MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 4
CHƯƠNG I : LÝ LUẬN VỀ HIỆU QUẢ CHO VAY CÁC DOANH NGHIỆP
THI CÔNG XÂY LẮP CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Hoạt động cho vay các doanh nghiệp thi công xây lắp
1.1.1. Hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại 8
1.1.1.1. Khái niệm về hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại 8
1.1.1.2. Phân loại họat động cho vay của ngân hàng thương mại 9
1.1.1.3. Vai trò hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại 11
1.1.2. Hoạt động cho vay các doanh nghiệp thi công xây lắp 12
1.1.2.1. Đặc trưng của ngành thi công xây lắp 12
1.1.2.2. Đặc điểm hoạt động cho vay các DNTCXL 17
1.1.2.3. Rủi ro hoạt động cho vay các doanh nghiệp thi công xây lắp 22
1.2. Hiệu quả cho vay các doanh nghiệp thi công xây lắp của ngân hàng thương
mại
1.2.1. Quan niệm về hiệu quả cho vay các doanh nghiệp thi công xây lắp 24
1.2.2. Những chỉ tiêu đánh giá hiệu quả cho vay các DNTCXL 25
1.2.2.1. Nhóm chỉ tiêu tài chính: 26
1.2.2.2. Nhóm chỉ tiêu phi tài chính 32
1.2.3. Những nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả cho vay các DNTCXL 33
1.2.3.1. Từ phía ngân hàng 34
1.2.3.2. Từ phía các doanh nghiệp thi công xây lắp 37
1.2.3.3. Các nhân tố khác 38
1
CHƯƠNG II : THỰC TRẠNG HIỆU QUẢ CHO VAY CÁC DOANH NGHIỆP
THI CÔNG XÂY LẮP TẠI NGÂN HÀNG TMCP ĐT&PT VIỆT NAM – CHI
NHÁNH SỞ GIAO DỊCH 1
2.1. Giới thiệu về Chi nhánh Sở giao dịch 1
2.1.1. Giới thiệu chung về Chi nhánh Sở giao dịch 1 41
2.1.2. Chức năng, nhiệm vụ của Chi nhánh Sở giao dịch 1 41
2.1.3. Mô hình tổ chức của Chi nhánh Sở giao dịch 1 43
2.1.4. Tình hình họat động kinh doanh của Chi nhánh Sở giao dịch 1 44
2.1.4.1. Tình hình hoạt động huy động vốn 44
2.1.4.2. Tình hình hoạt động tín dụng 47
2.1.4.3. Tình hình hoạt động thu phí, dịch vụ 56
2.2. Thực trạng hiệu quả cho vay các doanh nghiệp thi công xây lắp tại Chi
nhánh Sở giao dịch 1
2.2.1. Quy mô tổng dư nợ cho vay các DNTCXL 58
2.2.2. Cơ cấu tổng dư nợ cho vay các DNTCXL 60
2.2.3. Thu nhập từ hoạt động cho vay các DNTCXL 61
2.2.4. Chất lượng hoạt động cho vay các DNTCXL 63
2.3. Đánh giá hiệu quả cho vay các doanh nghiệp thi công xây lắp tại Chi nhánh
Sở giao dịch 1
2.3.1. Ưu thế của Chi nhánh Sở giao dịch 1 trong hoạt động cho vay xây lắp 67
2.3.2. Những kết quả đạt được 67
2.3.3. Những hạn chế còn tồn tại và nguyên nhân 70
2.3.3.1. Những hạn chế còn tồn tại 70
2.3.3.2. Nguyên nhân 72
2
CHƯƠNG III : GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CHO VAY CÁC DOANH
NGHIỆP XÂY LẮP TẠI NGÂN HÀNG TMCP ĐT&PT VIỆT NAM - CHI
NHÁNH SỞ GIAO DỊCH 1
3.1. Định hướng hoạt động cho vay của Chi nhánh Sở giao dịch 1
3.1.1. Định hướng hoạt động của Chi nhánh Sở giao dịch 1 77
3.1.1.1. Hoạt động huy động vốn 77
3.1.1.2. Hoạt động cho vay 78
3.1.1.3. Hoạt động dịch vụ 79
3.1.2. Định hướng hoạt động cho vay xây lắp tại Chi nhánh Sở giao dịch 1 79
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả cho vay các doanh nghiệp thi công xây lắp tại
Chi nhánh Sở giao dịch 1
3.2.1. Xây dựng định hướng cho vay phù hợp 80
3.2.2. Đẩy mạnh hoạt động chăm sóc, marketing khách hàng 81
3.2.3. Tăng cường đào tạo, bổi dưỡng trình độ đội ngũ nhân viên 82
3.2.4. Từng bước hoàn thiện quy trình cho vay xây lắp 83
3.2.5. Nâng cao hiệu quả hệ thống thu thập & xử lý thông tin tín dụng 85
3.2.6. Tăng cường công tác đánh giá khách hàng, kiểm tra, giám sát món vay
nhằm nâng cao chất lượng 86
3.2.7. Tăng cường hoạt động huy động vốn 88
3.2.8. Hiện đại hóa công nghệ Ngân hàng 89
3.3. Một số kiến nghị
3.3.1. Kiến nghị với Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam 89
3.3.2. Kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước 92
3.3.3. Kiến nghị với các DNTCXL 93
3.3.4. Kiến nghị với Nhà nước và các cơ quan liên quan 93
KẾT LUẬN 95
3
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cho vay các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực thi công xây lắp là một
trong những hoạt động truyền thống của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt
Nam (nay là Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam) nói chung và của
Chi nhánh Sở giao dịch 1 nói riêng. Tuy nhiên, trong bối cảnh nền kinh tế thế giới
cũng như nền kinh tế Việt Nam lâm vào cuộc khủng hoảng kinh tế bắt đầu từ năm
2008 đến nay, hệ thống ngân hàng Việt Nam nói chung cũng như mỗi ngân hàng
nói riêng đã bộc lộ nhiều yếu kém.
Đối với Chi nhánh Sở giao dịch 1, trong những năm qua hoạt động cho vay
đối với các doanh nghiệp thi công xây lắp tuy đã đạt được nhiều thành tựu đáng
khích lệ, song vẫn còn những tồn tại, hạn chế cần khắc phục đặc biệt là trong giai
đoạn nền kinh tế đang gặp nhiều khó khăn như hiện nay.
Xuất phát từ thực tiễn đó, nhằm đánh giá một cách cụ thể và chính xác hiệu
quả cho vay đối với các doanh nghiệp thi công xây lắp, qua đó đưa ra các giải
pháp góp phần khai thác tối đa những tiềm năng sẵn có, nâng cao hiệu quả cho
vay tại Chi nhánh Sở giao dịch 1, tác giả đã chọn đề tài “Nâng cao hiệu quả hoạt
động cho vay các doanh nghiệp thi công xây lắp tại Chi nhánh Sở giao dịch 1 -
Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam” để nghiên cứu.
2. Mục đích nghiên cứu
Hệ thống hoá những vấn đề lý thuyết cơ bản về hoạt động cho vay đối với
doanh nghiệp thi công xây lắp của ngân hàng thương mại.
Đánh giá thực trạng hoạt động tín dụng nói chung, hiệu quả hoạt động cho
vay các doanh nghiệp thi công xây lắp và các thành tựu, hạn chế trong hoạt động
này của Chi nhánh Sở giao dịch 1 - Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển VN.
Đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động cho vay các doanh nghiệp
thi công xây lắp tại Chi nhánh Sở giao dịch 1 - Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát
4
triển Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Hoạt động cho vay các doanh nghiệp thi công xây lắp
của ngân hàng thương mại.
- Phạm vi nghiên cứu: Bài viết chỉ áp dụng nghiên cứu trong phạm vi tại Chi
nhánh Sở giao dịch 1 - Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam trong
giai đoạn 2008-2011.
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng kết hợp nhiều phương pháp như: thống kê và so sánh….
để làm sáng tỏ các vấn đề đặt ra nhằm tìm ra các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt
động cho vay các doanh nghiệp thi công xây lắp.
5. Kết cấu của Luận văn
Ngoài Lời mở đầu và Kết luận, Phụ lục, Luận văn được kết cấu thành 3
phần, mỗi phần là 1 chương. Bao gồm:
Chương 1: Lý luận về hiệu quả cho vay các doanh nghiệp thi công xây lắp của
ngân hàng thương mại.
Chương 2: Thực trạng hiệu quả cho vay các doanh nghiệp thi công xây lắp tại
Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam - Chi nhánh Sở
giao dịch 1.
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả cho vay các doanh nghiệp thi công
xây lắp tại Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam - Chi
nhánh Sở giao dịch 1.
5
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BIDV: Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam
CBTD: Cán bộ tín dụng
CN: Chi nhánh
DNTCXL: Doanh nghiệp thi công xây lắp
NHNN: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
NHTM: Ngân hàng thương mại
MMTB: Máy móc thiết bị
QHKH: Quan hệ khách hàng
SXKD: Sản xuất kinh doanh
TCTD: Tổ chức tín dụng
TCXL: Thi công xây lắp
TDH: Trung dài hạn
TSĐB: Tài sản đảm bảo
XHTDNB: Xếp hạng tín dụng nội bộ
6
DANH MỤC BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ
[Sơ đồ 2.1] Mô hình tổ chức bộ máy của CN Sở giao dịch 1 43
[Bảng 2.1] Tình hình huy động vốn của CN Sở giao dịch 1 44
[Bảng 2.2] Kết quả hoạt động tín dụng của CN Sở giao dịch 1 47
[Bảng 2.3] Hệ số an toàn vốn của CN Sở giao dịch 1 51
[Bảng 2.4] Các nhóm khách hàng theo Hệ thống XHTDNB 53
[Bảng 2.5] Quy mô dư nợ cho vay xây lắp tại CN Sở giao dịch 1 58
[Bảng 2.6] Thu lãi từ hoạt động cho vay xây lắp CN Sở giao dịch 1 61
[Bảng 2.7] Tỷ lệ nợ quá hạn các DNTCXL của CN Sở giao dịch 1 63
[Biểu đồ 2.1] Nguồn vốn huy động của CN Sở giao dịch 1 45
[Biểu đồ 2.2] Cơ cấu huy động vốn của CN Sở giao dịch 1 46
[Biểu đồ 2.3] Quy mô tín dụng của CN Sở giao dịch 1 47
[Biểu đồ 2.4] Cơ cấu tín dụng theo kỳ hạn cho vay của CN Sở giao dịch 1 48
[Biểu đồ 2.5] Cơ cấu tín dụng theo thành phần kinh tế của CN SGD1 49
[Biểu đồ 2.6] Cơ cấu tín dụng theo tài sản bảo đảm của CN SGD1 50
[Biểu đồ 2.7] Tỷ lệ nợ quá hạn của CN Sở giao dịch 1 52
[Biểu đồ 2.8] Tỷ lệ nợ xấu, nợ nhóm 2 của CN Sở giao dịch 1 54
[Biểu đồ 2.9] Tỷ lệ nợ cơ cấu của CN Sở giao dịch 1 55
[Biểu đồ 2.10] Hoạt động thu phí dịch vụ của CN Sở giao dịch 1 56
[Biểu đồ 2.11] Quy mô dư nợ cho vay xây lắp của CN Sở giao dịch 1 59
[Biểu đồ 2.12] Cơ cấu dư nợ cho vay các DNTCXL của CN Sở giao dịch 1 60
[Biểu đồ 2.13] Thu phí hoạt động bảo lãnh của các DNTCXL CN SGD1 62
[Biểu đồ 2.14] Tỷ lệ nợ từ nhóm 2 trở lên các DNTCXL của CN SGD1 65
[Biểu đồ 2.15] Tỷ lệ dư nợ cơ cấu của các DNTCXL của CN SGD1 66
7
CHƯƠNG I : LÝ LUẬN VỀ HIỆU QUẢ CHO VAY CÁC DOANH
NGHIỆP THI CÔNG XÂY LẮP CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG
MẠI
1.1. Hoạt động cho vay các doanh nghiệp thi công xây lắp
1.1.1. Hoạt động cho vay của NHTM
1.1.1.1. Khái niệm về hoạt động cho vay của NHTM
Cho vay theo nghĩa chung là việc 1 bên thỏa thuận để cho đối tượng khác
được quyền sử dụng tài sản của mình trong 1 thời gian nhất định với điều kiện có
hoàn trả, dựa trên cơ sở sự tín nhiệm của 2 bên và thường kèm theo lãi suất.
Cho vay là sự chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị từ người sở hữu
(Ngân hàng) sang người sử dụng (khách hàng) sau một thời gian nhất định lại
quay về với lượng giá trị lớn hơn lượng giá trị ban đầu.
Từ khái niệm trên có thể thấy tín dụng ngân hàng hàm chứa ba nội dung: Có
sự chuyển nhượng quyền sử dụng vốn từ người sở hữu sang cho người sử dụng;
Sự chuyển nhượng này có thời hạn; Sự chuyển nhượng này có kèm theo chi phí.
Tiếp cận theo chức năng hoạt động của ngân hàng, tín dụng ngân hàng là
một giao dịch (tiền hoặc hàng hóa) giữa bên cho vay (ngân hàng và các định chế
tài chính khác) và bên đi vay (cá nhân, doanh nghiệp và các chủ thể khác), trong
đó bên cho vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời hạn
nhất định theo thỏa thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện vốn
gốc và lãi cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán.
Với tư cách là người cho vay, Ngân hàng thương mại có quyền yêu cầu
khách hàng - người đi vay muốn vay được vốn phải tuân thủ những điều kiện nhất
định, là cơ sở ràng buộc về mặt pháp lý đảm bảo cho người cho vay có thể thu hồi
được vốn (gốc và lãi) sau một thời gian nhất định.
8
1.1.1.2. Phân loại họat động cho vay của NHTM
Các ngân hàng cung cấp nhiều loại hình cho vay khác nhau tương ứng với
sự đa dạng trong mục đích vay vốn của khách hàng : từ việc mua ô tô và sắm sửa
các phương tiện sinh hoạt, chuẩn bị cho cuộc sống mới, tài trợ cho quá trình học
tập của bản thân cũng như con em đến việc xây nhà ở và các tòa nhà văn phòng.
Chúng ta có thể sắp xếp danh mục cho vay rất đa dạng của ngân hàng bằng cách
phân nhóm theo mục đích sử dụng vốn vay, tức là khách hàng dự định sẽ làm gì
với khoản vay.
Tại Mỹ, ít nhất một lần trong năm, hệ thống Dự trữ liên bang, Công ty bảo
hiểm tiền gửi và Cục quản lý tiền tệ yêu cầu từng ngân hàng phải báo cáo danh
mục cho vay của mình, nộp chung với Bảng cân đối kế toán. Theo tiêu thức mục
đích cho vay, các khoản cho vay của một ngân hàng ở Mỹ có thể chia làm 7
nhóm: Cho vay kinh doanh bất động sản; Cho vay đối với các tổ chức tài chính;
Cho vay hỗ trợ sản xuất nông nghiệp và các khoản cho vay khác dành cho nông
dân; Cho vay công nghiệp và thương mại; Cho vay cá nhân; Cho vay khác; Tài trợ
thuê mua.
Tuy nhiên, tùy thuộc vào các mục đích quản lý khác nhau mà có thể
phân loại các hoạt động cho vay của một NHTM theo các tiêu chí khác nhau.
Dưới đây là một số cách phân loại phổ biến hoạt động cho vay của NHTM.
Theo tiêu chí loại hình cho vay, có thể phân loại hoạt động cho vay của NHTM
thành các loại:
Thấu chi: Là nghiệp vụ cho vay mà qua đó ngân hàng cho phép người vay được
chi trội lên số dư tiền gửi thanh toán của mình đến một giới hạn nhất định và
trong một khoảng thời gian xác định. Giới hạn đó được gọi là hạn mức thấu chi.
Thấu chi là hình thức cho vay ngắn hạn, linh hoạt, phần lớn không có đảm bảo và
thường được sử dụng với các khách hàng có độ tin cậy cao, thu nhập đều đặn.
Cho vay trực tiếp từng lần: Là hình thức cho vay tương đối phổ biến, đặc biệt áp
dụng với các khách hàng không có nhu cầu vay vốn thường xuyên, không đủ điều
kiện để được cấp hạn mức thấu chi. Khi khách hàng phát sinh nhu cầu vay vốn
9
của ngân hàng, khách hàng sẽ phải làm đơn trình ngân hàng phương án sử dụng
vốn vay cùng các điều kiện khác liên quan để ngân hàng tiến hành phân tích, xét
duyệt khách hàng xem có đủ điểu kiện cho vay hay không. Nếu khoản vay được
chấp thuận, khách hàng sẽ được ký kết hợp đồng cho vay với các điều khoản cho
vay như quy mô cho vay, thời hạn giải ngân, thời hạn trả nợ, lãi suất và các yêu
cầu bảo đảm … Đứng ở góc độ của ngân hàng, nghiệp vụ cho vay từng lần tạo
thuận lợi để ngân hàng có thể kiểm soát được từng khoản vay tách biệt.
Cho vay theo hạn mức: Là nghiệp vụ cho vay mà theo đó ngân hàng sẽ thỏa thuận
cấp cho khách hàng một hạn mức tín dụng. Hạn mức tín dụng có thể được tính
cho cả kỳ hoặc cuối kỳ, và là số dư tối đa tại thời điểm tính. Nếu là hạn mức cuối
kỳ thì dư nợ tại thời điểm cuối kỳ không được vượt quá hạn mức. Còn đối với
hạn mức trong cả thời kỳ thì trong kỳ khách hàng không được có dư nợ vượt quá
hạn mức. Hạn mức được cấp trên cơ sở kế hoạch sản xuất kinh doanh, nhu cầu
vốn và nhu cầu vay vốn của khách hàng.
Cho vay luân chuyển: Là nghiệp vụ cho vay dựa trên sự luân chuyển của hàng
hóa. Doanh nghiệp có thể thiếu vốn khi mua hàng và ngân hàng đồng ý cho vay
để mua hàng và thu nợ khi doanh nghiệp bán được hàng. Với hình thức này, giá
trị hàng hóa mua vào với hóa đơn hợp lệ sẽ là đối tượng được ngân hàng cho vay
và thu nhập từ bán hàng sẽ là nguồn để chi trả cho ngân hàng. Việc cho vay dựa
trên sự luân chuyển của hàng hóa nên đòi hỏi doanh nghiệp và ngân hàng phải
nghiên cứu kỹ kế hoạch lưu chuyển hàng hóa để dự đoán dòng ngân quỹ. Phương
pháp cho vay này thường được áp dụng đối với các doanh nghiệp thương nghiệp
hoặc các doanh nghiệp sản xuất có chu kỳ tiêu thụ ngắn, quan hệ vay trả thường
xuyên với ngân hàng.
Cho vay trả góp: Đây là hình thức tín dụng mà theo đó ngân hàng cho phép khách
hàng trả gốc làm nhiều lần trong thời hạn tín dụng thỏa thuận. Cho vay trả góp
thường được áp dụng với các khoản cho vay trung và dài hạn, cho vay mua các
tài sản cố định.
Cho vay gián tiếp: Đây là hình thức cho vay qua các tổ chức trung gian như : hội
phụ nữ, hội sản xuất, hội nông dân … Ngân hàng có thể chuyển một vài khâu
10
trong quá trình cho vay sang các tổ chức trung gian như khâu thu nợ, phát tiền
vay … Hình thức này thường được áp dụng đối với nhiều món vay nhỏ, người
vay phân tán, giúp tiết kiệm chi phí và thời gian cho ngân hàng.
Theo tiêu chí thời gian cho vay, có thể chia thành các loại sau đây:
Cho vay ngắn hạn: Là các khoản cho vay có thời hạn ngắn, thường là dưới 12
tháng. Được sử dụng để bù đắp sự thiếu hụt về vốn lưu động của doanh nghiệp và
nhu cầu chi tiêu ngắn hạn của cá nhân.
Cho vay trung hạn: Là các khoản cho vay có thời hạn từ 12 tháng đến 60 tháng,
sử dụng chủ yếu để đầu tư mua sắm trang thiết bị, sửa chữa tài sản cố định, đổi
mới công nghệ hay mở rộng sản xuất kinh doanh.
Cho vay dài hạn: Là các khoản cho vay có thời gian dài (từ 5 năm trở lên và có
thể kéo dài đến 20 – 30 năm), để đáp ứng nhu cầu vốn dài hạn như xây dựng cơ
sở hạ tầng, mua máy móc thiết bị, phương tiện vận tải quy mô lớn…
Theo tiêu chí tài sản đảm bảo cho khoản vay có thể phân loại thành:
Cho vay có tài sản đảm bảo: Khi để được chấp thuận cho vay, người đi vay phải
đáp ứng điều kiện về tài sản đảm bảo. Bao gồm có 2 loại là cho vay cầm cố (khi
bên đi vay phải chuyển quyền quản lý và sử dụng tài sản cầm cố cho bên cho
vay/bên nhận cầm cố) và cho vay thế chấp (khi bên đi vay được giữ lại tài sản thế
chấp, chỉ chuyển quyền sở hữu tài sản thế chấp cho bên cho vay/bên nhận thế
chấp để đảm bảo việc thực hiện nghĩa vụ).
Cho vay không có tài sản đảm bảo: Người đi vay không cần thiết phải có tài sản
đảm bảo mới được chấp thuận cho vay.
1.1.1.3. Vai trò hoạt động cho vay của NHTM
Đối với NHTM, hoạt động cho vay là hoạt động quan trọng và mang lại thu
nhập lớn cho ngân hàng. Thông thường, khoản mục cho vay chiếm quá nửa giá trị
tổng tài sản và tạo ra 50% đến 70% nguồn thu của ngân hàng. Đồng thời rủi ro
trong hoạt động ngân hàng cũng có xu hướng tập trung vào danh mục các khoản
cho vay. Tuy nhiên, đây cũng là một hoạt động rất phức tạp và chứa đựng nhiều
11
rủi ro. Rủi ro tín dụng xảy ra khi Ngân hàng không thu được gốc và/hoặc lãi của
khoản vay, hoặc là việc thanh toán nợ gốc và lãi khoản vay không đúng kỳ hạn.
Rủi ro này dễ mang lại những tổn thất lớn cho Ngân hàng và có thể làm cho Ngân
hàng đi đến chỗ phá sản.
Ngày nay, đối với các ngân hàng thương mại hiện đại tỷ lệ nguồn thu từ
hoạt động cho vay có giảm đi, thay vào đó là các hoạt động dịch vụ, phi tín dụng.
Tuy nhiên, hoạt động cho vay vẫn là một trong những hoạt động chính của các
ngân hàng thương mại.
Đối với các doanh nghiệp và nền kinh tế, cho vay là chức năng kinh tế hàng
đầu của ngân hàng để tài trợ cho chi tiêu của các doanh nghiệp, cá nhân và các cơ
quan chính phủ. Hoạt động cho vay của ngân hàng có mối quan hệ mật thiết với
tình hình phát triển kinh tế tại khu vực ngân hàng phục vụ. Bởi vì cho vay thúc
đẩy sự tăng trưởng của các doanh nghiệp, tạo ra sức sống cho nền kinh tế.
1.1.2. Hoạt động cho vay các doanh nghiệp thi công xây lắp
Trước tiên, chúng ta cần hiểu về một số đặc điểm của lĩnh vực thi công xây
lắp và đặc điểm tổ chức quản lý, sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp hoạt
động trong lĩnh vực thi công xây lắp.
1.1.2.1. Đặc trưng của ngành thi công xây lắp:
Hoạt động thi công xây lắp được hiểu một cách cơ bản là những công việc
thuộc quá trình xây dựng và lắp đặt thiết bị các công trình, hạng mục công trình.
Công trình xây dựng là sản phẩm của công nghệ lắp đặt gắn liền với đất (bao gồm
cả khoảng không, mặt nước, mặt đất, mặt biển, thềm lục địa…) được tạo thành
bởi vật liệu xây dựng, thiết bị và lao động.
Doanh nghiệp thi công xây lắp là các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần
kinh tế được thành lập theo quy định của pháp luật, có đăng ký ngành nghề kinh
doanh trong lĩnh vực thi công, xây lắp. Hoạt động chính của các doanh nghiệp thi
công xây lắp là thi công các công trình xây dựng.
So với các ngành sản xuất khác, ngành xây dựng cơ bản có những đặc điểm
12
về kinh tế - kỹ thuật riêng biệt, thể hiện rất rõ nét ở sản phẩm xây lắp và quá trình
tạo ra sản phẩm của ngành. Những đặc điểm riêng này sẽ chi phối công tác tổ
chức quản lý, điều hành. Việc nghiên cứu nắm rõ các đặc điểm này giúp Ngân
hàng nắm rõ được những hạn chế và đưa ra những quyết định chính xác nhằm
nâng cao chất lượng cho vay, hiệu quả kinh doanh.
• Đặc điểm về sản phẩm
Sản phẩm của ngành xây lắp có các đặc điểm riêng khác với các hàng hoá
của các ngành sản xuất vật chất khác. Cụ thể:
Thứ nhất, sản phẩm của ngành xây lắp là các công trình mang tính đơn chiếc
theo đơn đặt hàng. Mỗi công trình xây dựng đều có hình dạng, kiến trúc theo đồ
án thiết kế riêng, đều phải đảm bảo thời gian hoàn thành, đều có yêu cầu riêng về
công nghệ, về tiện nghi, về mỹ quan…
Thứ hai, sản phẩm của ngành xây lắp được cố định tại nơi sản xuất ra nó
(trường học, bệnh viện, công trình thủy điện…). Một số điều kiện cần thiết luôn
đi cùng để sản xuất ra nó như: người lao động, máy móc thiết bị… phải di chuyển
theo địa điểm nơi sản phẩm được sản xuất ra.
Thứ ba, sản phẩm của ngành xây lắp tồn tại dưới dạng tài sản cố định, có thời
gian sử dụng lâu dài, chất lượng của sản phẩm có ý nghĩa quyết định đến hiệu quả
hoạt động của các ngành khác. Do đặc điểm thời gian sử dụng lâu dài nên sai lầm
trong xây lắp sẽ gây tổn thất lớn cả về giá trị và chất lượng công trình, từ đó gây
ra hậu quả cho xã hội.
Thứ tư, sản phẩm của ngành xây lắp được tiêu thụ theo giá dự toán hoặc theo
giá thoả thuận với chủ đầu tư (giá đấu thầu).Tính chất hàng hoá của sản phẩm
xây lắp không thể hiện rõ như sản phẩm thông thường vì hàng hoá thông thường
xác định giá cả thông qua luật cung – cầu trong khi đó sản phẩm xây lắp đã được
quy định trước giá, người mua, người bán thông qua hợp đồng giao nhận thầu.
• Đặc điểm về tổ chức quản lý và sản xuất kinh doanh
Thứ nhất, hoạt động xây lắp chủ yếu thực hiện ngoài trời, chịu ảnh hưởng rất
13
lớn của các yếu tố tự nhiên, khí hậu, địa chất, thủy văn Điều kiện tự nhiên
như nắng, mưa, bão, lũ lụt ảnh hưởng rất lớn đến việc quản lý tài sản vật tư, máy
móc, tiến độ thi công công trình. Điều này khiến các đơn vị thi công xây lắp
không thể lường trước được hết những khó khăn do tác động của thời tiết, khí
hậu. Rủi ro xảy ra tác động tới tiến độ thi công công trình, giá thành công trình,
thậm chí cả chất lượng công trình. Do đó, các doanh nghiệp xây lắp phải lập tiến
độ thi công, tổ chức thi công hợp lý, có phương án sử dụng cũng như bảo quản
nguyên, nhiên vật liệu để tránh bị tác động xấu của các điều kiện tự nhiên và quản
lý hiệu quả chi phí.
Thứ hai, chu kỳ sản xuất, thời gian xây dựng công trình thường dài. Thời gian
xây lắp một công trình bị chi phối bởi quy mô, mức độ phức tạp về kỹ thuật, vốn
của chủ đầu tư. Thêm vào đó việc nghiệm thu chỉ được tiến hành theo giai đoạn
hoàn thành và theo điểm dừng kỹ thuật của công trình.
Đặc điểm này gây nên tình trạng ứ đọng vốn sản xuất trong khối lượng thi công
của doanh nghiệp, chưa kể đến những nguyên nhân khác về thủ tục, quy định về
xây dựng cơ bản dở dang của pháp luật và chủ đầu tư gây nên những chậm trễ
trong thanh toán. Do đó, để hạn chế đặc điểm này đòi hỏi công tác tổ chức quản
lý sản xuất của các đơn vị xây lắp phải chặt chẽ, hợp lý, tiết kiệm vốn, thi công
dứt điểm các hạng mục công trình, công trình, nghiệm thu và thanh toán từng
hạng mục khi đưa công trình vào hoạt động.
Thứ ba, công tác tổ chức quá trình sản xuất xây lắp rất phức tạp. Do đặc điểm
của ngành xây lắp là sản xuất diễn ra ngoài trời, chịu ảnh hưởng rất lớn của điều
kiện tự nhiên, chính vì vậy việc tổ chức thi công rất phức tạp để tránh tác động
của môi trường và quản lý hiệu qủa các loại chi phí. Thêm vào đó, việc thi công
các công trình quy mô lớn thường gồm nhiều đơn vị tham gia, nhiều thành phần
kinh tế tham gia thực hiện phần việc của mình theo một trình tự nhất định về thời
gian và không gian trên một mặt bằng thi công chật hẹp. Đặc điểm này đòi hỏi
các DNTCXL phải có trình độ phối hợp cao trong sản xuất để đảm bảo tiến độ thi
công và chất lượng công trình.
Thứ tư, hoạt động kinh doanh của DNTCXL là hoạt động mang tính đặc thù,
14
các DNTCXL chỉ sản xuất những sản phẩm mà chủ đầu tư đặt hàng và được tiêu
thụ khi chủ đầu tư chấp thuận theo các điều kiện đã ký kết. Hoạt động sản xuất
kinh doanh của DNTCXL phần nào phụ thuộc vào khả năng phát triển, đầu tư và
mở rộng của nền kinh tế, nếu đầu tư của nền kinh tế tăng trưởng cao thì thị trường
tiêu thụ của DNTCXL có khả năng được mở rộng. Ngày nay, hoạt động sản xuất
kinh doanh của DNTCXL có mối liên hệ chặt chẽ với thị trường bất động sản.
Khi thị trường bất động sản phát triển tốt cũng kéo theo ngành thi công xây lắp
cũng phát triển và ngược lại. Do đó, hoạt động cho vay của Ngân hàng đối với
các DNTCXL trong mỗi thời kỳ cũng cần có sự điều chỉnh để phù hợp với tình
hình kinh tế nói chung và tình hình các ngành kinh tế có liên quan nói riêng.
Thứ năm, kết quả sản xuất kinh doanh của DNTCXL được thực hiện khi các
công trình xây lắp (sản phẩm xây lắp) được chủ đầu tư chấp thuận và thanh
toán, và chỉ khi đó DNTCXL mới có khả năng trả nợ ngân hàng. Vì vậy, quan hệ
tín dụng giữa DNTCXL và Ngân hàng, hay nói cách khác chất lượng cho vay đối
với DNTCXL sẽ phụ thuộc lớn vào mối quan hệ giữa chủ đầu tư và DNTCXL,
mối quan hệ này thể hiện ở: Chất lượng thực hiện công trình, phương thức
nghiệm thu thanh toán của chủ đầu tư, tiến độ xây dựng, nguồn vốn xây dựng cơ
bản của chủ đầu tư…
• Đặc điểm của các DNTCXL
Từ những đặc trưng riêng về sản phẩm và cách thức tổ chức quản lý, sản
xuất kinh doanh của ngành xây lắp dẫn tới các DNTCXL có các đặc điểm sau:
Thứ nhất, khả năng tự chủ về tài chính thấp: Thực tế hiện nay, vốn chủ sở hữu
của DNTCXL thường chỉ chiếm khoảng 5-20% trong tổng nguồn vốn, còn lại là
vốn vay ngân hàng và vốn chiếm dụng khác. Do đó gánh nặng về chi phí lãi vay
lớn gây áp lực đến hiệu quả kinh doanh và tình hình tài chính của doanh nghiệp.
Lợi nhuận đạt được của các DNTCXL không cao (thường chỉ từ 1-5% tổng doanh
thu) nên khả năng bổ sung vốn chủ sở hữu và đầu tư nâng cao năng lực sản xuất
thi công thường hạn chế. Trong khi đó, do sản lượng thi công tăng lên cùng với
yêu cầu cao về chất lượng công trình đòi hỏi phải có những thiết bị thi công hiện
đại nên nhu cầu vốn (cả vốn lưu động và vốn đầu tư trung dài hạn) ngày càng
15
tăng. Vì vậy, các DNTCXL phải vay ngân hàng ngày càng nhiều để tài trợ cho
nhu cầu vốn của mình.
Thứ hai, tốc độ chu chuyển vốn trong các DNTCXL thường không cao: Do đặc
điểm xây dựng một đơn vị sản phẩm đòi hỏi phải bỏ nhiều chi phí, thời gian thi
công kéo dài dẫn đến tình trạng ứ đọng vốn sản xuất ở các hạng mục công trình
thi công dở dang. Khi công trình hoàn thành, công tác nghiệm thu, quyết toán và
thanh toán còn phải phụ thuộc vào chủ đầu tư. Các DNTCXL thường xuyên bị
chiếm dụng vốn trong thời gian dài nên tốc độ quay vòng vốn lưu động thường
rất thấp, nhu cầu vốn lưu động cần thiết cho thi công lớn. Trong khi đó vốn chủ
hữu chiếm tỷ lệ nhỏ trên tổng nguồn vốn nên để đủ vốn hoạt động, các DNTCXL
phải huy động vốn bên ngoài mà chủ yếu là vốn vay ngân hàng. Trong điều kiện
bình thường, các DNTCXL có vòng quay vốn lưu động phổ biến ở mức 1-2
vòng/năm.
Thứ ba, tỷ trọng tài sản cố định thấp, khoản phải thu và hàng tồn kho cao: Để
tham gia vào ngành xây lắp các DNTCXL không cần đầu tư nhiều về tài sản cố
định. Thông thường, do các công trình thường ở các địa điểm khác nhau trên mọi
miền đất nước nên các DNTCXL chỉ đầu tư các MMTB cần thiết cho quá trình
thi công các công trình mà ít chú trọng đến đầu tư các TSCĐ khác như văn
phòng, nhà xưởng… Vì vậy, tỷ trọng tài sản cố định thường chỉ chiếm từ 10-15%
tổng tài sản của DNTCXL. Chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng tài sản của các
DNTCXL đơn thuần (chỉ có hoạt động thi công xây lắp) là khoản mục các khoản
phải thu và hàng tồn kho (thường chiếm từ 50-70% tổng tài sản).
Thứ tư, nhu cầu vốn lưu động thường chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nhu cầu
vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh: Do tính chất hoạt động của DNTCXL
nên cơ cấu vốn có đặc thù riêng khác với ngành công nghiệp và các ngành khác,
cụ thể là nhu cầu vốn lưu động (vốn kinh doanh doanh ngắn hạn) cho hoạt động
SXKD chiếm tỷ trọng lớn nhất. Các Ngân hàng thường cho vay các DNTCXL
chủ yếu để tài trợ vốn lưu động phục vụ thi công các công trình. Đối với nhu cầu
đầu tư mới, thay thế và cải tiến máy móc thiết bị, nâng cao năng lực sản xuất,
16
Ngân hàng chỉ tham gia tài trợ một phần, phần còn lại các DNTCXL phải bỏ vốn
tự có của mình.
Ngoài ra, trong thực tế hiện nay, để phát triển hoạt động, tăng năng lực tài chính,
hiệu quả kinh doanh nhiều DNTCXL không chỉ hoạt động dưới hình thức nhà
thầu thi công mà còn tiến hành đầu tư các dự án đầu tư bất động sản, thủy điện,
kinh doanh nhà hàng khách sạn… Do đó, nhu cầu vốn vay của các doanh nghiệp
này ngày càng tăng cả về vốn ngắn hạn và trung dài hạn; các ngân hàng khi thẩm
định, tài trợ vốn cho DNTCXL cũng phải chú trọng đến tính chất hoạt động đa
ngành, đa nghề của DNTCXL để quyết định mức cho vay, điều kiện cho vay phù
hợp.
1.1.2.2. Đặc điểm hoạt động cho vay các doanh nghiệp thi công xây lắp:
Cho vay phục vụ thi công xây lắp là những khoản cho vay trực tiếp liên
quan, phục vụ cho doanh nghiệp thực hiện các hợp đồng thi công xây lắp các
công trình. Đối tượng vay vốn của Ngân hàng là các doanh nghiệp hoạt động
trong lĩnh vực thi công xây lắp (các nhà thầu thi công xây lắp).
Trên thực tế, thông thường các khoản cho vay phục vụ thi công xây lắp là
các khoản cho vay ngắn hạn bổ sung vào vốn lưu động để hỗ trợ các nhà thầu thi
công xây lắp thực hiện các công trình. Tuy nhiên, trong một số trường hợp các
khoản cho vay này có thời hạn dài hơn 12 tháng như cho vay để nhà thầu thực
hiện các hợp đồng theo hình thức chìa khóa trao tay, hoạt động cho vay đầu tư
máy móc thiết bị, phương tiện vận tải phục vụ hoạt động thi công xây lắp.
Về cơ bản, quy trình cho vay các DNTCXL không có nhiều khác biệt so với
quy trình cho vay thông thường, bao gồm 6 bước như sau:
Bước 1: Nhận và kiểm tra hồ sơ vay vốn của khách hàng
Bước 2: Thẩm định trước khi cho vay
Bước 3: Xét duyệt cho vay, ký kết hợp đồng tín dụng, bảo đảm tiền vay.
Bước 4: Giải ngân, theo dõi, giám sát việc sử dụng vốn vay
Bước 5: Thu nợ, lãi, phí và xử lý phát sinh
17
Bước 6: Thanh lý hợp đồng tín dụng
• Đặc điểm của hoạt động cho vay các DNTCXL:
Hoạt động xây lắp có đặc thù riêng vì vậy cho vay phục vụ thi công xây lắp
cũng có những đặc điểm riêng sau:
Về mục đích vay, đối tượng cho vay: Đây là các khoản vay dùng để thanh toán
tiền mua nguyên vật liệu, vật tư, nhân công, chi phí máy móc thiết bị phương tiện
thi công và các chi phí hợp lý khác cấu thành nên giá trị công trình.
Đối tượng cho vay là những chi phí trực tiếp liên quan và phục vụ cho doanh
nghiệp thực hiện các Hợp đồng thi công xây lắp (ngoại trừ chi phí khấu hao tài
sản cố định) phù hợp với quy định của pháp luật, cụ thể:
- Chi phí nguyên vật liệu phục vụ thi công xây lắp: cát, đá sỏi, thuê xe vận
chuyển, xi măng, sắt thép và các chi phí nguyên vật liệu khác.
- Chi phí nhân công: Lương Cán bộ nhân viên, công nhân xây dựng, nhân công
thuê ngoài và các chi phí nhân công khác.
- Chi phí thuê thiết bị máy móc thi công, chi phí sửa chữa nhỏ thiết bị, công cụ
phân bổ vào công trình.
- Chi phí ban đầu triển khai thi công công trình như: Chi phí lán trại, chuyển
máy móc thiết bị và các chi phí khác.
- Chi phí chung.
- Thanh toán cho nhà thầu phụ (B’) trong trường hợp khách hàng là Nhà thầu
chính.
- Các chi phí khác phục vụ thi công công trình xây lắp trong dự toán xây lắp
công trình.
Đối với DNTCXL thi công trực tiếp: Là những chi phí trực tiếp phục vụ cho việc
thi công theo Hợp đồng thi công xây lắp gồm: Chi phí mua nguyên vật liệu (xi
măng, cát, đá thép…), chi phí thuê máy móc thiết bị, lương nhân công và các chi
phí khác.
18
Đối với DNTCXL không thi công trực tiếp mà giao thầu lại cho nhà thầu phụ: Là
giá trị khối lượng hoàn thành của nhà thầu phụ (chi phí thuê nhà thầu phụ).
Về căn cứ cho vay, mức cho vay: Việc cho vay được xác định căn cứ vào hợp
đồng/thỏa thuận giao nhận thầu xây lắp đã được ký kết giữa bên nhận thầu (các
DNTCXL/nhà thầu) và bên giao thầu (chủ đầu tư công trình hoặc nhà thầu
chính). Để đảm bảo chất lượng khoản vay, quản lý được rủi ro tín dụng, các ngân
hàng thường phải thực hiện cho vay theo từng công trình cụ thể. Trên cơ sở đánh
giá hiệu quả kinh doanh, khả năng trả nợ của từng công trình để đưa ra quyết định
cho vay hay không.
Doanh số cho vay (mức cho vay) đối với một công trình được xác định dựa trên
các yếu tố: Giá trị hợp đồng xây lắp công trình; Lợi nhuận dự kiến của công trình;
Vốn ứng trước của bên giao thầu/chủ đầu tư; Vốn tự có và huy động khác tham
gia vào công trình; Giá trị khấu hao MMTB tham gia vào công trình (nếu có);
Theo đó, doanh số cho vay tối đa được xác định bằng giá trị hợp đồng trừ đi khấu
hao cơ bản, lợi nhuận trước thuế, tạm ứng của chủ đầu tư và vốn tự có tham gia
của nhà thầu.
Thông thường, tổng doanh số cho vay thi công công trình không vượt quá 80%
giá trị công trình trúng thầu. Đối với các công trình thi công kéo dài qua nhiều
năm mà nguồn vốn thanh toán là nguồn vốn ngân sách phân bổ hàng năm thì
doanh số cho vay trong năm không vượt quá nguồn vốn ngân sách phân bổ trong
năm đó; tổng doanh số cho vay luỹ kế của từng công trình không vượt quá hạn
mức cho vay của công trình và không vượt quá xa giá trị mà chủ đầu tư đã thanh
toán từng phần cho công trình.
Về thời gian cho vay: Từ đặc điểm ngành xây lắp (thời gian thi công, nghiệm thu
thanh quyết toán công trình thường kéo dài), đặc điểm các DNTCXL (vòng quay
vốn lưu động thường chậm hơn vòng quay vốn lưu động của những lĩnh vực sản
xuất kinh doanh khác) dẫn đến thời gian thu hồi vốn đối với công trình xây lắp
chậm hơn so với các ngành khác. Vì vậy để đảm bảo sự tương hợp giữa thời điểm
đáo hạn và nguồn vốn thanh toán công trình đòi hỏi ngân hàng khi quyết định cho
19
vay phải căn cứ vào tiến độ thanh toán của chủ đầu tư cho công trình và thông
thường thời gian cho vay của ngân hàng dài hơn thời gian vay các lĩnh vực khác.
Về nguồn trả nợ: Nguồn thu để trả nợ vay chính là nguồn vốn thanh toán giá trị
khối lượng hoàn thành của công trình mà các DNTCXL thực hiện được.
Do vậy trước khi cho vay, ngân hàng phải xác định rõ nguồn vốn thanh toán của
công trình về loại nguồn, số lượng, thời gian thanh toán, điều kiện thanh toán.
Đây là một trong những yếu tố rất quan trọng trong việc xem xét cấp tín dụng cho
các DNTCXL, đặc biệt là trong giai đoạn nền kinh tế gặp nhiều khó khăn. Vì nếu
bên giao thầu/chủ đầu tư các công trình chậm thanh toán hoặc không thanh toán
sẽ dẫn tới khả năng trả nợ các khoản vay cho công trình đó của các DNTCXL bị
ảnh hưởng. Ngoài ra, do tài sản của các DNTCXL phần lớn là các khoản phải thu
và hàng tồn kho nên khi nguồn thu của các công trình gặp khó khăn sẽ ảnh hưởng
lớn đến khả năng tài chính và khả năng trả nợ nói chung của các DNTCXL.
Để kiểm soát nguồn tiền thanh toán của công trình, Ngân hàng cho vay thường
yêu cầu các DNTCXL (bên nhận thầu/nhà thầu) thỏa thuận với bên giao thầu/chủ
đầu tư thực hiện chuyển tiền thanh toán phần khối lượng xây lắp hoàn thành về
tài khoản tiền gửi của nhà thầu tại ngân hàng cho vay. Ngoài ra, để có thể tăng
cường mức độ kiểm soát nguồn tiền thanh toán, ngân hàng cho vay có thể yêu cầu
bên giao thầu/chủ đầu tư, nhà thầu/các DNTCXL cùng ký kết biên bản xác nhận
chuyển tiền ba (3) bên về tài khoản tiền gửi của nhà thầu tại ngân hàng.
Về thu hồi nợ vay: Ngân hàng sẽ xem xét thu nợ vào các đợt thanh toán của chủ
đầu tư. Trên cơ sở tiến độ thực hiện, nghiệm thu, thanh toán công trình, có thể
xem xét thực hiện thu nợ đảm bảo hạn chế tối đa khoản vay bị gia hạn nợ/chuyển
nợ quá hạn. Để phù hợp với quy trình nghiệm thu thanh toán của chủ đầu tư và
nguồn trả nợ của các DNTCXL, thông thường ngân hàng sẽ thu nợ một phần
(hoặc toàn bộ) số tiền bên giao thầu/chủ đầu tư thanh toán cho nhà thầu tối thiểu
tương đương với tỷ lệ tài trợ vốn, đảm bảo số tiền có khả năng được chủ đầu tư
thanh toán lớn hơn dư nợ vay hiện tại của công trình đó.
Ngoài ra, do đến thời điểm quyết toán công trình, bên giao thầu/chủ đầu tư
thường không thanh toán 100% giá trị công trình mà giữ lại một phần chờ quyết
20
toán, hoặc giữ lại để bảo hành công trình (thường thanh toán đến 90 – 95% giá trị
công trình). Trong khi đó, thời gian chờ quyết toán công trình và bảo hành thường
bị kéo dài (đôi khi từ 1-2 năm), do đó ngân hàng cho vay cần phải kiểm tra điều
kiện thanh toán của hợp đồng, đánh giá tiến độ thanh toán phần quyết toán, đảm
bảo có nguồn tiền để thu hồi nợ khi đến hạn (thông thường sẽ thực hiện thu hết
nợ vay trước thời điểm quyết toán công trình).
Về việc kiểm tra, giám sát khoản vay: Trước, trong và sau khi cho vay ngân hàng
phải thường xuyên kiểm tra tình hình thi công công trình, kiểm tra tiến độ thi
công, nghiệm thu thanh toán so với quy định trong hợp đồng giao nhận thầu để
phát hiện những dấu hiệu của việc sử dụng vốn vay không đúng mục đích, những
khó khăn vướng mắc của công trình và có biện pháp ứng xử kịp thời.
Do đặc điểm của sản phẩm ngành xây lắp là các công trình cố định tại khắp mọi
miền đất nước, trong khi đó một DNTCXL cùng lúc vay vốn để thi công nhiều
công trình nên việc thường xuyên kiểm tra giám sát khoản vay và tình hình thi
công các công trình của ngân hàng gặp rất nhiều khó khăn. Tuy nhiên, cũng do
sản phẩm của ngành xây lắp là các công trình mang tính đơn chiếc theo đơn đặt
hàng nên Ngân hàng thuận lợi hơn trong việc nhận biết các công trình đang tài trợ
vốn.
• Các hình thức cho vay xây lắp:
Hoạt động cho vay đối với DNXL của ngân hàng có nhiều hình thức đa
dạng, việc phân loại chỉ có tính chất tương đối. Tuỳ thuộc vào tiêu thức phân loại
mà có thể chia ra các hình thức cho vay khác nhau.
Thông thường, thời hạn cho vay là một trong những tiêu chí phổ biến để
phân loại hoạt động cho vay các DNTCXL. Theo đó, hoạt động cho vay xây lắp
được phân thành cho vay ngắn hạn và cho vay trung dài hạn. Đối với cho vay
ngắn hạn, có thể chia nhỏ thành các loại cụ thể hơn như sau:
Cho vay từng lần (cho vay theo món): Thường áp dụng đối với các khách hàng
có quan hệ không thường xuyên với ngân hàng hoặc có nhu cầu vay đặc biệt.
Mức cho vay thường được xác định như sau:
21
Chi phí cần
thiết cho SXKD
=
Giá trị
hợp đồng
xây lắp
-
Khấu hao
cơ bản
- Thuế -
Lợi nhuận
định mức
Mức trả nợ và kỳ hạn trả nợ có thể được xác định dựa trên cơ sở từng chu kỳ sản
xuất kinh doanh (vòng quay vốn lưu động cả năm), hoặc vòng quay vốn lưu
động đối với công trình/phương án cụ thể.
Cho vay theo hạn mức tín dụng: Hạn mức tín dụng là số dư nợ tối đa của khách
hàng tại mọi thời điểm trong một khoảng thời gian nhất định (thường là 1 năm).
Hình thức cho vay này thường được áp dụng đối với các khách hàng tốt, có quan
hệ tín dụng thường xuyên và uy tín trong quan hệ tín dụng với ngân hàng.
CF SX cần thiết
trong năm KH
Hạn mức tín dụng = - Vốn tự có - Các khoản
Vòng quay VLĐ chiếm dụng
Chi phí sản xuất kinh doanh cần thiết tính như đối với cho vay theo món, trong
đó giá trị hợp đồng xây lắp được thay bằng giá trị sản lượng dự kiến thực hiện
trong năm kế hoạch.
Thời hạn cho vay, kỳ hạn trả nợ, mức trả nợ được xác định căn cứ vào chu kỳ sản
xuất kinh doanh, vòng quay vốn lưu động, dòng tiền của doanh nghiệp để xác
định thời hạn cho vay, kỳ hạn trả nợ phù hợp. Đối với cho vay thường xuyên thì
mức trả nợ được xác định dựa vào mức độ luân chuyển, chu kỳ sản xuất, và do
ngân hàng và khách hàng thoả thuận với nhau.
1.1.2.3. Rủi ro khi cho vay trong lĩnh vực xây lắp
Rủi ro tín dụng là khả năng xảy ra những tổn thất cho ngân hàng do khách
hàng vay không trả đúng hạn, không trả, hoặc không trả đầy đủ vốn và lãi. Khi
thực hiện cho vay một khách hàng cụ thể, ngân hàng không dự kiến khoản vay đó
sẽ bị tổn thất. Tuy nhiên những khoản vay đó luôn hàm chứa rủi ro.
Tiếp cận theo góc độ nguyên nhân xuất hiện rủi ro, hoạt động cho vay trong
lĩnh vực xây lắp có khả năng gặp phải những rủi ro sau:
22
Các rủi ro xuất phát từ phía ngân hàng: Rủi ro đối với hoạt động cho vay xây
lắp có thể xuất hiện khi chính sách tín dụng của ngân hàng chưa phù hợp, quy
trình cho vay còn sơ hở, trình độ CBTD/QHKH còn yếu kém dẫn tới quyết định
cấp tín dụng không phù hợp, đạo đức cán bộ tín dụng không tốt dẫn tới cố ý, cấu
kết với khách hàng vay gây ra thiệt hại cho ngân hàng.
Ngoài ra, từ đặc điểm hoạt động cho vay xây lắp mà rủi ro còn có thể xuất hiện
do: việc xác định đối tượng cho vay và chi phí cho vay khó khăn (một số ít
DNTCXL không quản lý chi phí SXKD theo từng công trình, ký kết hợp đồng
mua bán nguyên vật liệu để thực hiện nhiều công trình cùng lúc dẫn đến ngân
hàng khó xác định khách hàng vay sử dụng vốn vay để thanh toán cho chi phí
thực hiện công trình nào); thời gian cho vay dài (dẫn tới sự chênh lệch lãi suất, kỳ
hạn, khả năng mất vốn cao); việc quản lý dòng tiền khó khăn (do việc thanh toán
dựa trên tiến độ thực hiện công trình và thỏa thuận giữa nhà thầu và bên giao thầu
nên ngân hàng khó kiểm soát); việc kiểm tra công trình khó khăn (do các công
trình được thực hiện ở mọi miền đất nước dẫn tới việc kiểm tra công trình, kiểm
tra mục đích sử dụng vốn… của ngân hàng không được thực hiện đều đặn và
thường xuyên). Bên cạnh đó, do hệ thống thông tin tín dụng của ngân hàng chưa
đầy đủ dẫn tới quyết định cấp tín dụng trong tình trạng thiếu thông tin, việc quản
lý, giám sát trước trong và sau khi cho vay còn kém…
Các rủi ro xuất phát từ phía các DNTCXL: Từ phía các DNTCXL, rủi ro đối với
hoạt động cho vay xây lắp của ngân hàng xuất hiện khi các DNTCXL không thực
hiện đúng, đầy đủ các cam kết với ngân hàng, hoạt động kinh doanh yếu kém, sử
dụng vốn vay sai mục đích (vay vốn ngắn hạn để đầu tư tài sản cố định, vay tiền
mặt để chi lương nhưng thực tế lại chi vào mục đích khác hoặc trả nợ ngân hàng),
lừa đảo ngân hàng (tẩu tán tài sản, dùng một tài sản để thế chấp tại nhiều ngân
hàng khi chưa được chấp thuận, lừa đảo, giả mạo giấy tờ ), không thực hiện
hoặc thực hiện không đầy đủ các nghĩa vụ trả nợ đối với ngân hàng Ngoài ra,
rủi ro trong hoạt động cho vay xây lắp của ngân hàng còn xảy ra khi tình hình tài
chính của các DNTCXL yếu kém, hoạt động sản xuất kinh doanh không hiệu quả,
thua lỗ, năng lực quản lý, điều hành và thi công doanh nghiệp thấp (dẫn tới việc
23
chọn lựa các công trình có nguồn vốn không đảm bảo, năng lực tài chính của chủ
đầu tư kém, hoặc các DNTCXL không đủ khả năng thực hiện các công trình đúng
tiến độ). Từ đó dẫn tới việc thanh toán khối lượng nghiệm thu không đảm bảo,
xuất hiện nhiều khoản phải thu khó/không có khả năng thu hồi, chậm hoặc không
được thanh toán
Các rủi ro khác: Ngoài các rủi ro xuất phát từ phía ngân hàng và khách hàng,
hoạt động cho vay xây lắp còn có những rủi ro khách quan xuất phát từ nền kinh
tế chung, tình hình phát triển của các lĩnh vực kinh tế có liên quan như bất động
sản, chính sách đầu tư công của Chính Phủ, lạm phát, lãi suất, thiên tai bão lũ, bị
chủ đầu tư chiếm dụng vốn…
1.2. Hiệu quả hoạt động cho vay các doanh nghiệp thi công xây lắp của
ngân hàng thương mại
1.2.1 Quan niệm về hiệu quả cho vay các doanh nghiệp thi công xây lắp
Hiệu quả là khái niệm dùng để đánh giá tổng hợp kết quả với chi phí lao
động trong một quá trình hoạt động hoặc so sánh kết quả chi phí của các hoạt
động khác nhau hoặc một hoạt động trong các giai đoạn khác nhau, mà thực chất
là thực hiện quy luật tiết kiệm thời gian, huy động và sử dụng tiết kiệm các nguồn
lực xã hội như tài nguyên, nhân lực, khoa học và công nghệ.
Hiệu quả cho vay của ngân hàng là một chỉ tiêu tổng hợp, nó phản ánh khả
năng thích nghi của ngân hàng đối với môi trường kinh doanh, kết quả đạt được
so với những chỉ tiêu đã đề ra, phản ánh sức mạnh của ngân hàng trong cuộc cạnh
tranh để tồn tại và phát triển. Hiệu quả cho vay không thể tự nhiên mà có, nó là
kết quả của một quá trình phối hợp những hoạt động hợp lý và linh hoạt giữa các
thành viên trong ngân hàng với nhau vì một mục tiêu chung. Do đó, muốn đạt
được hiệu quả cho vay cao đòi hỏi phải có một phương pháp quản lý khoa học,
chặt chẽ.
Ở góc độ khác, hiệu quả cho vay là sự đáp ứng tốt các yêu cầu của khách
hàng về vốn vay phù hợp với định hướng phát triển kinh tế của địa phương cũng
như của đất nước, đảm bảo sự tồn tại và phát triển vững chắc của ngân hàng.
24
Đồng thời tạo tâm lý thoải mái cho khách hàng trước, trong và sau khi giao dịch
với ngân hàng.
Hiệu quả cho vay nói chung, và hiệu quả cho vay đối với các DNTCXL nói
riêng đều bao gồm 2 nội dung: hiệu quả kinh doanh và hiệu quả kinh tế - xã hội.
Đối với ngân hàng, hiệu quả cho vay được xem xét trên hai phương diện là khả
năng cho vay của ngân hàng và khả năng thu hồi món vay. Khi ngân hàng thực
hiện cho vay được nhiều món vay đối với các DNTCXL và khả năng thu hồi nợ
từ các món vay đó là cao tức là ngân hàng đã nâng cao được hiệu quả cho vay.
Ngược lại, khi số món vay ít đi và/hoặc khả năng thu hồi nợ từ các món vay giảm
có nghĩa là hiệu quả cho vay của ngân hàng giảm sút.
Đối với các DNTCXL, hiệu quả của hoạt động cho vay là việc vay vốn đảm bảo
các yếu tố như: vay đủ số lượng, tốc độ xử lý kịp thời đáp ứng nhu cầu của hoạt
động sản xuất kinh doanh, tiến độ và kế hoạch đã đặt ra tạo điều kiện cho các
DNTCXL hoàn thành phương án/kế hoạch sản xuất kinh doanh (thi công các
công trình xây dựng đảm bảo tiến độ, chất lượng) và trả nợ đầy đủ cho ngân hàng.
Ngoài ra, yếu tố tâm lý thoải mãi cũng là một trong các yếu tố tạo nên hiệu quả
cho vay dưới góc độ khách hàng vay vốn.
Đối với nền kinh tế, hiệu quả cho vay đạt được khi hoạt động cho vay góp phần
thúc đẩy phát triển kinh tế, tạo lập cơ sở hạ tầng, mở rộng hoạt động sản xuất
kinh doanh các ngành nghề, giải quyết công ăn việc làm cho người lao động, khai
thác triệt để tiềm năng của nền kinh tế. Bên cạnh đó, thông qua tăng trưởng tín
dụng kích thích tăng trưởng kinh tế, góp phần quan trọng vào tăng thu ngân sách,
tăng thu ngoại tệ cho địa phương, đất nước.
1.2.2 Những chỉ tiêu đánh giá hiệu quả cho vay các DNTCXL
Hiệu quả cho vay là một khái niệm trừu tượng, vì nó phụ thuộc rất lớn vào
mối quan hệ giữa người cho vay (ngân hàng) và người đi vay. Tuy nhiên, để đo
lường được hiệu quả của hoạt động cho vay, qua đó có thể nâng cao hiệu quả hoạt
động cho vay, chúng ta phải đặt ra các chỉ tiêu (cả chỉ tiêu tài chính và chỉ tiêu phi
tài chính) chung.
25