Tải bản đầy đủ (.doc) (86 trang)

nâng cao chất lượng hoạt động kinh doanh tại chi nhánh ngân hàng tmcp công thương bắc hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (553.09 KB, 86 trang )

ĐẠI HỌC KTQD KHOA NGÂN HÀNG TÀI CHÍNH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
NGÂN HÀNG - TÀI CHÍNH

CHUYÊN ĐỀ THỰC TẬP TỐT NGHIỆP
Đề tài:
Nâng cao chất lượng hoạt động kinh doanh tại Chi
nhánh Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần CôngThương
Bắc Hà Nội.
Sinh viên: LÊ PHAN LONG
Lớp: Tài chính doanh nghiệp 48B
Giáo viên hướng dẫn: THS. ĐOÀN PHƯƠNG THẢO

Hà nội, tháng 5 năm 2010
SINH VIÊN THỰC HIỆN: LÊ PHAN LONG TCDN48B
ĐẠI HỌC KTQD KHOA NGÂN HÀNG TÀI CHÍNH
LỜI MỞ ĐẦU
I) Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Khi nền kinh tế thị trường phát triển, các mối quan hệ giữa các chủ thể
kinh tế ngày càng trở nên đa dạng và phong phú, tạo ra nhiều cơ hội và thách
thức. Trong điều kiện đó, nhiều tổ chức trung gian tài chính đã xuất hiện, trong
đó có ngân hàng thương mại.
Xuất phát từ vai trò của ngân hàng thương mại đối với quá trình đổi mới
và phát triển kinh tế và xuất phát từ thực tiễn hoạt động của ngân hàng TMCP
Công thương Việt Nam nói chung và chi nhánh Ngân hàng TMCP Công Thương
Bắc Hà Nội nói riêng, trong quá trình kinh doanh còn bộc lộ những điểm hạn chế
nên hiệu quả kinh doanh tại chi nhánh còn chưa cao. Để vững bước đi lên cùng
sự phát triển của nền kinh tế, đòi hỏi ngân hàng phải cố gắng nỗ lực rất lớn trong
việc mở rộng và nâng cao chất lượng hoạt động kinh doanh. Đây phải là mục tiêu
hàng đầu trong chiến lược phát triển của ngân hàng.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề, đồng thời được sự hướng dẫn


của cô giáo – ThS. Đoàn Phương Thảo và sự giúp đỡ của Ban lãnh đạo, cán bộ
công nhân viên chi nhánh ngân hàng TMCP Công Thương Bắc Hà Hội, em đã
quyết định lựa chọn đề tài: “ Nâng cao chất lượng hoạt động kinh doanh tại
Chi nhánh Ngân hàng TMCP Công Thương Bắc Hà Nội” làm đề tài chuyên
đề thực tập tốt nghiệp của mình.
II) Mục tiêu nghiên cứu của chuyên đề
Nghiên cứu lý luận về nghiệp vụ kinh doanh cơ bản của ngân hàng thương
mại, quản lý tài sản, thu nhập, chi phí, và các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả
kinh doanh của ngân hàng thương mại. Qua đó là sáng tỏ những vấn đề về lý
luận trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại.
Làm rõ mô hình cơ cấu tổ chức và thực trạng hoạt động kinh doanh tại chi
nhánh ngân hàng TMCP Công Thương Bắc Hà Nội và chỉ ra những tồn tại của
hoạt động kinh doanh của chi nhánh này hiện nay.
SINH VIÊN THỰC HIỆN: LÊ PHAN LONG TCDN48B
ĐẠI HỌC KTQD KHOA NGÂN HÀNG TÀI CHÍNH
Đề xuất giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động kinh doanh tại Chi
nhánh Ngân hàng TMCP Công thương Bắc Hà Nội và các kiến nghị với Ngân
hàng TMCP Công thương Việt Nam.
III) Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của chuyên đề
Đối tượng nghiên cứu của chuyên đề là nghiên cứu các nghiệp vụ quản lý
và kinh doanh của chi nhánh ngân hàng thương mại cổ phần Công Thương Bắc
Hà Nội
Phạm vi nghiên cứu của chuyên đề là nghiên cứu các hoạt động kinh
doanh tại Chi nhánh ngân hàng TMCP Công Thương Bắc Hà Nội giai đoạn từ
năm 2007 đến năm 2009.
IV) Phương pháp nghiên cứu
Chuyên đề sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử,
phương pháp phân tích hoạt động kinh tế, phương pháp thống kê kinh tế để
nghiên cứu.
V) Bố cục của chuyên đề

Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, chuyên đề gồm có 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về hoạt động kinh doanh của NHTM
Chương 2: Thực trạng hoạt động và đánh giá hiệu quả kinh doanh tại
chi nhánh ngân hàng TMCP Công Thương Bắc Hà Nội
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh tại chi nhánh ngân
hàng TMCP công thương Bắc Hà Nội
Với thời gian nghiên cứu và tìm hiểu hạn chế, nội dung bài viết của em
chắc chắn không thể tránh khỏi những thiếu sót. Là một sinh viên thực tập với
hiểu biết có hạn, chưa có kinh nghiệm thực tế nên trong bài viết của em có những
vấn đề chưa đề cập đến hoặc được đề cập đến nhưng đang còn thiếu sót, em xin
kính mong các thầy cô giáo, các anh chị đang công tác tại ngân hàng thông cảm
và góp ý thêm.
SINH VIÊN THỰC HIỆN: LÊ PHAN LONG TCDN48B
ĐẠI HỌC KTQD KHOA NGÂN HÀNG TÀI CHÍNH
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HOẠT ĐỘNG KINH
DOANH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1 TỔNG QUAN VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1.1 Khái niệm ngân hàng thương mại
Ngân hàng thương mại là loại hình định chế trung gian tài chính tiêu biểu,
được đặc trưng bởi hình thức hoạt động kinh doanh của nó. Hoạt động kinh
doanh của ngân hàng thương mại chủ yếu và thường xuyên là thu hút vốn thông
qua các khoản tiền gửi phát sec, tiền gửi tiết kiệm và những khoản tiền gửi khác
từ các chủ thể trong nền kinh tế. Sau đó, ngân hàng sử dụng nguồn vốn này để
cấp tín dụng và thực hiện hoạt động đầu tư tài chính trên thị trường; đồng thời,
trong quá trình kinh doanh ngân hàng thương mại còn thực hiện cung ứng các
dịch vụ trung gian thanh toán.
Ở Việt Nam cũng như các nước khác, khi định nghĩa về ngân hàng thương
mại đều có điểm chung là dựa trên chức năng và phương thức hoạt động. Ở
Pháp: Ngân hàng thương mại là xí nghiệp hay cơ sở mà nghiệp vụ thường xuyên
là nhận tiền bạc của công chúng dưới hình thức kí thác hay dưới hình thức khác

và sử dụng tài nguyên đó cho chính họ trong các nghiệp vụ về chiết khấu, tín
dụng và tài chính. Ở Mỹ: Ngân hàng thương mại là một công ty kinh doanh
chuyên cung cấp dịch vụ tài chính và hoạt động trong nghành công nghiệp tài
chính. Ở Ấn Độ: Ngân hàng thương mại là cơ sở nhận các khoản kí thác để cho
vay hay tài trợ các khoản đầu tư. Theo điều 20 khoản 2 và 7 Luật các tổ chức tín
dụng ( 12/12/1997 ): “ Ngân hàng thương mại là một tổ cức tín dụng thực hiện
toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có. Hoạt động
ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung
chủ yếu và thưởng xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp tín dụng,
cung cấp các dịch vụ thanh toán”.
SINH VIÊN THỰC HIỆN: LÊ PHAN LONG TCDN48B
ĐẠI HỌC KTQD KHOA NGÂN HÀNG TÀI CHÍNH
1.1.2. Chức năng ngân hàng thương mại
1.1.2.1. Chức năng trung gian tài chính
Ngân hàng thương mại là cầu nối giữa những người có vốn dư thừa và
những người có nhu cầu về vốn. Thông qua việc huy động và khai thác các
khoản vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế, ngânhàng hình thành nên
quỹ cho vay cấp tín dụng cho nền kinh tế. Với chức năng này, ngân hàng vừa
đóng vai trò là chủ thể đi vay, vừa đóng vai trò là chủ thể cho vay.
Xuất phát từ đặc điểm tuần hoàn vốn tiền tệ trong quá trình tái sản xuất xã
hội, ngân hàng thương mại với vai trò là một tổ chức chuyên kinh doanh về tiền
tệ, tín dụng, nắm bắt tình hình cung cầu về vốn tín dụng sẽ thực hiện tiếp nhận và
chuyển giao vốn một cách có hiệu quả. Thông qua việc thu hút tiền gửi với khối
lượng lớn, ngân hàng có thể giải quyết mối quan hệ giữa cung cầu vốn tín dụng
về khối lượng và cả thời gian tín dụng.
Chức năng trung gian tín dụng của ngân hàng được mô tả qua sơ đồ sau:

Huy động Cấp tín dụng
nguồn vốn đầu tư vốn
1.1.2.2. Chức năng trung gian thanh toán

Ngân hàng làm chức năng trung gian thanh toán khi nó thực hiện yêu cầu
của khách hàng như trích một khoản tiền trong tài khoản tiển gửi để thanh toán
tiền hàng hoá, dịch vụ hoặc nhập vào một khoản tiền gửi của khách hành từ bán
hàng hoá hoặc từ các khoản thu khác. Ngân hàng thực hiện chức năng trung gian
thanh toán làm cho nó trở thành thủ quỹ của khách hàng.
Chức năng trung gian thanh toán được thể hiện qua sơ đồ sau:
SINH VIÊN THỰC HIỆN: LÊ PHAN LONG TCDN48B
- Tổ chức kinh tế
- Doanh nghiệp
- Tổ chức xã hội
- Hộ gia đình,
dân cư…
NGÂN
HÀNG
THƯƠN
G MẠI
- Tổ chức kinh tế
- Doanh nghiệp
- Tổ chức xã hội
- Hộ gia đình,
dân cư…
ĐẠI HỌC KTQD KHOA NGÂN HÀNG TÀI CHÍNH
1.1.2.3. Chức năng tạo phương tiện thanh toán
Việc kết hợp chức năng trung gian tín dụng và chức năng trung gian thanh
toán tạo cho ngân hàng thương mại khả năng tạo ra tiền ghi sổ thể hiện trên tài
khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng tại ngân hàng thương mại. Từ một
lượng tiền gửi ban đầu, qua nghiệp vụ cho vay dưới hình thức chuyển khoản, đã
làm cho số dư trên tài khoản tiền gửi trong hệ thống ngân hàng tăng lên. Tốc độ
gia tăng tiền phụ thuộc vào tỷ lệ dự trữ bắt buộc, tỷ lệ sử dụng tiền mặt của khách
hàng trên số dư tiền gửi thanh toán, tỷ lệ dự trữ tiền mặt thừa trên tiền gửi không

kỳ hạn tại ngân hàng. Cơ chế tạo tiền của ngân hàng thương mại cho thấy mối
quan hệ giữa tín dụng và lưu thông tiền tệ, việc mở rộng khối lượng tín dụng có
ảnh hưởng tới khối lượng tiền tệ lưu thông.
Như vậy, các chức năng của ngân hàng thương mại có mối quan hệ mật
thiết với nhau, bổ sung, hỗ trợ cho nhau, trong đó chức năng trung gian tín dụng
là chức năng cơ bản, tạo cơ sở cho việc thực hiện các chức năng sau. Đồng thời,
việc ngân hàng thực hiện tốt chức năng trung gian thanh toán lại góp phần làm
tăng nguồn vốn tín dụng, mở rộng quy mô hoạt động của ngân hàng.
1.1.3. Các hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại
Ngân hàng thương mại là trung gian tài chính quan trọng trong nền kinh
tế, hoạt động của ngân hàng rất đa dạng. Ngân hàng kinh doanh tiền tệ dưới hình
thức huy động, tín dụng, đầu tư và cung cấp các dịch vụ khác.
1.1.3.1. Hoạt động huy động vốn
Nghiệp vụ huy động vốn là nghiệp vụ tạo nguồn vốn hoạt động của ngân
hàng thương mại. Nguồn vốn của ngân hàng thương mại là những giá trị do ngân
hàng huy động tạo lập được dùng để cho vay, đầu tư và thực hiện các nghiệp vụ
kinh doanh khác. Nó đóng vai trò quan trọng, ảnh hưởng tới chất lượng hoạt
SINH VIÊN THỰC HIỆN: LÊ PHAN LONG TCDN48B
- Người trả tiền
- Người mua hàng
- Tổ chức xã hội
- Cá nhân chuyển
tiền
- Người thụ hưởng
- Người bán hàng
- Tổ chức xã hội
- Cá Nhân
Ngân
hàng
thương

mại
Lệnh
trả tiền
Giấy
báo có
ĐẠI HỌC KTQD KHOA NGÂN HÀNG TÀI CHÍNH
động của ngân hàng. Nguồn vốn của ngân hàng được huy động từ vốn chủ và
vốn nợ.
Vốn tự có của ngân hàng thương mại là vốn riêng của ngân hàng được
hình thành từ các nguồn như:
Nguồn vốn hình thành ban đầu. Tuỳ theo tính chất của mỗi ngân hàng mà
nguồn gốc hình thành vốn ban đầu khác nhau. Nếu là ngân hàng thuộc sở hữu
nhà nước, ngân sách nhà nước cấp. Nếu là ngân hàng cổ phần, các cổ đông đóng
góp thông qua mua cổ phần hoặc cổ phiếu. Ngân hàng liên doanh do các bên liên
doanh góp. Ngân hàng tư nhân là vốn thuộc sở hữu tư nhân.
Nguồn vốn bổ sung trong quá trình hoạt động: Trong quá trình hoạt động,
ngân hàng gia tăng vốn chủ sở hữu theo nhiều phương thức khác nhau tuỳ thuộc
vào điều kiện cụ thể. Nếu ngân hàng kinh doanh có lãi, chủ ngân hàng có xu
hướng gia tăng vốn chủ bằng cách chuyển một phần lợi nhuận thành vốn đầu tư.
Ngoài ra nguồn vốn còn được bổ sung từ phát hành cổ phần.
Nguồn vay nợ có thể chuyển thành cổ phần: đây là khoản nợ lưỡng tính.
Vốn nợ của ngân hàng thương mại là nguồn vốn mà ngân hàng huy động
được từ các khoản tiền nhàn rỗi của các chủ thể trong xã hội. Thông thường nguồn
vốn nợ chiếm một tỷ trọng rất lớn trong tổng nguồn vốn của ngân hàng thương mại,
đây là nguồn vốn quan trọng và chủ yếu để đáp ứng mọi nhu cầu vốn của nền kinh
tế. Nguồn vốn nợ được hình thành từ tiền gửi và tiền vay.
Tiền gửi của khách hàng là nguồn tài nguyên quan trọng nhất của ngân
hàng thương mại, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn tiền của ngân hàng. Để
gia tăng tiền gửi trong môi trường cạnh tranh và để có được nguồn tiền có chất
lượng ngày càng cao, các ngân hàng đã đưa ra và thực hiện nhiều hình thức huy

động khác nhau như:
Tiền gửi thanh toán : Đây là tiền gửi của doanh nghiệp hoặc hộ cá nhân
gửi vào ngân hàng để nhờ ngân hàng giữ hộ và thanh toán hộ. Trong phạm vị số
dư cho phép, các nhu cầu chi trả của doanh nghiệp và cá nhân đều được ngân
SINH VIÊN THỰC HIỆN: LÊ PHAN LONG TCDN48B
ĐẠI HỌC KTQD KHOA NGÂN HÀNG TÀI CHÍNH
hàng thực hiện. Nhìn chung, lãi suất của các khoản tiền này rất thấp, thay vào đó
chủ tài khoản có thể được hưởng các dịch vụ ngân hàng với mức phí thấp.
Tiền gửi có kỳ hạn của doanh nghiệp và các tổ chức xã hội: Là loại tiền
gửi có sự thoả thuận về thời gian giữa người gửi tiền và ngân hàng. Do tính chất
của nguồn vốn này là có thời hạn quy định nên tương đối ổn định và người gửi
tiền được hưởng lãi xuất tuỳ thuộc vào thời hạn và tính chất của mỗi khoản kí
thác. Về nguyên tắc tiền gửi có kỳ hạn chỉ được rút ra khi hết thời hạn tuy nhiên
để thực thi tốt chính sách khách hàng các tổ chức tín dụng có thể giải quyết cho
khách hàng rút tiền ra trước hạn nhưng khách hàng không được hưởng lãi suất có
kỳ hạn mà được hưởng lãi suất không kỳ hạn .
Tiền gửi tiết kiệm của dân cư: Các tầng lớp dân cư đều có thể gửi tiết
kiệm nhằm thực hiện các mục tiêu bảo toàn và sinh lợi đối với các khoản tiết
kiệm, đặc biệt là nhu cầu bảo toàn. Sổ tiết kiệm này không dùng để thanh toán
tiền hàng và dịch vụ song có thể thế chấp để vay vốn nếu được ngân hàng cho
phép.
Tiền gửi của các ngân hàng khác: Nhằm mục đích nhờ thanh toán hộ và
các mục đích khác, ngân hàng thương mại này có thể gửi tiền tại các ngân hàng
khác. Tuy nhiên quy mô nguồn này không lớn.
Tại nhiều nước, ngân hàng Trung ương thường quy địng tỷ lệ giữa nguồn
tiền huy động và vốn chủ sở hữu. Do vậy, khi nhu cầu tín dụng của nền kinh tế
vượt quá tổng số nguồn vốn huy động trên để đảm bảo cho mọi hoạt động của
nền kinh tế tiến hành đều đặn, ngân hàng đảm bảo cung cấp mọi nhu cầu vốn cho
nền kinh tế thì ngân hàng thương mại ngoài các nguồn vốn huy động từ tiền gửi,
ngân hàng còn có thể vay mượn từ NHNN, các tổ chức tín dụng hoặc vay trên thị

trường vốn.
Vay của ngân hàng TW: Ngân hàng TW cho các ngân hàng thương mại
vay vốn nhằm giải quyết nhu cầu cấp bách thiếu vốn tạm thời trong hoạt động
kinh doanh và thanh toán chi trả, hình thức vay chủ yếu là tái triết khấu. Ngân
hàng TW với tư cách là người cho vay cuối cùng đối với ngân hàng thương mại.
Tuy nhiên việc này nằm trong khuôn khổ của chính sách tiền tệ.
SINH VIÊN THỰC HIỆN: LÊ PHAN LONG TCDN48B
ĐẠI HỌC KTQD KHOA NGÂN HÀNG TÀI CHÍNH
Vay ở các tổ chức tín dụng khác: Ở bất kỳ mọi thời điểm nào cũng có
những ngân hàng có nguồn vốn tạm thời nhà rỗi tại tài khoản tiền gửi thanh toán
của họ ở ngân hàng nhà nước, khoản dự trữ này không sinh lời. Bởi vậy họ sẵn
sàng cho các ngân hàng khác vay trong một thời gian ngắn để đáp ứng nhu cầu
dự trữ và chi trả cấp bách. Trong nhiều trường hợp, nó bổ sung hoặc thay thế cho
nguồn vay mượn từ ngân hàng nhà nước.
Vay trên thị trường vốn: Khi ngân hàng thương mại thiếu nguồn tiền gửi
trung và dài hạn dẫn đến không đáp ứng được nhu cầu cho vay trung và dài hạn.
Do vậy, các khoản vay trung và dài hạn nhằm bổ sung cho các nguồn tiền gửi,
đáp ứng nhu cầu cho vay và đầu tư trung, dài hạn. Thông thường đây là khoản
vay không có đảm bảo. những ngân hàng có uy tín hoặc trả lãi suất cao sẽ vay
mượn được nhiều hơn.
1.1.3.2. Hoạt động tín dụng
Ngân hàng thương mại sẽ sử dụng nguồn vốn có được từ hoạt động huy
động vốn để tạo ra thu nhập hay lợi nhuận cho ngân hàng. Nguồn vốn này được
sử dụng chủ yếu cho hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại. Hoạt động
cung cấp tín dụng thông thường là hoạt động mang lại thu nhập lớn nhất cho hầu
hết các ngân hàng thương mại, phản ánh được hoạt động đặc trưng của ngân
hàng thương mại. Hoạt động cung cấp tín dụng của ngân hàng thương mại bao
gồm:
a) Hoạt động chiết khấu thương phiếu
Nghiệp vụ chiết khấu thương phiếu được coi là đơn giản, giựa trên sự tín

nhiệm giữa ngân hàng và những người kí tên trên thương phiếu. Ngân hàng
thường kí với khách hàng hợp đồng chiết khấu. Khi cần chiết khấu, khách hàng
chỉ cần gửi thương phiếu lên ngân hàng xin chiết khấu. Ngân hàng sẽ kiểm tra
chất lượng của thương phiếu và thực hiên chiết khấu.
b) Hoạt động cho vay
Cho vay là việc ngân hàng thoả thuận để khách hàng sử dụng một khoản
tiền vay. Trong đó, khách hàng sẽ phải hoàn trả khoản tiền vay cho ngân hàng
SINH VIÊN THỰC HIỆN: LÊ PHAN LONG TCDN48B
ĐẠI HỌC KTQD KHOA NGÂN HÀNG TÀI CHÍNH
trong một thời hạn nhất định và thường kèm theo tiền lãi. Cho vay là khoản mục
lớn nhất trong khoản mục tín dụng của ngân hàng thương mại.
Căn cứ theo yếu tố thời hạn cho vay
Căn cứ theo thời hạn cho vay, hoạt động cho vay được chia thành cho vay
ngắn hạn, cho vay trung hạn, và cho vay dài hạn.
Cho vay ngắn hạn là loại cho vay có thời hạn dưới 1 năm, thường đáp ứng
nhu cầu bổ sung vốn lưu động cho các doanh nghiệp hoặc phục vụ nhu cầu tiêu
dùng bức thiết của dân cư.
Cho vay trung hạn là loại cho vay có thời hạn từ 1- 5 năm. Loại cho vay
này được sử dụng để bổ sung vốn mua sắm tài sản cố định, cải tiến đổi mới kỹ
thuật, mở rộng và xây dựng công trình có quy mô nhỏ và thời gian thu hồi vốn
nhanh.
Cho vay dài hạn là loại cho vay có thời hạn trên 5 năm. Cho vay dài hạn
được sủ dụng để hỗ trợ vốn xây dựng cơ bản, đầu tư xây dụng các công trình có
quy mô lớn, kỹ thuật và công nghệ hiện đại, có thời gian thu hồi vốn dài.
Căn cứ theo phương thức cho vay
Cho vay thấu chi là nghiệp vụ cho vay mà ngân hàng cho cho phép người
vay được chi trội ( vượt) trên số dư tiền gửi thanh toán của mình đến một giới
hạn nhất định và trong khoản thời gian xác định. Giới hạn này được gọi là hạn
mức thấu chi. Khi khách hàng có tiền nhập về tài khoản tiền gửi ngân hàng sẽ thu
nợ gốc và lãi.

Số lãi khách hàng phải trả = Lãi suất thấu chi * t/g thấu chi * số tiền thấu
chi.
Cho vay trực tiếp từng lần là hình thức cho vay với khách hàng không có
nhu cầu vay vốn thường xuyên, không đủ điều kiện để được cấp hạn mức thấu
chi. Vốn vay ngân hàng chỉ tham gia vào một số giai đoạn nhất định của chi kỳ
sản xuất kinh doanh. Khách hàng có thể được giải ngân một lần hay nhiều lần
căn cứ vào nhu cầu sử dụng thực tế nhưng số tiền giải ngân không được vượt quá
số tiền cho vay đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng.
SINH VIÊN THỰC HIỆN: LÊ PHAN LONG TCDN48B
ĐẠI HỌC KTQD KHOA NGÂN HÀNG TÀI CHÍNH
Cho vay theo hạn mức là hình thức ngân hàng thoả thuận cấp cho khách
hàng hạn mức tín dụng. Hạn mức tín dụng có thể tính cho cả kỳ hoặc cuối kỳ. Đó
là số dư tối đa tại thời điểm tính. Hạn mức tín dụng được cấp trên cơ sở kế hoạch
sản xuất kinh doanh, nhu cầu vốn và nhu cầu vay vốn của khách hàng. Đây là
hình thức cho vay thuận tiện cho những khách hàng vay mượn thường xuyên vào
quá trình sản xuất kinh doanh.
Cho vay luân chuyển là hình thức ngân hàng cho vay dựa trên luân chuyển
của hàng hoá. Doanh nghiệp khi mua hàng có thể thiếu vốn. Ngân hàng cho vay
dể mua hàng và sẽ thu nợ khi doanh nghiệp bán được hàng. Ngân hàng và khách
hàng thoả thuận với nhau về phương thức vay, hạn mức tín dụng, các nguồn cng
cấp hàng hoá và khả năng tiêu thụ. Hạn mức tín dụng có thể được thoả thuận
trong một năm hoặc vài năm.
Cho vay trả góp là hình thức tín dụng, ngân hàng cho phép khách hàng trả
gốc làm nhiều lần trong thời hạn tín dụng đã thoả thuận. Số tiền trả mỗi lần được
tính sao cho phù hợp với khả năng trả nợ. Trong đó số tiền trả lãi được tính trên
dư nợ thực tế và số ngày thực tế của kỳ hạn trả nợ đó. Cho vay trả góp thường tài
trợ cho các khoản vay trung và dài hạn, tài trợ cho tài sản cố định. Phương thức
này áp dụng đối với khách hàng đáp ứng đủ điều kiện vay vốn, chứng minh được
nguồn thu nhập chắc chắn, ổn định để trả nợ gốc và lãi.
Cho vay hợp vốn là hình thức ngân hàng cho vay cùng với một số tổ chức

tín dụng, hoặc chi nhánh của tổ chức tín dụng khác thực hiện việc cho vay một
hoặc một phần dự án, phương án, trong đó ngân hàng cho vay có thể là tổ chức
đầu mối hoặc thành viên cho vay hợp vốn.
Căn cứ vào mức độ tín nhiệm đối với khách hàng
Căn cứ theo mức độ tín nhiệm đối với khách hàng, cho vay của ngân hàng
được chia làm hai loại:
Cho vay không có bảo đảm là hình thức cho vay không có tài sản thế
chấp, cầm cố, hoặc sự bảo lãnh của người thứ ba, mà việc cho vay chỉ dựa vào uy
tín của bản thân khách hàng vay vốn.
SINH VIÊN THỰC HIỆN: LÊ PHAN LONG TCDN48B
ĐẠI HỌC KTQD KHOA NGÂN HÀNG TÀI CHÍNH
Cho vay có bảo đảm là hình thức cho vay dựa trên cơ sở có tài sản bảo
đảm như thế chấp, cầm cố, hoặc phải có sự bảo lãnh của người thứ ba. Đối với
khách hàng chưa có uy tín cao đối với ngân hàng, khi vay vốn, ngân hàng yêu
cầu khách hàng phải có bảo đảm. Sự bảo đảm này là căn cứ pháp lí để ngân hàng
có thêm nguồn thu thứ hai, bổ sung cho nguồn thu nợ thứ nhất thiếu chắc chắn.
Bên cạnh các hình thức cho vay trên, ngân hàng còn cho vay trên cơ sở nhu
cầu thực tế của khách hàng, trên cơ sở thẩm định, và thoả thuận với khách hàng
để có thể đưa ra các hình thức cho vay khác phù hợp.
c) Hoạt động cho thuê tài sản
Bên cạnh hoạt động cho vay, cho thuê tài tài sản cũng là một hình thức của
hoạt động tín dụng ngân hàng thương mại. Cho thuê có hai loại chính là cho thuê
nghiệp vụ và cho thuê tài chính. Cho thuê nghiệp vụ đáp ứng nhu cầu thuê trong
thời gian ngắn, người đi thuê không có dự định mua lại tài sản đó để sử dụng lâu
dài. Cho thuê tài chính đáp ứng nhu cầu thuê dài hạn của khách hàng và người đi
thuê có quyền mua lại tài sản khi hết hợp đồng thuê.
d) Hoạt động cung cấp bảo lãnh ngân hàng
Theo quy định của pháp luật, bảo lãnh ngân hàng là cam kết của ngân hàng
dưới hình thức thư bảo lãnh về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách
hàng của ngân hàng, khi khách hàng không thực hiện đúng nghĩa vụ như đã cam

kết. Bảo lãnh ngân hàng phân theo mục đích bảo lãnh bao gồm:
Bảo lãnh tham gia dự thầu là cam kết của ngân hàng với chủ đầu tư hoặc
chủ thầu về việc trả tiền phạt thay cho bên dự thầu nếu bên dự thầu vi phạm các
quy định trong hợp đồng dự thầu.
Bảo lãnh thực hiện hợp đồng là cam kết của ngân hàng về việc chi trả tổn
thất thay cho người thụ hưởng nếu người cung cấp không thực hiện đầy đủ hợp
đồng cam kết như giao hàng chậm trễ, không đúng số lượng, chất lượng,… Bảo
lãnh thực hiện hợp đồng được sử dụng thay thế cho yêu cầu kí quỹ mà người đặt
hàng đề nghị đối với người cung ứng để bảo đảm bồi thường vi phạm hợp đồng.
SINH VIÊN THỰC HIỆN: LÊ PHAN LONG TCDN48B
ĐẠI HỌC KTQD KHOA NGÂN HÀNG TÀI CHÍNH
Lĩnh vực thường gặp nhất của bảo lãnh thực hiện hợp đồng là trong các hợp đồng
xây dựng, cung ứng thiết bị công nghệ,… trong nước cũng như ngoài nước.
Bảo lãnh hoàn trả tiền ứng trước là cam kết của ngân hàng về việc sẽ
hoàn trả tiền ứng trước cho bên mua ( người thụ hưởng bảo lãnh) nếu bên cung
cấp hay người được bảo lãnh không cung cấp hàng hoá dịch vụ cho bên mua
( người thụ hưởng bảo lãnh).
Bảo lãnh đảm bảo thanh toán là cam kết của ngân hàng về việc sẽ thanh
toán tiền theo đúng hợp đồng thanh toán cho người thụ hưởng nếu khách hàng
của ngân hàng không thanh toán hoặc thanh toán không đủ.
Bảo lãnh đảm bảo hoàn trả vốn vay là cam kết của ngân hàng đối với
người cho vay (tổ chức tín dụng hoặc cá nhân… )về việc sẽ trả gốc và lãi đúng
hạn nếu khách hàng hay người đi vay không trả được.
Bên cạnh đó, tuỳ theo từng trường hợp cụ thể, ngân hàng thương mại có
thể cung cấp cho khách hàng một số loại bảo lãnh khác phù hợp với nhu cầu của
khách hàng và quy định của ngân hàng.
1.1.3.3. Hoạt động đầu tư
Hoạt động mang lại thu nhập chính cho ngân hàng sau hoạt động cho vay
là hoạt động đầu tư . Hoạt động đầu tư của các ngân hàng thương mại vừa làm đa
dạng loại hình sử dụng vốn, mang lại thu nhập, đồng thời còn là khoản dự trữ thứ

cấp với các chứng khoán ngắn hạn, chất lượng cao. Hoạt động đầu tư bao gồm
các hoạt động mua chứng khoán của Chính phủ và mua chứng khoán khác.
1.1.3.4. Các hoạt động dịch vụ khác
a) Mua bán ngoại tệ
Mua bán ngoại tệ là nghiêp vụ ngân hàng đứng ra mua bán một loại tiền
này lấy một loại tiền khác và hưởng thu nhập từ việc mua bán chênh lệch giá
giữa giá mua và giá bán.
SINH VIÊN THỰC HIỆN: LÊ PHAN LONG TCDN48B
ĐẠI HỌC KTQD KHOA NGÂN HÀNG TÀI CHÍNH
b) Trung gian thanh toán
Khi khách hàng gửi tiền vào ngân hàng., ngân hàng không chỉ bảo quản mà
còn thực hiện các lệnh chi trả cho khách hàng (ngân hàng cung cấp cho khách
hàng các dịch vụ thanh toán). Hoạt động này tạo điều kiện cho khách hàng thực
hiện các khoản thanh toán với nhau mà không phải mang theo một lượng tiền
mặt và ngân hàng thực hiện thu phí của khách hàng.
c) Dịch vụ quản lí ngân quỹ
Ngân hàng mở tài khoản và giữ tiền của phần lớn các doanh nghiệp và cá
nhân. Đồng thời ngân hàng quản lí việc thu chi cho khách hàng, tiến hành đầu tư
phần thặng dư tiền mặt tạm thời vào các chứng khoán sinh lời và tín dụng ngắn
hạn cho đến khi khách hàng cần tiền mặt để thanh toán.
d) Dịch vụ cho các nhà xuất nhập khẩu
Hoạt động của các nhà xuất nhập khẩu bao gồm các dịch vụ, nghiệp vụ
ngân hàng như: tín dụng thư, nhận và xử lí chứng từ, ứng trước tiền, và các quy
định về quản lí ngoại hối, thanh toán và chuyển tiền quốc tế.
e) Dịch vụ bảo quản tài sản hộ
Ngân hàng thực hiện lưu giữ vàng, các giấy tờ có giá và các tài sản khác
cho khách hàng trong két. Ngân hàng thường giữ hộ những tài sản tài chính, giấy
tờ cầm cố, hoặc những giấy tờ quan trọng của khách với nguyên tắc an toàn, bí
mật, thuận tiện.
1.2. ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ KINH DOANH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG

MẠI
1.2.1. Khái niệm hiệu quả kinh doanh của ngân hàng thương mại
Trước khi tìm hiểu hiệu quả kinh doanh của ngân hàng thương mại, chúng
ta tìm hiểu về hiệu quả sản xuất kinh doanh trong các doanh nghiệp nói chung:
Hiệu quả sản xuất kinh doanh chung nhất đối với mọi doanh nghiệp là
phạm trù kinh tế, là một chỉ tiêu chất lượng tổng hợp. Nó phản ánh trình độ sử
SINH VIÊN THỰC HIỆN: LÊ PHAN LONG TCDN48B
ĐẠI HỌC KTQD KHOA NGÂN HÀNG TÀI CHÍNH
dụng các yếu tố của quá trình kinh doanh ở doanh nghiệp để tạo được hiệu quả
cao nhất trong hoạt động sản xuất kinh doanh với chi phí thấp nhất.
Đánh giá hiệu quả kinh doanh chính là quá trình so sánh giữa chi phí bỏ ra
và kết quả thu về với mục đích đã được đặt ra và dựa trên cơ sở giải quyết các
vấn đề cơ bản của nền kinh tế như: sản xuất cái gì? sản xuất cho ai? sản xuất như
thế nào?
Mục đích hoạt động của ngân hàng cũng như mọi doanh nghiệp hoạt động
sản xuất kinh doanh khác trong nền kinh tế đó là tối đa hoá lợi ích của chủ sở
hữu. Chính vì vậy, hoạt động ngân hàng có hiệu quả tức là hoạt động đó phải
hoàn thành các chỉ tiêu kế hoạch đã đề ra và tạo sự phát triển vững chắc cho hoạt
động ngân hàng. Tuy nhiên hiệu quả kinh doanh trong hoạt động ngân hàng còn
có nghĩa ngân hàng phải đáp ứng được các nhu cầu của khách hàng trong nền
kinh tế. Điều này hoàn toàn đúng trong cơ chế thị trường, đó là sản phẩm của
doanh nghiệp phải đáp ứng đến khách hàng, là cơ sở để hoạt động ngân hàng
phát triển.
Vậy ta có thể hiểu:”Hiệu quả kinh doanh trong hoạt động của ngân hàng
thương mại là việc đáp ứng được nhu cầu của khách hàng trên cơ sở hoàn thành
mọi chỉ tiêu kế hoạch đã đề ra của ngân hàng, tạo sự phát triển vững chắc cho
hoạt động ngân hàng và cũng đồng thời đáp ứng được chiến lược phát triển kinh
tế xã hội của đất nước ”.
Đánh giá hiệu quả kinh doanh của ngân hàng thương mại không những
đánh giá trên phương diện tài chính., việc tối đa hoá lợi ích của chủ sở hữu, mà

còn phải xem xét trên cả phương diện xã hội. Tức là hiệu quả hoạt động của ngân
hàng phải được xem xét trên cơ sở đáp ứng được các chiến lược phát triển kinh tế
xã hội trong từng thời kỳ. Chiến lược phát triển kinh tế xã hội được thể hiện ở
chính sách ưu tiên phát triển ngành, chính sách phát triển kinh tế các địa phương,
các vùng trong từng thời kỳ, chiến lược phát huy và nâng cao mọi mặt về cả đời
sống vật chất và tinh thần cho người lao động.
SINH VIÊN THỰC HIỆN: LÊ PHAN LONG TCDN48B
ĐẠI HỌC KTQD KHOA NGÂN HÀNG TÀI CHÍNH
1.2.2. Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh doanh của ngân hàng thương mại
Phân tích hoạt động ngân hàng thông qua các chỉ tiêu về thu nhập, chi phí,
chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng, các chỉ tiêu về lợi nhuận là một yêu cầu để
nhận ra ưu thế, các hạn chế, rủi ro để phòng ngừa và phát hiện lợi thế tiềm năng
từ đó đánh giá mức độ lành mạnh, vững chắc, an toàn, để để ra các giải pháp
nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh ngân hàng.
1.2.2.1. Thu nhập của ngân hàng thương mại
Thu nhập của ngân hàng thương mại là toàn bộ nguồn thu bằng tiền mà
ngân hàng thu được từ hoạt động kinh doanh và các nghiệp vụ kinh doanh khác
trong một thời gian nhất định. Các nguồn thu nhập của ngân hàng là thu từ lãi tài
sản sinh lời, chủ yếu là từ các khoản cho vay, chứng khoán, tiền gửi hưởng lãi từ
các tổ chức tín dụng ngân hàng khác và các nguồn thu khác như: thu nhập từ cho
thuê tài sản mà ngân hàng sở hữu.
Nội dung của phân tích thu nhập:
Phân tích quy mô và cơ cấu các khoản mục thu nhập.
Phân tích sự thay đổi của các khoản mục thu nhập và các nhân tố ảnh
hưởng
Phân tích các khoản mục thu nhập quan trọng hoặc có tốc độ tăng nhanh.
Các khoản thu nhập:
Tổng thu = thu từ lãi + thu ngoài lãi
Trong đó, các khoản thu từ lãi chủ yếu là tiền lãi thu được tạo ra từ các
khoản cho vay. Thu từ hoạt động cho vay thường là nguồn thu nhập lớn nhất của

các ngân hàng thương mại, chiếm trên 2/3 tổng thu nhập của ngân hàng thương
mại. Tiếp theo các khoản thu từ cho vay là những khoản thu quan trọng khác bao
gồm: thu nhập từ đầu tư chứng khoán, lãi từ những hợp đồng cấp tín dụng cho
chính phủ, các hợp đồng mua bán lại và lãi thu được từ tiền gửi có kỳ hạn tại các
ngân hàng thương mại khác. Trong từng thời kỳ, tỷ trọng của mỗi khoản mục thu
giao động phụ thuộc sự chuyển dịch của các loại lãi suất và nhu cầu vốn tín
SINH VIÊN THỰC HIỆN: LÊ PHAN LONG TCDN48B
ĐẠI HỌC KTQD KHOA NGÂN HÀNG TÀI CHÍNH
dụng. Mắc dù thu từ cho vay luôn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng các nguồn thu,
tuy nhiêm, trong quá trình phát triển, việc mở rộng và đa dạng các loại hình dịch
vụ thu phí làm cho các nguồn thu từ phí ngày càng tăng lến với thu lãi từ cho
vay.
Các khoản thu ngoài lãi chủ yếu là từ các khoản thu khác ngoài những
khoản thu từ cho vay và chứng khoán bao gồm:
Thu từ dịch vụ thanh toán, nhận tiền gửi: Hình thức này giúp các doanh
nghiệp lưu chuyển tiền hàng nhanh, sử dụng vốn của doanh nghiệp hiệu quả hơn,
thông qua đó ngân hàng thu phí và quyền sử dụng vốn trên tài khoản của khách
hàng trong quá trình thanh toán.
Thu từ dịch vụ kho quỹ: Là việc ngân hàng cung cấp, nhận chuyển tiền,
thanh toán bằng tiền mặt cho khách hàng, ngân hàng thực hiện thu phí trên số
tiền rút ra bằng tiền mặt hay nộp chuyển tiền cho cá nhân. Bên cạnh đó, ngân
hàng còn sử dụng hệ thống kho quỹ của mình để cho khách hàng thuê, nhận bảo
quản tài sản có giá và thực hiện thu phí.
Ngoài các nguồn thu trên, các ngân hàng thương mại còn có các khoản thu
khác. Đó là thu từ các hoạt động dịch vụ, uỷ thác, tài trợ thuê mua trực tiếp, hoạt
động kinh doanh hối đoái,….
Với sự phát triển ngày càng mạnh của các danh mục dịch vụ tài chính
như: môi giới chứng khoán, bảo hiểm… các ngân hàng thương mại đã tìm được
lĩnh vực hoạt động đầy tiềm năng, hứa hẹn việc đẩy mạnh hiệu quả kinh doanh
1.2.2.2. Chi phí của ngân hàng thương mại

Chi phí của ngân hàng thương mại là toàn bộ chi phí phát sinh trong quá
trình tạo ra thu nhập của ngân hàng thương mại, làm giảm lợi nhuận xác định
của ngân hàng. Bao gồm: lãi trả cho người gửi tiền, lãi trả cho các khoản vay, chi
phí cho vốn tự có, tiền lương trả cho nhân viên của ngân hàng, chi phí liên quan
đến tài sản vật chất của ngân hàng phân bổ dự phòng tổn thất tín dụng, thuế, và
các khoản chi phí khác.
Nội dung phân tích chi phí:
SINH VIÊN THỰC HIỆN: LÊ PHAN LONG TCDN48B
ĐẠI HỌC KTQD KHOA NGÂN HÀNG TÀI CHÍNH
Phân tích quy mô và cơ cấu các khoản mục phí.
Phân tích biến động của các khoản phí: biến động về quy mô, cơ cấu và
các nhân tố ảnh hưởng.
Phân tích các khoản phí quan trọng hoặc có tốc độ tăng nhanh.
Phân tích các khoản mục phí hay biên động mạnh( biến phí)- đo mối liên
hệ giữa các loại phí này với một số chỉ tiêu như quy mô và tôc độ nguồn huy
động, thu nhập, chênh lệch thu, chi từ lãi…
So sánh với thu nhập để thấy mức tiết kiệm phí.
Các khoản phí:
Tổng chi phí = chi phí trả lãi + chi phí ngoài lãi
Chi phí trả lãi là khoản chi phí quan trọng, nhất là chi phí trả lãi tiền gửi.
Đó là khoản chi phí mà ngân hàng thương mại trả cho người gửi tiền, và những
người cho vay theo mức lãi suất tương ứng với thời gian của số tiền gửi và số
tiền vay, nó chiếm khoảng hơn 50% trong tổng chi phí ngân hàng. Một khoản
mục chi phí trả lãi tương đối quan trọng và đang có chiều hướng tăng trong thời
gian gần đây là lãi trả cho những khoản vay ngắn hạn trên thị trường tiền tệ.
Chi phí ngoài lãi: khoản mục chi phí ngoài lãi quan trọng nhất đối với các
ngân hàng thương mại là tiền lương và các khoản chi khác thanh toán cho cán bộ
nhân viên ngân hàng. Khoản chi này có tăng trong thời gian gần đây, khi ngân
hàng thực hiện chính sách thu hút những nhà quản lí, nhân viên có kinh nghiệm
và trình độ cao. Nhưng nó lại có xu hướng giảm tương đối vì do các ngân hàng

có mức tăng lương chậm hơn so với sự gia tăng nhanh chóng các phương tiện kỹ
thuật hiện đại trong hoạt động kinh doanh. Cho nên, dù hoạt động ngân hàng
được mở rộng, khối lượng công việc tăng lên không ngừng (tài sản ngân hàng
tăng nhanh) nhưng lao động, chi phí tiền lương cho lao động vẫn giảm tương đối.
Ngoài ra còn một số chi phí khác như:
Chi khấu hao cơ bản tài sản cố định, chi phí mua sắm mới tài sản, công cụ
lao động, chi phí sửa chữa tài sản cố định… Chi phí này có xu hướng ngày càng
SINH VIÊN THỰC HIỆN: LÊ PHAN LONG TCDN48B
ĐẠI HỌC KTQD KHOA NGÂN HÀNG TÀI CHÍNH
tăng do việc hiện đại hoá ngân hàng, tăng cường việc mở rộng màng lưới, chi
nhánh.
Chi in ấn, thiết bị văn phòng dùng để phục vụ hoạt động kinh doanh gồm
các giấy tờ in phục vụ công tác kế toán, công tác tín dụng, và công tác khác.
Các khoản chi khác là những chi phí cần thiết cho phục vụ hoạt động kinh
doanh như: điện, nước, xăng dầu vận chuyển, thông tin, báo chí, quảng cáo, tiếp
thị, đào tạo,…
Chi trích lập dự phòng tổn thất rủi ro tín dụng là một phần chi phí khác
mà ngân hàng khấu trừ khỏi thu nhập là phân bổ dự phòng tổn thất rủi ro tín
dụng. Khoản chi này không bằng tiền mặt, mà được tạo ra bởi một nghiệp vụ
hạch toán, số chi phí trích lập dự phòng rủi ro dựa trên cơ sở tổng dư nợ tín dụng,
tình trạng của các khoản dư nợ.
1.2.2.3. Lợi nhuận ngân hàng
Lợi nhuận đây là chỉ tiêu chất lượng tổng hợp phản ánh hiệu quả quản lí
và điều hành hoạt động kinh doanh của ngân hàng, nó được xem là mục tiêu cuối
cùng mà ngân hàng luôn hướng đến. mức lợi nhuận đạt được càng cao, càng giúp
cho ngân hàng gia tăng tỷ lệ trích lập các quỹ bổ sung vốn, dự phòng tài chính,
phát triển kí thuật nghiệp vụ ngân hàng , tạo ra sự ổn định và phát triển ngân
hàng trong tương lai.
Lợi nhuận theo cách hiểu đơn giản nhất là phần giá trị dôi ra của một hoạt
động kinh doanh, sau khi đã trừ đi mọi chi phí cho hoạt động đó, hay lợi nhuận là

phần chênh lệch giữa tổng thu nhập và tổng chi phí được xác định trong một thời
kỳ nhất định, thường là một năm.
Lợi nhuận = Tổng thu nhập - Tổng chi phí
Vì mọi nhân tố tác động đến thu nhập và chi phí của ngân hàng đều có tác
động đến lợi nhuận kinh doanh của ngân hàng . Mọi sự thay đổi làm tăng thu
nhập của ngân hàng thương mại đều làm tăng lợi nhuận kinh doanh của ngân
hàng thương mại và ngược lại. Và mọi thay đổi làm tăng chi phí của ngân hàng
đều làm giảm lợi nhuận kinh doanh của NHTM và ngược lại. Do vậy, để tăng
SINH VIÊN THỰC HIỆN: LÊ PHAN LONG TCDN48B
ĐẠI HỌC KTQD KHOA NGÂN HÀNG TÀI CHÍNH
được lợi nhuận kinh doanh của NHTM ta phải làm tăng thu nhập và giảm chi phí
Cho NHTM.
1.2.2.4. Các chỉ số khác đánh giá hiệu quả hoạt động kinh doanh của ngân
hàng
Ngân hàng thương mại là doanh nghiệp hoạt động kinh doanh trên lĩnh
vực tiền tệ, tự chủ về tài chính. Về bản chất, ngân hàng thương mại là một tổ
chức kinh doanh vì mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận với mức rủi ro có thể chấp nhận
được. Vì vậy, ngân hàng phải không ngừng tìm kiếm những cơ hội kinh doanh
nhằm thúc đẩy sự tăng trưởng, nâng cao hiệu quả hoạt động, hiệu quả kế hoạch
hoá và hiệu quả kiểm soát.
Nguồn dự liệu được sử dụng để phân tích là: Bảng cân đối tài khoản,
Bảng tổng kết tài sản, Báo cáo thu nhập chi phí.
Một số chỉ tiêu được xem xét để đánh giá hiệu quả kinh doanh của một
ngân hàng thương mại là:
• Chỉ tiêu chênh lệch lãi suất bình quân:
Chênh lệch lãi suất bình quân = Lãi suất cho vay bình quân - Lãi suất đầu vào
bình quân cho nguồn vốn được sử dụng cho vay và đầu tư
Chỉ tiêu này phản ánh hiệu quả của ngân hàng thương mại trong quá trình
huy động vốn và cho vay, đồng thời nó cũng phản ánh mức độ cạnh tranh trong
thị trường ngân hàng, chênh lệch giữa lãi suất cho vay bình quân với lãi suất đầu

vào bình quân cho nguồn vốn được sử dụng cho vay và đầu tư càng lớn thì hiệu
quả kinh doanh càng cao và ngược lại.
• Tỷ lệ về hiệu suất sử dụng vốn: tỷ lệ này có thể chia thành hai phần
- Phần thứ nhất là mức thu nhập lãi bình quân trên tổng tài sản.
- Phần thứ hai là mức thu nhập ngoài lãi bình quân trên tài sản.
Tổng thu nhập Thu nhập lãi Thu nhập ngoài lãi
từ hoạt động = +
SINH VIÊN THỰC HIỆN: LÊ PHAN LONG TCDN48B
ĐẠI HỌC KTQD KHOA NGÂN HÀNG TÀI CHÍNH
trên tổng tài sản Tổng tài sản Tổng tài sản
• Tỷ lệ tài sản sinh lời:
Tỷ lệ Tổng tài sản sinh lời Các khoản cho vay + cho thuê + đầu tư CK
Tài sản = =
Sinh lời Tổng tài sản Tổng tài sản
Đây là chỉ số phản ánh tầm quan trọng tương đối giữa tài sản không sinh
lời và các tài sản sinh lời như cho vay và đầu tư chưng khoán. Khi cạnh trang
trên thị trường tín dụng gia tăng và các khoản cho vay kém chất lượng ngày càng
nghiều, một số ngân hàng chú trọng vào việc tăng nguồn thu ngoài lãi. Những
khoản này củng cố nguồn thu và giúp gia tăng thu nhẩp ròng cho ngân hàng. Các
nhà quản lí không ngừng nỗ lực hạn chế tỷ trọng tài sản không sinh lời ( bao gồm
tiền mặt, tài sản cố địng hữu hình, tài sản cố định vô hình) gia tăng tài sản sinh
lời trong tổng tài sản.
• Các chỉ số chủ yếu phản ánh khả năng sinh lời trong hoạt động ngân hàng:
Tỷ lệ thu nhập trên Thu nhập sau thuế
tổng tài sản Tổng tài sản
(ROA)
ROA là một thông số chủ yếu về tính hiệu quả của quản lí, nó phản ánh
khả năng của các nhà quản trị ngân hàng trong quá trình chuyển tài sản của ngân
hàng thành thu nhập ròng. Chỉ tiêu này phản ánh cứ 100 đồng tài sản tạo ra bao
nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế hoặc bao nhiêu đồng lợi nhuận ròng.

Tỷ lệ thu nhập trên Thu nhập sau thuế
vốn chủ sở hữu =
(ROE) Vốn chủ sở hữu
ROE là một chỉ tiêu đo lường tỷ lệ thu nhập cho các cổ đông của ngân
hàng. Nó thể hiện thu nhập mà các cổ đông nhận được từ việc đầu tu vào ngân
SINH VIÊN THỰC HIỆN: LÊ PHAN LONG TCDN48B
=
ĐẠI HỌC KTQD KHOA NGÂN HÀNG TÀI CHÍNH
hàng. Chỉ tiêu này phản ánh cứ 100 đồng VCSH của NHTM thì tạo ra bao nhiêu
đồng lợi nhuận ròng.
Tỷ lệ thu nhập lãi trên tổng tài sản ( Tỷ lệ thu nhập lãi cận biên ).
Tỷ lệ thu nhập Thu từ lãi - chi phí trả lãi
lãi trên tổng =
tài sản Tổng tài sản
Tỷ lệ thu nhập lãi cận biên đo lường mức chênh lệch thu nhập từ lãi và chi
phí trả lãi mà ngân hàng đạt được thông qua hoạt động kiểm soát chặt chẽ tài sản
sinh lời và theo đuổi các nguồn vốn có chi phí thấp.
Tỷ lệ thu nhập ngoài lãi trên tổng tài sản ( tỷ lệ thu nhập ngoài lãi cận
biên):
Tỷ lệ thu nhập Thu nhập ngoai lãi - chi phí ngoài lãi
ngoài lãi trên =
tổng tài sản: Tổng tài sản
Tỷ lệ thu nhập ngoài lãi cận biên đo lường mức chênh lệch thu nhập ngoài
lãi, chu yếu là các nguồn thu từ hoạt động dịch vụ với chi phí ngoài lãi như: tiền
lương, chi phí sửa chữa, bảo hành thiết bị, chi phí tổn thất tín dụng…
- Tỷ lệ thu nhập hoạt động cận biên
Tỷ lệ lợi Tổng thu từ hoạt động - Tổng chi phí hoạt động
nhuận hoạt =
động cận biên Tổng tài sản
- Tỷ lệ thu nhập trên cổ phiếu

Tỷ lệ Thu nhập sau thuế
Thu nhập =
Trên cổ phiếu Tổng số cổ phiếu thường lưu hành
SINH VIÊN THỰC HIỆN: LÊ PHAN LONG TCDN48B
ĐẠI HỌC KTQD KHOA NGÂN HÀNG TÀI CHÍNH
Tỷ lệ thu nhập trên cổ phiếu phản ánh mức thu nhập trên mỗi cổ phiếu
hiện hành, đo lường trực tiếp thu nhập của những ngưòi chủ sở hữu ngân hàng.
Các chỉ tiêu trên là các thước đo tính hiệu quả khả năng sinh lời. Chúng
chỉ ra năng lực của nhà quả trị, ban điều hàng và nhân viên ngân hàng trong việc
duy trì sự tăng trưởng của các nguồn thu so với mức tăng của chi phí.
• Chỉ tiêu tỷ lệ nợ quá hạn
Dư nợ quá hạn
Tỷ lệ nợ quá hạn =
Tổng dư nợ cho vay
Chỉ tiêu này phản ánh chất lượng hoạt động tín dụng, có ảnh hưởng tới thu
nhập, lợi nhuận, và hiệu quả hoạt động của ngân hàng thương mại.
1.3. YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI HIỆU QUẢ KINH DOANH CỦA NGÂN
HÀNG THƯƠNG MẠI
1.3.1. Yếu tố khách quan
Hoạt động kinh doanh của ngân hàng luôn có quan hệ mật thiết với yếu tố
môi trường xung quanh.
1.3.1.1. Các yếu tố về môi trường chính trị, xã hội, kinh tế
Có thể nói yếu tố có vai trò quan trọng và quyết định hàng đầu đến hiệu
quả hoạt động của các doanh nghiệp trong nền kinh tế nói chung và của hệ thống
ngân hàng thương mại nói riêng là sự ổn định về chính trị - xã hội. Vì sẽ không
có bất kỳ ngân hàng thương mại nào có thể hoạt động hiệu quả trong điều kiện
chính trị bất ổn., bạo loạn đình công, mất trật tự về xã hội. Sự ổn định về chính trị
- xã hội là điều kiện quan trọng để tạo môi trường ổn định cho hoạt động của hệ
thống ngân hàng thương mại, và cũng là cơ sở để các ngân hàng thương mại hoạt
động có hiệu quả.

Ngoài yếu tố về môi trường chính trị - xã hội thì kinh tế cũng là yếu tố
có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả hoạt động của hệ thống ngân hàng thương
mại. Từng giai đoạn, biến cố kinh tế đều có tác động đến hoạt động của ngân
SINH VIÊN THỰC HIỆN: LÊ PHAN LONG TCDN48B
ĐẠI HỌC KTQD KHOA NGÂN HÀNG TÀI CHÍNH
hàng. Kinh tế phát triển ổn định là cơ sở để hoạt động ngân hàng phát triển hiệu
quả
1.3.1.2. Các chính sách của Nhà nước
Mỗi một thời kỳ khác nhau, nhà nước sẽ có những chính sách về phát triển
kinh tế theo địa phương, theo ngành nghề cụ thể. Những chính sách này tác động
trực tiếp đến các điều kiện kinh tế, các chủ thể kinh tế, và cũng tác động trực tiếp
đến hoạt động của ngân hàng thương mại.
Chính sách tiền tệ của ngân hàng Nhà Nước đối với hệ thống các ngân
hàng thương mại được thực hiện nhằm điều tiết lượng cung cầu về vốn của nền
kinh tế quốc dân, với mục tiêu tạo khả năng vay vốn và hoàn trả nợ vay của các
chủ thể trong nền kinh tế quốc dân, kiểm soát lạm phát, đồng thời vẫn đảm bảo
hiệu quả hoạt động của ngân hàng thương mại. Do vậy, việc thực hiện chính sách
tiền tệ thắt chặt hay nới lỏng đều có tác động trực tiếp đến hoạt động của các
ngân hàng thương mại, đến các chủ thể trong nền kinh tế, và tác động đến hiệu
quả kinh doanh của ngân hàng thương mại.
Bên cạnh đó các chính sách khác như: Chính sách quản lí xuất nhập khẩu
có ảnh hưởng đến hoạt động của các chủ thể trong nền kinh tế và cũng tác động
đến hoạt động của ngân hàng thương mại; Chính sách tài chính, là việc quy định
của nhà nước về việc trích lập dự phòng rủi ro, chế độ chi phí, thuế, hạch toán kế
toán, …; Chính sách quản lí ngoại hối và tỷ giá có ảnh hưởng đến hoạt động
thanh toán và hoạt động kinh doanh ngoại tệ của các ngân hàng thương mại.
Do đó, trên cơ sở thực tiễn chính sách mà Nhà nước đưa ra, các ngân hàng
phải nghiên cứu để đưa ra những phương án tối ưu nhằm ổn định và nâng cao
hiệu quả hoạt động của mình.
1.3.1.3. Sự gia tăng cạnh tranh

Sự gia tăng trong lĩnh vực dịch vụ tài chính đang ngày càng trở lên quyết
liệt khi ngân hàng và các đối thủ cạnh tranh mở rộng danh mục dịch vụ. Các
ngân hàng, các quỹ đầu tư, các quỹ hưu trí, các hiệp hội tiết kiệm… đang cạnh
SINH VIÊN THỰC HIỆN: LÊ PHAN LONG TCDN48B
ĐẠI HỌC KTQD KHOA NGÂN HÀNG TÀI CHÍNH
tranh để tìm kiếm các nguồn tiết kiệm và thị trường dịch vụ. Áp lực cạnh tranh
đóng vai trò như một lực đẩy tạo ra sự phát triển dịch vụ cho tương lai.
Cạnh tranh thúc đẩy các ngân hàng cung cấp các tiện ích ngày càng tốt
hơn cho khách hàng, cạnh tranh buộc các ngân hàng trong nước phải áp dụng
công nghệ mới, thay đổi tư duy về tuyển dụng nhân sự, mức lương quảng cáo, và
đặc biệt chú ý tới chất lượng các dịch vụ
1.3.1.4. Trình độ phát triển của thị trường tài chính
Đây cũng ảnh hưởng tới hoạt động huy động vốn, lãi suất huy động vốn
của ngân hàng thương mại. Sự phát triển của thị trường tài chính đồng nghĩa với
việc nguồn vốn nhàn rỗi có thể đầu tư vào nhiều hình thức khác nhau, do vậy
việc huy động vốn nhàn rỗi của ngân hàng thương mại bị cạnh tranh, buộc các
ngân hàng phải điều chính sách lãi suất huy động.
1.3.1.5. Tỷ lệ sinh lời từ các hoạt động đầu tư khác trên thị trường tài chính
Đây cũng là một trong các yếu tố ảnh hưởng đến lãi suất huy động và ảnh
hưởng tới hiệu quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại. Trong điều
kiện tỷ lệ sinh lợi từ các hoạt động đầu tư khác như đầu tư vào vàng, bất động
sản, đầu tư vào chứng khoán thấp hơn so với lãi suất huy động của ngân hàng thì
một lượng tiền lớn được chuyển từ lĩnh vực bất động sản và chứng khoán sang
tiết kiệm, và ngược lại. Do đó để đảm bảo huy động vốn đáp ứng được các yêu
cầu về vốn của các chủ thể trong nền kinh tế, ngân hàng thương mại phải điều
chỉnh lãi suất theo hướng hấp dẫn hơn đối với các chủ thể kinh tế.
1.3.2. Các yếu tố thuộc về ngân hàng
1.3.2.1. Áp lực gia tăng vốn chủ sở hữu
Vốn chủ sở hữu là điều kiện ban đầu để thành lập ngân hàng, là nguồn tài
trợ chính cho xây dựng trụ sở ngân hàng, mua sắm thiết bị. Vốn chủ sở hữu có

chức năng quan trọng là chông đỡ rủi ro cho những ngưòi gửi tiền. Do vậy, mức
tối thiểu luôn được các cơ quan chức năng kiểm soát ngân hàng quan tâm. Rất
nhiều những chỉ tiêu hoạt động của ngân hàng bị ràng buộc với vốn chủ sở hữu,
như: mức huy động vốn tối đa, mức cho vay tối đa cho một khách hàng… Vốn
SINH VIÊN THỰC HIỆN: LÊ PHAN LONG TCDN48B

×