Tải bản đầy đủ (.doc) (53 trang)

TIỂU LUẬN MÔN HỌC: QUẢN LÝ CÔNG Đề tài: QUẢN LÝ VÀ CUNG CẤP DỊCH VỤ CÔNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (352.65 KB, 53 trang )

Chương 6: QUẢN LÝ VÀ CUNG CẤP DỊCH VỤ CÔNG
1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
_________________
TIỂU LUẬN
MÔN HỌC: QUẢN LÝ CÔNG
Đề tài: QUẢN LÝ VÀ CUNG CẤP DỊCH VỤ CÔNG
Lớp: CH Quản lý kinh tế 2 - Khóa 19
Nhóm: 06
1. Nguyễn Trung Thành (1975)
2. Lê Hoàng Ánh Dương
3. Nguyễn Hữu Bảo
4. Hoàng Mạnh Hùng (1981)
5. Nguyễn Văn Thanh
6. Nguyễn Đức Phương
7. Nguyễn Thu Hiền
Hà Nội, tháng 11/2011
I. Khái niệm về dịch vụ công
1. Khái niệm về dịch vụ
Trong cuộc sống ngày nay chúng ta biết đến rất nhiều hoạt động trao đổi được
gọi chung là dịch vụ và ngược lại dịch vụ bao gồm rất nhiều các loại hình hoạt động
và nghiệp vụ trao đổi trong các lĩnh vực và ở cấp độ khác nhau. Đã có nhiều khái
niệm, định nghĩa về dịch vụ nhưng để có hình dung về dịch vụ trong chuyên đề này,
chúng tôi tham khảo một số khái niệm dịch vụ cơ bản.
Theo Từ điển Tiếng Việt: Dịch vụ là công việc phục vụ trực tiếp cho những nhu
cầu nhất định của số đông, có tổ chức và được trả công [Từ điển Tiếng Việt, 2004,
NXB Đà Nẵng, tr256]
Định nghĩa về dịch vụ trong kinh tế học được hiểu là những thứ tương tự như
hàng hoá nhưng phi vật chất [Từ điển Wikipedia]. Theo quan điểm kinh tế học, bản
chất của dịch vụ là sự cung ứng để đáp ứng nhu cầu như: dịch vụ du lịch, thời trang,


chăm sóc sức khoẻ và mang lại lợi nhuận.
Philip Kotler định nghĩa dịch vụ: Dịch vụ là một hoạt động hay lợi ích cung ứng
nhằm để trao đổi, chủ yếu là vô hình và không dẫn đến việc chuyển quyền sở hữu.
Việc thực hiện dịch vụ có thể gắn liền hoặc không gắn liền với sản phẩm vật chất.
Tóm lại, có nhiều khái niệm về dịch vụ được phát biểu dưới những góc độ khác
nhau nhưng tựu chung thì:
Dịch vụ là hoạt động có chủ đích nhằm đáp ứng nhu cầu nào đó của con người.
Đặc điểm của dịch vụ là không tồn tại ở dạng sản phẩm cụ thể (hữu hình) như hàng
hoá nhưng nó phục vụ trực tiếp nhu cầu nhất định của xã hội.
2. Khái niệm về dịch vụ công:
Dịch vụ công (từ tiếng Anh là “public service”) có quan hệ chặt chẽ với phạm trù
hàng hóa công cộng. Theo ý nghĩa kinh tế học, hàng hóa công cộng có một số đặc tính
cơ bản như:
1. là loại hàng hóa mà khi đã được tạo ra thì khó có thể loại trừ ai ra khỏi việc sử
dụng nó;
2. việc tiêu dùng của người này không làm giảm lượng tiêu dùng của người khác;
3. và không thể vứt bỏ được, tức là ngay khi không được tiêu dùng thì hàng hóa
công cộng vẫn tồn tại. Nói một cách giản đơn, thì những hàng hóa nào thỏa mãn cả ba
2
đặc tính trên được gọi là hàng hóa công cộng thuần túy, và những hàng hóa nào không
thỏa mãn cả ba đặc tính trên được gọi là hàng hóa công cộng không thuần túy.
Khái niệm “dịch vụ công” được sử dụng phổ biến rộng rãi ở châu Âu sau Chiến
tranh thế giới lần thứ hai. Theo quan niệm của nhiều nước, dịch vụ công luôn gắn với
vai trò của nhà nước trong việc cung ứng các dịch vụ này.
Từ giác độ chủ thể quản lý nhà nước, các nhà nghiên cứu hành chính cho rằng
dịch vụ công là những hoạt động của cơ quan nhà nước trong việc thực thi chức năng
quản lý hành chính nhà nước và đảm bảo cung ứng các hàng hóa công cộng phục vụ
nhu cầu chung, thiết yếu của xã hội. Cách hiểu này nhấn mạnh vai trò và trách nhiệm
của nhà nước đối với những hoạt động cung cấp hàng hóa công cộng. Cách tiếp cận
khác xuất phát từ đối tượng được hưởng hàng hóa công cộng cho rằng đặc trưng chủ

yếu của dịch vụ công là hoạt động đáp ứng nhu cầu thiết yếu của xã hội và cộng đồng,
còn việc tiến hành hoạt động ấy có thể do nhà nước hoặc tư nhân đảm nhiệm. Từ điển
Petit Larousse của Pháp xuất bản năm 1992 đã định nghĩa: “dịch vụ công là hoạt động
vì lợi ích chung, do cơ quan nhà nước hoặc tư nhân đảm nhiệm”.
Khái niệm và phạm vi dịch vụ công có sự biến đổi tùy thuộc vào bối cảnh của
mỗi quốc gia. Chẳng hạn, ở Canada, có tới 34 loại hoạt động được coi là dịch vụ công,
từ quốc phòng, an ninh, pháp chế, đến các chính sách kinh tế- xã hội (tạo việc làm,
quy hoạch, bảo vệ môi trường, và các hoạt động y tế, giáo dục, văn hoá, bảo hiểm xã
hội,…). Trong khi đó, Pháp và Italia đều quan niệm dịch vụ công là những hoạt động
phục vụ nhu cầu thiết yếu của người dân do các cơ quan nhà nước đảm nhiệm hoặc do
các tổ chức tư nhân thực hiện theo những tiêu chuẩn, quy định của nhà nước. Tuy vậy,
ở mỗi nước lại có nhận thức khác nhau về phạm vi của dịch vụ công. Ở Pháp, khái
niệm dịch vụ công được hiểu rộng, bao gồm không chỉ các hoạt động phục vụ nhu cầu
về tinh thần và sức khoẻ của người dân (như giáo dục, văn hoá, y tế, thể thao…,
thường được gọi là hoạt động sự nghiệp), các hoạt động phục vụ đời sống dân cư
mang tính công nghiệp (điện, nước, giao thông công cộng, vệ sinh môi
trường, thường được gọi là hoạt động công ích), hay các dịch vụ hành chính công, bao
gồm hoạt động của cơ quan hành chính về cấp phép, hộ khẩu, hộ tịch,… mà cả hoạt
động thuế vụ, trật tự, an ninh, quốc phòng…; còn ở Italia dịch vụ công được giới hạn
chủ yếu ở hoạt động sự nghiệp (y tế, giáo dục) và hoạt động kinh tế công ích (điện,
nước sạch, vệ sinh môi trường) và các hoạt động cấp phép, hộ khẩu, hộ tịch do cơ
quan hành chính thực hiện.
Ở Việt Nam, nên tập trung nhiều hơn vào chức năng phục vụ xã hội của nhà
nước, mà không bao gồm các chức năng công quyền, như lập pháp, hành pháp, tư
pháp, ngoại giao, qua đó nhấn mạnh vai trò chủ thể của nhà nước trong việc cung
3
cấp các dịch vụ cho cộng đồng. Điều quan trọng là chúng ta phải sớm tách hoạt động
dịch vụ công (lâu nay gọi là hoạt động sự nghiệp) ra khỏi hoạt động hành chính công
quyền như chủ trương của Chính phủ đã đề ra, nhằm xoá bỏ cơ chế bao cấp, giảm tải
cho bộ máy nhà nước, khai thác mọi nguồn lực tiềm tàng trong xã hội, và nâng cao

chất lượng của dịch vụ công phục vụ người dân. Điều 22 của Luật Tổ chức chính phủ
(2001) quy định: “Bộ, cơ quan ngang Bộ là cơ quan của Chính phủ thực hiện chức
năng quản lý nhà nước đối với ngành hoặc lĩnh vực công tác trong phạm vi cả nước;
quản lý nhà nước các dịch vụ công thuộc ngành, lĩnh vực;…”.
Điều này không có nghĩa là nhà nước độc quyền cung cấp các dịch vụ công mà
trái lại nhà nước hoàn toàn có thể xã hội hóa một số dịch vụ, qua đó trao một phần việc
cung ứng một phần của một số dịch vụ, như y tế, giáo dục, cấp thoát nước,… cho khu
vực phi nhà nước thực hiện.
Có thể thấy rằng khái niệm và phạm vi các dịch vụ công cho dù được tiếp cận ở
nhiều góc độ khác nhau, chúng đều có tính chất chung là nhằm phục vụ cho nhu cầu và
lợi ích chung thiết yếu của xã hội, của cộng đồng dân cư và nhà nước có trách nhiệm
đảm bảo các dịch vụ này cho xã hội. Ngay cả khi nhà nước chuyển giao một phần việc
cung ứng dịch vụ công cho khu vực tư nhân thì nhà nước vẫn có vai trò điều tiết nhằm
đảm bảo sự công bằng trong phân phối các dịch vụ này và khắc phục các bất cập của
thị trường.
Từ những tính chất trên đây, dịch vụ công có thể được hiểu là những hoạt động
hục vụ nhu cầu thiết yếu của xã hội, vì lợi ích chung của cộng đồng, của xã hội, do
nhà nước trực tiếp đảm nhận hay ủy quyền và tạo điều kiện cho khu vực tư nhân thực
hiện.
3. Các quan điểm triết học về dịch vụ công
4. Phân loại dịch vụ công
Dịch vụ công có thể phân loại theo nhiều tiêu chí khác nhau, xét theo tính chất
của dịch vụ, hoặc theo các hình thức dịch vụ cụ thể,…
a) Xét theo tiêu chí chủ thể cung ứng dịch vụ công được chia thành ba loại như
sau:
- Dịch vụ công do cơ quan nhà nước trực tiếp cung cấp: Đó là những dịch vụ
công cộng cơ bản do các cơ quan của nhà nước cung cấp. Thí dụ, an ninh, giáo dục phổ
thông, chăm sóc y tế công cộng, bảo trợ xã hội,…
- Dịch vụ công do các tổ chức phi chính phủ và khu vực tư nhân cung cấp, gồm
những dịch vụ mà Nhà nước có trách nhiệm cung cấp, nhưng không trực tiếp thực hiện

4
mà uỷ nhiệm cho tổ chức phi chính phủ và tư nhân thực hiện, dưới sự đôn đốc, giám
sát của nhà nước. Thí dụ, các công trình công cộng do chính phủ gọi thầu có thể do các
công ty tư nhân đấu thầu xây dựng.
- Dịch vụ công do tổ chức nhà nước, tổ chức phi chính phủ, tổ chức tư nhân phối
hợp thực hiện. Loại hình cung ứng dịch vụ này ngày càng trở nên phổ biến ở nhiều
nước. Như ở Trung quốc, việc thiết lập hệ thống bảo vệ trật tự ở các khu dân cư là do
cơ quan công an, tổ chức dịch vụ khu phố và ủy ban khu phố phối hợp thực hiện.
b) Dựa vào tính chất và tác dụng của dịch vụ được cung ứng, có thể chia dịch vụ
công thành các loại như sau:
- Dịch vụ hành chính công: Đây là loại dịch vụ gắn liền với chức năng quản lý
nhà nước nhằm đáp ứng yêu cầu của người dân. Do vậy, cho đến nay, đối tượng cung
ứng duy nhất các dịch vụ công này là cơ quan công quyền hay các cơ quan do nhà
nước thành lập được ủy quyền thực hiện cung ứng dịch vụ hành chính công. Đây là
một phần trong chức năng quản lý nhà nước. Để thực hiện chức năng này, nhà nước
phải tiến hành những hoạt động phục vụ trực tiếp như cấp giấy phép, giấy chứng nhận,
đăng ký, công chứng, thị thực, hộ tịch,… (Ở một số nước, dịch vụ hành chính công
được coi là một loại hoạt động riêng, không nằm trong phạm vi dịch vụ công. Ở nước
ta, một số nhà nghiên cứu cũng có quan điểm như vậy). Người dân được hưởng những
dịch vụ này không theo quan hệ cung cầu, ngang giá trên thị trường, mà thông qua việc
đóng lệ phí hoặc phí cho các cơ quan hành chính nhà nước. Phần lệ phí này mang tính
chất hỗ trợ cho ngân sách nhà nước.
- Dịch vụ sự nghiệp công: Bao gồm các hoạt động cung cấp phúc lợi xã hội thiết
yếu cho người dân như giáo dục, văn hóa, khoa học, chăm sóc sức khoẻ, thể dục thể
thao, bảo hiểm, an sinh xã hội,…( Sự nghiệp là một từ gốc Trung quốc, được dùng theo
nhiều nghĩa. Theo nghĩa hẹp, từ ‘sự nghiệp” dùng để chỉ những hoạt động chuyên môn
nhằm đáp ứng những nhu cầu của xã hội và cá nhân con người, chủ yếu là về những
lĩnh vực liên quan đến sự phát triển con người về văn hoá, tinh thần và thể chất). Xu
hướng chung hiện nay trên thế giới là nhà nước chỉ thực hiện những dịch vụ công nào
mà xã hội không thể làm được hoặc không muốn làm, nên nhà nước đã chuyển giao

một phần việc cung ứng loại dịch vụ công này cho khu vực tư nhân và các tổ chức xã
hội.
- Dịch vụ công ích: Là các hoạt động cung cấp các hàng hoá, dịch vụ cơ bản, thiết
yếu cho người dân và cộng đồng như: vệ sinh môi trường, xử lý rác thải, cấp nước
sạch, vận tải công cộng đô thị, phòng chống thiên tai…chủ yếu do các doanh nghiệp
nhà nước thực hiện. Có một số hoạt động ở địa bàn cơ sở do khu vực tư nhân đứng ra
5
đảm nhiệm như vệ sinh môi trường, thu gom vận chuyển rác thải ở một số đô thị nhỏ,
cung ứng nước sạch ở một số vùng nông thôn…
5. Các hình thức cung ứng dịch vụ công
Trên thực tế, có những loại dịch vụ rất quan trọng phục vụ nhu cầu chung của cả
cộng đồng, nhưng tư nhân không muốn hoặc chưa đủ điều kiện tham gia, vì nó không
mang lại lợi nhuận, hoặc do tư nhân không đủ quyền lực và vốn để tổ chức việc cung
ứng, thí dụ như các dịch vụ phải đầu tư lớn để xây dựng kết cấu hạ tầng, dịch vụ tiêm
chủng, cứu hỏa, thoát nước,… Đối với những loại dịch vụ này, hơn ai hết nhà nước có
khả năng và trách nhiệm cung ứng cho người dân. Bên cạnh đó, cũng có những loại
dịch vụ mà thị trường có thể cung cấp nhưng cung cấp không đầy đủ, hoặc dễ tạo ra sự
bất bình đẳng trong xã hội, làm ảnh hưởng đến lợi ích của người tiêu dùng nói riêng và
toàn thể xã hội nói chung, chẳng hạn như dịch vụ y tế, giáo dục, điện, nước sinh hoạt,
… Trong trường hợp đó, nhà nước có trách nhiệm trực tiếp cung ứng hoặc kiểm soát
thị trường tư nhân để đáp ứng những quyền lợi cơ bản của người dân. Tuy nhiên, trên
thực tế, nhà nước không phải là tác nhân duy nhất cung ứng dịch vụ công. Tuỳ theo
tính chất và loại hình, dịch vụ công có thể do các cơ quan nhà nước trực tiếp thực hiện
hoặc có thể được chuyển giao cho khu vực phi nhà nước. Có thể thấy rõ rằng, theo
thời gian, vai trò của nhà nước và các tác nhân khác trong cung ứng dịch vụ công có
sự biến đổi đáng kể dẫn đến các dạng thức cung ứng dịch vụ công khác nhau. Hiện
nay, việc cung ứng dịch vụ công ở hầu hết các nước thông thường được tiến hành theo
các hình thức sau:
- Các cơ quan nhà nước trực tiếp cung ứng dịch vụ công. Theo hình thức này,
nhà nước chịu trách nhiệm trực tiếp cung ứng dịch vụ công đối với các dịch vụ liên

quan đến an ninh quốc gia và lợi ích chung của đất nước (như quốc phòng, an ninh, hộ
tịch…) mà chỉ có cơ quan công quyền mới có đủ tư cách pháp lý để làm. Nhà nước
với vai trò chủ đạo của mình, cũng trực tiếp cung ứng các loại dịch vụ thuộc các lĩnh
vực và địa bàn không thuận lợi đầu tư (ví dụ vùng sâu, vùng xa) mà thị trường không
thể hoặc không muốn tham gia do chi phí quá lớn hay không có lợi nhuận. Các đơn vị
sự nghiệp do nhà nước thành lập để cung ứng như các bệnh viện và trường học công,
các cơ sở cung cấp điện nước…hoạt động tương tự các công ty nhưng không vì mục
tiêu lợi nhuận. Ban đầu, nhà nước đầu tư cho các đơn vị đó, sau đó họ sẽ tự trang trải
và khi cần thiết có thể nhận được sự hỗ trợ bù đắp của nhà nước.
- Nhà nước chuyển một phần hoạt động cung ứng dịch vụ công cho thị trường
dưới các hình thức:
+ Uỷ quyền cho các công ty tư nhân hoặc tổ chức phi chính phủ cung ứng một số
6
dịch vụ công mà nhà nước có trách nhiệm bảo đảm và thường có nguồn kinh phí từ
ngân sách nhà nước như vệ sinh môi trường, thu gom và xử lý rác thải, xây dựng và xử
lý hệ thống cống thoát nước v.v…Công ty tư nhân hoặc tổ chức phi chính phủ được uỷ
quyền phải tuân thủ những điều kiện do nhà nước quy định và được nhà nước cấp kinh
phí ( loại dịch vụ nào có thu tiền của người thụ hưởng thì chỉ được nhà nước cấp một
phần kinh phí).
+ Liên doanh cung ứng dịch vụ công giữa nhà nước và một số đối tác trên cơ sở
đóng góp nguồn lực, chia sẻ rủi ro và cùng phân chia lợi nhuận. Hình thức này cho
phép nhà nước giảm phần đầu tư từ ngân sách cho dịch vụ công mà vẫn tham gia quản
lý trực tiếp và thường xuyên các dịch vụ này nhằm đảm bảo lợi ích chung.
+ Chuyển giao trách nhiệm cung ứng dịch vụ công cho các tổ chức khác đối với
các dịch vụ mà các tổ chức này có điều kiện thực hiện có hiệu quả như đào tạo, khám
chữa bệnh, tư vấn, giám định…(bao gồm các hiệp hội nghề nghiệp, các tổ chức xã
hội…), đặc biệt là, các tổ chức này tuy là đơn vị tư nhân hoặc phi chính phủ nhưng
được khuyến kích hoạt động theo cơ chế không vì lợi nhuận, chỉ thu phí để tự trang
trải.
+ Tư nhân hoá dịch vụ công, trong đó nhà nước bán phương tiện và quyền chi

phối của mình đối với dịch vụ nào đó cho tư nhân song vẫn giám sát và đảm bảo lợi
ích công bằng pháp luật.
+ Mua dịch vụ công từ khu vực tư nhân đối với các dịch vụ mà tư nhân có thể
làm tốt và giảm được số người làm dịch vụ trong cơ quan nhà nước, như bảo dưỡng
phương tiện phòng cháy, chữa cháy, các phương tiện tin học, đáp ứng nhu cầu về
phương tiện đi lại, làm vệ sinh và công việc phục vụ trong cơ quan…
II. Tính chất của dịch vụ công và vai trò của nhà nước trong quản lý và cung cấp
dịch vụ công
1. Tính chất của dịch vụ công:
Các loại dịch vụ công và các hình thức cung ứng dịch vụ công tuy có tính chất
khác nhau, song chúng có những điểm chung cơ bản như sau:
- Dịch vụ công có tính xã hội, với mục tiêu chính là phục vụ lợi ích cộng đồng
đáp ứng nhu cầu của tất cả công dân, không phân biệt giai cấp, địa vị xã hội và bảo
đảm công bằng và ổn định xã hội, mang tính quần chúng rộng rãi. Mọi người đều có
quyền ngang nhau trong việc tiếp cận các dịch vụ công với tư cách là đối tượng phục
vụ của nhà nước. Từ đó có thể thấy tính kinh tế, lợi nhuận không phải là điều kiện tiên
quyết chi phối hoạt động dịch vụ công.
7
- Dịch vụ công cung ứng loại “hàng hóa” không phải bình thường mà là hàng hóa
đặc biệt do nhà nước cung ứng hoặc ủy nhiệm cho tổ chức, cá nhân thực hiện, đáp ứng
nhu cầu toàn xã hội, bất kể các sản phẩm được tạo ra có hình thái hiện vật hay phi hiện
vật.
- Việc trao đổi dịch vụ công không thông qua quan hệ thị trường đầy đủ. Thông
thường, người sử dụng dịch vụ công không trực tiếp trả tiền, hay đúng hơn là đã trả
tiền dưới hình thức đóng thuế vào ngân sách nhà nước. Cũng có những dịch vụ công
mà người sử dụng vẫn phải trả một phần hoặc toàn bộ kinh phí; song nhà nước vẫn có
trách nhiệm đảm bảo cung ứng các dịch vụ này không nhằm mục tiêu lợi nhuận.
- Từ góc độ kinh tế học, dịch vụ công là các hoạt động cung ứng cho xã hội một
loại hàng hoá công cộng. Loại hàng hóa này mang lại lợi ích không chỉ cho những
người mua nó, mà cho cả những người không phải trả tiền cho hàng hóa này. Ví dụ

giáo dục đào tạo không chỉ đáp ứng nhu cầu của người đi học mà còn góp phần nâng
cao mặt bằng dân trí và văn hoá của xã hội. Đó là nguyên nhân khiến cho chính phủ có
vai trò và trách nhiệm quan trọng trong việc sản xuất hoặc bảo đảm cung ứng các loại
hàng hóa công cộng.
Với sự đa dạng của các loại dịch vụ công, của các hình thức cung ứng dịch vụ
công, và những đặc điểm của dịch vụ công, có thể thấy rằng cung ứng loại dịch vụ này
một cách có hiệu quả không phải là một vấn đề đơn giản. Nhà nước phải xác định rõ
loại dịch vụ nào nhà nước cần giữ vai trò cung ứng chủ đạo, loại dịch vụ nào cần
chuyển giao cho khu vực tư nhân và các tổ chức xã hội, loại dịch vụ nào nhà nước và
khu vực tư nhân có thể phối hợp cung ứng và vai trò điều tiết, quản lý của nhà nước về
vấn đề này như thế nào. Kinh nghiệm của nhiều nước những năm qua cho thấy rằng,
trong cung ứng dịch vụ công, nhà nước chỉ trực tiếp thực hiện những loại dịch vụ công
mà khu vực phi nhà nước không thể làm được và không muốn làm. Nếu nhà nước
không chuyển giao việc cung ứng dịch vụ công ở các lĩnh vực thích hợp cho khu vực
phi nhà nước và cải cách việc cung ứng dịch vụ công của các cơ quan nhà nước, thì
hiệu quả cung ứng dịch vụ công về tổng thể sẽ bị giảm sút, ảnh hưởng tiêu cực đến đời
sống của người dân và sự phát triển chung của toàn xã hội.
2. Vai trò của dịch vụ công đối với phát triển kinh tế - xã hội
Tính ưu việt của một xã hội được phản chiếu một cách rõ ràng qua chất lượng
cung ứng dịch vụ công, bởi vì dịch vụ công là những hoạt động phục vụ các lợi ích tối
cần thiết của xã hội, đảm bảo cho xã hội phát triển bền vững và có kỷ cương, trật tự.
Mọi xã hội đều có những vấn đề chung, liên quan đến cuộc sống của tất cả mọi người.
Đó là các vấn đề như trật tự trị an, phân hóa giàu nghèo, giáo dục, y tế, dân số, môi
8
trường, tài nguyên,… Để giải quyết thành công các vấn đề này, cần có sự góp sức của
cả nhà nước, cộng đồng và các tổ chức xã hội thông qua việc cung ứng các dịch vụ
công. Nếu các dịch vụ công bị ngừng cung cấp hoặc cung cấp không đầy đủ, chất
lượng thấp thì sẽ dẫn đến những rối loạn trong xã hội, ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời
sống của mỗi người dân, đồng thời tác động tiêu cực đến sự phát triển của mỗi quốc
gia. Nhìn chung, dịch vụ công đáp ứng những nhu cầu chung của xã hội về các lĩnh

vực sau đây:
- Duy trì trật tự công cộng và an toàn xã hội như quốc phòng, an ninh, ngoại giao.
- Bảo vệ trật tự kinh tế, trật tự mua bán trên thị trường thông qua việc xây dựng
và thực thi thể chế kinh tế thị trường.
- Cung cấp các tiện ích công cộng cho toàn thể thành viên trong xã hội như bảo
vệ sức khỏe, giáo dục đào tạo, giao thông công cộng, thông tin, thư viện công cộng
- Quản lý tài nguyên và tài sản công cộng như: quản lý tài sản nhà nước, bảo vệ
môi trường, tài nguyên thiên nhiên.
- Bảo vệ quyền công dân, quyền con người.
Đề cập sâu hơn tới tác dụng của việc cung ứng dịch vụ công, chúng ta có thể lấy
thí dụ trong lĩnh vực hành chính công. Hành chính công có liên quan đến mức độ thoả
mãn các nhu cầu công cộng của xã hội, liên quan đến tiến bộ kinh tế, xã hội của một
quốc gia. Theo các nhà nghiên cứu Trung quốc1, tác dụng của hành chính công chủ
yếu là tác dụng dẫn đường, tác dụng quản chế, tác dụng phục vụ và tác dụng giúp đỡ.
Nói về tác dụng quản chế, tức là nhà nước phát huy năng lực quản lý công cộng mang
tính quyền uy, cưỡng chế để xử lý, điều hòa các quan hệ xã hội vàlợi ích xã hội, đảm
bảo cho xã hội vận hành tốt; còn về tác dụng giúp đỡ, đó chính là sự giúp đỡ của nhà
nước đối với các địa phương nghèo, những người có hoàn cảnh khó khăn, như giúp đỡ
người nghèo, cứu tế xã hội, phúc lợi xã hội, bảo hiểm xã hội, y tế,… Việc cung ứng
dịch vụ hành chính công còn có tác dụng trực tiếp đến sự phát triển kinh tế -xã hội của
đất nước. Khi cung cấp các dịch vụ này, nhà nước sử dụng quyền lực công để tạo ra
dịch vụ như cấp các loại giấy phép, đăng ký, chứng thực, thị thực Tuy xét về mặt
hình thức, sản phẩm của các dịch vụ này chỉ là các loại văn bản giấy tờ, nhưng chúng
lại có tác dụng chi phối quan trọng đến các hoạt động kinh tế- xã hội của đất nước.
Chẳng hạn, giấy đăng ký kinh doanh của doanh nghiệp thể hiện việc nhà nước công
nhận doanh nghiệp đó ra đời và đi vào hoạt động, điều này dẫn đến những tác động và
kết quả đáng kể về mặt kinh tế - xã hội. Ngoài ra, thông qua việc cung ứng dịch vụ
công, nhà nước sử dụng quyền lực của mình để đảm bảo quyền dân chủ và các quyền
hợp pháp khác của công dân. Nguyên tắc nhà nước phải chịu trách nhiệm cao nhất và
9

cũng là trách nhiệm cuối cùng đối với việc cung ứng đầy đủ về số lượng, chất lượng,
có hiệu quả dịch vụ công cho dù là nhà nước tiến hành thực hiện trực tiếp hay thông
qua các tổ chức và cá nhân khác là một lá chắn bảo vệ an toàn cho cuộc sống của mỗi
người dân. Với việc nhà nước bảo đảm sự công bằng, bình đẳng cho công dân, nhất là
nhóm dân cư dễ bị tổn thương, trong việc tiếp cận và hưởng thụ các dịch vụ công thiết
yếu liên quan trực tiếp tới đời sống như y tế, giáo dục, an sinh xã hội…, người dân
được hưởng các quyền sống cơ bản của mình, trên cơ sở đó học tập, làm việc nâng cao
mức sống của bản thân và đóng góp nhiều hơn cho xã hội. Như vậy, dịch vụ công có
tác dụng cực kỳ to lớn đối với sự phát triển của đất nước và từng người dân, và là yếu
tố quan trọng góp phần ổn định xã hội.
3. Vai trò nhà nước trong quản lý và hoạt động cung cấp dịch vụ công
Chúng ta đều biết rằng, nhà nước của bất kỳ chế độ nào cũng bao gồm hai chức
năng cơ bản: chức năng quản lý (hay còn gọi là chức năng cai trị) và chức năng phục
vụ (hay còn gọi là chức năng cung cấp dịch vụ cho xã hội). Hai chức năng này thâm
nhập vào nhau, trong đó chức năng phục vụ là chủ yếu, chức năng quản lý xét đến cùng
cũng nhằm phục vụ. Với chức năng phục vụ, như đã phân tích ở các phần trên, nhà
nước có trách nhiệm cung ứng các dịch vụ công thiết yếu cho xã hội. Bên cạnh đó, với
chức năng quản lý, nhà nước phải thực hiện vai trò quản lý và điều tiết xã hội nói
chung, trong đó có vấn đề dịch vụ công. Nhà nước bằng quyền lực của mình, thông qua
các công cụ quản lý vĩ mô như pháp luật, quy hoạch, kế hoạch, chính sách, để quản lý
và điều tiết hoạt động cung ứng dịch vụ công, qua đó làm tăng hiệu quả cung ứng dịch
vụ công trong toàn xã hội.
- Nhà nước hỗ trợ, khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi để các tổ chức phi chính
phủ, các tổ chức tự quản của cộng đồng tham gia cung ứng dịch vụ công
Vai trò này vượt ra khỏi phạm vi quản lý nhà nước thuần túy, xuất phát từ việc
xác định trách nhiệm cao nhất và đến cùng của nhà nước trong lĩnh vực dịch vụ công
không có nghĩa là nhà nước phải trực tiếp cung ứng toàn bộ các dịch vụ này. Thực hiện
vai trò này, nhà nước cần hoàn thiện cơ chế, chính sách khuyến khích tư nhân, các
doanh nghiệp và các tổ chức xã hội của người dân tham gia cung ứng dịch vụ công. Cơ
chế, chính sách ấy bao gồm: vạch rõ những lĩnh vực dịch vụ cần khuyến khích sự tham

gia của khu vực phi nhà nước, chính sách hỗ trợ tài chính, chính sách thuế, các điều
kiện vật chất, các chính sách đào tạo, kiểm tra và kiểm soát, Nhà nước cần tạo ra một
môi trường pháp lý chung cho tất cả các đơn vị cung ứng dịch vụ công, đảm bảo một
sân chơi bình đẳng cho tất cả các nhà cung ứng dịch vụ công.
- Nhà nước quản lý, kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ sở ngoài nhà
10
nướccung ứng dịch vụ công
Xét cho cùng, nhà nước vẫn là người chịu trách nhiệm cuối cùng trước xã hội về
số lượng cũng như chất lượng dịch vụ công, kể cả các dịch vụ công được thực hiện bởi
các công ty tư nhân hay các tổ chức kinh tế-xã hội. Trong khi đó, đối với các công ty tư
nhân, các tổ chức, cá nhân đảm nhận các dịch vụ công, lợi ích của chính bản thân họ
không phải bao giờ cũng thống nhất với lợi ích của nhà nước, của xã hội. Vì vậy, nhà
nước phải tạo ra cơ chế để các tác nhân bên ngoài nhà nước khi đảm nhận các dịch vụ
công thực hiện mục tiêu xã hội. Xây dựng hệ thống chỉ tiêu chất lượng dịch vụ công để
đánh giá hoạt động của các đơn vị cung cấp, giám sát và kiểm tra hoạt động của các cơ
sở này. Nhà nước cần định hướng phát triển đối với khu vực tư nhân, hướng khu vực tư
nhân vào những lĩnh vực mà tư nhân hoạt động hiệu quả, đồng thời tạo môi trường
cạnh tranh lành mạnh nhằm không ngừng cải tiến việc cung ứng dịch vụ công cho xã
hội. Điều cốt lõi là nhà nước phải cân nhắc, tính toán và giải quyết thỏa đáng mối quan
hệ giữa lợi ích của nhà nước, của xã hội với lợi ích của tổ chức và cá nhân tham gia
cung ứng dịch vụ công.
III. Xu hướng cải cách quản lý và cung cấp dịch vụ công
1. Các xu hướng cải cách hoạt động quản lý và cung cấp dịch vụ công trên thế giới
- Những chuyển biến về chủ trương của nhà nước về cung ứng dịch vụ công
Ở nhiều nước trên thế giới, khu vực nhà nước đã từng nắm độc quyền trong lĩnh
vực cung ứng dịch vụ công và nhìn chung chất lượng cung ứng là vấn đề gây nhiều
bức xúc. Những thập kỷ qua đã chứng kiến việc nhà nước trực tiếp tiến hành quá
nhiều hoạt động, trong đó có hoạt động cung ứng dịch vụ công, mà lẽ ra có thể chuyển
giao ở một mức độ nhất định cho thị trường và xã hội dân sự đảm nhiệm. Kinh
nghiệm từ các nước phát triển cho thấy một chính phủ ôm đồm quá mức sẽ không đưa

đến một xã hội phát triển. Do vậy, một trong những mục tiêu cải cách đã được các nhà
nước xác định rõ là chuyển một phần khá lớn chức năng quản lý xã hội của chính phủ
sang cho các tác nhân khác, và xã hội hóa dịch vụ công là một xu thế lớn trong trào
lưu cải cách nhà nước hiện nay ở phần lớn các nước trên thế giới.
Nhà nước vẫn giữ vai trò quan trọng nhất trong đảm bảo cung cấp dịch vụ công,
nhưng không nhất thiết phải là người trực tiếp cung cấp tất cả các dịch vụ đó. Vai trò
của nhà nước cần thể hiện rõ hơn trong đẩy mạnh quản lý cung ứng dịch vụ công bằng
luật pháp, chính sách và các biện pháp mang tính hỗ trợ, kích thích. Các nhà nước tiên
tiến hiện nay đang tìm cách sử dụng tối đa cơ chế thị trường trong lĩnh vực cung cấp
dịch vụ công. Phần lớn dịch vụ công được toàn xã hội tiến hành, nhà nước chỉ giữ lại
những dịch vụ cần thiết nhất theo hướng “nhà nước nhỏ như cần thiết, xã hội lớn như
11
có thể”.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến sự thay đổi nhận thức từ phía các cơ quan công
quyền và từ chính những người dân về sự cần thiết phải có sự chuyển biến trong cung
ứng dịch vụ công. Đó là, thứ nhất, cùng với sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của khu
vực tư nhân về phương diện kinh tế, những thành tựu khoa học công nghệ đã làm cho
khu vực tư nhân có thể tiếp nhận một số dịch vụ trước đây chỉ thuộc về nhà nước. Thí
dụ, kỹ thuật truyền hình cáp phát triển cho phép nắm được thời gian sử dụng của từng
máy thu hình, hoặc qua thiết bị tự ghi có thể đo chính xác lượng sử dụng khí ga, điện,
nước của từng hộ tiêu thụ ( để thu tiền). Thứ hai, sự thay đổi về mức sống tạo điều
kiện cho cá nhân có thể tự mua sắm cho mình những phương tiện mà trước đây chỉ có
thể sử dụng công cộng. Có thể thấy rõ điều này trong cung ứng dịch vụ công về lĩnh
vực văn hóa; nếu như trước đây, người dân chỉ có thể xem phim ảnh tại các rạp chiếu
công cộng, thì nay người ta có thể xem tại nhà qua đầu máy VCD, DVD. Ngoài ra, sự
thay đổi về mức sống của người dân theo hướng chất lượng cuộc sống ngày một nâng
cao đòi hỏi số lượng các loại hình và chất lượng dịch vụ cũng cần phải ngày càng tăng
để đáp ứng yêu cầu của đời sống xã hội. Thứ ba, lý do quan trọng khiến nhà nước cần
đổi mới cơ chế cung ứng dịch vụ công
thông qua cải cách và chuyển giao dần việc cung ứng dịch vụ công cho khu vực

tư nhân là sự kém hiệu quả của khu vực công so với khu vực tư nhân trong lĩnh vực
này. Theo J. E. Stiglitz, thì các dự án nhà ở công cộng thường tốn kém hơn nhà ở của
khu vực tư nhân khoảng 20%; chi phí thu gom rác thải do khu vực công cộng thực
hiện thường cao hơn khu vực tư nhân 20%; chi phí phòng cháy, chữa cháy của khu
vực tư nhân (nhưng do nhà nước cấp tiền) thấp hơn của khu vực công cộng 47%.
Khảo sát ở 58 quốc gia đang phát triển cho thấy chỉ có 6% số người được hỏi đánh giá
dịch vụ công do nhà nước cung cấp là có hiệu quả còn 36% trả lời là không hiệu quả.
Đặc biệt, dịch vụ xây dựng đường sá và dịch vụ y tế bị đánh giá là kém hiệu quả nhất.
Lý do cuối cùng buộc nhà nước phải có những chuyển biến để giao một số lĩnh vực
cung ứng dịch vụ công cho khu vực ngoài nhà nước là vì điều đó sẽ giúp nhà nước
giảm nhẹ được gánh nặng ngân sách, huy động được các nguồn lực tiềm tàng của xã
hội. Lấy ví dụ trong lĩnh vực y tế, mặc dù ở hầu hết các nước, nhà
nước đều đảm nhận vai trò to lớn trong cung ứng dịch vụ y tế vì đây là một loại
hàng hóa công cộng rất đặc biệt, song nhà nước không thể là người cung ứng duy nhất
các dịch vụ này do mức độ chi phí lớn của nó. Theo một tài liệu khảo sát, chi tiêu cho
chăm sóc y tế trong GDP nói chung đã tăng lên đáng kể trong giai đoạn từ1965 đến
1983 với mức tăng ít nhất là 50%, trong đó có năm nước đạt mức tăng trên70%. Với
mức tăng như vậy, ngân sách nhà nước khó mà chịu nổi và sự tham giacủa khu vực tư
12
nhân là tất yếu. Ở Mỹ, tỷ lệ chi của nhà nước trong tổng chi tiêuchăm sóc sức khỏe
đạt khoảng 40% mỗi năm kể từ 1974 đến nay3. Phần chi còn lạiđến từ các nguồn kinh
phí của tư nhân, các tổ chức xã hội hoặc tiền bảo hiểm.
Để thực thi có hiệu quả các chức năng của nhà nước, các cơ quan công quyền
phải linh hoạt, mềm dẻo để thích ứng với các điều kiện phức tạp và thay đổi nhanh.
Kinh nghiệm từ nhiều nước cho thấy, nếu nhà nước tự thân thực thi toàn bộ các chức
năng của mình mà bỏ qua các nhân tố thị trường và xã hội thì sẽ dẫn tới một nhà nước
yếu và một xã hội kém phát triển. Cũng vậy, trong lĩnh vực cung ứng dịch vụ công,
nếu nhà nước chỉ sử dụng bộ máy của mình để cung ứng dịch vụ thì chắc chắn sẽ dẫn
tới những bất cập cả về khối lượng và chất lượng cung ứng. Do đó, cùng với việc phải
đổi mới hiệu quả cung ứng dịch vụ công ngay trong khu vực nhà nước, điều quan

trọng là nhà nước phải chuyển giao các loại dịch vụ công mà xã hội có thể đảm nhiệm
đi đôi với việc kiểm tra, giám sát nhằm đảm bảo chất lượng và hiệu quả cung ứng
dịch vụ công.
- Đẩy mạnh sự tham gia của khu vực phi nhà nước trong cung ứng dịch vụ công
Thực ra, việc khu vực phi nhà nước cung ứng dịch vụ công đã có từ thời xa xưa.
Lịch sử cho thấy rằng, hầu hết các dịch vụ y tế đều được thực hiện trên cơ sở tư nhân
bởi những bà đỡ, các thầy lang. Tại các nước đang phát triển, đô thị hóa và công
nghiệp hóa mạnh mẽ đã dẫn đến việc thành lập các nhóm lao động và họ đã tự tổ chức
để cung ứng dịch vụ bảo hiểm y tế thông qua “những quỹ đề phòng ốm đau” hoặc đề
nghị thành lập các hệ thống bảo hiểm xã hội được nhà nước cấp kinh phí.
Chỉ đến thế kỷ XX nhà nước mới giữ vai trò quan trọng trong việc cung cấp các
dịch vụ xã hội như giáo dục và y tế, và ngày nay, trong trào lưu cải cách nhà nước trên
khắp thế giới, việc cung ứng dịch vụ công lại được chuyển từng phần thích hợp cho
khu vực phi nhà nước, và đang trở thành một xu thế phát triển. Thực tế cho thấy, khu
vực phi nhà nước đã ngày càng thâm nhập vào các hoạt động cung ứng dịch vụ công,
chẳng hạn như trong lĩnh vực làm sạch môi trường, cung cấp điện, nước,… Ngay cả ở
những lĩnh vực mà theo truyền thống chỉ do nhà nước quản lý và thực hiện, thì nay
cũng trở thành địa bàn hoạt động của khu vực tư nhân. Ở Mỹ hiện nay, nhiều nhà tù
tại các bang đã được giao cho khu vực tư nhân quản lý, nhiều loại dịch vụ cảnh sát đã
được giao cho các công ty tư nhân đảm nhiệm. Ngoài ra, khu vực tư nhân cũng được
phép tham gia cung ứng dịch vụ giáo dục và y tế, là loại dịch vụ mà nhà nước giữ vai
trò cơ bản vì chúng liên quan trực tiếp đến mục tiêu phát triển của mỗi quốc gia. Ở
phần lớn các nước trên thế giới tồn tại song song hai hệ thống giáo dục công lập và
giáo dục dân lập. Sự phát triển hệ thống trường tư thục đã tạo điều kiện cạnh tranh về
chất lượng giảng dạy giữa hai hệ thống. Tất nhiên, các trường tư phải chịu sự quản lý
13
của nhà nước về nội dung giảng dạy, bảo đảm theo một chương trình chuẩn, thống
nhất. Việc chuyển dần mô hình trường công lập sống nhờ bao cấp nhà nước với sức ỳ
quán tính sang định chế hội đồng quản trị tư doanh đã thúc đẩy tính năng động, sáng
tạo và cạnh tranh của các cơ sở giáo dục.

Bằng việc chuyển hoạt động cung ứng dịch vụ công cho khu vực tư nhân, nhà
nước có thể sử dụng cạnh tranh giữa các nhà cung ứng dịch vụ với nhau để có được
nhà cung ứng dịch vụ có hiệu quả nhất. Chính vì thế, thúc đẩy cạnh tranh trong cung
ứng dịch vụ giữa khu vực công và tư đang là một mục tiêu được nhiều nước hướng tới
nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ cung ứng. Sử dụng thị trường để cung ứng những
dịch vụ cạnh tranh sẽ giảm bớt chi phí và cải tiến chất lượng dịch vụ, san sẻ gánh
nặng của nhà nước và tiến tới xây dựng mối quan hệ hợp tác nhà nước- thị trường.
Theo E.X. Xavat, một chuyên gia hàng đầu của Mỹ về cạnh tranh trong dịch vụ công
cộng, thì ưu thế rõ ràng nhất của cạnh tranh là nó đem lại hiệu quả lớn hơn, nhiều hiệu
quả hơn cho đồng vốn4. Theo một nghiên cứu của Ngân hàng thế giới, ở Braxin, việc
ký hợp đồng với các chủ đầu tư tư nhân về bảo dưỡng đường sá đã tiết kiệm được
25% chi phí so với việc sử dụng các công ty nhà nước. Cũng vậy, bằng cách áp dụng
cơ chế cạnh tranh vào việc sản xuất và cung ứng dịch vụ công, nhà nước tạo ra môi
trường ganh đua tích cực giữa khu vực công và tư. Chẳng hạn, với việc cho phép các
công ty tư nhân tham gia tổ chức cung ứng dịch vụ vận tải nội địa, Chính phủ Niu
Dilân đã tạo ra được sự cạnh tranh giữa các tổ chức cung ứng dịch vụ vận tải, qua đó
nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng, làm giảm cước phí vận chuyển. Ngay cả ở
các nhà nước phúc lợi như Đan Mạch, Phần Lan và Thụy Điển, hiện nay, việc thúc
đẩy cạnh tranh giữa khu vực công và tư đang là một tiêu điểm của các nhà hoạch định
chính sách. Ở Đan Mạch, hầu hết các dịch vụ xã hội là do nhà nước cung cấp, được tài
trợ thông qua hệ thống thuế với mức thuế thu nhập cá nhân rất cao, song nước này chỉ
đạt chỉ số cạnh tranh về sản xuất dịch vụ công ở dưới mức trung bình. Vì vậy, từ năm
2002, mục tiêu tăng cạnh tranh tăng hiệu quả, chất lượng, đổi mới và tăng sự lựa
chọn đối với dịch vụ công đã trở thành mối quan tâm của chính phủ Đan Mạch. Chính
phủ đã có sáng kiến về tăng cạnh tranh và khuyến khích quan hệ hợp tác công- tư.
Điều này cũng được thể hiện rõ trong trường hợp Phần Lan. Là một nhà nước phúc
lợi, song Phần Lan là nước có truyền thống duy trì hệ thống bệnh viện tư từ nhiều thập
kỷ. Sự tồn tại của hệ thống bệnh viện tư một mặt gây sức ép về nâng cao chất lượng y
tế tại các cơ sở công, mặt khác là nguồn cung ứng thêm dịch vụ cho người sử dụng,
tạo cho họ quyền lựa chọn dịch vụ rộng rãi hơn. Chính sách cạnh tranh giữa các bệnh

viện tư (về chất lượng dịch vụ, về mức phí và nhằm tăng thị phần) đã tác động tới hệ
thống y tế công và đặt khu vực này vào tình thế phải cải cách. Như vậy, trong việc
thúc đẩy cạnh tranh, hoạt động của nhà nước không đơn thuần là điều tiết, mà còn
14
khuyến khích và tạo động lực thị trường. Chính phủ tạo ra một sân chơi bình đẳng cho
mọi đối tượng có khả năng cung cấp dịch vụ công để tạo ra sự cạnh tranh lành mạnh
giữa các nhà cung cấp dịch vụ, và người tiêu dùng các dịch vụ công được quyền tự do
lựa chọn nhà cung cấp dịch vụ. Nhiều bằng chứng thực tế cho thấy khi các tổ chức
cung ứng dịch vụ công bước vào cuộc cạnh tranh thì mọi việc đều thay đổi. Những tổ
chức nào cung ứng dịch vụ chất lượng kém với giá cả cao thì dần bị xóa bỏ, trong khi
những tổ chức cung ứng dịch vụ chất lượng cao với giá cả phải chăng thì ngày càng
phát triển. Chính sự cạnh tranh đã buộccác tổ chức cung ứng dịch vụ phải luôn luôn tự
đổi mới và điều đó mang lại lợi ích cho cả người dân, nhà nước và nhà cung ứng dịch
vụ.
Một trong những chuyển biến quan trọng trong cung ứng dịch vụ công trong
những năm gần đây là sự tham gia ngày càng mạnh mẽ của các tổ chức xã hội dân sự,
bao gồm các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội - nghề nghiệp, các tổ chức
phi chính phủ, các cá nhân…Việc mở rộng sự tham gia của các lực lượng xã hội này
cùng nhà nước vào cung ứng dịch vụ công đã tạo ra một môi trường cạnh tranh lành
mạnh, phá vỡ sự bất bình đẳng, phi thị trường do độc quyền gây ra trong lĩnh vực này,
huy động được các nguồn lực cộng đồng và phát huy vai trò của các đối tác xã hội
trong quản lý xã hội. Vai trò của các tác nhân này trong cung ứng các dịch vụ công
cho xã hội thể hiện cụ thể ở các mặt sau đây:
- Là cánh tay nối dài của nhà nước nhằm phát huy sức mạnh của cá nhân, của cả
cộng đồng xã hội để tăng thêm nguồn lực đáp ứng các yêu cầu của xã hội về các dịch
vụ công;
- Là một trong những chức năng cơ bản của tổ chức dân sự trong hoạt động vận
động quần chúng và gắn bó với lợi ích cơ bản của người dân, là cầu nối giữa nhà nước
và nhân dân trong cung cấp dịch vụ công;
- Thực hiện vai trò đại diện và bảo vệ lợi ích của người hưởng thụ dịch vụ công,

đảm bảo công bằng và đúng với chính sách của nhà nước;
- Tham gia bổ sung, hoàn thiện chính sách của nhà nước trong lĩnh vực dịch vụ
công đáp ứng yêu cầu phát triển của xã hội và phù hợp với khả năng của nền kinh tế.
Thực tế cho thấy ngày càng nhiều hoạt động cung ứng dịch vụ công được mở
rộng cho nhiều nhóm lợi ích trong xã hội có khả năng cung ứng. Đó là các hiệp hội
nghề nghiệp, các nhóm cộng đồng, các hợp tác xã, các hội từ thiện, các tổ chức của
phụ nữ, thanh niên, và các tổ chức phi chính phủ khác,… Các tổ chức này đã tham gia
tích cực vào việc cung ứng dịch vụ trực tiếp cho các cá nhân và cộng đồng, từ dịch vụ
y tế, giáo dục cho tới những dịch vụ cho vay tín dụng nhỏ, hoặc đào tạo hướng
15
nghiệp. Ở các nước phát triển và đang phát triển, nhiều tổ chức xã hội hoạt động song
song với những cơ quan cung ứng dịch vụ công của nhà nước. Ví dụ, một số nước đã
giao cho các nhóm cộng đồng tự quản xây dựng và khai thác các công trình phúc lợi
xã hội trong địa phận sinh sống của họ. Ở một số nước khác, chính phủ lại ủy quyền
cho các hiệp hội nghề nghiệp cấp giấy phép hành nghề, điều hành và kiểm soát các
hội viên. Nhiều bằng chứng cho thấy các tổ chức như vậy thường có nhiều lợi thế khi
thực hiện cung ứng dịch vụ công vì họ có cơ chế hoạt động rất linh hoạt và gần gũi
hơn với người dân.
Việc cho phép khu vực tư nhân và các tổ chức xã hội tham gia cung ứng các dịch
vụ công ích mang lại lợi ích đáng kể. Với việc huy động các nguồn vốn xã hội cho sự
phát triển kết cấu hạ tầng, như hệ thống đường sá, giao thông vận tải, thông tin, vệ
sinh môi trường…, hiệu quả cung ứng các dịch vụ công trong những lĩnh vực này đã
tăng mạnh, đi đôi với việc tiết kiệm một tỷ lệ lớn ngân sách nhà nước. Đối với các
dịch vụ đường phố như quét dọn, sửa chữa, xây dựng, duy tu và bảo dưỡng, chi phí
cũng giảm đi khi thực hiện phương thức ký hợp đồng với các thành phần kinh tế khác.
Cũng vậy, sự tham gia của khu vực phi nhà nước vào cung ứng dịch vụ công tạo điều
kiện cho nhiều người tham gia vào hoạt động này, phát huy được khả năng và nguồn
lực tiềm tàng trong xã hội, khơi dậy tính sáng tạo và chủ động của người dân, qua đó
đa dạng hóa và tăng cường nguồn cung ứng các dịch vụ công cho xã hội.
Tóm lại, ngày nay phạm vi các dịch vụ công được chuyển giao cho khu vực tư

nhân và các tổ chức xã hội ngày càng mở rộng. Hầu hết các quốc gia áp dụng nguyên
tắc lĩnh vực nào thị trường và xã hội có thể đảm nhiệm được thì nhà nước chuyển giao
dần ở một mức độ nhất định trách nhiệm cung ứng dịch vụ công ở lĩnh vực đó. Ở
những lĩnh vực dịch vụ không thể chuyển giao được cho khu vực tư nhân và các tổ
chức xã hội, thì nhà nước phải giữ vai trò cung ứng nòng cốt và phải tiến hành cải
cách ở trong chính khu vực nhà nước để cải thiện chất lượng cung ứng các loại dịch
vụ này. Tuy nhiên, cần nhấn mạnh một lần nữa rằng, dù nhà nước trực tiếp cung ứng
dịch vụ hay chuyển giao cho các khu vực khác, thì với vai trò là người đảm bảo công
bằng xã hội, nhà nước vẫn có nghĩa vụ quan tâm đến việc đạt được những mục tiêu
chính của hoạt động cung ứng dịch vụ công thông qua kiểm soát, điều tiết và bảo hộ
để thị trường và xã hội cung ứng các dịch vụ đó một cách thuận lợi.
- Cải thiện chất lượng cung ứng dịch vụ công trong khu vực nhà nước
Cho dù khu vực tư nhân và các tổ chức xã hội ngày càng tham gia nhiều hơn vào
cung ứng dịch vụ công, song khu vực nhà nước vẫn tất yếu là người cung ứng một số
lớn dịch vụ. Chính vì vậy, trong đổi mới cung ứng dịch vụ công, việc cải thiện chất
lượng cung ứng dịch vụ ở ngay chính khu vực nhà nước là hết sức quan trọng. Bên
16
cạnh chức năng quản lý nhà nước, chức năng phục vụ của nhà nước nhằm cung cấp
những dịch vụ cần thiết cho người dân để họ thực hiện tốt quyền lợi và nghĩa vụ của
mình giờ đây cần được chú trọng hơn bao giờ hết. Nâng cao chất lượng cung ứng dịch
vụ công không phải là một vấn đề mới mẻ. Ngay từ giữa những năm 80 của thế kỷ
trước, Pháp đã đưa ra các chu trình chất lượng thử nghiệm trong các cơ quan nhà
nước. Trước yêu cầu của người dân hiện đã trở thành “người tiêu dùng đòi hỏi cao”,
vấn đề chất lượng trong cung ứng dịch vụ công của nhà nước ngày càng trở nên cấp
bách. Nguyên tắc chất lượng trong cung ứng dịch vụ công của các cơ quan nhà nước
đã chính thức được đề cập tới trong Hiến chương dịch vụ công của Pháp ngày 18
tháng 3 năm 1992 và văn bản ngày 26/7/1996 về cải cách Nhà nước Pháp. Hiến
chương đưa ra một loạt các biện pháp nhằm đảm bảo cung ứng dịch vụ thiết yếu như
trường học, bệnh viện, cảnh sát, bưu điện cho những nơi xa xôi. Điều quan trọng là
Hiến chương đã yêu cầu các cơ quan xây dựng chỉ số hiệu suất và chú trọng sự hợp

tác giữa cơ quan nhà nước cung cấp dịch vụ và người sử dụng. Theo đó mỗi cơ quan
nhà nước phải “cố gắng làm cho người dân biết rõ mục tiêu của mình, điều chỉnh các
chỉ số chất lượng theo nhu cầu của người sử dụng dịch vụ”. Các nhà nước cũng đang
tiến hành nhiều cải cách khác nhau nhằm mục đích nâng cao hiệu quả cung ứng dịch
vụ công thông qua các đơn vị nhà nước. Một số nước phát triển như Anh, Mỹ hiện
đang thử nghiệm một số phương pháp để tăng cạnh tranh trong nội bộ khu vực nhà
nước nhằm cải thiện việc cung ứng các dịch vụ công không thể chuyển giao được cho
khu vực phi nhà nước.
Ngoài ra, việc phi tập trung hóa cung ứng dịch vụ công thông qua phân cấp,
phân quyền, cũng là một biện pháp có hiệu quả để gây sức ép cạnh tranh nhằm nâng
cao hiệu quả cung ứng dịch vụ công của khu vực nhà nước. Lý do căn bản mang tính
nội tại của phi tập trung hóa cung ứng dịch vụ công là quyền quyết định sản xuất và
cung ứng dịch vụ công phải được trả lại cho những đơn vị thấp nhất, có khả năng nắm
bắt được tình hình một cách rõ ràng nhất. Việc phi tập trung hóa tạo điều kiện cho các
chính quyền địa phương linh hoạt hơn trong cung ứng các dịch vụ công phù hợp với
hoàn cảnh của địa phương mình, đồng thời buộc họ trở nên có trách nhiệm hơn. Việc
phân cấp này làm tăng hiệu quả và hiệu lực cung ứng dịch vụ công, qua đó người tiêu
dùng sẽ được hưởng những dịch vụ chất lượng cao với giá cả hợp
2. Trường phái quản lý công mới (New public management)
Quản lý công mới thường được sử dụng khi nói đến “Mô hình hành chính công
theo các tiêu chí hiện đại, chủ động, năng động, nhạy bén, thích nghi cao nhằm đáp
17
ứng các yêu cầu quản lý và dịch vụ tối đa trong các điều kiện kinh tế thị truờng phát
triển mạnh mẽ và những quan hệ quốc tế ngày càng phụ thuộc chặt chẽ lẫn nhau”
Chuyển đổi từ Hành chính công truyền thống sang Quản lý công (Hành chính
phát triển) là xu hướng phổ biến trên thế giới, đặc biệt là những nước kinh tế thi
trường phát triển. Vì sao lại vậy ? Nguyên nhân là: Thứ nhất: Về quy mô của Chính
phủ, nhiều quốc gia cho rằng bộ máy của Chính phủ quá lớn, chi phí cho việc duy trì
bộ máy đó ngày càng tăng trong khi đó hiêu quả hoạt động của nó ngày càng giảm đi.
Do đó cần phải xem xét lại quy mô và vai trò của Chính phủ. Theo quan điểm mới, vai

trò của Chính phủ chuyển từ “chèo thuyền” sang “lái thuyền”. Nhà nước không nên
ôm đồm làm hết mọi dịch vụ mà nên dân chủ hoá gắn liền với phân quyền, xã hội hoá
nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả quản lý của Nhà nước. Thứ hai, chất lượng dịch
vụ công chất lượng thấp, loại hình kém đa dạng, phong phú giá cả lại cao hơn khu vực
tư . Mặt khác, về bối cảnh và xu hướng thời đại tác động đến mô hình hành chính công
truyền thống dẫn đến sự xuất hiện mô hình hành chính phát triển. Đó là: Sự phát triển
mạnh mẽ của khoa học, công nghệ đòi hỏi sự đièu chỉnh kinh tế và phát triển nền hành
chính; sự phát triển nền kinh tế thị trường và toàn cầu hoá kinh tế điều chỉnh các mối
quan hệ quốc tế và do đó ảnh hưởng đến nền hành chính công của mỗi nước trong quá
trình hội nhập. Xu hướng dân chủ hoá đời sống xã hội do trình độ dân trí được nâng
cao; tình thế chung buộc Nhà nước phải một mặt xã hội hoá, tư nhân hoá, chấp nhận
sự tham gia của công chúng vào công việc quản lý nhà nước, đồng thời phải can thiệp
ngày càng sâu vào các quá trình kinh tế- xã hội và cải tiến mô hình nền hành chính
công và nâng cao chất lượng dịch vụ đối với người dân - những “khách hàng” của nền
hành chính…
Như vậy về bản chất, hành chính truyền thống và hành chính phát triển đều là đối
tượng nghiên cứu của khoa học hành chính công được xây dựng bởi một hệ thống các
khái niệm,hệ thống lý thuyết hành chính công với nhiều cách tiếp cận khác nhau . Sự
khác nhau cơ bản ở đây là “mô hình”, mỗi “mô hình” có những thế mạnh và phù hợp
với điều kiện kinh tế - xã hội trong những giai đoạn lịch sử nhất định của các quốc gia.
Đi sâu vào nghiên cứu hai “mô hình” dựa trên một số tiêu thức chúng ta nhận thấy
những điểm khác nhau cơ bản sau đây:
So sánh tiêu thức mục tiêu: hành chính công truyền thống; bảo đảm đúng chu
trình, đúng quy tắc, thủ tục hành chính (đầu vào). Đánh giá việc quản lý hành chính
thông qua xem xét mức độ thực thi các quy tắc, thủ tục hành chính. Trong khi đó, mục
tiêu của hành chính phát triển là: Bảo đảm kết qua tốt nhất, hiệu quả cao nhất (đầu ra);
dùng các tiêu chí cụ thể để đánh giá kết quả quản lý hành chính.
18
Đối với công chức của hành chính công truyền thống: trách nhiệm của người công
chức; nhà quản lý là giám sát việc thực hiện và giải quyết công việc theo quy chế thủ

tục. Những quy định, điều kiện để công chức thực thi công vụ theo một hệ thống thứ
bậc rất chặt chẽ, cứng nhắc theo quy định. Thời gian làm việc của công chức được quy
định chặt chẽ, có thời gian công (làm việc ở cơ quan) và thời gian tư (thời gian không
làm việc ở cơ quan). Công chức mang tính trung lập, không tham gia chính trị, thực
hiện một cách trung lập các chính sách do các nhà chính trị đề ra. Trong khi đó, đối
với công chức của hành chính phát triển: Trách nhiệm của người công chức, nhà quản
lý chủ yếu là bảo đảm thực hiện mục đích, đạt kết quả tốt, hiệu quả cao. Những quy
định, điều kiện để công chức thực thi nhiệm vụ có hình thức linh hoạt, mềm dẻo hơn.
Thời gian làm việc linh hoạt hơn, có thể họ làm việc trong một thời gian nhất định, có
thể làm chính thức hoặc hợp đồng (có một phần thời gian làm công vụ tại nhà). Công
chức cam kết về mặt chính trị cao hơn trong các hoạt động của mình, các hoạt động
hành chính mang tính chính trị nhiều hơn.
Đối với Chính phủ của hành chính công truyền thống: Mọi công vụ được Chính
phủ thực thi, giải quyết theo pháp luật quy định. Chức năng của Chính phủ nặng về
hành chính xã hội, trực tiếp tham gia các công việc công ích xã hội. Chức năng của
Chính phủ thuần tuý mang tính hành chính không trực tiếp liên hệ đến thị trường.
Trong khi đó, đối với Chính phủ của hành chính phát triển: Các công vụ mang tính
chính trị nhiều hơn, ảnh hưởng của chính trị ngày càng lớn trong hành chính. Chức
năng tham gia trực tiếp các dịch vụ công cộng ngày càng giảm bớt mà thông qua việc
xã hội hoá các dịch vụ đó để quản lý xã hội, nhưng vẫn có sự quản lý của Nhà nước.
Chức năng của Chính phủ đối mặt với những thách thức của thi trường. Nền hành
chính phát triển của các nước đều phải quan tâm và gánh vác nghĩa vụ chung đối với
những vấn đề của loài người như nghèo đói, dịch bệnh, môi truờng, ma tuý, tội
phạm…
Nói tóm lại, Quản lý công mới (Hành chính phát triển) có cách tiếp cận mới đối
với hành chính công truyền thống. Sự xuất hiện của mô hình này đã làm cho cách thức
hoạt động của khu vực công có nhiều thay đổi đáng kể. Với các đặc tính của mô hình
mới: hiệu quả hoạt động quản lý, phi quy chế hoá, phân quyền, áp dụng một số yếu tố
của cơ ché thi trường, gắn bó với chính trị, tư nhân hoá một phần hoạt đọng của Nhà
nước, vận dụng nhiều phương pháp quản lý doanh nghiệp, xu hướng quốc tế hoá ; mô

hình hành chính phát triển xuất hiện nhằm khắc phục những yếu kém không phù hợp
của mô hình hành chính truyền thống . Nền kinh tế Việt Nam đang vận hành theo cơ
chế thị trường và ngày càng hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế toàn cầu. Chức năng
của Chính phủ chắc chắn sẽ phải đối mặt với những thách thức của thị trường trong
19
nước và thị trường thế giới. Vận dụng những nhân tố hợp lý của mô hình Quản lý công
mới (Hành chính phát triển) để xây dựng một mô hình mang tính đặc sắc Việt Nam,
đẩy mạnh cải cách hành chính theo kịp cải cách kinh tế đang là câu hỏi đặt ra đối với
các nhà lãnh đạo, quản lý và các nhà khoa học hành chính.
3. Tăng cường sự giám sát của cộng đồng đối với quản lý và cung cấp dịch vụ
công
Sự tham gia của người dân vào quá trình hoạch định chính sách và đảm bảo chất
lượng dịch vụ công sẽ giúp nâng cao hiệu quả cung cấp dịch vụ của nhà nước thông
qua việc cải tiến quản lý dịch vụ công và tăng cường sự minh bạch trong quyết định
chính sách. Quá trình tham gia này thể hiện qua nhiều cách khác nhau, có thể từ tham
khảo ý kiến, trao đổi thông tin, cho tới những hành động trực tiếp tham gia của công
dân, chủ động đề xuất sáng kiến hoặc góp ý vào chính sách. Nhất là ở những nơi việc
cung ứng dịch vụ công không hiệu quả thì người dân có thể thông báo cho các cấp
chính quyền về vấn đề này và thúc ép họ phải cải tiến. Do đó, các cơ quan công quyền
buộc phải có trách nhiệm hơn trong việc lắng nghe tiếng nói của người dân và phản
hồi kịp thời, đầy đủ trước các yêu cầu đó. Cơ chế phản hồi này giúp cho các thông tin
hai chiều luôn thông suốt và được chia sẻ. Thông qua đó, người dân và các nhà cung
cấp dịch vụ có cơ hội cùng đánh giá và trao đổi ý kiến nhằm nâng cao chất lượng dịch
vụ. Kinh nghiệm các nước cho thấy rằng sự tương tác ngày càng tăng giữa người sử
dụng và nhà cung ứng dịch vụ công đã đem lại những kết quả tích cực. Một đánh giá
gần đây của người dân về hệ thống cung cấp nước ở Bacu, Adebaigian đã cho thấy
không chỉ những vấn đề nghiêm trọng về thất thoát nước và chất lượng nước có hại
cho sức khỏe mà cả những chi phí cao do bộ máy cung cấp nước không đáng tin cậy
của thành phố áp đặt cho những người tiêu dùng có thu nhập thấp. Ngoài ra, những
người tiêu dùng này cũng cho biết thêm là họ sẵn sàng trả nhiều hơn từ 2 đến 5 lần số

tiền thực tế mà họ đang trả cho việc cung cấp nước sạch và đáng tin cậy. Những thông
tin như vậy ở một mức độ nhất định đã buộc nhà cung cấp phải xem xét lại chất lượng
dịch vụ của mình, điều có thể dẫn tới những thay đổi tích cực trong việc cung cấp
nước ở thành phố này. Ở Singapore, Cục thông tin phản hồi của công chúng tập hợp
một cách có hệ thống những bình luận của công dân về nhiều loại chính sách quốc gia,
trong đó có cung ứng dịch vụ công, và mời những nhóm có quan tâm tới dự những
cuộc họp báo cáo với các bộ trưởng và quan chức cao cấp. Điều này làm tăng tinh thần
trách nhiệm của cơ quan nhà nước cung ứng dịch vụ công thông qua việc đòi hỏi các
cơ quan này phải công bố và tuân thủ những định mức và tiêu chuẩn dịch vụ, cung cấp
thông tin công cộng và trả lời khiếu nại của người dân. Ở các thành phố của Mỹ, chính
quyền các thành phố đã thiết lập một cơ chế đồng bộ, động viên công chúng tham gia
20
vào toàn bộ quá trình quản lý đô thị. Do những người có lợi ích liên quan được tham
gia một cách rộng rãi vào quá trình quyết định chính sách, nên quá trình thực thi chính
sách được thực hiện một cách tương đối thuận lợi.
Một lý do nữa khiến cho sự tham gia của cộng đồng vào việc hoạch định chính
sách và đảm bảo chất lượng dịch vụ công trở nên cần thiết; đó là thực tế cho thấy cơ
quan cung ứng dịch vụ công của nhà nước không thể dự kiến trước và đáp ứng được
tất cả các dịch vụ công mà người dân muốn có. Việc xuất hiện những biện pháp thay
thế của các tổ chức xã hội và khu vực tư nhân có thể giúp lấp đi những khoảng trống
trong cung ứng dịch vụ công. Do vậy, các tổ chức xã hội có thể vừa là những cộng sự,
đồng thời là những đối thủ cạnh tranh trong cung ứng dịch vụ công.
Và một khi được người dân ủng hộ, các tổ chức này có thể gây áp lực với chính
quyền để cải thiện việc cung ứng và nâng cao chất lượng các dịch vụ công. Trong
cung ứng dịch vụ công, các nhà nước đang tạo ra những cơ chế thuận lợi để mọi người
dân đều có thể đóng góp, san sẻ gánh nặng tài chính với nhà nước, và qua đó cải thiện
được chất lượng dịch vụ mà chính họ được hưởng. Có thể thấy rõ xu hướng này qua
hệ thống bảo hiểm y tế xã hội dựa vào cộng đồng. Đây là một hình thức lựa chọn để
tăng độ bao phủ của hệ thống bảo hiểm y tế, đặc biệt mang lại lợi ích cho người dân
vùng nông thôn, và các vùng sâu, vùng xa. Xu hướng xây dựng hệ thống bảo hiểm y tế

như vậy được nhiều nước chú trọng. Thí dụ, Đài loan và Hàn quốc đã rất quan tâm đến
việc xây dựng hệ thống bảo hiểm y tế theo hướng phục vụ người dân ngày càng có
hiệu quả dựa trên sự đóng góp tài chính từ phía người dân cùng với sự hỗ trợ của nhà
nước. Chương trình bảo hiểm y tế quốc gia của Đài Loan, sau 3 năm thực hiện (1998),
đã thu hút được 97% dân số tham gia. Đến cuối năm 2003, con số này đã lên tới
99%6. Chương trình bảo hiểm y tế đã làmcho người dân hiểu rõ được quyền và nghĩa
vụ hợp pháp của họ trong việc cùng nhà nước và những người dân khác chia sẻ nghĩa
vụ đóng góp và cùng hưởng những lợi ích từ Bảo hiểm y tế quốc gia. Thực tế cho thấy
rằng Chương trình Bảo hiểm y tế quốc gia của Đài loan đã bảo vệ người dân khỏi
những rủi ro tài chính và có sự tiếp cận công bằng tới các dịch vụ y tế. Bên cạnh đó,
Chương trình đã tăng cường cung cấp các dịch vụ y tế ở vùng sâu vùng xa, đảm bảo
lợi ích cho người dân sống ở các vùng khó khăn. Điều đó cho thấy rằng chủ trương
tăng cường sự tham gia của người dân vào cung ứng dịch vụ công qua đó mang lại lợi
ích cho cả hai phía người dân và nhà nước là hoàn toàn đúng đắn và cần được nhân
rộng ra nhiều lĩnh vực cung ứng khác.
21
IV. Xã hội hóa dịch vụ công
1. Khái niệm xã hội hóa dịch vụ công
1.1. Quan niệm về “xã hội hoá”
Trong những năm qua ở nước ta, có một thực tế là thuật ngữ “xã hội hoá” được
đề cập trong nhiều văn bản quan trọng của Đảng và Nhà nước cũng như trên các
phương tiện thông tin đại chúng, nhưng cho đến nay chưa có một khái niệm (định
nghĩa) thống nhất về “xã hội hoá”, hoặc chí ít là chưa có sự giải nghĩa tương đối đầy
đủ về nội hàm của thuật ngữ này. Thực tế, điều này đã trở thành một thách thức lớn
trong việc quán triệt và thực hiện chủ trương xã hội hoá cung ứng dịch vụ công ở nước
ta do có những cách hiểu khác nhau, thậm chí mâu thuẫn nhau về xã hội hoá. Cách
hiểu thông thường nhất là dùng nghĩa của từ “xã hội” cộng với nghĩa của hình vị
“hoá”, như các cách giải thích dưới đây cho “xã hội hoá” là “chung” hoạt động sản
xuất- kinh doanh là hoạt động không thể tự một người hay một gia đình làm được, mà
là một hoạt động có tổ chức và có tính tập thể cao; hoạt động do nhà nước quyết định,

điều động và kiểm soát- huy động mọi người làm chung; hoạt động chung có tính tự
nguyện: như là tập thể người bỏ vốn vào công ty, quyền tuỳ thuộc số tiền bỏ vốn ra;
hay là các hợp tác xã mà người lao động làm chung, quyết định chung mỗi người một
phiếu giống nhau; hay xã hội hoá là mỗi người tự đóng góp, tự lo, nhà nước có xu
hướng giảm đi trách nhiệm của mình
Nhìn chung, nhiều cách hiểu về “xã hội hoá” còn ít nhiều phiến diện, chưa làm rõ
được bản chất của “xã hội hoá”. Để giảm thiểu thách thức nêu trên đây, phần này cố
gắng làm rõ nội hàm của thuật ngữ “xã hội hoá”, từ đó suy ra nội hàm của “xã hội
hoá” cung ứng dịch vụ công (xem xét khái niệm của “xã hội hoá” trong bối cảnh cung
ứng dịch vụ công). Đi tìm trong các từ điển tiếng Việt, không tìm thấy cuốn từ điển
nào giải nghĩa đầy đủ cho thuật ngữ “xã hội hoá” trên tư cách là một thuật ngữ độc lập.
Tuy nhiên, chúng ta có thể tìm thấy những sự giải nghĩa thuật ngữ “xã hội hoá” khi nó
được ghép với các thuật ngữ khác như: “xã hội hoá sản xuất”; “xã hội hoá cá nhân”;
“xã hội hoá hình thức”; “xã hội hoá thực tế”; “xã hội hoá thặng dư” Qua nghiên cứu
các thuật ngữ trên có thể suy ra một cách khái quát rằng: “Xã hội hoá” một hoạt động
nào đó chính là sự gia tăng tính chất “xã hội” của hoạt động ấy thông qua sự tham gia
của nhiều chủ thể khác nhau trong xã hội dựa trên những điều kiện và trong khuôn khổ
cơ chế nhất định. Điều kiện và cơ chế cụ thể như thế nào là phụ thuộc vào bối cảnh
của xã hội hoá. Những điều kiện và cơ chế đóng vai trò then chốt đối với sự thành
công của xã hội hoá. Chúng quy định hình thức, phương thức “tham gia” của các chủ
22
thể khác nhau trong xã hội vào hoạt động được xã hội hoá. Như vậy, điều kiện và cơ
chế gắn với bối cảnh xã hội hoá sẽ quyết định ý nghĩa của “xã hội hoá” trong bối cảnh
ấy.
1.2. “Xã hội hoá” cung ứng dịch vụ công
Điều được xem xét ở đây là “cung ứng dịch vụ công”. Từ “cung ứng” hiểu đầy
đủ có nghĩa là cả sản xuất và phân phối. Muốn thật rõ nghĩa, có thể viết: cung ứng và
phân phối dịch vụ công (hoặc cung ứng và hưởng thụ dịch vụ công). Cung ứng dịch vụ
công tức là hoạt động cung ứng các dịch vụ vốn được thực hiện bởi Nhà nước. Như
vậy, theo nghĩa chung nhất, “xã hội hoá” ở đây có nghĩa là mở rộng sự tham gia của

các chủ thể kinh tế ngoài nhà nước vào việc cung ứng dịch vụ công.
Trước đây hoạt động cung ứng dịch vụ công chỉ do một mình Nhà nước đảm
nhiệm thì nay nó được mở rộng cho sự tham gia của nhiều chủ thể kinh tế khác dựa
trên điều kiện và cơ chế nhất định. Điều kiện và cơ chế thực hiện xã hội hoá như thế
nào là tuỳ thuộc vào tình hình cụ thể của từng quốc gia. Với cách tiếp cận như vậy, có
thể hiểu khái niệm “xã hội hoá” áp dụng trong bối cảnh cung ứng dịch vụ công, được
đề cập nhiều trong các văn bản của Đảng và Nhà nước và trên các phương tiện thông
tin đại chúng trong thời gian qua, là:
- Quá trình vận động và tổ chức để nhân dân và toàn xã hội tham gia (về vốn, tài
sản, sức lao động, trí tuệ ), hình thành cộng đồng trách nhiệm của các tổ chức Đảng,
Nhà nước, đoàn thể, các tổ chức chính trị xã hội và các tầng lớp nhân dân. Mỗi bên
tham gia có thể có mục đích riêng của mình, tuy nhiên tất cả các bên đều hướng tới
một mục đích chung quan trọng nhất là nâng cao hiệu quả của hoạt động cung ứng
dịch vụ công, đáp ứng tốt hơn nhu cầu hưởng thụ dịch vụ của nhân dân. Quá trình vận
động nhân dân tham gia cũng có nghĩa là tạo ra các phong trào lành mạnh sâu rộng
trong xã hội như: học tập, tập luyện thể dục thể thao, rèn luyện thân thể, vệ sinh phòng
dịch, xây dựng đời sống văn hoá mới
- Quá trình đa dạng hoá các hình thức hoạt động, mở ra cơ hội để mọi người chủ
động và bình đẳng tham gia. Dịch vụ công không còn chỉ được cung ứng bởi Nhà
nước nữa, mà được mở rộng cho sự tham gia của các tổ chức ngoài nhà nước với
nhiều hình thức đa dạng, phong phú (có thể hoạt động độc lập, liên kết với Nhà nước
hoặc quan hệ bạn hàng với Nhà nước) và bình đẳng.
- Quá trình đa dạng hoá các nguồn đầu tư để thu hút, khai thác mọi tiềm năng
trong xã hội. Gắn với việc đa dạng hoá các hình thức hoạt động cung ứng dịch vụ công
là quá trình đa dạng hoá các nguồn đầu tư trong xã hội. Cùng với Nhà nước, các tổ
23
chức ngoài nhà nước có thể bỏ vốn đầu tư vào hoạt động cung ứng dịch vụ công.
- Xã hội hoá dịch vụ công bao gồm cả xã hội hoá việc cung ứng dịch vụ công,
huy động toàn xã hội và thu hút cả đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực hoạt động này và cả
xã hội hoá hưởng thụ dịch cụ công, thực hiện công bằng xã hội, bảo đảm cho mọi

người dân được hưởng những dịch vụ công cơ bản, thiết yếu. Việc xác định khái niệm
“xã hội hoá” có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc hoạch định chủ trương xã hội
hoá và cơ chế gắn liền với chủ trương ấy (cũng có thể gọi là cơ chế xã hội hoá) trong
việc cung ứng và hưởng thụ dịch vụ công ở nước ta. Mặc dù “xã hội hoá” thường được
nói đến với các ý nghĩa khác nhau trên các phương tiện thông tin đại chúng thời gian
qua, song khi điểm qua chủ trương “xã hội hoá” cung ứng dịch vụ công ở nước ta từ
nửa cuối những năm 1990 trở lại đây thì thấy rằng các cơ quan hoạch định chính sách
cố gắng làm rõ khái niệm “xã hội hoá” theo những nội dung như trình bày trên đây.
2. Sự cần thiết phải xã hội hóa dịch vụ công:
Thứ nhất, việc chuyển giao một số dịch vụ công cho các cơ sở ngoài nhà nước sẽ
tạo ra môi trường cạnh tranh, tạo điều kiện cho người tiêu dùng lựa chọn và sử dụng
những dịch vụ tốt nhất. Qua đó, tổ chức ngoài Nhà nước có điều kiện để khẳng định
chính mình, đáp ứng nhu cầu tốt hơn và ngày càng cao của công dân. Các tổ chức này
luôn phải đổi mới quản lý, nâng cao hiệu quả để tồn tại và phát triển.
Thứ hai, có nhiều dịch vụ công Nhà nước làm được, nhưng xét chung thì tư nhân
sẽ làm tốt hơn, tốc độ nhanh, trọn gói, gọn gàng, đội ngũ nhân viên làm việc nhiệt tình
và thuận lợi hơn.
Thứ ba, xã hội hóa dịch vụ công nhằm để huy động mọi nguồn lực xã hội đáp
ứng dịch vụ cho công dân. Tạo điều kiện cho mọi người tham gia tích cực vào hoạt
động này, phát huy khả năng, năng lực tiềm tàng trong xã hội; khơi dậy tính sáng tạo,
chủ động, tích cực của người dân nhờ đó đa dạng hóa và tăng nguồn cung ứng dịch
vụ công cho xã hội. Ngoài ra còn huy động, động viên sự đóng góp kinh phí của mỗi
người cho hoạt động cung ứng dịch vụ công cho Nhà nước; làm giảm gánh nặng ngân
sách cho Nhà nước để Nhà nước tập trung ngân sách vào những nhiệm vụ trọng tâm
của sự nghiệp CNH-HĐH đất nước.
Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi trên, quá trình xã hội hóa nếu không được
quản lý phù hợp sẽ làm nảy sinh các mặt tiêu cực như: chất lượng dịch vụ kém, phí
cao, tiếp tay cho lừa đảo, lách luật…Tất cả những dịch vụ cung ứng dù ở bất kỳ hình
thức nào thì Nhà nước vẫn là người chịu trách nhiệm trước xã hội về việc bảo đảm
cung ứng chúng.

24
Xã hội hóa cung ứng dịch vụ ngoài công lập là một chủ trương đúng đắn của
Đảng và Nhà nước. Qua hoạt động này, nhu cầu của các tổ chức và công dân được đáp
ứng nhiều hơn, giảm bớt gánh nặng ngân sách của Nhà nước; phát huy được tiềm lực
chủ động sáng tạo của nhân dân. Tuy nhiên, hoạt động này, Nhà nước phải quản lý
chặt chẽ thông qua các hoạt động chỉ đạo, kiểm tra, giám sát các dịch vụ tư, đảm bảo
nhu cầu của nhân dân được đáp ứng tốt hơn, công bằng hơn.
Trong xu thế dân chủ hóa đời sống xã hội ngày càng mạnh mẽ, cải cách dịch vụ
công đang trở thành một nội dung quan trọng trong cải cách hoạt động của Nhà nước,
nhằm nâng cao hiệu quả và hiệu lực hoạt động của Nhà nước, làm cho Nhà nước đáp
ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của công dân.
Thực tiễn vấn đề xã hội hóa các dịch vụ công, như cổ phần hóa một số bệnh viện,
trường công lập nhằm nâng cao chất lượng chữa bệnh, chất lượng đào tạo nên được
xem xét một cách nghiêm túc, nếu thật sự điều này dẫn đến một sự cải thiện về nguồn
vốn đầu tư, về hiệu quả đầu tư, về hiện đại hóa công nghệ, cải thiện cung cách quản lý,
tạo động lực làm việc và nâng cao chất lượng phục vụ. Cộng đồng sẽ có nhiều bệnh
viện tốt hơn, nhiều trường học tốt hơn để phục vụ bệnh nhân tốt hơn và đào tạo học
sinh tốt hơn. Những nơi này không cung cấp dịch vụ miễn phí nhưng thật ra, điều này
không làm thay đổi chính sách điều trị miễn phí bệnh nhân nghèo, cũng như không
làm thay đổi chính sách giáo dục cưỡng bách quốc gia, nếu chúng ta thực sự muốn duy
trì các chương trình xã hội cần thiết này. Hệ thống bảo hiểm y tế đang mở rộng cho
mọi người dân trong cộng đồng và không có gì trở ngại về mặt chính sách và biện
pháp thực hiện trong việc cung cấp thẻ bảo hiểm y tế miễn phí cho những thành viên
của các gia đình cần được giúp đỡ, và các trẻ em cơ nhỡ
3. Sự khác nhau giữa xã hội hóa và tư nhân hóa dịch vụ công:
Điều khác biệt cơ bản với tư nhân hoá là xã hội hoá vẫn nhấn mạnh trách nhiệm
và đảm bảo sự chỉ đạo, điều hành của Nhà nước đối với việc cung ứng các dịch vụ
công. Đối với các cơ sở ngoài công lập, Nhà nước luôn luôn khuyến khích hoạt động
theo cơ chế phi lợi nhuận, được hiểu là lợi nhuận thu được không chia hết cho các cá
nhân mà chủ yếu dùng để đầu tư phát triển, thực hiện các chính sách xã hội, trợ giúp

người nghèo. Do vậy, việc hoạt động theo cơ chế hoàn toàn thương mại hoá là hạn
chế. Bên cạnh đó, vẫn còn một bộ phận không nhỏ các cơ sở công lập không chuyển
đổi sở hữu mà chỉ đổi mới cơ chế hoạt động, cho nên không thể coi là tư nhân hoá.
Trên thực tế, trong những năm qua, chính nhận thức không đúng trên đã gây ra
những hệ quả tiêu cực trong một số lĩnh vực như giáo dục, y tế, văn hoá. Không ít nơi
đã xảy ra hiện tượng thương mại hoá tràn lan và không lành mạnh trong các lĩnh vực
25

×