Tải bản đầy đủ (.doc) (63 trang)

rủi ro tín dụng và giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng tại chi nhánh nhno&ptnt xương giang tỉnh bắc giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (416.32 KB, 63 trang )

CHUY£N §Ò tèt nghiÖp häc viÖn ng©n hµng
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong quá trình phát triển của nền kinh tế tất yếu xuất hiện quan hệ tín
dụng giữa các cá nhân, tổ chức trong nền kinh tế. Sự luân chuyển dòng vốn giữa
một bên cần vốn và một bên có vốn nhàn rỗi đã xuất hiện quan hệ tín dụng.
Ngân hàng là một loại hình kinh doanh đặc biệt, kinh doanh tiền tệ với rất
nhiều chức năng như là: nhận tiền gửi để cấp tín dụng và các dịch vụ thanh toán
qua ngân hàng Trong đó, hoạt động tín dụng là một trong những nghiệp vụ
chủ yếu của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam, mang lại 80-90% thu
nhập của mỗi ngân hàng, tuy nhiên rủi ro của nó cũng không nhỏ. Hậu quả của
rủi ro tín dụng đối với ngân hàng là rất nặng nề, do đó việc đánh giá, thẩm định,
quản lý tốt các khoản cho vay, các khoản dự định giải ngân sẽ hạn chế được
những rủi ro tín dụng là việc hết sức cần thiết cho sự phát triển vững mạnh của
ngân hàng.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề, cùng với những nhận thức,
kết quả nghiên cứu trong quá trình thực tập. Em đã lựa chọn đề tài: “Rủi ro tín
dụng và giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng tại chi nhánh NHNo&PTNT
Xương Giang tỉnh Bắc Giang” để nghiên cứu.
2. Mục tiêu nghiên cứu
- Phân tích, nhận xét, đánh giá về thực trạng rủi ro tín dụng tại chi nhánh
NHNo&PTNT Xương Giang tỉnh Bắc Giang.
- Đề xuất những giải pháp nhằm hạn chế rủi ro tín dụng tại ngân hàng.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: RRTD của NHNo&PTNT Xương Giang
- Phạm vi nghiên cứu: Rủi ro tín dụng tại NHNo&PTNT Xương Giang từ
năm 2010- 2011 và kế hoạch trong năm 2012.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để thu thập số liệu và thông tin một cách chính xác đáp ứng nhu cầu phân
tích các mục tiêu trên, em đã lựa chọn một số phương pháp sau:
- Thống kê và thu thập số liệu từ ngân hàng.


- Phân tích số liệu: sử dụng phương pháp phân tổ, phân tích thống kê,
phương pháp so sánh…
Ph¹M §×NH DUY Líp: 9B2 V¨n b»ng 2
1
CHUY£N §Ò tèt nghiÖp häc viÖn ng©n hµng
- Thu thập dữ liệu thông tin từ các phương tiện thông tin đại chúng, mạng
internet cùng với các kiến thức đã học để từ đó tiến hành phân tích và đưa ra
những kết luận cho vấn đề nghiên cứu.
5. Kết cấu của chuyên đề
Ngoài phần mở bài, kết luận, chuyên đề được chia làm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về rủi ro tín dụng.
Chương 2: Thực trạng RRTD tại chi nhánh NHNo&PTNT Xương Giang
tỉnh Bắc Giang.
Chương 3: Một số giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng tại chi nhánh
NHNo&PTNT Xương Giang tỉnh Bắc Giang.
Ph¹M §×NH DUY Líp: 9B2 V¨n b»ng 2
2
CHUY£N §Ò tèt nghiÖp häc viÖn ng©n hµng
CHƯƠNG 1:
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ RỦI RO TÍN DỤNG
1.1 Khái quát chung về rủi ro tín dụng
1.1.1 Khái niệm về rủi ro tín dụng
Có nhiều quan điểm khác nhau về rủi ro, đối với ngân hàng thương mại,
rủi ro là một biến cố không mong đợi gây thiệt hại cho hoạt động kinh doanh
của Ngân hàng.
Rủi ro tín dụng là khả năng khách hàng nhận khoản vốn vay không thực
hiện, thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ đối với NH, gây tổn thất cho NH, đó là
khả năng khách hàng không trả, không trả đầy đủ, đúng hạn cả gốc và lãi cho
Ngân hàng.
Rủi ro tín dụng được gắn liền với hoạt động quan trọng nhất, có quy mô

lớn nhất của NHTM - hoạt động tín dụng. Khi thực hiện cho vay một khách
hàng cụ thể, NH cố gắng phân tích các yếu tố người vay sao cho độ an toàn là
cao nhất, không dự kiến là khoản vay đó sẽ bị tổn thất. Tuy nhiên các khoản vay
đó luôn hàm chứa rủi ro vì khả năng hoàn trả khoản vay của khách hàng bị thay
đổi do nhiều nguyên nhân. Một số ý kiến cho rằng trên quan điểm quản lý toàn bộ
ngân hàng, tỷ lệ tổn thất dự kiến đối với hoạt động tín dụng luôn được xác định
trước chiến lược hoạt động chung. Do vậy, khi tổn thất dưới mức dự kiến ngân
hàng coi đó là một thành công trong quản lý.
1.1.2 Đặc điểm rủi ro tín dụng
- Rủi ro tín dụng mang tính chất gián tiếp:
Đặc điểm này xuất phát từ nguyên nhân là trong quan hệ tín dụng, NH có
sự chuyển giao về vốn giữa NH với khách hàng, có sự tách rời về quyền sử dụng
và quyền sở hữu về vốn sau một thời gian nhất định. Do vậy nếu khách hàng sử
dụng vốn không hiệu quả, sai mục đích vay… thì có thể dẫn đến rủi ro cho
khách hàng và chính là rủi ro cho Ngân hàng.
- Rủi ro tín dụng có tính chất đa dạng phức tạp:
Do hoạt động tín dụng đa dạng, phức tạp, mỗi một quan hệ tín dụng có
những đặc điểm riêng, do vậy RRTD xảy ra đối với mỗi trường hợp cụ thể cũng
không giống nhau. Do tính chất phức tạp như vậy cho nên trong hoạt động tín
Ph¹M §×NH DUY Líp: 9B2 V¨n b»ng 2
3
CHUY£N §Ò tèt nghiÖp häc viÖn ng©n hµng
dụng ta cần có nhiều biện pháp, phương án phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín
dụng xảy ra.
- Rủi ro tín dụng luôn gắn liền với hoạt động của NHTM:
Trong hoạt động NH, hoạt động tín dụng và rủi ro luôn đi liền với nhau,
khi phát sinh một nghiệp vụ tín dụng thì đồng thời đã có một mức độ rủi ro được
xác lập. Sở dĩ có hiện tượng như vậy là do có sự thông tin không cân xứng giữa
người đi vay và người cho vay, người cho vay luôn muốn tìm hiểu toàn bộ thông
tin về người đi vay và nhu cầu vay, còn người đi vay chỉ cung cấp những thông

tin NH yêu cầu. Hoạt động kinh doanh của khách hàng cũng bị tác động rất
nhiều yếu tố rủi ro khách quan và chủ quan khác nhau. Do vậy việc sử dụng tiền
vay của khách hàng trong một khoảng thời gian nhất định luôn chứa đựng những
yếu tố rủi ro đối với Ngân hàng trong việc thu hồi vốn vay và lãi.
1.1.3 Phân loại rủi ro tín dụng
Xuất phát từ các hình thức tín dụng mà rủi ro tín dụng có thể phân thành
những loại rủi ro sau:
1.1.3.1. Căn cứ vào nguyên nhân phát sinh rủi ro
- Rủi ro giao dịch: là một hình thức của rủi ro tín dụng mà nguyên nhân
phát sinh là do những hạn chế mà trong quá trình giao dịch, xét duyệt cho vay,
đánh giá khách hàng. Rủi ro giao dịch gồm có ba bộ phận chính là:
+ Rủi ro lựa chọn: là rủi ro có liên quan tới quá trình đánh giá và phân
tích tín dụng khi ngân hàng lựa chọn những phương án vay vốn có hiệu quả để
ra quyết định cho vay.
+ Rủi ro bảo đảm: phát sinh từ các tiêu chuẩn bảo đảm như các điều
khoản trong hợp đồng vay, các loại tài sản đảm bảo, chủ thể bảo đảm, cách thức
đảm bảo, mức cho vay trên giá trị của tài sản đảm bảo.
+ Rủi ro nghiệp vụ: là rủi ro liên quan đến công tác quản lý khoản vay và
hoạt động cho vay, bao gồm cả việc sử dụng hệ thống xếp hạng rủi ro và kỹ
thuật xử lý các khoản cho vay có vấn đề.
- Rủi ro danh mục: là một hình thức của rủi ro tín dụng mà nguyên nhân
phát sinh là do những hạn chế trong quản lý danh mục cho vay của ngân hàng và
được phân chia thành hai loại sau:
+ Rủi ro nội tại: xuất phát từ các yếu tố, các đặc điểm riêng có, mang tính
riêng biệt bên trong của mỗi chủ thể đi vay hoặc ngành, lĩnh vực kinh tế. Nó
Ph¹M §×NH DUY Líp: 9B2 V¨n b»ng 2
4
CHUY£N §Ò tèt nghiÖp häc viÖn ng©n hµng
xuất phát từ đặc điểm hoạt động hoặc đặc điểm sử dụng vốn của khách hàng vay
vốn.

+ Rủi ro tập trung: là trường hợp ngân hàng tập trung vốn cho vay quá
nhiều đối với một số khách hàng, cho vay quá nhiều doanh nghiệp hoạt động
trong cùng một ngành, lĩnh vực kinh tế hoặc trong cùng một địa lí nhất định
hoặc cùng một loại hình cho vay có rủi ro cao.
1.1.3.2. Phân loại theo thời gian của khoản tín dụng
- Rủi ro tín dụng ngắn hạn
Tín dụng ngắn hạn nhằm bổ sung vốn lưu động còn thiếu phát sinh trong
quá trình kinh doanh của các đơn vị sản xuất trong nền kinh tế. Tuy nhiên tín
dụng ngắn hạn chỉ cung cấp một phần chứ không phải toàn bộ số vốn lưu động
trong một thời gian ngắn.
Đối với loại tín dụng ngắn hạn, rủi ro thường xảy ra khi cán bộ tín dụng
mắc phải sai lầm trong quá trình tính toán hiệu quả đầu tư và bất cẩn trong công
tác thẩm định. Để khắc phục được loại rủi ro này, chúng ta phải xem xét kỹ
lưỡng để đưa ra các kết luận đúng đắn về tình hình tài chính của doanh nghiệp,
nâng cao chất lượng công tác thẩm định.
- Rủi ro tín dụng trung và dài hạn
Tín dụng trung và dài hạn là khoản cho vay với mục đích đầu tư xây dựng
cơ bản, mua sắm tài sản cố định. Tín dụng trung và dài hạn là khoản đầu tư có
thời hạn thu hồi vốn dài, đối với tín dụng trung hạn là từ 1 đến 3 năm, đối với tín
dụng dài hạn là trên 5 năm. Ngoài các đặc điểm trên, tín dụng trung và dài hạn
còn có một đặc điểm quan trọng là có số lượng lớn.
Rủi ro tín dụng trung và dài hạn thường xảy ra khi có những diễn biến bất
lợi trong quá trình xây dựng và tiến hành sản xuất kinh doanh do thời gian thu
hồi vốn quá dài. Ngoài các thông số kinh tế, kỹ thuật các nhà đầu tư cần phải
tính đến các biến động về chính trị, chính sách của nhà nước ( các yếu tố phi
kinh tế) nếu không rất dễ dẫn tới rủi ro gây thiệt hại lớn cho hoạt động tín dụng
của Ngân hàng.
Để tránh được loại rủi ro này, các nhà quản lý cần phải tính, cân nhắc một
cách chính xác và tỉ mỉ hiệu quả của dự án đầu tư trong quá trình thực hiện dự
án.

1.1.3.3. Phân loại theo tính chất
Ph¹M §×NH DUY Líp: 9B2 V¨n b»ng 2
5
CHUY£N §Ò tèt nghiÖp häc viÖn ng©n hµng
- Rủi ro tín dụng chiết khấu
Tín dụng chiết khấu là một nghiệp vụ tín dụng ngắn hạn, qua đó khách
hàng chuyển quyền sở hữu thương phiếu chưa đến hạn thanh toán cho Ngân
hàng để nhận về một khoản tiền bằng mệnh giá thương phiếu trừ đi lãi suất chiết
khấu và phí hoa hồng. Hình thức chiết khấu các thương phiếu được lập trên cơ
sở hợp đồng kinh tế được pháp luật thừa nhận.
Thương phiếu giả là loại hình gây nhiều rủi ro nhất trong nghiệp vụ chiết
khấu. Thương phiếu này được thành lập khi không có một quan hệ thương mại
tương ứng nhằm mục đích đánh lừa Ngân hàng. Thương phiếu giả tạo có các
loại sau:
+ Thương phiếu trống: người bị ký phát không có hoặc không biết.
+ Thương phiếu được lập có sự đồng lõa giữa người ký phát và người bị
ký phát.
+ Thương phiếu trống hỗ tương: là thương phiếu được lập trên cơ sở
thỏa thuận giữa hai bên mà thực chất là sự giúp đỡ ngân quỹ cho người phát
lệnh.
- Rủi ro tín dụng thuê mua
Tín dụng thuê mua là hình thức cho thuê tài sản chuyên dùng kèm theo lời
hứa sẽ bán lại về sau, chậm nhất là sau khi kết thúc hợp đồng cho người thuê với
giá thỏa thuận. Các thành viên tham gia tín dụng thuê mua gồm:
+ Người đi thuê tức là các doanh nghiệp
+ Người cho thuê ở đây là các ngân hàng
Người đi thuê sẽ tìm và lựa chọn tài sản cần thuê ở người cho thuê, người
cho thuê sẽ gửi đơn đặt hàng tới nhà cung cấp thiết bị và chịu trách nhiệm thanh
toán sau đó giao tài sản cho người đi thuê. Thuê mua bất động sản và thuê mua
động sản. Khả năng rủi ro đối với hình thức tín dụng này là tương đối thấp.

Tín dụng thuê mua là hình thức tín dụng có độ an toàn tương đối cao vì
trong suốt quá trình thực hiện hợp đồng thuê mua, tài sản vẫn thuộc quyền sở
hữu của ngân hàng. Tài sản cho thuê tồn tại dưới hình thái vật chất tương đối ổn
định để dễ quản lý.
Trên đây là các loại rủi ro tín dụng cơ bản nhất trong hoạt động kinh
doanh của ngân hàng. Tuy nhiên khả năng, mức độ xảy ra rủi ro ở mỗi loại là
Ph¹M §×NH DUY Líp: 9B2 V¨n b»ng 2
6
CHUY£N §Ò tèt nghiÖp häc viÖn ng©n hµng
khác nhau. Tùy vào mức độ hoạt động của mỗi ngân hàng mà chúng ta phải đưa
ra những biện pháp ngăn ngừa và hạn chế rủi ro hợp lý nhất.
1.1.4 Tác hại của rủi ro tín dụng
Rủi ro tín dụng khi xảy ra có những tác hại vô cùng to lớn không chỉ đối
với Ngân hàng mà còn ảnh hưởng không nhỏ tới nền kinh tế, xã hội.
- Rủi ro làm giảm uy tín của Ngân hàng
Ngân hàng là đối tượng trực tiếp chịu ảnh hưởng của rủi ro tín dụng. Thiệt
hại đầu tiên mà Ngân hàng phải gánh chịu là sự tổn thất về tài chính. Bên cạnh
đó còn làm ảnh hưởng tới uy tín của Ngân hàng, làm ảnh hưởng tới niềm tin vào
sự lành mạnh của hệ thống Ngân hàng. Nguy hiểm hơn là sự rút tiền ồ ạt của
khách hàng dẫn đến rủi ro thanh khoản. Điều này có thể đẩy Ngân hàng tới bờ
vực của sự phá sản và sự ổn định của toàn hệ thống Ngân hàng.
- Đối với khách hàng
Tại thời điểm chưa thanh toán được khoản nợ khách hàng sẽ chịu sự giám
sát chặt chẽ của Ngân hàng. Uy tín của người đi vay giảm sút khó có thể có
được một khoản vay mới nào khác ở Ngân hàng đó cũng như ở những Ngân
hàng khác. Đồng thời, khách hàng cũng gặp khó khăn trong việc kinh doanh của
mình vì các đối tác của khách hàng có thể nghĩ rằng khách hàng đang làm ăn
kém hiệu quả.
- Đối với nền kinh tế - xã hội
Khi khoản vay không được khách hàng hoàn trả sẽ ảnh hưởng tới lợi ích

kinh tế xã hội của quốc gia vì những kỳ vọng khi khoản vay giải ngân sẽ đem lại
một phần lợi ích cho xã hội đã không còn nữa. Quyền lợi của người gửi tiền
không được đảm bảo, ảnh hưởng xấu tới tiết kiệm và mở rộng đầu tư. Các tác
động của ngành Ngân hàng thường có phản ứng dây chuyền, do đó một Ngân
hàng gặp quá nhiều rủi ro tín dụng dẫn đến phá sản cũng sẽ ảnh hưởng rất lớn
tới những Ngân hàng khác, gây mất ổn định thị trường tiền tệ, khủng hoảng và
khó khăn trong nền kinh tế. Các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh và mọi tầng
lớp nhân dân đều bị ảnh hưởng. Khó khăn, khủng hoảng về kinh tế có khả năng
sẽ dẫn tới khó khăn và khủng hoảng trong đời sống chính trị xã hội.
Tóm lại, rủi ro tín dụng có tác hại rất lớn vì vậy cần có sự quan tâm chỉ
đạo hợp lý của lãnh đạo các Ngân hàng nói chung và các ban ngành có liên quan
nói riêng nhằm hạn chế tối đa rủi ro tín dụng có thể xảy ra.
Ph¹M §×NH DUY Líp: 9B2 V¨n b»ng 2
7
CHUY£N §Ò tèt nghiÖp häc viÖn ng©n hµng
1.1.5 Nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng
Rủi ro tín dụng được nhìn nhận dưới hai góc độ: Rủi ro khách quan và rủi
ro chủ quan.
1.1.5.1 Rủi ro khách quan
Khi khách hàng nhận khoản giải ngân từ ngân hàng, họ sẽ dùng đồng vốn
vào mục đích kinh doanh và trong quá trình sản xuất tất yếu sẽ phát sinh những
rủi ro không mong muốn như:
- Rủi ro do môi trường chính trị
Sự ổn định của chính trị sẽ ảnh hưởng và có tính chất quyết định đến rủi
ro tín dụng ít hay nhiều. Một đất nước bất ổn về chính trị thường xuyên xảy ra
các cuộc bạo động, khủng bố từ đó làm cho việc kinh doanh sẽ ảnh hưởng rất
lớn, làm ăn kém hiệu quả, có khả năng bị thua lỗ do đó không có tiền để trả nợ
cho Ngân hàng và rủi ro tín dụng xảy ra là điều khó tránh khỏi.
- Rủi ro do nền kinh tế không ổn định
Khi bắt đầu tiến hành sản xuất doanh nghiệp luôn dự đoán trước những rủi

ro có thể gặp phải. Tuy nhiên, nền kinh tế nước ta hiện giờ đang phụ thuộc nhiều
vào các ngành sản xuất nông nghiệp và các ngành công nghiệp phục vụ nông
nghiệp. Mà những ngành này lại phụ thuộc nhiều vào rủi ro thời tiết. Khi nền kinh
tế thế giới bị khủng hoảng, tất yếu sẽ ảnh hưởng lớn doanh nghiệp xuất khẩu nói
riêng và toàn bộ nền kinh tế nói chung. Hay một sự thay đổi trong chính sách của
nhà nước cũng dẫn đến những rủi ro không thể lường trước.
- Rủi ro do các thủ tục pháp lý
Sự chậm trễ, rườm rà trong các thủ tục cấp giấy phép, các thủ tục hải
quan…nhiều lúc ảnh hưởng lớn đến cơ hội kinh doanh của các doanh nghiệp.
Mà cơ hội kinh doanh của doanh nghiệp có tính thời điểm, nhưng nó sẽ không
thể thực hiện nhanh chóng nếu không được “cởi trói” bởi các thủ tục pháp lý.
Việc chậm chễ sẽ dẫn đến hệ quả của hàng loạt các hợp đồng kinh tế bị đình trệ,
các dự án đầu tư “buộc long” phải treo trên giấy. Điều này gây tổn thất lớn về
mặt kinh tế đối với các doanh nghiệp vay vốn.
- Rủi ro do hàng hóa nhập lậu tràn vào trong nước
Hàng hóa nhập lậu vào Việt Nam qua các con đường vùng biển, biên giới
đã trở thành nỗi ám ảnh cho các doanh nghiệp. Hàng hóa nhập lậu phong phú và
rẻ hơn gây cản trở cho việc tiêu thụ sản phẩm của các doanh nghiệp. Và hệ quả
Ph¹M §×NH DUY Líp: 9B2 V¨n b»ng 2
8
CHUY£N §Ò tèt nghiÖp häc viÖn ng©n hµng
là một khi đồng vốn mà doanh nghiệp đi vay đổ vào sản xuất kinh doanh mà
không thu lại được, tất yếu sẽ đẩy doanh nghiệp tới việc mất dần khả năng trả
nợ. Ngân hàng cũng đứng trước nguy cơ khó thu hồi lại khoản cho vay này.
- Ngoài ra, rủi ro khách quan còn ảnh hưởng bởi một số yếu tố như: yếu tố
dịch bệnh thiên tai, do thay đổi thói quen tiêu dùng, do thiếu thông tin,…
1.1.5.2 Rủi ro chủ quan
- Đối với Ngân hàng
Ngân hàng thực hiện cho vay đối với các doanh nghiệp:
Các ngành nghề của các doanh nghiệp đi vay là rất đa dạng. Đa phần cán

bộ tín dụng ngân hàng không thể có đầy đủ thông tin cũng như hiểu biết về các
ngành nghề lĩnh vực mà doanh nghiệp đang đầu tư kinh doanh. Hơn nữa, cán bộ
Ngân hàng cũng rất khó thẩm định được số liệu tài chính do các doanh nghiệp
cung cấp có “đúng đắn” và chính xác tuyệt đối hay không.
Mặt khác, các bản báo cáo tài chính mà các doanh nghiệp cung cấp cho
cán bộ Ngân hàng vẫn chưa trung thực, thiếu xót. Vì thế, cán bộ Ngân hàng khi
phân tích những bản báo cáo này trong công tác thẩm định sẽ đưa ra những kết
luận lệch lạc thiếu chính xác.
Chính vì rất nhiều khó khăn trong việc đánh giá tình hình tài chính
doanh nghiệp, nên Ngân hàng thường có xu hướng ưu tiên các hồ sơ vay vốn có
thế chấp, đảm bảo.
Bên cạnh đó, còn do trình độ cán bộ tín dụng đôi khi còn khá hạn chế.
Còn có nhiều cán bộ vì lợi ích vật chất đã tiếp tay cho các doanh nghiệp làm trái
pháp luật.
Ngân hàng thực hiện cho vay đối với khách hàng:
Nhân tố không lành mạnh từ phía khách hàng là việc khách hàng lừa đảo,
sử dụng vốn sai mục đích, trốn tránh trách nhiệm ủy quyền và bảo lãnh.
- Đối với doanh nghiệp
Nhiều doanh nghiệp không đánh giá hết được những rủi ro khi sử dụng
đồng vốn, đánh giá chi phí vốn cũng như khả năng sinh lời của đồng vốn. Đa
phần các doanh nghiệp khi dùng vốn trong quá trình sản xuất kinh doanh thường
đầu tư vào mở rộng quy mô sản xuất, đầu tư vào cơ sở vật chất mà cái quan
trọng nhất là đầu tư phát triển kỹ năng của lực lượng nhân lực của công ty. Khi
doanh nghiệp mở rộng quy mô mà tư duy quản lý không thay đổi, trình độ của
Ph¹M §×NH DUY Líp: 9B2 V¨n b»ng 2
9
CHUY£N §Ò tèt nghiÖp häc viÖn ng©n hµng
đội ngũ quản lý không được đảm bảo thì doanh nghiệp tất yếu phải đối mặt với
những rủi ro về khả năng quản lý sản xuất, dẫn đến nhiều sai lầm trong quá trình
ra quyết định quản lý kinh doanh. Nhiều doanh nghiệp sử dụng không đúng mục

đích đăng ký ban đầu trong hồ sơ xin vay vốn. Đồng vốn không sử dụng đúng
mục đích tất yếu sẽ khó khăn trong việc kiểm soát dòng vốn cũng như kiểm soát
rủi ro của đồng vốn
Một khối lượng khách hàng đông đảo của các NHTM nước ta vẫn là hộ
sản xuất nông, lâm, ngư ngiệp, sản xuất chủ yếu dựa vào kinh nghiệm và phần
nào cũng chạy theo diễn biến thị trường, thấy người khác làm có hiệu quả thì
cũng đầu tư làm theo.
1.2 Nội dung của rủi ro tín dụng
*Các chỉ tiêu đo lường rủi ro tín dụng
- Chỉ tiêu 1: Nợ quá hạn và tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ
Nợ quá hạn là khoản nợ mà khách hàng không trả được khi đã đến hạn
thỏa thuận ghi trên hợp đồng tín dụng. Bao gồm nhóm 2, nhóm 3, nhóm 4, nhóm
5.
Dư nợ quá hạn
Tỷ lệ nợ quá hạn = * 100(%)
Tổng dư nợ
Tỷ lệ này gián tiếp cho thấy quy mô của các khoản vay có vấn đề của
ngân hàng. Nếu tỷ lệ này lớn, chứng tỏ chất lượng tín dụng của Ngân hàng là
kém, Ngân hàng phải xem xét lại khả năng đánh giá lại các khoản cho vay của
mình, đánh giá lại quy trình thủ tục cho vay, đặc biệt xem xét khả năng thực
hiện nhiệm vụ của cán bộ tín dụng.
Theo quy định của Ngân hàng nước Việt Nam, các Ngân hàng có tỷ lệ
nợ quá hạn trên tổng dư nợ là 3% có thể coi là ngưỡng khá tốt trong hoạt
động Ngân hàng. Tỷ lệ an toàn cho phép theo thông lệ quốc tế và Việt Nam là
5%.
- Chỉ tiêu 2: Tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ
Theo quyết định 493/2005/QĐ-NHNN nợ xấu được định nghĩa như sau:
Nợ xấu là khoản nợ thuộc các nhóm 3,4 và 5 quy định tại điều 6 hoặc điều 7 quy
định này.
Ph¹M §×NH DUY Líp: 9B2 V¨n b»ng 2

10
CHUY£N §Ò tèt nghiÖp häc viÖn ng©n hµng
Dư nợ
Tỷ lệ nợ xấu = *100(%)
Tổng dư nợ
Tỷ lệ nợ xấu cũng là một chỉ tiêu để đánh giá chất lượng tín dụng của tổ
chức tín dụng. Nếu tỷ lệ này cao thì rủi ro tín dụng cao vì đây là những khách
hàng có dấu hiệu khó khăn về tài chính nên khó trả nợ cho Ngân hàng
- Chỉ tiêu 3:
Dư nợ mất vốn
Tỷ lệ mất vốn = * 100(%)
Tổng dư nợ
Dư nợ mất vốn chính là các khoản nợ thuộc nhóm 5
Tỷ lệ này càng cao thì thiệt hại cho Ngân hàng càng lớn và nó phản ánh
những khoản tín dụng mà Ngân hàng bị mất và phải dùng quỹ dự phòng để bù
đắp .
- Chỉ tiêu 4:
Dự phòng rủi ro đã trích
Tỷ lệ dự phòng rủi ro đã trích = * 100(%)
Tổng dư nợ
Theo quy định 18/2007/QĐ-NHNN sửa đổi bổ xung quy định
493/2005/QĐ-NHNN thì tỷ lệ trích lập dự phòng cho từng nhóm nợ như sau:
+ Nhóm 1: 0%
+ Nhóm 2: 5%
+ Nhóm 3: 20%
+ Nhóm 4: 50%
+ Nhóm 5: 100%
Số tiền dự phòng cụ thể phải được tính theo công thức sau:
R = max {0,(A-C)}*r
Trong đó:

R: số tiền dự phòng cụ thể phải trích
A: số tiền dư nợ gốc các khoản nợ
C: giá trị khấu trừ của tài sản đảm bảo
Ph¹M §×NH DUY Líp: 9B2 V¨n b»ng 2
11
CHUY£N §Ò tèt nghiÖp häc viÖn ng©n hµng
r : tỷ lệ trích lập dự phòng cụ thể
Dự phòng chung: TCTD thực hiện trích lập và duy trì dự phòng chung
bằng 0,75% tổng giá trị của các khoản nợ từ nhóm 1 đến nhóm 4 quy định tại
điều 6 hoặc điều 7 quy định 493/2005/QĐ-NHNN.
Tỷ lệ này càng cao chứng tỏ rủi ro càng cao vì dự phòng trích lập sẽ làm
tăng chi phí của Ngân hàng dẫn đến lợi nhuận giảm thậm chí có thể dẫn tới thua
lỗ cho Ngân hàng.
1.3 Biện pháp quản lý rủi ro tín dụng
1.3.1 Dấu hiệu nhận biết rủi ro tín dụng
Thực tế hoạt động của các NHTM trong thời gian qua cho thấy, rủi ro
tiềm ẩn lớn nhất là rủi ro tín dụng. Nên quản lý rủi ro nói chung và quản lý rủi ro
tín dụng nói riêng là một quá trình liên tục cần được thực hiện ở mọi cấp độ và
là yêu cầu bắt buộc đối với các Ngân hàng. Để hạn chế được rủi ro tín dụng, vấn
đề đặt ra đối với các NHTM là phải phân tích, đánh giá được những nguyên
nhân chính gây lên rủi ro tín dụng để có biện pháp thích hợp. Qua đó để có thể
hạn chế rủi ro thấp nhất cán bộ tín dụng phải biết cách nhận biết chúng một cách
có hệ thống. Do vậy, ta có thể xếp các dấu hiệu của rủi ro tín dụng thành các
nhóm sau:
Nhóm 1: Nhóm các dấu hiệu liên quan đến mối quan hệ với NH:
- Các hoạt động cho vay
Mức độ vay thường xuyên gia tăng.
Thanh toán chậm các khoản nợ gốc và lãi.
Thường xuyên yêu cầu Ngân hàng cho đáo hạn.
Yêu cầu các khoản vay vượt quá nhu cầu dự kiến.

- Phương thức tài chính
Sử dụng nhiều các khoản tài trợ ngắn hạn cho các hoạt động phát triển
dài hạn.
Chấp nhận sử dụng những nguồn tài trợ đắt nhất.
Giảm các khoản phải trả và tăng các khoản phải thu.
Các hệ số thanh toán phát triển theo chiều hướng xấu.
Có biểu hiện giảm vốn điều lệ.
Nhóm 2: Nhóm các dấu hiệu liên quan tới phương pháp quản lý của
khách hàng:
Ph¹M §×NH DUY Líp: 9B2 V¨n b»ng 2
12
CHUY£N §Ò tèt nghiÖp häc viÖn ng©n hµng
 Thay đổi thường xuyên cơ cấu của hệ thống quản trị hoặc ban điều
hành.
 Hệ thống quản trị hoặc ban điều hành luôn bất đồng về mục đích quản
trị, điều hành độc đoán hoặc ngược lại quá trình phân tán.
 Cách thức hoạch định của khách hàng có biểu hiện:
- Thiếu quan tâm đến vấn đề lợi ích của cổ đông, của chủ nợ.
- Thuyên chuyển nhân viên diễn ra thường xuyên.
- Có tranh chấp trong quá trình quản lý: bao gồm các mối quan hệ tranh
chấp giữa Hội đồng quản trị và Giám đốc điều hành với các cổ đông khác,
chính quyền địa phương, nhân viên, người cho vay, khách hàng chính.
 Có các chi phí quản lý bất hợp lý: Tập trung quá mức chi phí để gây ấn
tượng như thiết bị văn phòng rất hiện đại, phương tiện giao thông đắt tiền.
Nhóm 3: Nhóm các dấu hiệu liên quan tới các ưu tiên trong kinh doanh:
 Dấu hiệu hội chứng hợp đồng lớn: khách hàng bị ấn tượng bởi một
khách hàng có tên tuổi mà sau này có thể trở lên lệ thuộc; Ban giám đốc cắt
giảm lợi nhuận nhằm đạt được hợp đồng lớn.
 Dấu hiệu hội chứng sản phẩm đẹp: không đúng lúc hoặc bị ám ảnh bởi
một sản phẩm mà không chú ý đến các yếu tố khác.

 Sự cấp bách không thích hợp như: do áp lực nội bộ dẫn tới việc tung
sản phẩm dịch vụ ra quá sớm; các hạn mức thời gian kinh doanh đưa ra không
thực tế; tạo mong đợi trên thị trường không đúng lúc.
Nhóm 4: Nhóm các dấu hiệu thuộc vấn đề kỹ thuật và thương mại:
 Khó khăn trong việc phát triển sản phẩm.
 Thay đổi trên thị trường: tỷ giá, lãi suất; thay đổi thị hiếu; cập nhật kỹ
thuật mới; mất nhà cung ứng hoặc khách hàng lớn; thêm đối thủ cạnh tranh.
 Những thay đổi từ chính sách của nhà nước: Đặc biệt chú ý sự tác động
của các chính sách thuế, điều kiện thành lập và hoạt động môi trường.
 Sản phẩm của khách hàng mang tính thời vụ cao.
Nhóm 5: Nhóm các dấu hiệu về xử lý thông tin về tài chính, kế toán:
 Chuẩn bị không đầy đủ số liệu tài chính hoặc chậm trễ, trì hoãn nộp các
báo cáo tài chính.
 Những kết luận về phân tích tài chính cho thấy:
- Sự gia tăng không cân đối về tỷ lệ nợ thường xuyên.
Ph¹M §×NH DUY Líp: 9B2 V¨n b»ng 2
13
CHUY£N §Ò tèt nghiÖp häc viÖn ng©n hµng
- Khả năng tiền mặt giảm.
- Tăng doanh số bán nhưng lãi giảm hoặc không có.
- Những thay đổi về tỷ lệ lãi gộp và lãi ròng trên doanh số bán.
1.3.2 Biện pháp quản lý rủi ro tín dụng
Tín dụng là hoạt động chủ yếu của Ngân hàng. Nếu quản lý tốt, tín dụng
góp phần đáng kể trong việc tạo ra lợi nhuận và làm tăng giá trị NH. Ngược lại,
nếu quản lý kém tín dụng có thể gây ra tổn thất lớn và làm giảm giá trị NH. Một
trong những mục tiêu quan trọng của quản lý tín dụng là giảm tối đa rủi ro tín
dụng. Muốn vậy NH cần có các biện pháp quản lý rủi ro tín dụng. Đó là:
Xác định mục tiêu và thiết lập chính sách tín dụng
Biện pháp trước tiên trong công tác quản lý rủi ro tín dụng là xác định
mục tiêu và thiết lập chính sách tín dụng của Ngân hàng. Mục tiêu của quản lý

rủi ro tín dụng là giảm thiểu rủi ro tín dụng, cụ thể là giảm tỷ lệ nợ quá hạn đến
mức thấp nhất có thể được. Tất cả các NHTM đều theo dõi sát sao và thường
xuyên báo cáo với hội đồng quản trị về chỉ tiêu này. Tuy nhiên, do đặc điểm tình
hình của mỗi ngân hàng khiến cho tỷ lệ nợ quá hạn của các NHTM là khác
nhau. Nhưng nhìn chung Ngân hàng nào cũng đặt ra mục tiêu giảm tối đa tỷ lệ
nợ quá hạn đến mức có thể được. Với các NHTM quản lý tín dụng tốt, tỷ lệ nợ
quá hạn thường xuyên xoay quanh mức 1%.
Để đạt mục tiêu quản lý rủi ro tín dụng đề ra, các Ngân hàng cần thiết lập
cho mình chính sách tín dụng phù hợp. Chính sách tín dụng là hệ thống các quan
điểm và công cụ do Hội đồng tín dụng đề ra và thực thi khi xem xét cấp tín dụng
cho khách hàng nhằm mục tiêu quản lý tốt dư nợ và rủi ro tín dụng. Chính sách
tín dụng nói chung có hai trạng thái hay hai kiểu chính sách: mở rộng và thắt
chặt được thực hiện thông qua các công cụ như lãi suất, tỷ lệ tham gia vốn của
Ngân hàng và tiêu chuẩn xét duyệt cấp tín dụng.
Chính sách tín dụng phù hợp là chính sách tín dụng linh hoạt chuyển đổi
qua lại giữa hai trạng thái mở rộng và thắt chặt tùy theo tình hình của nền kinh
tế cũng như tình hình quản lý tín dụng của Ngân hàng. Mặt khác, chính sách tín
dụng của Ngân hàng cần gắn bó chặt chẽ với chính sách kinh tế vĩ mô, đặc biệt
là gắn với chính sách tiền tệ của Ngân hàng trung ương và các chỉ tiêu kinh tế vĩ
mô như lãi suất, tỷ lệ lạm phát và tốc độ tăng GDP.
Phân tích và thẩm định tín dụng
Ph¹M §×NH DUY Líp: 9B2 V¨n b»ng 2
14
CHUY£N §Ò tèt nghiÖp häc viÖn ng©n hµng
Phân tích và thẩm định tín dụng là hai khâu rất quan trọng trong toàn bộ
quy trình tín dụng. Hai khâu này nếu thực hiện tốt sẽ góp phần đáng kể trong
việc quản lý tốt và giảm thiểu rủi ro tín dụng. Phân tích và thẩm định tín dụng là
biện pháp quản lý rủi ro tín dụng.
Mục tiêu của phân tích tín dụng là nhằm đánh giá khả năng trả nợ của
khách hàng để quyết định cho vay, theo đó Ngân hàng chỉ cho vay khi đánh giá

được khách hàng có khả năng trả nợ. Điều này đã góp phần làm giảm thiểu rủi
ro tín dụng. Để đánh giá được khả năng trả nợ của khách hàng, công tác phân
tích tín dụng cần tập trung vào hai nội dung chính: Phân tích tình hình tài chính
của doanh nghiệp và phân tích sự khả thi của phương án sản xuất kinh doanh.
+ Phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp sử dụng dữ liệu từ các báo
cáo tài chính của doanh nghiệp và áp dụng kỹ thuật phân tích tỷ số tài chính để
đánh giá xem tình hình thanh khoản, tình hình sử dụng nợ, hiệu quả sử dụng tài
sản và khả năng sinh lợi của doanh nghiệp như thế nào. Từ đó, có cơ sở đánh giá
doanh nghiệp có khả năng trả nợ hay không.
+ Phân tích phương án sản xuất kinh doanh sử dụng dữ liệu quá khứ và dữ
liệu ước lượng để đánh giá tình hình doanh thu, chi phí, lợi nhuận và dòng tiền
kỳ vọng. Từ đó, đánh giá sự khả thi của phương án sản xuất kinh doanh. Kết
hợp giữa phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp và phân tích phương án sản
suất kinh doanh là sự kết hợp giữa quá khứ và tương lai nhằm đánh giá chính
xác hơn khả năng trả nợ của khách hàng.
Mục tiêu của thẩm định tín dụng là đánh giá mức độ tin cậy của phương
án sản xuất kinh doanh và dự án đầu tư mà khách hàng lập và nộp cho Ngân
hàng trong hồ sơ vay vốn, theo đó Ngân hàng cũng chỉ cho vay khi nào thẩm
định và đánh giá được phương án sản xuất kinh doanh và dự án đầu tư của
khách hàng là đáng tin cậy. Điều này cũng góp phần làm giảm thiểu rủi ro tín
dụng.
Ngoài ra, cần lưu ý rằng dù khách hàng có tiến hành nghiên cứu và lập dự
án đầu tư kỹ lưỡng và NH có tiến hành công tác thẩm định chu đáo đến đâu
chăng nữa cũng chỉ góp giảm thiểu rủi ro tín dụng.
Phân tích và thẩm định tín dụng có đặc điểm là thường sử dụng khi khách
hàng có đề nghị vay vốn lần đầu hoặc khách hàng vay vốn không thường xuyên
mà vay vốn theo từng phương án sản xuất kinh doanh hoặc dự án đầu tư. Đối
Ph¹M §×NH DUY Líp: 9B2 V¨n b»ng 2
15
CHUY£N §Ò tèt nghiÖp häc viÖn ng©n hµng

với khách hàng vay vốn thường xuyên, Ngân hàng có thể sử dụng kỹ thuật xếp
hạng tín dụng và quản lý rủi ro tín dụng đối với khách hàng.
Xếp hạng tín dụng (credit rating)
Xếp hạng tín dụng là kỹ thuật đánh giá rủi ro tín dụng do các tổ chức xếp
hạng thực hiện và công bố dựa trên các tiêu chí phản ánh uy tín tín dụng của
người vay nợ Kết quả xếp hạng có thể ảnh hưởng bởi sự nhìn nhận và tiêu chí
chủ quan do Ngân hàng đặt ra. Công việc đánh giá và xếp hạng nói chung và
xếp hạng tín dụng nói riêng nên do tổ chức độc lập thực hiện, có như vậy mới
khách quan.
Cần lưu ý việc xếp hạng tín dụng doanh nghiệp chỉ áp dụng đối với khách
hàng doanh nghiệp, trong khi vay vốn Ngân hàng ngoài doanh nghiệp còn có
khách hàng cá nhân. Đối với khách hàng cá nhân, đặc biệt là khách hàng vay
tiêu dùng và vay mua bất động sản, Ngân hàng thường áp dụng hình thức chấm
điểm tín dụng.
Chấm điểm tín dụng ( credit scoring)
Chấm điểm tín dụng là kỹ thuật sử dụng các dữ liệu nghiên cứu thống kê
và hoạt động để đánh giá mức độ rủi ro tín dụng đối với khách hàng. Điểm tín
dụng thể hiện ở một con số do Ngân hàng xác định dựa trên cơ sở phân tích
thống kê của chuyên viên tín dụng, của phòng tín dụng hoặc của công ty chuyên
thực hiện dịch vụ chấm điểm tín dụng.
Bảo đảm tín dụng
Mặc dù quyết định cho vay phải trải qua các khâu như phân tích, thẩm
định, chấm điểm và xếp loại tín dụng nhưng vẫn không thể loại bỏ hoàn toàn sai
lầm, nghĩa là vẫn còn tiềm ẩn rủi ro tín dụng. Bảo đảm tín dụng hay còn được
gọi là bảo đảm tiền vay là việc tổ chức tín dụng áp dụng các biện pháp nhằm
phòng ngừa rủi ro, tạo cơ sở kinh tế và pháp lý để thu hồi được các khoản nợ đã
cho khách hàng vay. Các hình thức bảo đảm tín dụng bao gồm: Thế chấp tài sản,
cầm cố tài sản, bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay và bảo đảm bằng
hình thức bảo lãnh. Bảo lãnh tín dụng thường được xem như cái phao cuối cùng
giúp Ngân hàng thu hồi các khoản cho vay có vấn đề.

Mua bảo hiểm tín dụng
Trong nhiều trường hợp khách hàng vay vốn, đặc biệt là khách hàng cá
nhân, không có tài sản thế chấp hoặc cầm cố nhưng họ vẫn có nhu cầu vay vốn.
Ph¹M §×NH DUY Líp: 9B2 V¨n b»ng 2
16
CHUY£N §Ò tèt nghiÖp häc viÖn ng©n hµng
Phần lớn các khoản cho vay tiêu dùng và cho vay bất động sản chỉ dựa vào thu
nhập của khách hàng để xem xét cho vay. Thế nhưng, thu nhập thì hoàn toàn lệ
thuộc vào tình hình việc làm của khách hàng. Những khách hàng nào có việc
làm không mấy ổn định hoặc việc làm quá phụ thuộc vào tình trạng nền kinh tế
không thể đảm bảo có thu nhập để trả nợ vay mua bất động sản trong một khoản
thời gian dài đến 25 hoặc 30 năm. Trong những trường hợp như vậy, Ngân hàng
thường cho khách hàng vay với điều kiện là khách hàng mua bảo hiểm tín dụng.
Những khi khách hàng rơi vào tình trạng thất nghiệp không có thu nhập trả nợ
vay Ngân hàng thì công ty bảo hiểm sẽ trả. Đây cũng là biện pháp quản lý rủi ro
tín dụng cần quan tâm, đặc biệt trong điều kiện hoạt động của các Ngân hàng
Việt Nam.
Lập quỹ dự phòng rủi ro tín dụng
Đôi khi tài sản đảm bảo nợ vay vẫn chưa thể giúp Ngân hàng thu hồi được
khoản vay. Mặt khác, không phải lúc nào khách hàng cũng có đủ tài sản đảm
bảo nợ vay trong khi áp lực cạnh tranh đòi hỏi Ngân hàng đôi khi phải chấp
nhận cho vay không có tài sản đảm bảo. Trong những tình huống như vậy, tất cả
các Ngân hàng đều lập quỹ dự phòng rủi ro tín dụng nhằm khắc phục rủi ro.
Trong trường hợp xảy ra khoản tín dụng không thể thu hồi, Ngân hàng có thể sử
dụng quỹ dự phòng này để bù đắp nhằm khắc phục rủi ro.

Kết luận chương I
Một trong những hoạt động chính của Ngân hàng thương mại là hoạt động
cho vay nên rủi ro tín dụng là một nhân tố hết sức quan trọng, đòi hỏi các Ngân
hàng phải có khả năng phân tích đánh giá và quản lý rủi ro hiệu quả bởi nó có

ảnh hưởng lớn đến kết quả hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Trong chương
đầu tiên của đề tài em đã tập trung tiếp cận một cách hệ thống những vấn đề cơ
bản về khái niệm, đặc điểm, phân loại rủi ro tín dụng trong hoạt động kinh
doanh của Ngân hàng. Từ những vấn đề cơ bản đó, chương này cũng nêu ra
những nguyên nhân, ảnh hưởng, dấu hiệu nhận biết và biện pháp quản lý rủi ro
tín dụng trước nền kinh tế hiện nay. Qua những bước đệm đầu tiên này giúp em
tạo cơ sở làm sáng tỏ cho việc phân tích thực trạng rủi ro tín dụng tại chi nhánh
NHNo huyện Tân Yên tỉnh Bắc Giang.
Ph¹M §×NH DUY Líp: 9B2 V¨n b»ng 2
17
CHUY£N §Ò tèt nghiÖp häc viÖn ng©n hµng
CHƯƠNG 2:
THỰC TRẠNG RỦI RO TÍN DỤNG TẠI CHI NHÁNH NHNo&PTNT
CN XƯƠNG GIANG TỈNH BẮC GIANG
2.1 Tổng quan về NHNo&PTNT CN XƯƠNG GIANG
2.1.1 Lịch sử hình thành và phát triển của NHNo&PTNT CN XƯƠNG
GIANG
NHNo&PTNT tỉnh Bắc Giang là một chi nhánh thành viên trực thuộc
NHNo&PTNT Việt Nam, được thành lập từ ngày 16/12/2005 và chính thức đi
vào hoạt động ngày 01/01/2006 trên cơ sở chia tách từ Ngân hàng Nông nghiệp
tỉnh Bắc Giang, kế thừa toàn bộ tài sản, con người và hoạt động ngân hàng
thuộc 03 xã, và địa bàn TP Bắc Giang.
Với mục tiêu thực hiện tốt nhiệm vụ Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông
nghiệp, nông thôn một trong những chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta,
đưa nông nghiệp, nông thôn phát triển nhanh theo kịp với trình độ phát triển của
các nước trong khu vực và trên thế giới. Cho đến nay đơn vị đã thực sự trở thành
người bạn đồng hành đáng tin cậy của nông dân góp phần xóa đói giảm nghèo,
phục vụ tăng trưởng kinh tế xã hội trên toàn địa bàn tỉnh.
Ngày 16/12/2005, xuất phát từ nhu cầu mở rộng mạng lưới hoạt động của
NHNo&PTNT tỉnh Bắc Giang nhằm đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế.

NHNo&PTNT CN XƯƠNG GIANG được thành lập theo quyết định số:
340/QĐ-NHNT của Tổng Giám đốc NHNo&PTNT Việt Nam, đến nay chi
nhánh đã có thời gian hoạt động 06 năm. Là Ngân hàng loại 3 trực thuộc
NHNo&PTNT tỉnh Bắc Giang, có trụ sở chính tại đường Lý Thái Tổ TP Bắc
Giang, với hệ thống mạng lưới bao gồm 3 phòng, Phòng Kế hoạch - Kinh
doanh, Phòng Kế toán -Ngân quỹ, Phòng Hành chính - Nhân sự và 04 chi nhánh
trực thuộc đó là: PGD Số 01, PGD Số 102, PGD Số 105 và PGD số 131. Hiện
tại NHNo&PTNT Xương Giang có số lượng khách hàng 11.585 hộ sản xuất cá
thể và 25 doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Với 35 Đảng viên trên tổng số 42 cán
bộ, công nhân viên chức có kinh nghiệm trong hoạt động kinh doanh tiền tệ, tín
dụng, thanh toán và dịch vụ ngân hàng. Nhiệm vụ chủ yếu là huy động nguồn
vốn, cho vay, dịch vụ thanh toán, bên cạnh các hoạt động kinh doanh NH truyền
thống, NHNo&PTNT Xương Giang còn tập trung phát triển các dịch vụ khác
đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách hàng như: Thanh toán chuyển tiền điện tử
Ph¹M §×NH DUY Líp: 9B2 V¨n b»ng 2
18
CHUY£N §Ò tèt nghiÖp häc viÖn ng©n hµng
trên khắp cả nước, thanh toán quốc tế qua mạng SWIFT, kinh doanh ngoại tệ,
thực hiện chuyển tiền nhanh WESTERN UNION, thanh toán và kế toán khách
hàng theo hệ thống IPCAS…
Trong những năm đầu hoạt động NHNo&PTNT Xương Giang còn gặp
nhiều khó khăn, dư nợ thấp, nguồn vốn tự lực trên địa bàn thấp, nhưng Ngân
hàng vẫn đủ lương và ăn ca theo chế độ cho cán bộ nhân viên, thực hiện tốt công
tác khoán tài chính của Ngân hàng cấp trên, hàng năm quỹ thu nhập vẫn còn dư,
năm sau cao hơn năm trước. Cho đến những năm gần đây, hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp đã thu được những kết quả tốt. Tính đến nay, tổng nguồn vốn
tự huy động trên địa bàn đạt trên 300 tỷ đồng. Dư nợ cho vay đạt trên 500 tỷ
đồng.
Do vị thế của Ngân hàng là đơn vị chủ lực trên địa bàn các xã trực thuộc
TP Bắc Giang như Song Mai, Dĩnh Trì, nên chi nhánh có nhiều thuận lợi trong

việc huy động vốn, số lượng khách hàng đông, trụ sở làm việc khang trang, gần
gũi tạo được lòng tin, nâng cao uy tín trong lòng khách hàng. Nhờ có nguồn vốn
của Ngân hàng mà nhiều cá nhân, tổ chức, các hộ gia đình trong huyện có điều
kiện phát triển sản xuất kinh doanh, góp phần xóa đói giảm nghèo và vươn lên
làm giàu.
2.1.2 Chức năng nhiệm vụ của NHNo&PTNT Xương Giang
*) Chức năng của Ngân hàng:
Là một chi nhánh ngân hàng thương mại nên ngân hàng cũng gồm có 3
chức năng chính.
- Chức năng Trung gian tín dụng:
Được xem là chức năng quan trọng nhất của ngân hàng thương mại. Khi
thực hiện chức năng trung gian tín dụng, Ngân hàng đóng vai trò là cầu nối giữa
người thừa vốn và người có nhu cầu về vốn. Với chức năng này, Ngân hàng vừa
đóng vai trò là người đi vay, vừa đóng vai trò là người cho vay và hưởng lợi
nhuận là khoản chênh lệch giữa lãi suất nhận gửi và lãi suất cho vay và góp phần
tạo lợi ích cho tất cả các bên tham gia: người gửi tiền và người đi vay.
- Chức năng Trung gian thanh toán:
Ngân hàng đóng vai trò là thủ quỹ cho các doanh nghiệp và cá nhân, thực
hiện các thanh toán theo yêu cầu của khách hàng như trích tiền từ tài khoản tiền
gửi của họ để thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ hoặc nhập vào tài khoản tiền gửi
Ph¹M §×NH DUY Líp: 9B2 V¨n b»ng 2
19
CHUY£N §Ò tèt nghiÖp häc viÖn ng©n hµng
của khách hàng tiền thu bán hàng và các khoản thu khác theo lệnh của họ. Ngân
hàng cung cấp cho khách hàng nhiều phương tiện thanh toán tiện lợi như séc, ủy
nhiệm chi, ủy nhiệm thu, thẻ rút tiền, thẻ thanh toán, thẻ tín dụng… Nhờ đó mà
các chủ thể kinh tế sẽ tiết kiệm được rất nhiều chi phí, thời gian, lại đảm bảo
thanh toán an toàn. Chức năng này vô hình chung đã thúc đẩy lưu thông hàng
hóa, đẩy nhanh tốc độ thanh toán, tốc độ lưu chuyển vốn, từ đó góp phần phát
triển kinh tế.

- Chức năng tạo tiền:
Là một chức năng quan trọng, phản ánh rõ bản chất của NHTM. Với mục
tiêu là tìm kiếm lợi nhuận như là một yêu cầu chính cho sự tồn tại và phát triển
của mình, Ngân hàng với nghiệp vụ kinh doanh mang tính đặc thù của mình đã
thực hiện chức năng tạo tiền cho nền kinh tế. Chức năng tạo tiền được thực thi
trên cơ sở chức năng tín dụng và chức năng thanh toán. Thông qua chức năng
trung gian tín dụng, ngân hàng sử dụng số vốn huy động được để cho vay, số
tiền cho vay ra lại được khách hàng sử dụng để mua hàng hóa, thanh toán dịch
vụ trong khi số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng vẫn được
coi là một bộ phận của tiền giao dịch, được họ sử dụng để mua hàng hóa, thanh
toán dịch vụ… Với chức năng này, NHNo Xương Giang đã góp phần làm tăng
tổng phương tiện thanh toán trong nền kinh tế, đáp ứng nhu cầu thanh toán, chi
trả của xã hội.
*) Nhiệm vụ của Ngân hàng:
- Đối với nền kinh tế quốc dân:
+ Thứ nhất, đóng vai trò là công cụ để nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh
tế, góp phần chống lạm phát. Thông qua hoạt động của NHTM, khi xảy ra lạm
phát NHNN sẽ thắt chặt tiền tệ bằng cách giảm tỷ lệ tăng trưởng tín dụng, tăng
tỷ lệ dự trữ bắt buộc, dự trữ thanh toán…làm thay đổi lượng tiền trong lưu
thông. Từ đó các ngân hàng định hướng đầu tư vốn, góp phần giải quyết những
tác động xấu ảnh hưởng đến nền kinh tế, thúc đẩy tái sản xuất phát triển, góp
phần điều hoà lưu thông tiền tệ, ổn định sức mua của đồng tiền, kiềm chế lạm
phát.
+ Thứ hai, áp dụng các chính sách tín dụng NH góp phần tích cực cho
việc duy trì sự tăng trưởng kinh tế. Đây là kết quả tác động nhiều mặt của việc
đổi mới các hoạt động NH, nhất là trong việc thực thi các chính sách mới về cho
Ph¹M §×NH DUY Líp: 9B2 V¨n b»ng 2
20
CHUY£N §Ò tèt nghiÖp häc viÖn ng©n hµng
vay và cơ cấu tín dụng theo hướng căn cứ chủ yếu vào tính khả thi và hiệu quả

của từng dự án, từng lĩnh vực ngành nghề để quyết định cho vay…
+ Thứ ba, khuyến khích tiết kiệm, góp phần hình thành và hỗ trợ các dòng
vốn luân chuyển.
Trong nền kinh tế luôn xuất hiện những chủ thể ở tình trạng thặng dư tạm
thời. Họ có nhu cầu đầu tư để bảo toàn vốn và sinh lời. Tuy vậy, không phải ai
cũng có cơ hội thực hiện điều đó. Các NHTM huy động những khoản vốn này
dưới nhiều hình thức: nhận tiền gửi, phát hành giấy tờ có giá, tích tụ chúng và
cho vay lại nền kinh tế.
+ Thứ tư, phân bổ hữu hiệu các ngành, các lĩnh vực.
NHTM về bản chất là các doanh nghiệp, kinh doanh vì mục tiêu tối đa
hóa giá trị tài sản của chủ sở hữu. Họ phải lựa chọn những doanh nghiệp hay dự
án có khả năng thu hồi nợ, có hiệu quả để cho vay. Nhờ quá trình sàng lọc tín
dụng, vốn trong nền kinh tế được tập trung vào những khu vực có khả năng sinh
lời cao, mang lại nhiều lợi ích. Những lĩnh vực hay ngành nghề kém hiệu quả sẽ
không nhận được vốn. Nhờ các trung gian tài chính này, vốn được phân bổ hữu
hiệu giữa các ngành, các lĩnh vực.
+ Thứ năm, giảm chi phí, tối thiểu hóa rủi ro.
Việc chuyển dịch vốn diễn ra trực tiếp giữa các chủ thể thặng dư và thiếu
hụt vốn đòi hỏi phải tiêu tốn rất nhiều chi phí của cả hai bên: thu thập và xử lý
thông tin, chi phí về thời gian, trong nhiều trường hợp, các nhu cầu này không
thể tương thích và giao dịch không thể diễn ra. Xét đến cùng, những chi phí phát
sinh như vậy gây thiệt hại cho toàn bộ nền kinh tế vì làm lãng phí, tổn thất
nguồn lực. Các NHTM với tư cách là những tổ chức trung gian tài chính, có thể
giảm thiểu tới mức thấp nhất những chi phí này. NHTM thu thập và nắm giữ
thông tin về một lượng lớn người có nhu cầu về vốn cũng như những người khác
sẵn sàng cung ứng vốn
+ Thứ sáu, hỗ trợ đổi mới công nghệ nâng cao hiệu quả sản xuất.
NHTM ảnh hưởng đến tăng trưởng bằng cách làm thay đổi tỷ lệ tiết kiệm
và thông qua sự tài trợ vốn cho các doanh nghiệp trong việc mở rộng sản xuất cả
về chiều rộng và chiều sâu, mà chủ yếu là đầu tư vào công nghệ, nâng cao sức

cạnh tranh của doanh nghiệp. Sự biến đổi công nghệ vì vậy chịu sự tác động từ
vai trò của các hệ thống tài chính.
Ph¹M §×NH DUY Líp: 9B2 V¨n b»ng 2
21
CHUY£N §Ò tèt nghiÖp häc viÖn ng©n hµng
+ Thứ bảy, hoạt động của NHTM góp phần nâng cao môi trường kinh
doanh, xây dựng văn hóa kinh doanh đối với các doanh nghiệp.
Bản thân NHTM là những tổ chức hoạt động chuyên nghiệp, với hệ thống
công nghệ hiện đại, mạng lưới thông tin rộng khắp. Sự năng động và phong cách
chuyên nghiệp, minh bạch của ngành Ngân hàng giúp các tổ chức, cá nhân khác
trong nền kinh tế hình thành tác phong công nghiệp chuyên nghiệp và văn hóa
kinh doanh.
+ Thứ tám, tích cực vào bảo vệ môi trường sinh thái, đảm bảo phát triển
bền vững. Đóng góp này được thể hiện qua công tác thẩm định dự án, quyết
định cho vay vốn ngân hàng đối với các dự án và giám sát quá trình thực hiện
một cách chặt chẽ sau khi cho vay, các tổ chức tín dụng luôn chú trọng yêu cầu
các khách hàng đảm bảo an toàn và hiệu quả trong việc sử dụng vốn vay, tuân
thủ các cam kết quốc tế và các qui định về bảo vệ môi trường.
- Đối với Nhà nước
+ Các NHTM có trách nhiệm và nghĩa vụ nộp thuế theo qui định của pháp
luật. Năm 2010 NHNo Việt Nam đứng trong top 10 Doanh nghiệp nộp thuế
nhiều nhất tại Việt Nam.
Chi nhánh NHNo&PTNT Xương Giang là ngân hàng trực thuộc, hoạt
động phụ thuộc vào ngân hàng cấp trên nên hàng năm chi nhánh chỉ phải nộp
các khoản thuế như thuế môn bài, thuế nhà đất vào ngân sách nhà nước.
+ Bên cạnh đó, Ngân hàng còn thực hiện nhiệm vụ thu thuế qua Ngân
hàng.
Nhằm tiếp tục hoàn thiện cơ chế pháp lý thúc đẩy việc nộp thuế qua ngân
hàng, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư 85/2011/TT-BTC ngày 17/6/2011,
hướng dẫn qui trình tổ chức phối hợp thu ngân sách nhà nước (NSNN) giữa Kho

bạc Nhà nước (KBNN) - Tổng cục Thuế - Tổng cục Hải quan và các ngân hàng
thương mại (NHTM). Ngân hàng có nhiệm vụ triển khai phối hợp thu ngân sách
nhà nước qua ngân hàng, góp phần tích cực cùng các cơ quan quản lý nhà nước
như Kho bạc, Thuế, Hải quan đẩy nhanh tiến trình cải cách hành chính theo
hướng đơn giản hóa và hiện đại hóa, cũng như chung tay cùng Chính phủ thực
hiện hiệu quả cải cách thủ tục hành chính và hiện đại hóa công tác quản lý quỹ
ngân sách nhà nước, thực hiện thành công chủ trương tăng cường thanh toán
không dùng tiền mặt, tiến tới xây dựng nền tài chính hiện đại và minh bạch
Ph¹M §×NH DUY Líp: 9B2 V¨n b»ng 2
22
CHUY£N §Ò tèt nghiÖp häc viÖn ng©n hµng
- Đối với xã hội
Ngân hàng đã hỗ trợ có hiệu quả trong việc tạo việc làm mới và thu hút
lao động, góp phần cải thiện thu nhập và giảm nghèo bền vững. Thông qua
nguồn vốn tín dụng cho các chương trình và dự án phát triển sản xuất kinh
doanh, hàng năm ngân hàng đã tạo thêm nhiều việc làm mới tại địa phương.
2.1.3 Một số đặc điểm hoạt động kinh doanh của NHNo&PTNT Xương
Giang
2.1.3.1 Đặc điểm cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý của NHNo&PTNT
Xương Giang
a) Sơ đồ tổ chức bộ máy quản lý.
Sơ đồ cơ cấu tổ chức
Quan hệ trực tuyến
Quan hệ chức năng
b) Chức năng của từng bộ phận.
Cơ cấu tổ chức quản lý hoạt động kinh doanh của Ngân hàng được tổ
chức theo mối quan hệ trực tuyến kết hợp với mối quan hệ chức năng. Mỗi
phòng ban lại có các chức năng nhiệm vụ khác nhau nhưng có mối quan hệ mật
thiết tác động hỗ trợ giúp đỡ lẫn nhau, cùng nhau đạt được mục tiêu mà đơn vị
đã đặt ra.

Ph¹M §×NH DUY Líp: 9B2 V¨n b»ng 2
23
GIÁM ĐỐC
PGĐ
phụ trách
KẾ TOÁN
PGĐ
phụ trách
KINH DOANH
PHÒNG
KẾ TOÁN
NGÂN QUỸ
PHÒNG
TỔ CHỨC
HÀNH CHÍNH
PHÒNG
KẾ HOẠCH
KINH DOANH
CÁC PHÒNG GIAO DỊCH
CHUY£N §Ò tèt nghiÖp häc viÖn ng©n hµng
Bộ máy quản lý của Ngân hàng đơn giản, gọn nhẹ, tận dụng hiệu quả
nguồn lực có sẵn, tiết kiệm được nhiều chí phí. Và được tổ chức theo một hệ
thống quản lý có sự thống nhất từ trên xuống dưới.
- Giám đốc ngân hàng:
Giám đốc là người có thẩm quyền cao nhất, điều hành trực tiếp và chịu
trách nhiệm về mọi công việc của cơ quan theo các qui định trong điều lệ
NHNo&PTNT Việt Nam cũng như trước pháp luật. Giám sát kiểm soát đôn đốc
toàn diện hoạt động của các phòng, các tổ trong phạm vi nội bộ cơ quan. Quyết
định các vấn đề hoạt động kinh doanh, tổ chức cán bộ thuộc thẩm quyền và có
vai trò to lớn trong công tác đối nội, đối ngoại.

- Phó Giám đốc phụ trách Kinh doanh:
Trực tiếp chỉ đạo và chịu trách nhiệm về nội dung hoạt động, quyền hạn
trách nhiệm và nghĩa vụ trong kinh doanh theo các định chế về kế hoạch tín
dụng của NHNo&PTNT Việt Nam và NHNo&PTNT Bắc Giang. Chủ động thực
hiện thanh tra kiểm tra chung phần được phân công, đề xuất biện pháp để chỉ
đạo toàn diện về công tác kế hoạch và tín dụng.
- Phó Giám đốc phụ trách Kế toán
Trực tiếp chỉ đạo và chịu trách nhiệm về nghiệp vụ hoạch toán kinh doanh
đảm bảo thống nhất 3 mối hoạch toán: hoạch toán kế toán, hoạch toán nghiệp
vụ, hoạch toán thống kê gắn liền với chế độ tài chính nhà nước. Bàn bạc tham
gia ý kiến với Giám đốc trong công việc thực hiện các nghiệp vụ Ngân hàng.
- Phòng Kế hoạch Kinh doanh
Có chức năng làm tham mưu và chiến lược kinh doanh cho Giám Đốc,
các bộ phận chuyên sâu. Tổ chức xây dựng kế hoạch chiến lược kinh doanh về
huy động và chiến lược đầu tư. Thống kê phân tích thông tin đề xuất chiến lược
kinh doanh và làm dịch vụ hướng dẫn đầu tư, thẩm định dự án đầu tư, lựa chọn
phương án tín dụng kỹ thuật nghiệp vụ, trực tiếp kinh doanh tín dụng, nắm bắt
khả năng thanh toán, tổ chức kiểm tra sử dụng vốn của khách hàng, kịp thời báo
cáo xử lý khi có vi phạm xảy ra.
- Phòng Kế toán Ngân quỹ
Là một bộ máy hoạt động của Ngân hàng, đóng vai trò hết sức quan trọng
trong việc xử lý, hạch toán các nghiệp vụ kinh tế phát sinh, quản lý tài chính
đồng thời chịu trách nhiệm thu chi tiền mặt VND, ngoại tệ, đổi tiền cho khách
Ph¹M §×NH DUY Líp: 9B2 V¨n b»ng 2
24
CHUY£N §Ò tèt nghiÖp häc viÖn ng©n hµng
hàng đến phòng giao dịch tổng hợp.Công tác ngân quỹ luôn đảm bảo an toàn
đáp ứng vốn cho hoạt động kinh doanh ngân hàng.
- Phòng Tổ chức hành chính nhân sự
Có trách nhiệm thường xuyên đôn đốc việc thực hiện các chương trình đã

được Giám đốc phê duyệt. Làm tốt công tác hành chính văn thư tiếp khách, quản
trị, xây dựng cơ bản, trực tiếp quản lý kho tàng vật tư, công cụ lao động, ấn chỉ
chưa dùng đến, làm tốt công tác lao động tiền lương, công tác thi đua khen
thưởng của chi nhánh
- Phòng Giao dịch trực thuộc
Thực hiện các chức năng như: cho vay, nhận tiền gửi, tiền gửi trong nước,
thu ngân sách, kinh doanh ngoại tệ và các dịch vụ khác. Được giao nhiệm vụ
huy động vốn theo sự ủy nhiệm của Giám đốc dưới các hình thức tiết kiệm, kỳ
phiếu, trái phiếu đầu tư kinh doanh trực tiếp đến các hộ sản xuất kinh doanh
theo đúng điều lệ, chế độ ngành và theo luật định.
*) Mối quan hệ giữa các phòng ban trong Ngân hàng.
Bộ máy quản lý của Ngân hàng được tổ chức theo mối quan hệ trực tuyến kết
hợp với mối quan hệ chức năng. Theo đó, mối quan hệ giữa cấp trên và cấp dưới
là một đường thẳng còn các bộ phận chức năng khác chỉ làm nhiệm vụ đưa ra
những lời khuyên, lời chỉ dẫn cho sự hoạt động của bộ phận trực tuyến.
- Quan hệ giữa các phòng chức năng với ban lãnh đạo:
Các trưởng phòng chịu sự lãnh đạo, chỉ đạo toàn diện của Ban lãnh đạo, chịu
trách nhiệm trước Giám đốc Ngân hàng về thực hiện nhiệm vụ của mình.
- Quan hệ giữa các phòng:
Các phòng có mối quan hệ phối hợp, bình đẳng với tinh thần trách nhiệm
cao vì mục tiêu hoàn thành nhiệm vụ chung của Ngân hàng đồng thời thực hiện
tốt nhiệm vụ được giao.
Cơ cấu tổ chức của Ngân hàng theo quan hệ trực tuyến kết hợp với quan
hệ chức năng sẽ giúp các nhân viên chuyên sâu vào giải quyết các lĩnh vực
chuyên môn của mình, do đó giảm bớt gánh nặng cho Ban giám đốc.
2.1.3.2 Đặc điểm hoạt động kinh doanh của NHNo&PTNT Xương Giang
tỉnh Bắc Giang (2011 – 2012).
a) Một số hoạt động kinh doanh của Ngân hàng
Ph¹M §×NH DUY Líp: 9B2 V¨n b»ng 2
25

×