ thống thu gom và xử lí nước thải đô thị chưa đáp ứng được tốc
độ đô thị hóa; đặc điểm địa hình các hồ chủ yếu ở khu vực thấp, vào
mùa hè, mực nước trong hồ thấp hơn mực nước trong các cống thoát
nước nên có một lượng đáng kể nước thải đã rò rỉ chảy vào các hồ. Hoặc
vào mùa mưa nước chảy tràn cũng mang một lượng lớn các chất thải
rắn, cặn lắng đọng trong hệ thống cống xung quanh tràn vào hồ gây ô
nhiễm và làm giảm giá trị chất lượng nguồn nước tại các hồ đô thị.

Nước ta đang đứng trước thách thức về ô nhiễm môi trường nhất là
tại khu đô thị và khu công nghiệp. Phú dưỡng lần đầu tiên được coi là ô
nhiễm ở các hồ nhân tạo châu Âu và Bắc Mĩ. Từ đó đến nay hiện tượng
này đã phổ biến trên pham vi toàn cầu. Kết quả nghiên cứu cho thấy
hiện tượng phú dưỡng xảy ra ở 545 các hồ ở châu Á, 53%ở châu Âu,
48%ở Bắc Mĩ, 41% ở Nam Mĩ, 28% ở châu Phi.
Ngày nay hiện tượng phú dưỡng các hồ trên thế giới cũng không
P a g e 15 | 35
ngoại lệ với hơn 60% các sông hồ bị phú dưỡng.

Hình 3: Một số ao hồ bị phú dưỡng
Báo cáo “Hiện trạng môi trường quốc gia năm 2005” cho biết khu vực
nội thành các thành phố lớn (Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Hải
Phòng, Huế) hệ thống các ao, hồ, kênh, rạch là nơi tiếp nhận và vận
chuyển chất thải của khu công nghiệp và khu dân cư, mức độ ô nhiễm
phải cao hơn mức cho phép tiêu chuẩn từ 5-10 lần, các hồ trong nội
thành Hà Nội phần lớn ở trạng thái phú dưỡng, nhiều hồ bị phú dưỡng
hóa đột biến và tái nhiễm chất hữu cơ.
Các hồ Bảy Mẫu (Hà Nội), An Biên(Hải Phòng), Hồ Đầm Vạc
(Vĩnh Phúc) đều có hàm lượng hữu cơ cao hơn tiêu chẩn cho phép B.
Kết quả quan trắc 36 điểm cho thấy lượng nước của tất cả 36 điểm
cho thấy chất lượng của tất cả các dòng sông lớn đều không đạt tiêu
chuẩn nước mặt loại A( Nguồn cung cấp nước sinh hoạt) mà chỉ đạt tiêu
chuẩn loại B( phục vụ tưới tiêu).
P a g e 16 | 35
Sông Nhuệ(Hà Đông) không còn đạt tiêu chuẩn loại B vì thông số các
chất hữu cơ, phú dưỡng quá lớn.
Nước ở hồ Tây coi là sạch hơn cả( đạt loại tuy chưa ô nhiễm kim
loại nặng và thuốc bảo vệ thực vật nhưng bị ô nhiễm bởi chất hữu cơ ở
dạng nhẹ với hàm lượng N, P khá cao bắt đầu có nguy cơ ô nhiễm). Hồ

Bảy Mẫu có hàm lượng hữu cơ cao hơn tiêu chuẩn phú dưỡng loại B.
Các hồ phú dưỡng thường nông dần theo thời gian nhất là các vùng
đầu hồ nơi đón nhận trực tiếp nước thải. Hiện tượng lai hóa đã làm cạn
dần hồ xuất hiện ở hồ Hoàn Kiếm, hồ Tây, hồ Thiền Quang, hồ Bảy
Mẫu, hồ Thành Công, Hiện nay mực nước các hồ về mùa khô đang
giảm dần, độ sâu trung bình từ 0,5- 1,3m. Theo nghiên cứu hàm lượng
muối dinh dưỡng tích tụ khá lớn trong hồ gây hiện tượng “ phú dưỡng
hóa” ở hồ Xuân Hương tạo điều kiện cho tảo bùng phát về số lượng làm
nước hồ hôi thối. Kết quả phân tích cho thấy có 14 loại tảo lam tham gia
hiện tượng nở hoa của nước. Ngoài ra xác định được hai loại tảo lục có
khả năng cho mùi hôi. Nồng độ NO
3
-
trong các sông có xu hướng tăng
lên rõ rệt như sông Cấm( Hải Phòng), sông Sài Gòn( thành phố Hồ Chí
Minh). Trong khi đó trên sông Hương, sông Hàn lại có dấu hiệu giảm
dần. Nhìn chung hàm lượng NO
3
-
trong các sông trên cả nước vẫn nằm
trong giới hạn cho phép của Việt Nam. Nồng độ PO
4
3-
đang có xu hướng
tăng lên ở sông Hồng, Cấm, Hàn nhưng lại có xu hướng giảm ở sông
Hương. [8][9]
2.2. Nguyên nhân phú dưỡng tại Hà Nội
Nguyên nhân gây phú dưỡng là sự thâm nhập một lượng lớn N, P từ
nước thải sinh hoạt của các khu dân cư, sự đóng kín và thiếu đầu ra của
môi trường hồ. Sự phú dưỡng nước hồ và các sông kênh dẫn nước thải

gần các thành phố lớn đã trở thành hiện tượng phổ biến ở hầu hết các
nước trên thế giới.Nguyên nhân của sự phú dưỡng được giải thích như
sau: Nước không bị ô nhiễm thường có tỉ lệ N/P <10. Cống dẫn nước
thải vào hồ sẽ làm giảm tỷ lệ trên vì N/P trong nước thải là 3 (nước thải
đô thị 30mg/l.N; 10 mg/l.P). Do vậy nếu trồng tảo để hạn chế phú dưỡng
P a g e 17 | 35
sẽ càng làm cho tỷ lệ N/P giảm đi. Khi viết cân bằng vật chất cho N và P
sẽ thấy phương thức tốt nhất để chống phú dưỡng là loại bỏ P từ nước
thải chứ không phải trồng tảo để loại bỏ N. Khi nghiên cứu về môi
trường và hệ sinh thái hồ, trong tổng lượng các nguồn nước thải đến hồ,
nguồn dinh dưỡng tiềm năng chủ yếu là nguồn Photpho và Nitơ luôn
được lưu tâm nhiều nhất bởi hai nguồn này là cơ sở vật chất ban đầu, là
xuất phát điểm quyết định chất lượng môi trường nước và trầm tích đáy.
Các kết quả nghiên cứu từ trước đến nay về đầm hồ học đã tổng kết các
nguồn dinh dưỡng tiềm năng đến hồ bao gồm:
Nước thải sinh hoạt: Mỗi người một ngày thải 10,8g N và 2,18g P.
Bột giặt chứa P cũng trở thành nguồn cung cấp P trong nước thải.
Sự thâm nhập một lượng lớn nước thải từ khu dân cư, sự đóng kín
và thiếu đầu ra của các hồ. Hiện tượng phú dưỡng tại các hồ trở thành
vấn đề lớn của đô thị trong và ngoài nước. Nó đã gây tác động tiêu cực
tới đời sống văn hóa dân cư đô thị, biến đổi sinh thái hồ làm tăng mức ô
nhiễm không khí của đô thị.
P là nguyên nhân chính gây phú dưỡng tại các hồ. Trong các hồ
bình thường P là yếu tố giới hạn phát triển chung cho các sinh vật phù
du vì nó tồn tại ở nồng độ thấp dưới dạng hợp chất tảo bị hấp thụ, lại
tiếp tục tái sinh trở lại sinh vật phù du qua đường bài tiết từ cá động vật
nổi và các hoạt động của vi khuẩn.
Nguyên nhân căn bản là từ các nguồn nước thải có hàm lượng N, P
cao. Nồng độ P ở nước mặt thường chỉ thị trạng thái dinh dưỡng của hệ.
P là dinh dưỡng thiết yếu của tảo nó được xem là yếu tố hạn chế sinh

học trong nước ngọt. Hệ thống cống rãnh tại các đô thị, khu công nghiệp
phụ thuộc mức sống dân cư và tiêu chuẩn trong khu vực.
P a g e 18 | 35
Hình4: Ô nhiễm nguồn nước do rác và nước thải từ cống rãnh
Nước thải từ khu sản xuất công nghiệp, chế biến sản xuất nông
nghiệp. Việc xả nước thải( chứa nitrat và photphat) được xử lí một phần
hay chưa xử lí trực tiếp xuống hồ cũng là nguyên nhân dẫn tới tình trạng
ô nhiễm nguồn nước. Nước thải khu công nghiệp: hàm lượng các chất ô
nhiễm thải trực tiếp ra các ao hồ thường rất cao, phần lớn nước thải sinh
hoạt một ngày một ở Hà Nội khoảng 600000m
3
và lượng nước thải công
nghiệp là 260000m
3
, khoảng 10% được xử lí được đổ thẳng vào các
sông ao hồ. Ngoài ra việc sử dụng bột giặt, các chất tẩy rửu chứu P được
đưa trực tiếp vào ao hồ cũng đáng báo động. Hằng năm tại thủ đô Hà
Nội và thành phố Hồ Chí Minh tiêu thụ hơn 32000 tấn bột giặt/năm,
17414 tấn chất tẩy rửa/ năm. Đời sống con người ngày càng cao thì
nguồn chất thải sinh hoạt ngày càng trở lên phong phú và phức tạp,hiện
tượng ô nhiễm nguồn nước ngày càng tăng. Bên cạnh đó các nguồn thải
khu công nghiệp, nhà máy cũng góp phần làm tăng quá trình phú dưỡng
hóa. Ngành chế biến sữa chứa hàm lượng N trong nước thải khoảng
500mg/l, công nghiệp chế biến thịt hộp có hàm lượng N, P cao gấp 2,3
lần công nghiệp chế biến sữa.
P a g e 19 | 35
Nguyên nhân khác là từ các dòng chảy tràn trên bề mặt, có khả
năng tích tụ nhiều chất hữu cơ và bùn đẩy nhanh sự phát triển của vi
sinh vật dưới nước làm hồ giàu dinh dưỡng.
Trong sản xuất nông nghiệp: phân bón sử dụng ngày càng nhiều

nhất là phân đạm chưa nhiều N và phân lân chứa P và các thuốc bảo vệ
thực vật. Chất thải từ động vật là cũng tham gia vào quá trình gây phú
dưỡng. Lượng P do gia súc thải ra cao gấp 4 lần lượng P do con người
thải ra chất dinh dưỡng theo nguồn thải vào hồ qua quá trình rửa trôi,
xói mòn đất do mưa.
Ô nhiễm do các làng nghề truyền thống: Các làng nghề chế biến
nông sản, thực phẩm nước mặt ở nhiều nơi có hàm lượng COD, BOD5,
NH
4
+
lên cao với lượng chất độc hại cao hơn quy định từ 2-3 lần.
Hình 4: Vấn đề ô nhiễm môi trường tại các làng nghề ở Hà Nội đang ở
mức báo động
Các yếu tố như nhiệt độ, ánh sáng, sự thoát nước chậm gây ứ đọng
P a g e 20 | 35
cũng có thể là nguyên nhân gây nên hiện tượng nở hoa trong các hồ.
+ Các hiện tượng biến đổi thời tiết do tác động của con người như: sử
dụng nhiên liệu hóa thạch làm sinh các chất khí NO, NO
2,
hay việc bốc
hơi NH
3
tạo thành mưa axit góp phần làm tăng hàm lượng N có trong ao
hồ [2][10] [11] [12]
3. Giải pháp kiểm soát phú dưỡng:
3.1.Giải pháp quản lý:
Quản lý nguồn nước vào hồ là toàn bộ các hoạt động vận hành, pháp
lý, quản lý thể chế và kỹ thuật cần thiết để quy hoạch, vận hành và quản
lý nguồn nước.
Theo số liệu của Trung tâm Nghiên cứu và Cộng đồng môi trường

(CECR) công bố năm 2010. Hà Nội có 120 hồ, ao, đầm, thủy vực lớn
nhỏ trong 6 quận nội thành Hà Nội. Nhưng 95% các hồ bị ô nhiễm chất
hữu cơ. 71% hồ có yếu tố sinh hóa vượt quá tiêu chuẩn cho phép, trong
đó 14% hồ ô nhiễm chất hữu cơ nặng, 25% hồ ô nhiễm nặng và 32% có
dấu hiệu ô nhiễm. Vì vậy, có thể thấy rằng hồ Hà Nội đã và đang bị cơn
lốc đô thị hóa chèn ép nặng nề. Hồ nước gánh chịu nước thải sinh hoạt
và sản xuất tới mức ô nhiễm có thể nhận thấy bằng cảm quan chứ không
phải qua xét nghiệm mẫu nước trong phòng thí nghiệm. Nếu như vào
những năm 80 thế kỉ trước, nhiều người dám bơi tắm ở một số hồ nội
thành thì nay chẳng còn ai dám “liều” như vậy. Nước hồ kết nối thẳng
với các con sông nội thành giờ đã biến thành kênh thoát nước đen ngòm
và hôi thối.
Theo Sở TN & MT, tổng lượng nước thải sinh hoạt và nước thải sản
xuất công nghiệp ở khu vực nội thành khoảng 500.000 m
3
/ngày, đều tiêu
thoát qua hệ thống cống và 4 sông tiêu chính là Tô Lịch, Lừ, Sét, Kim
Ngưu. Trong khi đó theo Sở Giao thông công chính, trên địa bàn 9 quận
nội thành hiện có 110 hồ với tổng diện tích hơn 1.000 ha, nhưng mới chỉ
có vài hồ được cải tạo, kè xung quanh, tách nước thải và nước mưa riêng
P a g e 21 | 35
như Hoàn Kiếm, Thiền Quang; vài hồ đang được cải tạo như Văn
Chương, Kim Liên, Linh Quang… và dự án kè xung quanh Hồ Tây đang
ở giai đoạn cuối. [13]
Như vậy có thể thấy, để trả lại sự trong lành cho nước hồ Hà Nội cần
những giải pháp căn bản về quản lý nguồn nước rác là:
3.1.1. Tăng cường công tác kiểm tra, quản lý nguồn nước thải trước
khi vào hồ, đưa ra các chính sách quản lý phù hợp:
Để tăng cường công tác kiểm tra, quản lý nguồn nước thải trước
khi vào hồ, điều luật nước thải đô thị đề ra các mục tiêu tham vọng:

- Tất cả các khu dân cư trên 2000 người đều có hệ thống thu gom
và xử lý nước thải.
- Các hệ thống xử lý nước thải phải đạt trình độ bậc hai và xử lý
dinh dưỡng nếu nước thải sau xử lý bậc hai chứa nồng độ nitrat cao
hoặc có dấu hiệu gây ra hiện tượng phú dưỡng.
Thời hạn cuối để đạt các mục tiêu trên là vào 1998, 2000, 2005 tương
hợp với qui mô của hệ xử lý và nguồn nước nhận.
Từ nội dung qui định của các điều luật trên cho thấy tầm quan trọng
của việc kiểm soát chất dinh dưỡng trong nước thải và sự cấp bách của
nó (chỉ có 7,5 năm thực hiện cho các hệ xử lý phục vụ cho 10.000
người).
3.1.2. Nâng cao nhận thức cộng đồng về tác hại cũng như cách phòng
chống phú dưỡng:
Tăng cường các công tác tuyên truyền, giáo dục và nâng cao nhận
thức người dân về tác hại của hiện tượng phú dưỡng đối với con người
và hệ sinh thái, đồng thời hướng dẫn họ cách phòng chống để mỗi người
dân có thể tham gia bảo vệ môi trường nói chung và hạn chế hiện tượng
phú dưỡng nói riêng.
Đánh giá về việc thực hiện công tác này, Sở Tài nguyên và Môi
trường cho rằng: Hiện nay nhận thức của cộng đồng về tầm quan trọng
của công tác quản lý tài nguyên nước còn hạn chế và thiếu ý thức tự giác
chấp hành pháp luật tài nguyên nước. Tình trạng khai thác, sử dụng tài
P a g e 22 | 35
nguyên nước, xả nước thải vào nguồn nước, hành nghề khoan nước dưới
đất tự do, tuỳ tiện vẫn còn phổ biến. Công tác quản lý nhà nước về tài
nguyên nước mặt đối với các công trình thuỷ lợi còn chưa có hướng dẫn
rõ ràng. Đối với công tác bảo vệ nguồn nước thực sự khó khăn, nan giải
bởi các đơn vị hoạt động trong lĩnh vực tài nguyên nước chưa xây dựng
được hoặc xây dựng chưa hoàn chỉnh công trình xử lý nước thải.
Với những tồn tại trên, thiết nghĩ trong thời gian tới các cấp, các

ngành, đơn vị trên địa bàn Hà Nội cần tăng cường hơn nữa công tác
tuyên truyền Luật Tài nguyên nước, tổ chức thanh tra, kiểm tra thường
xuyên và có chế tài xử lý vi phạm nhằm thực hiện tốt công tác khai thác,
bảo vệ nguồn nước, đảm bảo nước sản xuất, sinh hoạt cũng như phục vụ
các mục đích khác cho nhân dân trong thành phố Hà Nội. [14]
3.2. Biện pháp kĩ thuật:
3.2.1.Xử lý nước thải trước khi vào hồ:
1. Đổi hướng dòng nước thải và cải tạo hệ thống tiêu nước, thoát
nước cho các khu vực xung quanh hồ:
Việc đổi hướng dòng nước thải và cải tạo hệ thống tiêu nước,
thoát nước giúp giảm áp lực nước thải vào một hồ, hạn chế sự tập trung
nước thải vào hồ giúp hạn chế nguy cơ gây phú dưỡng.
2. Xử lý nước thải trước khi đổ ra hồ:
Như chúng ta đã biết, khả năng tự làm sạch các chất dinh dưỡng
của nguồn nước bị hạn chế vì vậy cần phải có những phương pháp thích
hợp để hạn chế hiện tượng phú dưỡng.
Phương pháp hiệu quả nhất là xử lí nước thải chứa các dinh dưỡng
với hàm lượng N, P lớn trước khi đổ ra nguồn nước.

Các nhà máy cần phải có hệ thông để xử lí nước thải:
+ Xử lí sơ cấp: vật thể rắn được lấy ra từ các màn chắn, chỉ loại bỏ
được 5 – 15% lượng dinh dưỡng có trong nước thải.
+ Xử lí thứ cấp: loại bỏ 30 -50% các chất dinh dưỡng, vẫn còn các
muối photphat, nitrat và amôn được thải ra sông, hồ.
P a g e 23 | 35
+ Xử lí tam cấp: cần thiết để loại bỏ phần lớn photpho co trong
nước thải, có các biện pháp xử lí hóa học, vật lí hoặc sinh học. Photphat
có thể kết tủa bằng vôi tôi, hợp chất nhôm, hoặc sắt. Kết tủa được tách ra
ở các bể lắng động. Quá trình này loại bỏ 90 – 95% lượng P. Xử lí sinh
học sử dụng khả năng một vài vi sinh vật hút P nhiều hơn nhu cầu dinh

dưỡng của chúng và dự trữ trong tế bào dưới dạng poly photphat. Những
vi sinh vật này có thể tách khỏi nước cùng với bùn. [15]
3.2.2.Xử lý hồ đã bị phú dưỡng:
(Theo Nguyễn Trung Kiên - Luận văn TSKH - Nghiên cứu sử dụng Bèo
Cái và Rau muống trong xử lý nước phú dưỡng – ĐHBKHN - 2012)
3.2.2.1. Các biện pháp xử lý cặn lắng và bất hoạt P tại hồ:
- Loại bỏ cặn đáy: là phương pháp khá hữu hiệu để giảm lượng dinh
dưỡng trong hồ. Việc loại lớp cặn phía trên giàu P sẽ phơi bày lớp cặn
phía dưới có khả năng gắn kết P, đồng thời cũng loại bỏ khá nhiều mầm
vi khuẩn lam trong lớp cặn. Giải pháp này có thể hạn chế việc tái hòa tan
bùn cặn vào cột nước nhưng lại phải vận chuyển một lượng nước rất lớn
( chiếm tới 90% khối lượng cặn đáy ) và khá tốn kém.
- Lát đáy hồ: Lát đáy hồ là phương pháp rẻ tiền hơn loại bỏ cặn đáy.
Phương pháp này thường được ứng dụng khi xử lý cặn bùn chứa nhiều
kim loại nặng hoặc các độc tố bền vững khác nhưng cũng có thể sử dụng
để giảm thiểu dinh dưỡng hoặc sự tái xuất vi khuẩn lam vào cột nước.
Nguyên tắc của phương pháp này là phủ bề mặt đáy để ngăn cách hoặc
giảm thiểu sự tái xuất chất ô nhiễm vào nước hồ. Vật liệu để lát hồ có
thể là vách ngăn cơ học ( cát , sỏi ) hoặc vách ngăn tích cực ( Zeolites,
đất sét, calcite – CaCO
3
,…). Tuy nhiên, phương pháp này ít được sử
dụng do khó có thể lát được lớp vật liệu đồng đều dưới đáy nước.
- Loại bỏ lớp nước hypolimnion: Phương pháp này dựa trên việc
loại bỏ có chọn lọc lớp nước hypolimnion ( chứa ít oxy, giàu PO
4
3-
, Fe
và Mn) thay vì loại lớp nước ít dinh dưỡng phía trên. Việc làm giảm
P a g e 24 | 35

hàm lượng P và tăng O
2
có thể hạn chế sinh trưởng của vi khuẩn lam đặc
biệt là tại các thủy vực nơi nguồn P nội tại chiếm ưu thế. Lớp nước
hypolimnion có thể được loại bỏ bằng ống oxy phông, bơm (đối với hồ)
hoặc loại bỏ chọn lọc (đối với hồ chứa). Ưu thế của phương pháp này là
giá thành tương đối thấp. Phương pháp này thường được sử dụng cho
những hồ hay hồ chứa nhỏ và sâu.
- Kết tủa và bất hoạt P: Kỹ thuật này nhằm làm giảm lượng P trong
hồ bằng cách loại P từ cột nước và làm chậm quá trình tái xuất P từ cặn
bùn bằng cách sử dụng các chất đông tụ (coagulants). Khi cho vào nước
các chất này kết tủa tạo thành các cụm (flocks), kết dính P lại và chuyển
thành dạng mà vi tảo không thể sử dụng được. Nhiều chất đông tụ có thể
gắn kết cả những phần tử nhỏ kể cả các tế bào tảo trong nước. Những
cụm kết dính này sau đó chìm xuống đáy hồ, do vậy loại P khỏi cột
nước, chúng cũng làm tăng khả năng gắn P của cặn đáy. Phương pháp
này có hiệu quả cao tại những hồ có thời gian lưu lớn, sau khi giảm thiểu
lượng P từ ngoài vào và khi lượng P trong hồ lấy chủ yếu từ nguồn cặn
đáy.
Có nhiều hợp chất hiện được sử dụng làm chất đông tụ như Al, Fe,
các muối Ca, các vật liệu từ đất sét….
- Oxy hóa cặn lắng – Riplox: Phương pháp này bao gồm xử lý bề
mặt cặn đáy bằng Ca(NO
3
)
2
, FeCl
3
và CaCO
3

. Khi được đưa vào cặn
bùn, FeCl
3
làm tăng khả năng gắn kết P của bùn ở dạng Fe(OH)
3
hoặc Fe
trực tiếp để tạo thành FePO
4
. CaCO
3
được bổ sung để duy trì pH tối ưu
cho quá trình phản nitrit hóa (denitrification), qua đó các hợp chất hữu
cơ trong bùn bị phân hủy đến sản phẩm cuối cùng là N
2
, CO
2
và H
2
O.
- Khoáng hóa bùn cặn: Sự khoáng hóa các chất hữu cơ trong cặn
đáy có hai tác dụng: một mặt, khi giảm hàm lượng chất hữu cơ trong
bùn, sự tiêu thụ oxy của vi khuẩn xảy ra trong quá trình phân hủy chất
hữu cơ tăng lên. Bởi vậy, hiện tượng thiếu oxy (anoxy) dưới đáy hồ kéo
theo sự tăng lượng P đi vào cột nước ít xảy ra hơn. Mặt khác, các chất
hữu cơ có trong cặn bùn thích hợp để tế bào tảo sống sót qua mùa đông,
P a g e 25 | 35

×