Tải bản đầy đủ (.doc) (141 trang)

CÁC THỂ THỨC tín DỤNG ĐCCC và một số GIẢI PHÁP để NÂNG CAO HIỆU QUẢ sử DỤNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (738.75 KB, 141 trang )

M U
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tháng sáu năm 1944, tại Bretton Woods, bang New
Hampshire- Mỹ, đứng trớc phần thắng tất yếu của phe đồng
minh trong Chiến tranh thế giới thứ hai, 44 quốc gia đã thống
nhất khai sinh ra Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) và Ngân hàng Tái
thiết và Phát triển Châu Âu (IBRD), ngày nay quen thuộc với
tên gọi Nhóm Ngân hàng Thế giới (WB) nhằm thiết lập nên
những quy tắc của một trật tự kinh tế mới cho thời kỳ hậu
chiến. Một loạt tổ chức kinh tế quốc tế đa phơng mà trong đó
hai tổ chức nói trên có vị thế ít tổ chức nào sánh kịp đã đóng
vai trò điều phối nhiều mặt đời sống chính trị, kinh tế và xã hội
của thế giới. Trong thời kỳ này, vai trò ngày càng tăng của các
nớc đang phát triển và sự tơng tác mạnh mẽ giữa các học
thuyết kinh tế khác nhau làm nổi lên nhiều vấn đề lý luận và
thực tiễn quan trọng đối với phát triển, mà đáng chú ý nhất là
việc xác định vai trò tối u của nhà nớc và của thị trờng trong
phát triển kinh tế, việc lựa chọn giữa các đờng lối tăng trởng
kinh tế theo kiểu hớng nội, hớng ngoại hoặc hỗn hợp, về phơng
thức huy động, phân bổ và sử dụng nguồn lực tối u, và quá
trình tự do hoá và hội nhập với bên ngoài. Thời kỳ Kỷ nguyên
vàng đánh dấu sự thắng thế của một chính phủ mạnh và hớng
nội ở các quốc gia đang phát triển, cùng với sự phổ biến của
học thuyết mang đậm tính chất của chủ nghĩa can thiệp kiểu
Keynes.
Những năm cuối thập kỷ 70 đầu thập kỷ 80 chứng kiến nhiều bớc ngoặt
mới trong quan hệ kinh tế quốc tế: hệ thống tiền tệ Bretton Woods sụp đổ, chấm
dứt chế độ bản vị đô la; các cú sốc giá dầu và nợ nớc ngoài làm bộc lộ những
điểm yếu nội tại của một loạt chính sách can thiệp của chính phủ, đa đến những
khó khăn kinh tế lớn buộc nhiều nớc đang phát triển phải thực hiện điều chỉnh


chính sách để giải toả những vớng mắc cơ cấu, nhằm thích ứng tốt hơn với môi
trờng quốc tế kém thuận lợi và hớng tới mục tiêu tăng trởng cao và bền vững.
Trong nỗ lực củng cố lý do tồn tại của mình, các tổ chức Bretton Woods (các IFI)
đã nắm lấy cơ hội này để thực hiện hỗ trợ các nớc đang phát triển điều chỉnh
chính sách vĩ mô và vi mô thông qua các khoản tín dụng hỗ trợ cho các chơng
trình điều chỉnh cơ cấu trung hạn. Dựa trên nền tảng của chủ nghĩa tân cổ điển
coi nhà nớc và các chính sách can thiệp của nhà nớc là nguyên nhân gây ra những
khó khăn kinh tế, các IFI chủ trơng hỗ trợ các nớc đang phát triển điều chỉnh cơ
cấu (ĐCCC) theo hớng giảm bớt vai trò của nhà nớc, tăng cờng vai trò của thị tr-
ờng và khu vực t nhân để giải quyết các khó khăn kinh tế bằng cách cho các nớc
này vay những khoản tín dụng đi kèm điều kiện ĐCCC. Đến cuối thập kỷ 80 đầu
thập kỷ 90, sự sụp đổ của chủ nghĩa xa hội ở Liên Xô và Đông Âu và việc chuyển
đổi sang kinh tế thị trờng của một loạt các nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung đã
mở rộng thêm d địa hoạt động cho các khoản tín dụng ĐCCC. Câu hỏi đặt ra là:
có đúng là các IFI, điển hình là IMF và WB, với các sứ mạng đặc biệt và ảnh h-
ởng mà không một tổ chức đa quốc gia nào có thể sánh kịp, đang trở thành những
nguồn cố vấn chính sách sáng suốt và trợ thủ đắc lực cho các nớc đang phát triển
trong quá trình tìm kiếm một mô hình phát triển hợp lý, hay chúng đơn thuần chỉ
là những công cụ phổ biến kiểu kinh tế thị trờng và xây dựng một trật tự kinh tế
quốc tế mới phù hợp với lợi ích của các nớc OECD, các cổ đông hùng mạnh nhất
và đang chi phối mọi quyết định của các IFI ?
Bởi vì trên thực tế, từ giữa thập kỷ 80 đến nay đã và đang có hàng chục n-
ớc đang phát triển, trong đó có Việt Nam đợc hởng những khoản tín dụng ĐCCC
của các IFI, nhng tình trạng đói nghèo vẫn còn phổ biến, khủng hoảng kinh tế
vẫn còn đều đặn xảy ra.
Chúng ta và nhiều nớc đang phát triển khác đã quen với việc hân hoan trớc
những đánh giá lạc quan của các IFI về nền kinh tế nớc mình và ngợc lại, nhng
chúng ta không nên quên rằng ngay trớc khi cuộc khủng hoảng nợ nổ ra ở
Mêhicô vào năm 1982, mở đầu cho cuộc khủng hoảng tại các nớc đang phát
triển thì các IFI vẫn còn đa ra những dự báo rất lạc quan về nền kinh tế nớc này,

tơng tự đối với cuộc khủng hoảng tài chính Châu á năm 1997. Và đó cũng mới
chỉ là một ví dụ rất nhỏ trong những sai lầm của các IFI.
Việc đánh giá đợc tác dụng thực chất của các khoản tín dụng điều chỉnh
cơ cấu đối với các nớc đang phát triển tỏ ra là yêu cầu hết sức cần thiết để rút ra
những bài học bổ ích giúp các nớc có ý định yêu cầu các IFI hỗ trợ các khoản tín
dụng ĐCCC để có các đối sách và bớc đi phù hợp trong quá trình thiết kế và thực
hiện các chơng trình ĐCCC đi kèm các khoản tín dụng này.
Vào cuối thập kỷ 80 đầu thập kỷ 90, trong hoàn cảnh bị cấm vận kinh tế
và chủ nghĩa xã hội sụp đổ ở Liên Xô và Đông Âu, Việt Nam đã xây dựng và
thực hiện khá thành công một đợt cải cách sâu rộng. Một vài năm sau đó, trong
tiến trình đổi mới trong nớc, mở cửa và bình thờng hoá quan hệ với cộng đồng
quốc tế, Việt Nam đã đợc WB và IMF hỗ trợ nhiều khoản tín dụng ĐCCC tơng
ứng với một chơng trình ĐCCC đầu tiên từ 1994-1997, và một chơng trình thứ
hai mà chúng ta đã thống nhất với hai tổ chức này vào đầu năm 2001. Các chơng
trình này liên quan đến nhiều mặt của tiến trình đổi mới, đến phơng hớng, chiến
lợc cải cách kinh tế và thể chế trớc đây và hiện nay, của quá trình hội nhập của ta
với thế giới bên ngoài, nhng cho đến nay vẫn cha có tổng kết chính thức hoặc
học thuật nào đánh giá kết quả về mặt định tính hoặc định lợng của các khoản tín
dụng này. Việc phân tích thực chất và tổng kết tác động của các khoản tín dụng
này đối với các nớc đang phát triển nói chung và đối với Việt Nam nói riêng, vai
trò của các IFI trong quá trình này đang trở thành vấn đề cấp bách có ý nghĩa
thực tiễn lớn lao.
2. Mục đích và phạm vi nghiên cứu
Khoá luận này cố gắng giới thiệu tơng đối có hệ thống về các
khoản tín dụng ĐCCC, phân tích và tổng hợp ở mức khách quan nhất có thể tác
động của các khoản tín dụng này đối với các nớc đang phát triển, đặc biệt là Việt
Nam trên cơ sở đó rút ra những bài học cần thiết và kiến nghị những giải pháp
nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng của các khoản tín dụng này trong thời gian tới.
3. Đối tợng nghiên cứu
Khoá luận này sẽ nghiên cứu các khoản tín dụng ĐCCC dành

cho các nớc đang phát triển của các IFI mà điển hình nh các
công cụ SAF (Thể thức Điều chỉnh Cơ Cấu) /ESAF (Thể thức
Điều chỉnh Cơ Cấu mở rộng), và hiện nay là PRGF (Thể thức
tăng trởng và giảm nghèo) của IMF, SAL (khoản vay điều
chỉnh cơ cấu)/SAC (Tín dụng điều chỉnh cơ cấu) và hiện nay là
PRSC (Tín dụng hỗ trợ giảm nghèo) của WB mà đều có hình
thức chung là các khoản tín dụng nhằm hỗ trợ cho các chơng
trình ĐCCC. Nói đến tác dụng của khoản tín dụng ĐCCC là
phải nói đến những tác dụng mà chơng trình ĐCCC do khoản
tín dụng này hỗ trợ đem lại, vì chính các chơng trình này mới
là mục tiêu, tâm điểm mà các khoản tín dụng này hớng tới.
4. Phơng pháp nghiên cứu
Phơng pháp nghiên cứu là phơng pháp duy vật biện chứng, với
quan điểm khách quan toàn diện, lịch sử và cụ thể của triết học Mác-xít, các ph-
ơng pháp thống kê, phân tích, đối chiếu và tổng hợp của kinh tế học dựa trên các
tài liệu của Việt Nam, IMF, WB, một số tài liệu của các nhà kinh tế học Pháp và
Nhật (xem mục Tài liệu tham khảo).
Chơng I nguồn gốc và sự hình thành tín dụng điều chỉnh cơ cấu
(ĐCCC)
1.1 Khái niệm Tín dụng ĐCCC
Khoá luận này xác định đối tợng nghiên cứu là các thể
thức tín dụng ĐCCC chính do các tổ chức IMF và WB tài trợ
cho các nớc đang phát triển, vì vậy sẽ không chỉ giới hạn ở
định nghĩa về Thể Thức Tín dụng Điều Chỉnh Cơ Cấu-
Structural Adjustment Credit của WB mà thể thức tín dụng
ĐCCC ở đây đợc hiểu là tất cả các khoản tín dụng mà WB
và IMF tài trợ cho các nớc đang phát triển nhằm hỗ trợ cho
các chơng trình hoặc chính sách cơ cấu lại nền kinh tế của
các nớc này cho phù hợp với chính sách kinh tế vĩ mô của
Chủ nghĩa tự do mới.

Các thể thức này bao gồm:
SAF (Thể thức Điều chỉnh Cơ Cấu), ESAF (Thể thức
Điều chỉnh
Cơ Cấu mở rộng), PRGF (Thể thức tăng trởng và giảm nghèo)
của IMF
SAL (khoản vay điều chỉnh cơ cấu), SAC (Tín dụng
điều chỉnh
cơ cấu), PRSC (Tín dụng hỗ trợ giảm nghèo) của WB
1.2 Lịch sử hình thành tín dụng ĐCCC
1.2.1 Suy thoái kinh tế tại các nớc đang phát triển
Từ cuối thập lỷ 70, chiều hớng tăng trởng kinh tế thực ở các nớc đang phát
triển bắt đầu suy giảm đáng kể nh minh hoạ của Bảng 1.1 dới đây.
Bảng 1.1. Tăng trởng GDP và GDP theo đầu ngời của các nớc đang phát
triển, thời kỳ 1965-1992 (thay đổi % bình quân hàng năm).
1965-73 1973-80 1980-92
GDP GDP
đầu
ngời
GDP GDP
đầu
ngời
GDP GDP
đầu
ngời
GDP thực bình quân chung 6.5 3.9 5.4 3.2 2.8 0.9
Các nớc thu nhập thấp 5.5 2.9 4.6 2.5 5.9 3.9
Các nớc thu nhập trung bình
7.0 4.4 5.7 3.3 1.7 -0.1
Các nớc xuất khẩu dầu mỏ
6.9 4.3 6.0 3.2 0.8 -1.8

Các nớc x/k hàng chế biến
7.4 4.8 6.0 4.1 6.0 4.3
Các nớc mắc nợ nhiều
6.9 4.2 5.4 2.9 1.0 -1.0
Các nớc tiểu Sahara Châu phi
6.4 3.6 3.2 0.3 2.2 -0.8
Các nớc công nghiệp
4.7 3.7 2.8 2.1 1.6 2.3
Nguồn : Mosley P., Jane Harrigan & John Toye (1995), Aid
and Power: the World Bank and Policy-based Lending,
Routledge Publisher, London, 1995- tr.5,6
Nh vậy, tốc độ tăng trởng của hầu hết các nớc đang phát
triển từ mức khá cao trong thời kỳ 1965-1980 gắn liền với "Kỷ
nguyên vàng" bùng nổ kinh tế ở các nớc công nghiệp, đã giảm
dần trong những năm sau đó, cũng gắn liền với thời kỳ giảm
sút tăng trởng ở các nớc công nghiệp. Bớc vào thập kỷ 80, tốc
độ tăng trởng ở các nớc đang phát triển đã giảm rất đáng kể,
đặc biệt ở các nớc có thu nhập trung bình, các nớc xuất khẩu
dầu, các nớc mắc nợ nhiều và các nớc thuộc tiểu Sahara Châu
Phi. Khi tính cả tốc độ tăng dân số, thì tốc độ tăng trởng GDP
đầu ngời ở nhiều nớc đang phát triển thậm chí còn bị giảm
xuống mức âm. Tình trạng suy giảm tăng trởng này phần nào
cho thấy việc vận dụng các chính sách kinh tế vĩ mô theo
Keynes nh các công cụ chính để thúc đẩy tăng trởng, kể từ sau
Chiến tranh thế giới II đến giữa những năm 70, đã không còn
thúc đẩy đợc mức tăng trởng trong thời kỳ ban đầu. Yêu cầu
đổi mới chính sách để chặn đứng chiều hớng suy thoái kinh tế,
tạo đà tăng trởng mới đang dần trở thành một xu thế chủ đạo ở
cả các nớc công nghiệp lẫn các nớc đang phát triển.
1.2.2 Tác động của cuộc khủng hoảng dầu lửa và khủng hoảng

nợ nớc ngoài.
Năm 1973, các nớc OPEC đã tăng giá dầu gấp 3 lần, làm
giảm mạnh mức tăng trởng thực ở các nớc công nghiệp. Đến
năm 1979-1980, giá dầu một lần nữa lại tăng gấp 3, thực sự là
cú sốc lớn góp phần đẩy các nớc công nghiệp vào thời kì suy
thoái nghiêm trọng, kéo theo sự suy giảm tăng trởng mạnh mẽ
ở các nớc đang phát triển.
Việc quay vòng khoản thu nhập đô la dầu mỏ khổng lồ
qua hệ thống ngân hàng t nhân đã tạo điều kiện cho các đang
phát triển tiếp cận một cách dễ dàng nguồn vốn trên các thị tr-
ờng tài chính quốc tế, phần nào giúp họ giảm bớt đợc tốc độ
suy thoái kinh tế, nhng không bền vững. Vào đầu những năm
80, các chính phủ bảo thủ lần lợt lên nắm quyền ở nhiều nớc
công nghiệp lớn ở Anh, Đức và Mỹ đã thực thi chính sách
chống lạm phát bằng các biện pháp thắt chặt tiền tệ, đẩy lãi
suất danh nghĩa lên trên mức 10%, làm tăng số nợ nớc ngoài
của các nớc đang phát triển. Tình hình này cộng với tỉ lệ trao
đổi thơng mại bất lợi cho những nớc xuất khẩu hàng hoá cơ
bản (Bảng 1.2) và việc sử dụng không có hiệu quả nguồn vốn
quốc tế đã đẩy nhiều nớc đang phát triển vào tình trạng không
trả đợc nợ.
Bảng 1.2. Thay đổi trong tỉ lệ trao đổi thơng mại của
các nớc đang phát triển.
(thay đổi % hàng năm)
1965-73 1973-80 1980-85
Giá hàng xuất khẩu
Hàng chế biến
Lơng thực
Phi lơng thực
6.4 8.2 -3.7

5.9 8.6 -3.7
4.6 10.2 -4.9
2.5 4.7 -4.5
8 26.2 -4.1
-4.8 4 -1.1
1.7 2.1 -2.4
-8.5 5 -2.3
-0.6 1.2 -0.6
3.7 -3.4 1.7
3.9 2.4 -1.9
1.4 3.5 -1.3
Nguồn : Mosley P., Jane Harrigan & John Toye (1995), Aid
and Power: the World Bank and Policy-based Lending,
Routledge Publisher, Londo nmn, 1995- tr.7
Tuy nhiên, điều dễ nhận thấy là cuộc khủng hoảng giá
dầu lửa này tác động đến các nớc đang phát triển có thu nhập
thấp phải nhập khẩu dầu lửa và các nớc xuất khẩu dầu nhiều
hơn là các nớc công nghiệp, kể cả những nớc phải nhập khẩu
dầu. Một trong những lý giải về sự khác biệt này là vai trò
quan trọng của yếu tố thị trờng, và một số bài học về chính
sách kinh tế có thể đợc rút ra từ quá trình này. Thứ nhất, việc
các nớc công nghiệp, điển hình của các nền kinh tế thị trờng,
vợt qua đợc thách thức này khá dễ dàng cho thấy thị trờng có
khả năng tự điều chỉnh cao trớc các cú sốc kinh tế. Thứ hai,
các nớc xuất khẩu dầu lửa có nguồn lực lớn nhng mức tăng tr-
ởng không cao vì nguồn lực đã không đợc phân bổ và sử dụng
hiệu quả.
Không trả đợc nợ đúng hạn và đầy đủ, uy tín tín dụng
giảm đã làm xói mòn đáng kể khả năng tiếp cận nguồn vốn
quốc tế của các nớc đang phát triển. Khi cuộc khủng hoảng

bùng phát năm 1982, nguồn tài trợ không u đãi bên ngoài bù
đắp cho cán cân thanh toán đã giảm nhanh chóng, mức năm
1986 tụt xuống còn cha đến một phần mời mức năm 1980 : 5.2
tỉ USD so với 59.2 tỉ USD
1
. Chính sách thắt chặt tài chính và
tiền tệ của các nớc công nghiệp cũng làm giảm nguồn hỗ trợ
phát triển chính thức, đẩy các nớc đang phát triển, nhất là các
nớc không có dầu lửa, lún sâu thêm vào suy thoái kinh tế.
Bảng thống kê dới đây cho thấy các cú sốc đối với nền kinh tế
của các nớc đang phát triển không có dầu lửa
2
trong giai đoạn
1980-1987.
1
Chapelier G. and Hamid Tabatai (1989), Stabilization, structural Adjustment and UNDP Policy, UNDP Policy
Discussion Paper, New York
2
Gồm tất cả các nớc đang phát triển trừ các nớc OPEC
Bảng 1.3. Các cú sốc đối với các nớc đang phát triển không
có dầu lửa.
(thời kỳ 1980-1987)
198
0
198
1
198
2
198
3

198
4
198
5
198
6
198
7
Thay đổi trong tỉ
lệ trao đổi thơng
mại (%)
-5.8 -4.0 -2.0 0.6 2.6 -2.3 -2.9 0.6
Tăng GNP thực tế
ở các nớc công
nghiệp
1.3 1.5 -0.3 2.7 4.9 3.2 2.7 3.1
Lãi suất thực nớc
ngoài (%)
1.9 16.1 18.
3
15.0 10.
6
15.
0
7.7 -0.3
Nguồn vốn bên
ngoài (tỉ USD)
59.2 57.3 31.
1
19.2 14.

7
16.
4
5.2 4.9
Thâm hụt cán cân
vãng lai (% xuất
khẩu hàng không
và dịch vụ)
-
16.5
-20.0 -
17.
2
-
10.9
-6.3 -6.1 -1.8 1.0
Nguồn: Chapelier G. and Hamid Tabatai (1989), Stabilization, structural
Adjustment and UNDP Policy, UNDP Policy Discussion Paper, New York - tr
14
Tuy không phải là lý do duy nhất gây ra những khó khăn
kinh tế của nhiều nớc đang phát triển, các cú sốc bên ngoài đã
làm bộc lộ rõ hơn những yếu điểm và khiếm khuyết của từng
nền kinh tế. Cũng trong những điều kiện bất lợi nh vậy, nhng
các chỉ số vĩ mô của nhiều nớc đang phát triển lại không bị
xấu đi đáng kể, chứng tỏ các yếu tố bên trong có vai trò quan
trọng trong việc đảm bảo khả năng thích ứng của quốc gia với
những thay đổi bất lợi của môi trờng kinh tế bên ngoài. Trong
khi nêu cao nguyên tắc chủ quyền quốc gia, nhiều nớc đang
phát triển, đặc biệt là những nớc đã từng là thuộc địa và những
nớc phát triển đi sau, trong nhiều năm đã thực thi một chính

sách mà có tác giả gọi là "chủ nghĩa dân tộc kinh tế
3
chủ tr-
ơng chính phủ phải kiểm soát toàn bộ các hoạt động kinh tế
bằng một loạt các quy định điều tiết thơng mại, đầu t và tiền
tệ. Nhiều nớc đang phát triển đã thực thi các chính sách không
phù hợp, tạo nên những vớng mắc cơ cấu, điển hình là những
bất hợp lý của hệ thống tỉ giá hối đoái, quản lý tín dụng không
hiệu quả, hệ thống thuế phân biệt đối xử, chế độ thơng mại bảo
hộ quá mức sản xuất trong nớc bằng các hàng rào quan thuế và
phi quan thuế, và khu vực DNNN làm ăn thua lỗ. Chính vì vậy,
chủ nghĩa dân tộc về kinh tế và chính sách can thiệp sâu của
nhà nớc vào nền kinh tế cũng bị coi là một trong những
nguyên nhân dẫn đến thành tích kinh tế xấu đi của nhiều quốc
gia đang phát triển.
Theo một tổng kết của IMF
4
, trong 35 quốc gia đợc hỗ
trợ để thực hiện 72 chơng trình SAF/ESAF và 31 chơng trình
SAL/SAC trong những năm 80 và 90
5
, trong một thời gian dài
3
Mosley P., Jane Harrigan & John Toye (1995), Aid and Power: the World Bank and Policy-based Lending,
Routledge Publisher, London, 1995- tr 3
4
IMF, The ESAF at Ten Years: Economic Reform and Adjustment in Low-income Countries, Washington D.C
5
Tên cụ thể của các nớc này đợc trình bày trong chơng 2
trớc khi thực hiện các chơng trình điều chỉnh đợc các IFI hỗ

trợ, hầu hết các nớc này đều có những đặc điểm chung là tuy
không bị khủng hoảng và mất ổn định kinh tế vĩ mô và tài
chính nghiêm trọng, nhng lại có tỉ lệ tăng trởng GDP thấp, thu
nhập đầu ngời giảm, lạm phát cao, thâm hụt ngân sách lớn
(6%GDP) và vị thế kinh tế đối ngoại không vững chắc, với
thâm hụt cán cân vãng lai bình quân là 12% GDP. Các vớng
mắc cơ cấu chính là về mặt tài chính: diện thuế hẹp, nguồn thu
phụ thuộc nhiều vào thuế xuất nhập khẩu; quản lý tài chính
kém; việc miễn giảm thuế tuỳ tiện, nhất là đối với các doanh
nghiệp nhà nớc, trở thành hiện tợng khá phổ biến; vai trò của
nhà nớc: sự can thiệp của nhà nớc vào nền kinh tế ở mức khá
cao, với doanh nghiệp nhà nớc (DNNN) đóng vai trò quan
trọng ở nhiều nớc, kể cả trong những ngành kinh doanh thơng
mại thuần tuý; tình trạng các doanh nghiệp nhà nớc kiểm soát
giá cả là khá phổ biến(điển hình ở Mozambich và Tanzania)
đối với hàng nông sản xuất khẩu, một số hàng nhập khẩu chủ
chốt nh phân bón, các sản phẩm dầu, thực phẩm, và các mặt
hàng lơng thực sản xuất trong nớc ; nhiều DNNN nhà nớc làm
ăn thua lỗ hoặc không tạo ra nguồn tích luỹ để mở rộng vốn
đầu t; một loạt nớc có đồng bản tệ đợc định giá quá cao và có
chế độ ngoại hối và thơng mại mang tính hạn chế quá mức, với
mức chệnh lệch tỉ giá chính thức và chợ đen lên đến 100%;
nhà nớc thực hiện kiểm soát chặt chẽ lãi suất và phân bổ tín
dụng bằng các công cụ trần và sàn tín dụng, hoặc giới hạn biên
độ lãi suất, với kết quả là có niều nớc có lãi suất thực âm, nợ
khó đòi ở mức cao, và nhiều ngân hàng mất khả năng thanh
toán.
Những vớng mắc cơ cấu này đã góp phần làm chậm tốc
độ tăng trởng, giảm hiệu quả kinh tế và khả năng thích ứng
hữu hiệu của nền kinh tế trớc các cú sốc bất lợi bên ngoài. So

với các nớc đang phát triển không phải điều chỉnh, trong thời
kì 1981-1985, thu nhập đầu ngời bình quân của các nớc phải
điều chỉnh thấp hơn, tỉ lệ tiết kiệm chỉ bằng một nửa, thâm hụt
ngân sách, nợ nớc ngoài và lạm phát cao hơn, hệ thống hối
đoái méo mó hơn, tốc độ tăng dân số cao hơn các chỉ số xã hội
(giáo dục, y tế và tuổi thọ) kém hơn, nh Bảng 1.4 minh hoạ.
Điều đó góp phần lý giải tại sao các nớc trên buộc phải thực
hiện điều chỉnh chính sách kinh tế trong những năm 80 và 90.
Bảng 1.4. Các chỉ số kinh tế và xã hội của các nớc phải
điều chỉnh và các nớc đang phát triển không phải điều
chỉnh, thời kì 1981-1985.
(đơn vị :% hàng năm)
Chỉ số Các nớc phải
điều chỉnh
Các nớc không
phải điều chỉnh
Tăng trởng GDP đầu ngời thực -1.1 0.3
Lạm phát
94.4 23.5
Tổng tiết kiệm quốc gia(%GDP) 8 18.6
Cân đối ngân sách(%GDP) -9.1 -6.8
Tăng trởng kim nghạch xuất khẩu 1.7 4.4
Tỉ lệ trả nợ (thực, % xuất khẩu và dịch vụ) 27.9 18.8
Nợ nớc ngoài(mệnh giá, %GNP) 81.9 55.7
Tổng dự trữ(tính theo tháng nhập khẩu ) 2 4.7
Tốc độ tăng dân số 2.8 2.4
Tuổi thọ bình quân(tính theo số năm) 51.5 59.7
Nguồn: IMF, The ESAF at Ten Years: Economic Reform and
Adjustment in Low-income Countries, Washington D.C- tr 4
1.2.3 Sự can thiệp của IMF và WB

Theo Điều lệ và Hiến chơng khi thành lập, nhiệm vụ ban
đầu của Ngân hàng Tái thiết và phát triển quốc tế (IBRD)
6

hỗ trợ quá trình tái thiết thời hậu chiến ở những vùng bị chiến
tranh tàn phá và hỗ trợ phát triển kinh tế của các quốc gia hội
viên thông qua các dự án đầu t, trong khi vai trò cơ bản của
Quĩ tiền tệ quốc tế (IMF) là tạo điều kiện thuận lợi để ổn định
cán cân thanh toán trong một hệ thống các tỉ giá hối đoái cố
định nhng có thể điều chỉnh. Tuy nhiên, trong những năm đầu
tiên, cả hai tổ chức đều không có nguồn lực và kinh nghiệm để
thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ này. Kế hoạch Marshall
của Mỹ với tổng số tiền lên đến 13 tỉ USD, và những nỗ lực
của nhân dân tại các nớc bị chiến tranh tàn phá đợc là các yếu
tố chính mang lại sự thành công của công cuộc tái thiết Châu
Âu. Qui định về chức năng và nhiệm vụ của các tổ chức này
khi thành lập không đề cập gì đến hoạt động hỗ trợ điều chỉnh
sách.
6
Sau này đợc mở rộng thành nhóm Ngân hàng thế giới (WB)
Tuy nhiên, quãng thời gian hơn 50 năm đã chứng kiến sự
phát triển mạnh mẽ của 2 tổ chức này cả về lợng và chất. Số
quốc gia hội viên của mỗi tổ chức đã vợt quá con số 180, phạm
vi chức năng và hình thức hoạt động có những biến đổi và đợc
mở rộng đáng kể, biến chúng thành những tổ chức có ảnh hởng
khá sâu sắc đến nền kinh tế thế giới và chính sách của nhiều
quốc gia, nhất là các nớc đang phát triển.
IBRD và Nhóm Ngân hàng Thế giới
Từ nhiệm vụ chủ yếu là hỗ trợ tái thiết và phát triển các
nền kinh tế ở châu Âu bị chiến tranh tàn phá( nhng đã không

thực hiện đợc nh đề cập ở trên), theo thời gian IBRD- đã tự
biến đổi thành một tổ chức phát triển đa phơng hùng mạnh với
tên gọi " Nhóm Ngân hàng Thế giới" (WB), có mục tiêu chính
là thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế thế giới với trọng tâm là
hỗ trợ cho phát triển kinh tế ở các nớc nghèo và các nớc đang
phát triển khác. Hình thức hoạt động chủ yếu là tài trợ cho các
dự án phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội theo các điều
kiện u đãi, ở những vùng địa lý và lĩnh vực ở các nớc đang
phát triển mà WB cho rằng "t nhân không muốn tham gia".
Ngoài ra, WB còn mở rộng tổ chức, chức năng và phạm vi hoạt
động của mình sang nhiều lĩnh vực khác.
Các cú sốc đối với nền kinh tế quốc tế nh đã đề cập ở trên
đã xảy ra khi hoạt động chủ yếu của WB ở các nớc đang phát
triển là cho vay theo dự án đang gặp phải một số vấn đề về
hiệu quả. Từ những thất bại của nhiều dự án phát triển, mà có
tài liệu cho rằng lên đến 70% số dự án, các nhà kinh tế làm
việc tại WB, những ngời bắt đầu có tiếng nói và ảnh hởng hơn
trong tổ chức này, đã đa ra lập luận rằng, viện trợ theo dự án
chỉ có tác dụng và hiệu quả trong một môi trờng thuận lợi về
mặt thể chế và chính sách mà nhiều nớc đang phát triển, nhất
là những nớc tiểu Sahara Châu phi, không đáp ứng đợc. Trong
điều kiện có những biến động bất lợi trong môi trờng kinh tế
quốc tế bên ngoài, điển hình là các cú sốc dầu lửa, cuộc khủng
hoảng nợ, tỉ lệ trao đổi thơng mại thay đổi bất lợi cho các nớc
đang phát triển thì việc thiếu vắng các chính sách phù hợp giúp
cho các nớc này thích ứng đợc với những điều kiện mới sẽ
mang lại một số hậu quả nghiêm trọng đối với thành công của
các dự án phát triển.
Nh vậy, theo đánh giá của WB, thực tiễn khó khăn kinh tế
của các nớc đang phát triển do những biến động bất lợi bên

ngoài, cùng với những chính sách không phù hợp của họ đã
làm giảm đáng kể hiệu quả của các hoạt động cho vay theo dự
án của WB nói riêng, và tốc độ tăng trởng kinh tế ở nhiều nớc
đang phát triển nói chung. Hoạt động cho vay hỗ trợ cải cách
và điều chỉnh chính sách là cần thiết để xử lí tận gốc các vấn
đề, nhằm giảm thiểu các khả năng tái hiện những khó khăn
này trong tơng lai, giúp các nớc đang phát triển thích ứng tốt
hơn với những biến động bất lợi bên ngoài, tạo đà cho phát
triển bền vững. Ngoài ra việc cho vay hỗ trợ chính sách có thể
giúp WB đạt đợc một số mục đích quan trọng về chính trị, từ
đó nâng vị thế và vai trò của WB từ một tổ chức tài trợ phát
triển đa phơng đơn thuần thành một tổ chức có ảnh hởng đáng
kể trong quá trình hình thành một trật tự kinh tế quốc tế mới.
Trớc hết, hoạt động cho vay hỗ trợ chính sách giúp WB
tiếp cận và tác động đến quá trình xây dựng và hoạch định
chính sách ở cấp cao nhất cũng nh ở các cấp thực hiện chính
sách khác nhau ở nớc đang phát triển, tăng cờng ảnh hởng của
WB trong tầng lớp lãnh đạo và các tổ chức ở những nớc này.
Đây là một đòn bẩy hữu hiệu giúp WB thực thi chính sách, đẩy
mạnh hoạt động và tăng cờng ảnh hởng của mình ở nớc nhận
tài trợ.
Hơn nữa, những điều kiện ràng buộc với hoạt động cho
vay chính sách sẽ có tác dụng biến đổi thể chế kinh tế, và trên
một mức độ nhất định, thể chế chính trị và xã hội của nớc nhận
tài trợ, thúc đẩy quá trình biến đổi nền kinh tế của các nớc này
theo hớng thị trờng trên cơ sở học thuyết kinh tế Tân cổ điển
đang thịnh hành trong thập kỷ 80. Thành công trong nỗ lực
này, theo đánh giá của WB , không những giúp tạo lập môi tr-
ờng thuận lợi để nâng cao hiệu quả của hoạt động tài trợ theo
dự án của WB, mà còn giúp loại trừ nguồn gốc kinh niên của

những khó khăn kinh tế và năng lực thích nghi kém của các n-
ớc đang phát triển trớc những biến đổi bất lợi của môi trờng
bên ngoài , là sự can thiệp thái quá của chính phủ vào các thị
trờng. Cuối cùng, điều mà WB không công nhận nhng lại rất
quan trọng, là việc chuyển hoá các nền kinh tế của thế giới
đang phát triển sang thể chế thị trờng là phù hợp với lợi ích lâu
dài của các nớc công nghiệp hội viên WB.
Nhằm mục đích trên, năm 1984, WB đã thiết lập chơng
trình Khoản vay điều chỉnh cơ cấu (SAL), sau đợc đổi thành
chơng trình tín dụng điều chỉnh cơ cấu (SAC), tập trung chủ
yếu vào các nớc nghèo nhất đủ điều kiện vay u đãi của IDA, và
Khoản vay điều chỉnh cơ cấu ngành(SECAL), cung cấp những
khoản tín dụng theo những điều kiện hết sức u đãi nhằm
khuyến khích các nớc này tiến hành các biện pháp cải cách và
điều chỉnh chính sách kinh tế theo hớng thị trờng trong toàn bộ
nền kinh tế hoặc trong phạm vi một ngành kinh tế cụ thể.
Nhìn chung, thập kỷ 80 chứng kiến sự gia tăng mạnh của
các hoạt động cho vay điều chỉnh cơ cấu của WB; từ mức
khiêm tốn của năm 1980, cam kết cho vay điều chỉnh đã đạt
kỷ lục 6.5 tỉ USD vào năm 1989, sau đó giảm xuống 5 tỉ USD
trong các năm 1990 và 1991. Tính tổng cộng, các khoản vay
SAL và SECAL đã chiếm bình quân 26% tổng giá trị hoạt
động cho vay của Nhóm WB.
Quỹ tiền tệ quốc tế
Trong hơn 50 năm tồn tại và hoạt động, cùng với việc kéo
dài thêm danh mục số quốc gia hội viên, Quỹ tiền tệ quốc tế
(IMF) cũng đã có nhiều biến đổi theo hớng ngày càng mở rộng
chức năng, phạm vi hoạt động và ảnh hởng của mình, gắn liền
với những bớc ngoặt quan trọng trong lịch sử phát triển kinh tế
quốc tế.

Từ khi thành lập đến đầu thập kỷ 70, IMF chủ yếu thực
hiện chức năng cơ bản theo Hiến chơng. Trên nền tảng hệ
thống tỉ giá hối đoái cố định của Hệ thống Bretton Woods,
IMF có nhiệm vụ hỗ trợ các nớc hội viên khắc phục những khó
khăn tạm thời trong cán cân thanh toán mà nguyên nhân có
thể là chủ quan hoặc khách quan, với điều kiện các nớc nhận
hỗ trợ phải thực hiện chính sách tài chính và tiền tệ thắt chặt
để giảm cầu mà ngời ta thờng gọi là các chính sách bình ổn
kinh tế vĩ mô (macroeconomic stabilization policies). Có thể
nói đây là một bớc chuyển biến quan trọng đầu tiên trong họat
đọng của IMF.
Chiều hớng giảm tăng trởng kinh tế thời kỳ đầu những
năm 80 (Bảng 1.1) cộng với những yếu kém cơ cấu kinh niên
đã làm cho nhiều nớc đang phát triển không kịp thích ứng với
những thay đổi bất lợi của môi trờng bên ngoài. Biện pháp đối
phó bằng cách tăng cờng vay nợ nớc ngoài để bù đắp cho cán
cân thanh toán chỉ làm trầm trọng thêm tình hình, với kết quả
là không những môi trờng vĩ mô của họ xấu đi, mà số nợ nớc
ngoài của họ ngày càng tăng vợt quá khả năng thanh toán.
Nhiều nớc đứng trên bờ vực của sự vỡ nợ, hoặc phải tiến hành
các chơng trình cơ cấu lại nợ dài đằng đẵng và tốn kém, ảnh h-
ởng lớn đến tốc độ tăng trởng của họ.
Tình hình trên làm IMF nhận thấy rằng, cho dù các chơng
trình hỗ trợ cán cân thanh toán của IMF có thành công đến
mức nào, thâm hụt cán cân thanh toán vẫn tái diễn, có thể
nhiều lần, ở chính những nớc thực hiện chơng trình. Trên quan
điểm rằng khi các biện pháp chính sách bình ổn kinh tế vĩ mô
ngắn hạn cha đủ để xử lí tận gốc các khó khăn kinh tế của các
nớc đang phát triển, và việc xây dựng và thực hiện các cải cách
lớn về chính sách và thể chế kinh tế, nhất là vai trò của chính

phủ và các cơ chế khuyến khích sản xuất trở nên cần thiết, đòi
hỏi thời gian dài hơn để thực hiện, IMF đã mở rộng hơn nữa
phạm vi hoạt động của mình, từ hỗ trợ cán cân thanh toán ngắn
hạn để bình ổn kinh tế vĩ mô, đến tham gia xử lý nợ cùng các
nớc đang phát triển để giúp các nớc này khắc phục khủng
hoảng và tiến tới hỗ trợ điều chỉnh chính sách trung hạn. Bớc
đi đầu tiên là vào năm 1974, khi IMF thiết lập Thể thức mở
rộng của Quỹ (EFF). Vào giữa những năm 80, với yêu cầu
phối hợp với WB trong nỗ lực hỗ trợ các nớc đang phát triển ,
nhất là các nớc có thu nhập thấp thực hiện điều chỉnh chính
sách. IMF đã tiếp cận một cách thức hoạt động mới, hoạt động
cho vay hỗ trợ điều chỉnh cơ cấu, bằng việc thiết lập Thể thức
điều chỉnh cơ cấu(SAF), có mục tiêu khác hẳn với mục tiêu
ban đầu của tổ chức này , và sử dụng nguồn tài trợ chính là
khoản thu nhập từ việc bán vàng những năm trớc đó. Một thời
gian ngắn sau, SAF đã đợc tăng cờng bằng Thể thức điều
chỉnh cơ cấu mở rộng (ESAF), với nguồn tài trợ từ nguồn của
SAF và từ các khoản đóng góp của một số quốc gia hội viên.
Mục tiêu chủ yếu của SAF/ESAF là thúc đẩy sự bền vững
đối ngoại (external viability) và tăng trởng bằng cách giảm bớt
những mất cân đối trong kinh tế đối ngoại, cải thiện việc huy
động, phân bổ và sử dụng các nguồn lực thông qua tự do hóa
hệ thống thơng mại và thanh toán. Các thể thức này có sức hấp
dẫn lớn do chúng có nhiều điểm u việt hơn các thể thức hỗ trợ
cán cân thanh toán truyền thống của IMF: thời gian dài hơn,
mức hỗ trợ lớn hơn và u đãi hơn, trong khi vẫn đảm bảo việc
giải ngân nhanh. Từ năm 1982, các nớc đang phát triển đã trở
thành khách hàng chính của IMF, với số lợng tín dụng ròng
(tổng số vay IMF trừ đi tổng số trả cho IMF) là 6.9 tỉ USD
năm 1982,11 tỉ USD năm 1983, 4.7 tỉ USD năm 1984 và 0.3 tỉ

USD năm 1985 và đến năm 1986 lại có thêm 62 quốc gia có
thu nhập thấp có đủ điều kiện vay theo SAF/ESAF. Tuy nhiên,
việc vay theo SAF/ESAF để thực hiện các chơng trình điều
chỉnh cơ cấu phải tuân thủ một khung điều kiên ràng buộc,
trong đó ngoài mục đích giúp các quốc gia điều chỉnh khắc
phục khó khăn kinh tế, còn có việc tạo điều kiện cho các nớc
này có nguồn lực hay tạo ra nguồn lực để trả đợc nợ cho IMF.
1.3 Tính chất và đặc điểm của các thể thức tín dụng ĐCCC
1.3.1 Tính chất và đặc điểm
Khái niệm và nguồn gốc của các khoản tín dụng ĐCCC
đã bao
hàm ý nghĩa về sự tác động của các thế lực bên ngoài vào nền
kinh tế các nớc đi vay. Sở dĩ các nớc này đợc hởng tín dụng là
để họ tuân thủ nhng điều chỉnh nhất định theo đánh giá của
các tổ chức cấp tín dụng. Vậy nên chúng ta có thể khẳng định
ngay một tính chất cơ bản của các khoản tín dụng ĐCCC là
đây là các khoản tín dụng có điều kiện, mà cụ thể ở đây là các
điều kiện về một chính sách kinh tế phải theo đuổi. Nói cách
khác, các nớc đang phát triển chỉ đợc cấp các khoản tín dụng
này với điều kiện là chính phủ của nớc đó tuân thủ một chơng
trình bình ổn kinh tế và cải cách cơ cấu kinh tế phù hợp với
các yêu cầu của các IFI
Khi nói đến tín dụng, ta thờng thấy chúng gắn liền với
các
chơng trìnhđầu t và phát triển, đó thậm chí là mục tiêu cơ bản
của tín dụng. Nhng tín dụng ĐCCC lại là một trờng hợp đặc
biệt. Các khoản tín dụng này không bao giờ đi kèm với một
chơng trình đầu t nh các khoản tín dụng công ớc khác, mà đòi
hỏi sự huy động các nguồn lực trong nớc.
Một tính chất cơ bản khác cũng rất đặc trng cho tín

dụng
ĐCCC là việc các chính phủ đi vay phải bắt đầu thực hiện một
số cải cách cơ bản trớc cả khi bắt đầu các thoả thuận chính
thức về khoản vay. Các chính phủ phải có bằng chứng về việc
mình nghiêm túc thực hiện cải cách kinh tế rồi mới có thể bắt
đầu các thoả thuận. Đặc trng ngặt nghèo này của tín dụng
ĐCCClà yêu cầu của các tổ chức cho vay buộc các quốc gia đi
vay phải tỏ rõ quyết tâm, hay ít ra là sự thực tâm muốn ĐCCC.
Một thoả thuận ba bên, giữa WB, IMF và chính phủ n-
ớc đi vay
sẽ xác lập ra các mục tiêu và phơng thức thực hiện cho một ch-
ơng trình hành động điều chỉnh cơ cấu trong 3 năm, đợc lập
thành Văn bản chính sách khung mà tùy theo cụ thể khoản tín
dụng ĐCCC sẽ mang nhng tên gọi hơI khác nhau.

×