Tải bản đầy đủ (.doc) (67 trang)

phát triển nghiệp vụ cho vay tiêu dùng tại ngân hàng việt nam thịnh vượng - chi nhánh hà nội năm 2011

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (458.32 KB, 67 trang )

Chuyên đề thực tập cuối khóa
MỤC LỤC
Quy mô mỗi khoản cho vay nhỏ, số lượng các khoản vay lớn 12
Lãi suất CVTD thường cao hơn so với các món vay khác của NH.
13
Các khoản CVTD thường có tài sản đảm bảo 14
Các khoản CVTD có khả năng sinh lời cao 14
Hoàng Thị Lý Tài chính doanh nghiệp 49 C
Chuyên đề thực tập cuối khóa
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
- CVTD: Cho vay tiêu dùng
- CBNV: Cán bộ nhân viên
- NHNN: Ngân hàng Nhà nước
- NHTM: Ngân hàng thương mại
- TMCP: Thương mại cổ phần
- LNTT: Lợi nhuận trước thuế
- SXKD: Sản xuất kinh doanh
- PGD: Phòng giao dịch
- BIDV: Ngân hàng TMCP Đầu tư và phát triển Việt Nam
- Agribank Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn VN
- Vietcombank Ngân hàng TMCP Ngoại thương VN
- Vietinbank Ngân hàng TMCP Công thương VN
Hoàng Thị Lý Tài chính doanh nghiệp 49 C
Chuyên đề thực tập cuối khóa
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1: Tình hình huy động vốn tại VPBank Hà Nội 2008- 2010 Error:
Reference source not found
Bảng 2.2: Cơ cấu huy động vốn theo đối tượng của VPBank Hà Nội 2008-2010 Error:
Reference source not found
Bảng 2.3. Cơ cấu huy động theo kỳ hạn Error: Reference source not found
Bảng 2.4. Cơ cấu huy động phân theo tiền tệ Error: Reference source not found


Bảng 2.5: Tình hình tín dụng tại VPBank Hà Nội từ năm 2008-2010 Error:
Reference source not found
Bảng 2.6: Kết quả hoạt động kinh doanh của VPBank Hà Nội 2008-2010. .Error:
Reference source not found
Bảng 2.7: Tỷ trọng và tốc độ tăng doanh số cho vay tiêu dùng Error: Reference
source not found
Bảng 2.8: Doanh số cho vay tiêu dùng theo thời hạn. Error: Reference source not
found
Bảng 2.9: Doanh số cho vay tiêu dùng theo mục đích sử dụng .Error: Reference
source not found
Bảng 2.10: Tỷ trọng dư nợ cho vay tiêu dùng và cơ cấu cho vay tại VPBank Error:
Reference source not found
Hà Nội 2008-2010 Error: Reference source not found
Bảng 2.11 : Dư nợ cho vay tiêu dùng theo thời hạn tại chi nhánh Error:
Reference source not found
Bảng 2.12: Dư nợ cho vay tiêu dùng theo mục đích tại chi nhánh Error:
Reference source not found
Bảng 2. 13: Tỷ lệ nợ quá hạn cho vay tiêu dùng tại VPBank Hà nội Error:
Reference source not found
Bảng 2.14: Tỷ trọng lợi nhuận cho vay tiêu dùng tại VPBank Hà Nội Error:
Reference source not found
Hoàng Thị Lý Tài chính doanh nghiệp 49 C
Chuyên đề thực tập cuối khóa

Hoàng Thị Lý Tài chính doanh nghiệp 49 C
Chuyên đề thực tập cuối khóa
LỜI MỞ ĐẦU
Kinh tế Việt Nam trong những năm gần đây phát triển và tăng trưởng duy trì ở
mức cao, đời sống người dân ngày càng được cải thiện và nâng cao chất lượng cuộc
sống càng được người dân chú trọng hơn. Trước đây, người dân chỉ lo làm sao “ăn no

mặc ấm” thì giờ đây nhu cầu đó đã được nâng lên cao hơn để thỏa mãn một cuộc sống
hiện đại hơn với những căn hộ cao cấp, những chiếc xe đắt tiền hay chỉ đơn giản là
mua sắm những vật dụng đời mới trong gia đình… Việc sở hữu một căn hộ hoặc một
phương tiện đi lại trở nên khó khăn khi giá bất động sản, giá xe và lãi suất không có
dấu hiệu giảm trong một thời gian dài. Trong khi đó người tiêu cũng chịu nhiều áp lực
về tài chính vì giá cả leo thang mà nhu cầu tiêu dùng ngày càng nhiều. Chính vì vậy
mà khả năng sở hữu tài sản theo cách truyền thống trở nên khó thực hiện.
Khi sử dụng vốn từ các nguồn huy động truyền thống như vay người thân, vay
nóng hoặc tham gia các hình thức góp vốn khác người tiêu dùng có thể sở hữu được tài
sản mong muốn nhưng rủi ro tiềm ẩn của phương pháp này khá cao. Vay người thân là
một hình thức truyền thống phổ biến tại Việt Nam, người sử dụng vốn có thể nhanh
chóng có được số vốn mình cần và có thể không phải trả lãi suất. Tuy nhiên, người sử
dụng cũng không thể chủ động được về nguồn vốn và thời gian đáo hạn cho số vốn
này. Vay nóng hoặc tham gia các hình thức góp vốn khác còn tiềm ẩn nhiều rủi ro hơn.
Người sử dụng phải chịu một mức lãi suất cao và có thể mất tiền nếu tổ chức góp vốn
không minh bạch.
Hiện nay với hoạt động cho thuê tài chính đa dạng tại Việt Nam, một trong
những giải pháp an toàn hơn để người dân có thể đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng hiện
tại là các sản phẩm cho vay tiêu dùng tại ngân hàng thương mại.
Cho vay tiêu dùng là sảm phẩm phổ biến ở nhiều quốc gia, đặc biệt là ở các
nước phát triển. Tại Việt Nam, cho vay tiêu dùng không còn là khái niệm mới, hầu hết
các ngân hang thương mại đều có các sản phẩm cho vay tiêu dùng đa dạng nhằm đáp
ứng nhu cầu tiêu dùng phong phú của người dân từ các khoản vay lớn như mua nhà,
mua ôtô cho đến các khoản vay nhỏ như vay mua đồ gia dụng nhưng dịch vụ này vẫn
ở dạng tiềm năng đối với hệ thống ngân hàng VN – đa số các ngân hàng thương mại
cho biết dịch vụ cho vay tiêu dùng phát triển chưa xứng với tiềm năng của thị trường
Hoàng Thị Lý 1 Tài chính doanh nghiệp 49 C
Chuyên đề thực tập cuối khóa
trong nước với hơn 86 triệu dân, dân số trẻ chiếm đa số và phần đông sinh sống ở
thành thị.

Trên thế giới, cho vay tiêu dùng phát triển mạnh mẽ và là một trong những
khoản mang lại lợi nhuận lớn cho các ngân hàng thương mại, chỉ số tiêu dùng ở nhiều
nước được coi là dấu hiệu chủ chốt cho sự phát triển của nền kinh tế.
Nhận thấy được vai trò quan trọng của việc phát triển nghiệp vụ cho vay tiêu
dùng đối với người dân, với các ngân hàng thương mại cũng như với sự phát của nền
kinh tế, do đó, với sự gợi ý và chỉ dẫn của Thạc sĩ Nguyễn Thị Minh Quế, cùng với
điều kiện được thực tập tại một chi nhánh lớn của Ngân hàng Việt Nam Thịnh Vượng
– một ngân hàng đã và đang triển khai các sản phẩm cho vay tiêu dùng khá hiệu quả –
em đã chọn đề tài : “Phát triển nghiệp vụ cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng Việt
Nam Thịnh Vượng - Chi nhánh Hà Nội “ làm chuyên đề thực tập cuối khóa của
mình. Bài chuyên đề gồm 3 chương:
Chương 1: Lý luận chung về phát triển cho vay tiêu dùng
Chương 2: Thực trạng hoạt động cho vay tiêu dùng tại chi nhánh
VPbank Hà Nội
Chương 3: Giải pháp phát triển nghiệp vụ cho vay tiêu dùng tại chi
nhánh VPbank Hà Nội
Do hạn chế về sự hiểu biết và thời gian nghiên cứu, nên trong nội dung nghiên
cứu chắc chắn sẽ còn tồn tại nhiều thiếu sót. Em rất mong nhận được sự góp ý, giúp đỡ
và chỉ bảo của các thầy cô giáo!
Hoàng Thị Lý 2 Tài chính doanh nghiệp 49 C
Chuyên đề thực tập cuối khóa
CHƯƠNG I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÁT TRIỂN CHO VAY TIÊU DÙNG
1.1. Tổng quan về Ngân hàng thương mại.
1.1.1. Khái niệm và chức năng của Ngân hàng thương mại.
1.1.1.1. Khái niệm.
Ngân hàng là một trong các tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền kinh tế.
Ngân hàng bao gồm nhiều loại tùy thuộc vào sự phát triển của nền kinh tế nói chung
và hệ thống tài chính nói riêng, trong đó ngân hàng thương mại thường chiếm tỷ trọng
lớn nhất về quy mô tài sản, thị phần và số lượng các ngân hàng. Trên thế giới có nhiều

định nghĩa khác nhau về ngân hàng thương mại như :
Ở Mỹ: “ NHTM là công ty kinh doanh tiền tệ, chuyên cung cấp dịch vụ tài
chính và hoạt động trong ngành công nghiệp dịch vụ tài chính”.
Ở Pháp : “ NHTM là những xí nghiệp và cơ sở nào thường xuyên nhận tiền bạc
của công chúng dưới hình thức ký thác hay hình thức khác và sử dụng số tiền đó cho
chính họ vào nghiệp vụ chiết khấu, tín dụng hay dịch vụ tài chính”
Tại Việt Nam, theo Luật các tổ chức tín dung do Quốc hội khóa X thông qua
ngày 12/12/1997, định nghĩa: “ Ngân hàng thương mại là một loại hình tổ chức tín
dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động của ngân hàng và các hoạt động khác có liên
quan”. Trong luật cũng định nghĩa: “ Tổ chức tín dụng là loại hình doanh nghiệp được
thành lập theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật để hoạt động
kinh doanh tiền tệ, làm dịch vụ ngân hàng với nội dung nhận tiền gửi và sử dụng tiền
gửi để cấp tín dụng, cung ứng các dịch vụ thanh toán.”
Luật tổ chức tín dụng không định nghĩa về hoạt động ngân hàng, mà khái niệm
này đã được Luật ngân hàng nhà nước định nghĩa như sau: “ Hoạt động ngân hàng là
hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận
tiền gửi và sử dụng số tiền này để cấp tín dụng, cung cấp các dịch vụ thanh toán.”
1.1.1.2. Chức năng
 NHTM là trung gian tín dụng
Đây là chức năng cơ bản và đặc trưng nhất của NHTM và có ý nghĩa đặc biệt
quan trọng trong việc thúc đẩy nền kinh tế hàng hóa phát triển. Thực hiện chức năng
Hoàng Thị Lý 3 Tài chính doanh nghiệp 49 C
Chuyên đề thực tập cuối khóa
này, một mặt NHTM huy động và tập trung vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi trong nền
kinh tế từ các cá nhân, tổ chức kinh tế…để hình thành nguồn vốn cho vay, mặt khác,
trên cơ sở nguồn vốn đã huy động được ngân hàng sử dụng cho vay để đáp ứng nhu
cầu vốn của nền kinh tế. Với chức năng trung gian tín dụng, NHTM đang làm công tác
điều chuyển vốn từ nơi thừa đến nơi thiếu, kích thích quá trình luân chuyển vốn của xã
hội và quá trình tái sản xuất của doanh nghiệp.
 NHTM là trung gian thanh toán.

Ngân hàng trở thành trung gian thanh toán lớn nhất hiện nay ở hầu hết các quốc
gia. Ở đây NHTM đóng vai trò là thủ quỹ cho các doanh nghiệp và cá nhân, thực hiện
các thanh toán theo yêu cầu của khách hàng như trích tiền từ tài khoản tiền gửi của họ
để thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ hoặc nhập vào tài khoản tiền gửi của khách hàng
tiền thu bán hàng và các khoản thu khác theo lệnh của họ. Các NHTM cung cấp cho
khách hàng nhiều phương tiện thanh toán tiện lợi như séc, ủy nhiệm chi, ủy nhiệm thu,
thẻ rút tiền, thẻ thanh toán, thẻ tín dụng… Tùy theo nhu cầu, khách hàng có thể chọn
cho mình phương thức thanh toán phù hợp. Nhờ đó mà các chủ thể kinh tế không phải
giữ tiền trong túi, mang theo tiền để gặp chủ nợ, gặp người phải thanh toán dù ở gần
hay xa mà họ có thể sử dụng một phương thức nào đó để thực hiện các khoản thanh
toán. Do vậy các chủ thể kinh tế sẽ tiết kiệm được rất nhiều chi phí, thời gian, lại đảm
bảo thanh toán an toàn. Chức năng này vô hình chung đã thúc đẩy lưu thông hàng hóa,
đẩy nhanh tốc độ thanh toán, tốc độ lưu chuyển vốn, từ đó góp phần phát triển kinh tế.
 Chức năng tạo tiền, phương tiện thanh toán.
Tạo tiền là một chức năng quan trọng, phản ánh rõ bản chất của ngân NHTM.
Với mục tiêu là tìm kiếm lợi nhuận như là một yêu cầu chính cho sự tồn tại và phát
triển của mình, các NHTM với nghiệp vụ kinh doanh mang tính đặc thù của mình đã
vô hình chung thực hiện chức năng tạo tiền cho nền kinh tế. Chức năng tạo tiền được
thực thi trên cơ sở hai chức năng khác của NHTM là chức năng tín dụng và chức năng
thanh toán. Thông qua chức năng trung gian tín dụng, ngân hàng sử dụng số vốn huy
động được để cho vay, số tiền cho vay ra lại được khách hàng sử dụng để mua hàng
hóa, thanh toán dịch vụ trong khi số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán của khách
hàng vẫn được coi là một bộ phận của tiền giao dịch … Với chức năng này, hệ thống
Hoàng Thị Lý 4 Tài chính doanh nghiệp 49 C
Chuyên đề thực tập cuối khóa
NHTM đã làm tăng tổng phương tiện thanh toán trong nền kinh tế, đáp ứng nhu cầu
thanh toán, chi trả của xã hội.
1.1.2. Hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại
1.1.2.1. Khái niệm:
Cho vay là hoạt động mang tính truyền thống và là chức năng kinh tế hàng đầu của

các Ngân hàng giúp Ngân hàng thực hiện việc chuyển tiết kiệm thành đầu tư. Ngân hàng
thương mại có thể cho các tổ chức, cá nhân vay ngắn hạn nhằm đáp ứng nhu cầu vốn
cho sản suất, kinh doanh, đời sống và cũng có thể cho các tổ chức, cá nhân vay trung và
dài hạn nhằm thực hiện các dự án đầu tư phát triển sản suất kinh doanh
Nhiều người vẫn đồng nghĩa hoạt động cho vay và hoạt động tín dụng của Ngân
hàng là một nhưng thực ra không phải vậy. Tín dụng rộng hơn cho vay, nó bao gồm
cho vay và các hoạt động khác như chiết khấu thương phiếu, cho thuê tài chính Có
thể hiểu rằng: Cho vay là một giao dịch về tài sản (tiền hoặc hàng hoá) giữa bên cho
vay (Ngân hàng và các định chế tài chính khác) và bên đi vay (cá nhân, doanh nghiệp
và các chủ thể khác), trong đó bên cho vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng
trong một thời gian nhất định theo thoả thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô
điều kiện vốn gốc và lãi cho bên đi vay khi đến hạn thanh toán.
Đối với hầu hết các Ngân hàng, khoản mục cho vay chiếm quá nửa giá trị tổng
tài sản và tạo ra từ 1/2 đến 1/3 thu nhập của Ngân hàng. Đồng thời, rủi ro trong các
hoạt động Ngân hàng có xu hướng tập trung vào danh mục các khoản cho vay. Vậy
thực ra Ngân hàng đã thực hiện những khoản cho vay nào?
1.1.2.2. Phân loại hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại
Có rất nhiều tiêu thức khác nhau để Ngân hàng phân loại cho vay như: theo thời
gian, theo tài sản đảm bảo, theo đối tượng cho vay, theo phương thức cho vay, theo
nguồn cho vay Cụ thể như:
- Theo đối tượng tham gia vào quy trình cho vay:
+ Cho vay trực tiếp: là loại hình cho vay mà Ngân hàng cấp vốn trực tiếp
cho người có nhu cầu, đồng thời người đi vay trực tiếp hoàn trả nợ cho Ngân hàng.
+ Cho vay gián tiếp: là hình thức cho vay qua các tổ chức trung gian. Tổ
chức trung gian ở đây có thể là các tổ, hội, đội nhóm như nhóm sản suất, hội nông dân,
Hoàng Thị Lý 5 Tài chính doanh nghiệp 49 C
Chuyên đề thực tập cuối khóa
hội phụ nữ hoặc các công ty bán lẻ. Đối với các công ty bán lẻ, Ngân hàng sẽ mua lại
các khế ước hoặc các chứng từ nợ phát sinh và còn trong thời hạn thanh toán.
- Theo mức độ tín nhiệm khách hàng:

+ Cho vay có bảo đảm: là loại hình cấp tín dụng dựa trên các bảo đảm như
thế chấp hay cầm cố, hoặc phải có sự bảo lãnh của bên thứ ba. Đối với các khách hàng
không có uy tín cao đối với Ngân hàng, khi vay vốn đòi hỏi phải có đảm bảo. Sự đảm
bảo này là căn cứ pháp lý để Ngân hàng có thêm nguồn thu thứ hai, bổ xung cho
nguồn thu nợ thứ nhất thiếu chắc chắn.
+ Cho vay không có đảm bảo: là loại hình cho vay không có tài sản thế
chấp. cầm cố hoặc sự đảm bảo của người thứ ba, mà việc cho vay chỉ dựa vào uy tín
của bản thân khách hàng. Đối với những khách hàng tốt, trung thực trong kinh doanh,
có khả năng tài chính lành mạnh, quản trị có hiệu quả thì Ngân hàng có thể cấp tín
dụng dựa vào uy tín bản thân khách hàng mà không cần một nguồn thu nợ thứ hai bổ
sung.
- Theo mục đích sử dụng vốn:
+ Cho vay nhằm mục đích sản suất kinh doanh: Ngân hàng cho các tổ chức,
doanh nghiệp hay các công ty vay để kinh doanh dịch vụ hay thực hiện các dự án đầu
tư, các phương án sản suất.
+ Cho vay tiêu dùng: Ngân hàng cho các cá nhân hay hộ gia đình vay để
đáp ứng nhu cầu mua sắm hàng tiêu dùng lâu bền như nhà cửa, phương tiện vận
chuyển
Cho vay tiêu dùng là một trong những dịch vụ Ngân hàng mới phát triển gần đây
nhưng đã tỏ rõ được ưu thế của nó so với các khoản cho vay khác của Ngân hàng. Phát
triển hoạt động cho vay tiêu dùng đã trở thành xu hướng tất yếu để các Ngân hàng
nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường tài chính.
1.2. Hoạt động CVTD của ngân hàng thương mại.
1.2.1. Lịch sử phát triển cho vay tiêu dùng.
Kể từ sau Đại chiến Thế giới lần thứ hai, nền kinh tế các nước tham gia bị tàn
phá nặng nề, sản xuất bị đình trệ, đời sống người dân gặp nhiều khó khăn, một mặt,
chính phủ các nước thực hiện các khoản hỗ trợ nhằm khôi phục lại hoạt động sản xuất,
Hoàng Thị Lý 6 Tài chính doanh nghiệp 49 C
Chuyên đề thực tập cuối khóa
xây dựng lại cơ sở hạ tầng công nghiệp, kiến thiết lại đất nước, một mặt, hỗ trợ người

dân để đáp ứng cho nhu cầu tiêu dùng trong dân cư, đấy chính là tiền thân của hoat
động CVTD sau này. CVTD được bắt đầu từ các hãng bán lẻ do yêu cầu đầy mạnh
tiêu thụ hàng hoá, hình thức CVTD của các hãng là bán trả góp. Thu nhập cá nhân
tăng đều và được đảm bảo là một chỉ tiêu tối quan trọng để thực hiện các khoản tín
dụng tiêu dùng bởi vì nó cho phép họ mua được hàng hoá dịch vụ ngày hôm này dựa
trên thu nhập của ngày mai. Đặc biệt, từ sau cuộc khủng hoảng trong hệ thống ngân
hàng bắt đầu từ những năm 1970, cuộc cạnh tranh giữa các công ty tài chính, các công
ty thương mại với các ngân hàng thương mại ngày càng trở nên khốc liệt hơn. Điều
này làm thị phần cho vay các doanh nghiệp của ngân hàng bị giảm sút. Do đó đến đầu
những năm 1980, Quốc hội Mỹ đã cho phép các ngân hàng cung ứng, phát triển nhiều
sản phẩm và dịch vụ hơn nữa nhằm tăng khả năng cạnh tranh cho các ngân hàng, đặc
biệt là các ngân hàng thương mại. Vì thế, nghiệp vụ CVTD được chú trọng phát triển,
và ngày càng giữ vai trò quan trọng trong hoạt động tín dụng của các ngân hàng
thương mại. Trong giai đoạn này nợ tiêu dùng bắt đầu tăng nhanh chóng, tăng nhanh
hơn nhiều so với thu nhập có thể sử dụng.
Từ đó đến nay, các ngân hàng trở thành tổ chức cấp tín dụng chính trong lĩnh
vực cho vay tiêu dùng. Một trong những nguyên nhân cơ bản khiến cho ngân hàng giữ
được vị trí thống trị trên lĩnh vực này là ngân hàng đó khả năng khai thác nguồn tiền
gửi của dân cư và coi đây là nguồn vốn hoạt động quan trọng nhất. Rất nhiều hộ gia
đình sẽ không muốn gửi tiền của mình vào một ngân hàng nếu họ không thấy được
rằng mình sẽ có triển vọng vay lại tiền từ chính ngân hàng đó khi có nhu cầu.
Đến năm 1987, sau 7 năm ban hành luật này, các ngân hàng Mỹ đã cung cấp
80% khối lượng tín dụng tiêu dùng. Trong đó 45% dựa trên cơ sở cho vay trả góp. Còn
đối với các nước thuộc khu vực châu Âu CVTD chiếm bộ phận rất lớn trong tổng số
cho vay của các ngân hàng, các sản phẩm tập trung vào cho vay để mua xe, mua nhà,
đi học, du lịch, và các mua sắm khác. Một số nước thuộc khu vực châu Á (như Malai,
Thái) CVTD cũng đang phát triển khá nhanh, quan trọng nhất là cho vay mua xe trả
góp, chiếm một tỷ trọng khá lớn. Ngày nay, nghiệp vụ CVTD trở nên hoàn thiện hơn
với các hình thức mà loại hình tín dụng này cung cấp cho khách hàng ngày càng đa
dạng và phong phú. Đi cùng với sự phát triển của xã hội, mức sống con người ngày

Hoàng Thị Lý 7 Tài chính doanh nghiệp 49 C
Chuyên đề thực tập cuối khóa
càng được nâng cao, thì tín dụng tiêu dùng là một dịch vụ hết sức linh hoạt và tiện ích
cho người tiêu dùng và nó đang dần trở thành một xu hướng trên thế giới.
1.2.2. Cho vay tiêu dùng trong ngân hàng thương mại.
1.2.2.1. Khái niệm cho vay tiêu dùng.
CVTD được thực hiện để tài trợ cho chính sự tiêu dùng của dân cư vì vậy đối
tượng của tín dụng tiêu dùng là các nhu cầu vay của cá nhân. Tuỳ thuộc vào tình hình
tài chính của họ mà có những mức độ khác nhau: ở những cá nhân có mức thu nhập
thấp nhu cầu tín dụng thường không cao, nó chỉ xuất hiện nhằm thoả mãn nhu cầu giao
dịch tạo ra sự cân đối giữa thu nhập và chi tiêu. Với những cá nhân có mức thu nhập
trung bình, nhu cầu về tín dụng tiêu dùng có xu hướng tăng mạnh do việc hoặc là có ý
muốn vay mượn để mua hàng tiêu dùng hơn dùng khoản tiền dự phòng của mình, hoặc
là không tiết chế nhu cầu tiêu thụ của mình mà lao vào những chi tiêu có tính cách phô
trương hoặc thời trang dẫn tới quá khả năng thu nhập của chính họ. Còn đối với đối
tượng là những người có thu nhập cao, nhu cầu tín dụng tiêu dùng nảy sinh làm tăng
thêm khẳ năng thanh toán hoặc là một khoản tài trợ rất linh hoạt trong chi tiêu, nhất là
khi vốn của họ đã nằm trong tài khoản đầu tư dài hạn; xét về số tuyệt đối thì nhu cầu
của nhóm người này thường lớn.
Các cá nhân được đề cập ở đây là những cá nhân có đủ năng lực pháp lý (cũng
có thể họ đại diện cho một hộ gia đình) thuộc nhiều thành phần khác nhau, như cán bộ,
công viên chức nhà nước, của những đơn vị tư nhân, liên doanh, hay những người lao
động tự do
Nhu cầu tín dụng được thể hiện cụ thể qua các mục đích chủ yếu như: mua, sửa
chữa cải tạo nâng cấp nhà ở, các chuyển động sản: ô tô, xe máy , các đồ dùng sinh
hoạt: đồ gỗ, phương tiện thông tin, các dụng cụ sinh hoạt khác; các chi phí cho hôn lễ,
du lich, học tập của học sinh, sinh viên
Từ đó, ta có thể định nghĩa về cho vay tiêu dùng như sau: CVTD là hình thức
tài trợ của ngân hàng cho mục đích chi tiêu của người tiêu dùng bao gồm cá nhân, hộ
gia đình. Các khoản cho vay tiêu dùng là nguồn tài chính quan trọng giúp những người

tiêu dùng có thể trang trải nhu cầu trong cuộc sống như nhà ở, phương tiện đi lại, tiện
Hoàng Thị Lý 8 Tài chính doanh nghiệp 49 C
Chuyên đề thực tập cuối khóa
nghi sinh hoạt…từ đó nâng cao mức sống của người tiêu dùng trước khi họ có đủ khả
năng về tài chính để thụ hưởng.
1.2.2.2. Phân loại cho vay tiêu dùng.
CVTD có thể phân loại dựa trên nhiều tiêu thức khác nhau nhằm giúp cho
chúng ta có được cái nhìn toàn diện về CVTD, có thể phân loại CVTD theo các tiêu
thức chủ yếu sau:
 Căn cứ vào mục đích cho vay:
- CVTD cư trú:
Là các khoản cho vay nhằm tài trợ cho nhu cầu mua sắm, xây dựng hoặc cải
tạo nhà ở của khách hàng là cá nhân và hộ gia đình.
- CVTD không cư trú:
Là các khoản cho vay tài trợ cho việc trang trải các chi phí mua sắm xe cộ,
đồ dùng gia đình, chi phí học hành, giải trí và du lịch
 Căn cứ vào biện pháp bảo đảm tiền vay hay tài sản đảm bảo của khoản
vay: khách hàng của CVTD là cá nhân hay hộ gia đình, họ luôn phải đối mặt với rủi ro
trong cuộc sống như ốm đau, bệnh tật, thiên tai… hay rủi ro trong công việc, do đó,
ngân hàng muốn có nguồn trả nợ thứ hai khi nguồn trả nợ thứ nhất không có hoặc
không đủ để trả. Việc xác minh nguồn trả nợ, hay khả năng trả nợ của người vay là
không rõ ràng, thiếu thông tin, rủi ro cao nên hầu hết các ngân hàng ở VN đều yêu cầu
khách hàng khi vay phải có tài sản đảm bảo. Theo tiêu chí này ta có thể phân chia
CVTD thành :
- Cho vay có tài sản đảm bảo thuộc sở hữu của người vay hay bảo
lãnh của bên thứ ba:
- Cho vay thế chấp bằng lương:
- Cho vay có tài sản đảm bảo hình thành từ khoản vay:
- Cho vay tín chấp đối với CBNV:
 Căn cứ theo hình thức hoàn trả khoản vay:

- CVTD trả góp: Đây là hình thức CVTD trong đó người đi vay trả nợ gốc cho
ngân hàng nhiều lần, theo những kỳ hạn nhất định trong thời hạn cho vay. Phương
thức này thường được áp dụng cho các khoản vay có giá trị lớn, thu nhập từng kỳ của
người đi vay không đủ khả năng thanh toán hết một lần số nợ vay và thường là các
Hoàng Thị Lý 9 Tài chính doanh nghiệp 49 C
Chuyên đề thực tập cuối khóa
khoản vay trung và dài hạn, tài trợ cho tài sản cố định hoặc hàng hóa lâu bền. Ngân
hàng thường cho vay trả góp với người tiêu dùng thông qua hạn mức nhất định. Ngân
hàng sẽ thanh toán cho người bán lẻ về số hàng hóa mà khách hàng đã mua trả góp.
Các cửa hàng bán lẻ nhận ngay tiền sau khi bán hàng từ phía ngân hàng và làm đại lý
thu tiền cho ngân hàng hoặc khách hàng trả trực tiếp cho ngân hàng. Đây là hình thức
tín dụng cho người mua (qua đó đến người bán) nhằm khuyến khích tiêu thụ hàng hóa.
Cho vay tiêu dùng trả góp có rủi ro cao do khách hàng thường thế chấp bằng
hàng hóa mua trả góp. Khả năng trả nợ phụ thuộc vào thu nhập đều đặn của người vay.
Nếu người vay mất việc hoặc ốm đau, thu nhập giảm sẽ ảnh hưởng đến khả năng thu
nợ của ngân hàng, do đó thông thường ngân hàng yêu cầu người vay phải thanh toán
trước một phần giá trị tài sản cần mua sắm, ngân hàng chỉ cho vay phần còn lại. Số
tiền trả trước phụ thuộc vào đặc tính, mức độ giảm giá hay khả năng tiêu thụ hàng hóa
đó. Nếu tài sản có mức giảm giá nhanh thì số tiền trả trước sẽ lớn và nếu khả năng tiêu
thụ hàng hóa này sau khi sử dụng cao thì số tiền này sẽ nhỏ.
- CVTD trả một lần: Theo phương pháp này tiền vay được khách hàng thanh toán
cho ngân hàng chỉ một lần khi đến hạn. Thường là các khoản cho vay này có giá trị
nhỏ nhằm đắp ứng nhu cầu tiền mặt tức thời như sửa chữa tài sản cố định mua sắm vật
dụng thiết yếu …
- CVTD tuần hoàn: Là các khoản CVTD trong đó ngân hàng cho phép khách
hàng sử dụng thẻ tín dụng hoặc phát hành loại séc được phép thấu chi dựa trên tài
khoản vãng lai. Theo phương thức này, trong thời hạn tín dụng được thoả thuận trước,
căn cứ vào nhu cầu chi tiêu và thu nhập kiếm được từng kỳ, khách hàng được ngân
hàng cho phép thực hiện việc vay và trả nợ nhiều kỳ một cách tuần hoàn, theo một hạn
mức tín dụng.

Lãi phải trả mỗi kỳ có thể tính dựa trên các cách sau:
+ Lãi được tính dựa trên số dư nợ đã được điều chỉnh: Theo phương pháp này
số dư nợ được dùng để tính lãi là số dư nợ cuối cùng của mỗi kỳ sau khi khách hàng
đã thanh toán nợ cho ngân hàng.
+ Lãi được tính dựa trên số dư nợ trước khi được điều chỉnh: Theo cách này số
dư nợ dùng để tính lãi là số dư nợ mỗi kỳ có trước khi khoản nợ được thanh toán.
+ Lãi được tính trên cơ sở dư nợ bình quân.
Hoàng Thị Lý 10 Tài chính doanh nghiệp 49 C
Chuyên đề thực tập cuối khóa
 Căn cứ theo phương thức cho vay:
Cách phân loại này xuất phát từ việc ngân hàng thương mại có thể thực hiện
những khoản CVTD trực tiếp với khách hàng xin vay tại ngân hàng hoặc dưới hình
thức gián tiếp thông qua các tổ chức trung gian bằng cách mua các phiếu tiêu dùng từ
những người bán hàng hoá hoặc cung cấp dịch vụ tiêu dùng.
- CVTD gián tiếp: được hiều là các hoạt động tín dụng tiêu dùng thông qua việc
ngân hàng mua các phiếu bán hàng từ những người bán lẻ hàng hoá và do vậy nó
chính là hình thức bán tài trợ trả góp của các ngân hàng thương mại.
CVTD gián tiếp có ưu điểm là tạo điều kiện để ngân hàng dễ dàng mở rộng và
tăng doanh số cho vay tiêu dùng. Ngân hàng sẽ giảm thiểu được chi phí khi cho vay.
Đây là cơ sở để mở rộng quan hệ với khách hàng và tạo điều kiện cho các hoạt động
khác của ngân hàng
Tuy nhiên, CVTD gián tiếp cũng bộc lộ một số hạn chế như là ngân hàng
không tiếp xúc trực tiếp với khách hàng khi cho vay mà chỉ được biết thông tin qua
người bán hàng. Người bán hàng không có chuyên môn sâu để thẩm định khách hàng
một cách chi tiết, chính xác dẫn đến rủi ro cho ngân hàng. Đối với hình thức này đòi
hỏi ngân hàng cần có sự giám sát, có quy chế quản lý chặt chẽ đối với người bán hàng
- CVTD trực tiếp: Đây là phương thức ngân hàng trực tiếp tiếp xúc và cho
khách hàng vay cũng như trực tiếp thu nợ từ người vay. CVTD trực tiếp có thể thông
qua các phương thức cấp tín dụng như :
Tín dụng trả theo định kỳ: Theo đó, khách hàng vay và trả trực tiếp cho ngân

hàng với mức trả và thời hạn trả mỗi lần được quy định khi cho vay. Nếu được cấp
tiền vay, toàn bộ số tiền vay được ghi nợ tài khoản cho vay và ghi có tài khoản tiền gửi
các nhân hoặc giao nhận tiền mặt.
Thấu chi: là nghiệp vụ ngân hàng cho phép một cá nhân rút tiền từ tài khoản
vãng lai của mìnhvới số tiền vượt số dư có tới một mức đã được thỏa thuận.
Thẻ tín dụng: ngân hàng phát hành thẻ cho những người có tài khoản ở ngân
hàng đủ điều kiện cấp thẻ và ấn định mực giới hạn tín dụng tối đa mà người có thẻ
được phép sử dụng.
So với CVTD gián tiếp, CVTD trực tiếp có một số ưu điểm sau:
Hoàng Thị Lý 11 Tài chính doanh nghiệp 49 C
Chuyên đề thực tập cuối khóa
Trong CVTD trực tiếp ngân hàng có thể tận dụng được sở trường của nhân viên
tín dụng. Những người này thường được đào tạo chuyên môn và có nhiều kinh nghiệm
trong lĩnh vực tín dụng cho nên các quyết định tín dụng trực tiếp của ngân hàng
thường có chất lượng cao hơn so với trường hợp chúng được quyết định bởi những
công ty bán lẻ hoặc nhân viên tín dụng của công ty bán lẻ. Ngoài ra, trong hoạt động
của mình nhân viên tín dụng ngân hàng có xu hướng chú trọng đến việc tạo ra các
khoản cho vay có chất lượng tốt trong khi nhân viên của những công ty bán lẻ thường
chú trọng đến việc bán cho được nhiều hàng. Bên cạnh đó, tại các điểm bán hàng, các
quyết định tín dụng thường được đưa ra vội vàng và như vậy có thể có nhiều khoản tín
dụng được cấp ra một cách không chính đáng. Hơn nữa, trong một số trường hợp, do
quyết định nhanh, công ty bán lẻ có thể từ chối cấp tín dụng đối với khách hàng tốt của
mình. Nếu người cấp tín dụng là ngân hàng điều này có thể được hạn chế.
CVTD trực tiếp có ưu điểm là linh hoạt hơn so với CVTD gián tiếp. Khi khách
hàng có quan hệ trực tiếp với ngân hàng, có rất nhiều lợi thế có thể phát sinh, có khả
năng làm thoả mãn quyền lợi cho cả hai phía khách hàng lẫn ngân hàng.
1.2.2.3. Đặc điểm cho vay tiêu dùng.
CVTD của ngân hàng nhằm tài trợ cho các nhu cầu tiêu dùng của hộ gia đình và
cá nhân. Khác với cho vay kinh doanh, ở đây người vay sử dụng tiền vay vào các hoạt
động không sinh lời, nguồn trả nợ độc lập so với việc sử dụng tiền vay, vì vậy CVTD

có các đặc điểm sau:
Quy mô mỗi khoản cho vay nhỏ, số lượng các khoản vay lớn.
CVTD tài trợ cho các nhu cầu chi tiêu của cá nhân, hộ gia đình nhằm mua sắm
hàng tiêu dùng lâu bền như mua nhà, phương tiện vận chuyển, xây dựng, sửa chữa nhà
ở … các khoản vay này thường có giá trị nhỏ hơn rất nhiều so với các khoản cho vay
kinh doanh của doanh nghiệp. Một mặc vì giá trị những món hàng tiêu dùng trong gia
đình hay giá trị của một ngôi nhà thường là nhỏ so với khoản vay của các doanh
nghiệp sản xuất kinh doanh. Mặt khác, người dân khi xác định mua sắm tải sản hay
xây dựng nhà cửa cũng đều đã chuẩn bị một phần giá trị của tài sản đó, và chỉ đi vay
một phần ( mà thông thường thì ít khi ngân hàng cho vay đến 100% nhu cầu vốn thực
tế). Nhưng số lượng các khoản vay tiêu dùng lại lớn vì đối tượng của CVTD là cá
nhân, hộ gia đình.
Hoàng Thị Lý 12 Tài chính doanh nghiệp 49 C
Chuyên đề thực tập cuối khóa
Lãi suất CVTD thường cao hơn so với các món vay khác của NH.
Xét về khía cạnh là một ngân hàng, thì lãi suất là doanh thu từ khoản cho vay,
và nó cũng phải đủ lớn đề bù đắp các chi phí phát sinh từ khoản vay. Do đó, lãi suất
CVTD cao là vì các nguyên nhân:
Thứ nhất, chi phí ngân hàng phải bỏ ra trong quá trình cung cấp dịch vụ này cũng
cao hơn nhiều so với cho vay doanh nghiệp. Một mặt là do số lượng các khoản vay là
lớn hơn so với các khoản vay của doanh nghiệp SXKD. Mặt khác, với mọi khoản vay
của từng các nhân, nhân viên tín dụng vẫn phải thẩm định từng hồ sơ vay vốn, vẫn phải
tuân thủ các bước trong quá trình thẩm định. Trong khi, một dự án vay của doanh
nghiệp giá trị có thể lên tới hàng chục tỷ đồng, nhưng vay tiêu dùng chỉ vài chục đến vài
trăm triệu đồng. Với số lượng khoản vay nhiều, NH còn phải mất thêm nhiều chi phí sau
khi giải ngân như quản lý khoản vay, theo dõi và kiểm tra khách hàng thường xuyên…
Thứ hai, CVTD có độ rủi ro cao. Đối tượng của hoạt động CVTD là cá nhân và
hộ gia đình nên chất lượng các thông tin tài chính của khách hàng vay thường không
cao, thiếu chính xác. Nếu như với khách hàng là doanh nghiệp có các bản khai tài
chính cùng với kế hoạch sử dụng vốn rõ ràng để chứng minh khả năng chi trả của

mình thì với khách hàng cá nhân lương và các thu nhập trong tương lai là yếu tố quyết
định đến sự hoàn trả khoản vay, nhưng việc xác định nguồn trả nợ này là khó vì nó
phụ thuộc vào sự trung thực của người vay, tình hình sức khỏe và trình độ học vấn của
họ vì nếu có điều gì đó xảy ra làm giảm hoặc mất khoản thu nhập (lương) thì ngân
hàng rất khó để thu hồi nợ. Do đó mà bên cạnh lãi suất cao, ở nhiều nước, ngân hàng
còn yêu cầu khách hàng phải tham gia mua bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm nhân thọ
Và một phần cũng do CVTD ít nhạy cảm với lãi suất, người vay thường quan
tâm đến khoản tiền mà người ta phải trả định kỳ hơn là lãi suất mặc dù chính lãi suất là
yếu tố quyết định đến giá trị các khoản nợ phải trả định kỳ.
Nhu cầu vay tiêu dùng phụ thuộc vào chu kỳ kinh tế
Nó tăng lên trong thời kỳ nền kinh tế mở rộng, tốc độ tăng trưởng cao, khi mà
mọi người dân cảm thấy lạc quan về tương lai, họ tin tưởng khoản thu nhập trong
tương lai sẽ giúp họ chi trả những khoản tiêu dùng hiện tại, do đó, vay tiêu dùng phát
triển. Ngược lại, khi nền kinh tế rơi vào suy thoái, rất nhiều cá nhân và hộ gia đình
cảm thấy không tin tưởng nhất là khi họ thấy tình trạng thất nghiệp tăng lên và họ sẽ
Hoàng Thị Lý 13 Tài chính doanh nghiệp 49 C
Chuyên đề thực tập cuối khóa
hạn chế việc vay mượn từ ngân hàng để tiêu dùng, trong thời kỳ này, người dân hướng
đến việc tích lũy cho tương lai nhiều hơn.
Các khoản CVTD thường có tài sản đảm bảo.
Do người vay không sử dụng tiền vào các hoạt động kinh doanh, nên việc trả
nợ của khách hàng hoàn toàn phụ thuộc vào các nguồn thu nhập khác của khách hàng.
Sự kiểm soát nguồn thu này của ngân hàng nhiều khi khó khăn hơn. Để hạn chế bớt
các rủi ro, trong hầu hết các khoản cho vay tiêu dùng, ngân hàng đều yêu cầu khách
hàng phải có bảo đảm bằng tài sản.
Các khoản CVTD có khả năng sinh lời cao
Các khoản cho vay tiêu dùng là một trong những khoản mục tín dụng mang lại
mức lợi nhuận cao trong danh mục cho vay của ngân hàng. Các khoản CVTD thường
được định giá rất cao vì việc định giá này dựa trên cơ sở CVTD có chi phí lớn nhất và
rủi ro cao nhất trong danh mục cho vay của ngân hàng. Mặt khác, CVTD thường ít

nhạy cảm với lãi suất, người vay quan tâm đến việc vay được bao nhiêu và phải trả
bao nhiêu hàng kỳ mà không quan tâm đến lãi suất. Họ sẵn sàng chấp nhận lãi suất cao
để có được khoản vay phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng của mình.
Bên cạnh đó, thị trường vay tiêu dùng rộng lớn và rất tiềm năng, xã hội phát
triển, kinh tế tăng trưởng tốt, đời sống người dân được nâng cao thì cho vay tiêu dùng
sẽ phát triển mạnh trong tương lai.
1.3. Phát triển cho vay tiêu dùng trong Ngân hàng thương mại.
1.3.1. Khái niệm phát triển cho vay tiêu dùng trong ngân hàng thương mại.
Để có thể hiểu rõ hơn về phát triển CVTD trong NHTM ta nên tìm hiểu rõ về
khái niệm phát triển trong kinh tế học. Các nhà kinh tế học cho rằng mục tiêu đầu tiên
của tất cả các quốc gia trên thế giới, là thước đo chủ yếu về sự tiến bộ, công bằng
trong mỗi giai đoạn của các quốc gia là tăng trưởng và phát triển. Theo đó, các nhà
kinh tế học định nghĩa rằng : “ Tăng trưởng là sự gia tăng liên tục của đối tượng
nghiên cứu trong một thời gian nhất định, sự gia tăng này được thể hiện ở quy mô và
tốc độ. Bản chất của tăng trưởng là phản ánh sự thay đổi về lượng của đối tượng
nghiên cứu. Nhưng các nhà kinh tế học cũng cho rằng, tăng trưởng phải gắn liền với
tính bền vững hay việc đảm bảo chất lượng tăng trưởng ngày càng cao. Điều này có
Hoàng Thị Lý 14 Tài chính doanh nghiệp 49 C
Chuyên đề thực tập cuối khóa
nghĩa là phải xem xét đến tính hiệu quả của sự tăng lên của quy mô và tốc độ chứ
không đơn thuần là sự gia tăng. Từ đó, khái niệm về phát triển đã được hình thành.
Phát triển là quá trình tăng tiến về mọi mặt của đối tượng nghiên cứu, là sự tăng lên cả
về mặt lượng và chất của đối tượng nghiên cứu.
Từ những khái quát chung về tăng trưởng, phát triển trong kinh tế học, chúng ta
có thể khái quát một cách chung nhất về phát triển CVTD trong NHTM như sau: “
Phát triển cho vay tiêu dùng trong ngân hàng thương mại là sự gia tăng về số lượng và
cải thiện về chất lượng theo hướng tăng dần và mở rộng hoạt động này, cụ thể là sự gia
tăng về doanh số hay dư nợ CVTD mà vẫn đảm bảo chất lượng của khoản vay về khả
năng chi trả nợ vay của khách hàng và từ đó đem lại lợi nhuận cao nhất cho ngân hàng
thương mại”.

1.3.2. Các chỉ tiêu phản ánh sự phát triển CVTD trong NHTM.
1.3.2.1. Doanh số CVTD và tốc độ tăng doanh số CVTD.
Doanh số cho vay tiêu dùng trong kỳ là tổng số tiền ngân hàng đã cho khách
hàng cá nhân, hộ gia đình vay trong kỳ. Doanh số có tính thời kỳ. Tốc độ tăng doanh
số CVTD được tính qua công thức:
Tốc độ tăng
doanh số
= (
Doanh số CVTD năm t
Doanh số CVTD năm t-1
Doanh số CVTD phản ánh kết quả về mở rộng hoạt động cho vay. Nếu như các
nhân tố khác cố định thì doanh số cho vay càng cao phản ánh việc mở rộng hoạt động
cho vay của ngân hàng càng tốt, ngược lại doanh số cho vay của ngân hàng mà giảm
trong khi cố định các yếu tố khác thì chứng tỏ hoạt động của ngân hàng là không tốt.
Sự gia tăng doanh số CVTD tuyệt đối là hiệu số giữa doanh số CVTD năm nay
trừ đi năm trước. Nó chỉ chó biết sự gia tăng về lượng của CVTD của năm nay so với
năm trước đó. Còn về tốc độ tăng chính là sự gia tăng tương đối về mặt lượng của
CVTD năm nay so với năm trước là bao nhiêu %.
Hoàng Thị Lý 15 Tài chính doanh nghiệp 49 C
Chuyên đề thực tập cuối khóa
1.3.2.2. Dư nợ CVTD và tốc độ tăng dư nợ CVTD .
Tổng dư nợ CVTD phản ánh số tiền mà khách hàng vay tiêu dùng đang còn nợ
lại ngân hàng tại một thời điểm nhất định, thường tính tại cuối kỳ kinh doanh của ngân
hàng. Tổng dư nợ cho vay tiêu dùng bao gồm tổng dư nợ cho vay ngắn hạn, trung hạn
hoặc tổng dư nợ cho vay theo mục đích như mua nhà, mua ôtô…
Tốc độ tăng dư nợ CVTD được tính theo công thức :
T
ốc độ tăng dư
nợ CVTD
= ( Dư nợ tăng năm t - 1 )*100

Dư nợ cho vay năm t-1
Tổng dư nợ cao và tăng trưởng nhìn chung phản ánh một phần hiệu quả hoạt
động tín dụng tiêu dùng tốt và ngược lại, tổng dư nợ tín dụng thấp, tốc độ tăng chậm,
ngân hàng không có khả năng mở rộng hoạt động cho vay hay mở rộng thị phần, khả
năng tiếp thị của ngân hàng kém.
Tuy nhiên tổng dư nợ cao chưa hẳn đã phản ánh hiệu quả tín dụng của ngân
hàng cao vì đôi khi nó là biểu hiện cho sự tăng trưởng nóng của hoạt động tín dụng,
vượt quá khả năng về vốn cũng như khả năng kiểm soát rủi ro của ngân hàng, hoặc
mức dư nợ cao, hoặc tốc độ tăng trưởng nhanh do mức lãi suất cho vay của ngân hàng
thấp hơn so với thị trường dẫn đến tỷ suất lợi nhuận giảm.
1.3.2.3. Tỷ lệ nợ quá hạn trong tổng dư nợ cho vay tiêu dùng
Tỷ lệ nợ quá hạn
CVTD
=
Dư nợ quá hạn CVTD
x 100
Tổng dư nợ CVTD
Nợ quá hạn là khoản nợ mà một phần hoặc toàn bộ nợ gốc và/hoặc lãi đã quá
hạn, nó phản ánh lượng vốn mà ngân hàng có nguy cơ gặp rủi ro mất vốn không thu
hồi được. Tỷ lệ nợ quá hạn phản ánh khái quát về tình hình nợ quá hạn của Ngân hàng
trong quá trình cho vay. Chỉ tiêu này càng thấp thì hiệu quả hoạt động của Ngân hàng
càng tốt và ngược lại. Bởi vì, chỉ tiêu này cao sẽ chứng tỏ Ngân hàng đang gặp nhiều
rủi ro. Tuy nhiên, trong thực tế, do những rủi ro trong hoạt động tín dụng nói chung và
hoạt động tín dụng tiêu dùng của Ngân hàng là không thể tránh khỏi. Vì vậy, chấp
nhận một tỷ lệ nợ quá hạn nhất định được coi như giới hạn an toàn. Theo khuyến nghị
của Ngân hàng Thế giới, tỷ lệ này nên ở mức dưới 5% là có thể chấp nhận được.
1.3.2.4. Tỷ trọng cho vay tiêu dùng trong tổng doanh số cho vay trong kỳ.
Hoàng Thị Lý 16 Tài chính doanh nghiệp 49 C
Chuyên đề thực tập cuối khóa
Chỉ tiêu này cho biết, doanh số CVTD trong kỳ chiếm bao nhiêu phần trăm trong

tổng doanh số cho vay trong kỳ của ngân hàng. Sự gia tăng của tỷ trọng nay qua các
năm phản ánh sự tăng lên về lượng của CVTD so với các hoạt động khác. Chỉ tiêu này
được tính như sau :
Tỷ trọng CVTD
trong tổng doanh số
=
Doanh số CVTD trong kỳ
Tổng doanh số cho vay trong kỳ
1.3.2.5. Sự đa dạng trong các sản phẩm và số lượng khách hàng.
Sự đa dạng trong các sản phẩm CVTD sẽ thỏa mãn được nhiều hơn nhu cầu tiêu
dùng ngày càng đa dạng và phong phú của khách hàng. Từ đó sẽ thu hút được nhiều
khách hàng hơn, số lượng khách hàng tăng làm tăng doanh số cho vay. Qua đó phản
ánh sự mở rộng và phát triển của hoạt động này.
1.3.2.6. Lợi nhuận từ hoạt động cho vay tiêu dùng.
Lợi nhuận CVTD là sự chênh lệch giữa doanh thu và chi phí của hoạt động này.
Lợi nhuận từ hoạt động CVTD càng cao chứng tỏ hoạt động CVTD của ngân hàng có
hiệu quả tốt, là một chỉ tiêu quan trọng để đánh giá sự phát triển của hoạt động CVTD
tại ngân hàng.
1.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến việc phát triển hoạt động CVTD trong các ngân
hàng thương mại
1.4.1. Nhân tố chủ quan.
Việc mở rộng CVTD chủ yếu do chính nội lực của ngân hàng quyết định. Các
nhân tố xuất phát từ chính ngân hàng bao gồm:
 Chính sách tín dụng: là đường lối, chủ trương đảm bảo cho hoạt động tín
dụng đi đúng quỹ đạo liên quan đến việc mở rộng hay thu hẹp tín dụng, nó có ý nghĩa
quyết định đến sự thành bại của một ngân hàng. Một chính sách tín dụng đúng đắn sẽ
thu hút được nhiều khách hàng, đảm bảo khả năng sinh lời của hoạt động tín dụng. Bất
cứ ngân hàng nào muốn có chất lượng tín dụng cao đều phải có chính sách tín dụng
phù hợp với điều kiện của ngân hàng, của thị trường.
 Công tác tổ chức của ngân hàng: Khả năng tổ chức của ngân hàng ảnh

hưởng rất lớn đến chất lượng tín dụng. tổ chức ở đây bao gồm tổ chức các phòng ban,
Hoàng Thị Lý 17 Tài chính doanh nghiệp 49 C
Chuyên đề thực tập cuối khóa
nhân sự và tổ chức các hoạt động trong ngân hàng. Ngân hàng có một cơ cấu tổ chức
khoa học sẽ đảm bảo được sự phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng giữa các cán bộ, nhân
viên, các phòng ban trong ngân hàng, giữa các ngân hàng với nhau trong toàn bộ hệ
thống cũng như với các cơ quan khác liên quan đảm bảo cho ngân hàng hoạt động
nhịp nhàng, thống nhất có hiệu quả, qua đó sẽ tạo điều kiện đáp ứng kịp thời yêu cầu
khách hàng, theo dõi quản lý chặt chẽ sát sao các khoản vốn huy động cũng như các
khoản cho vay, từ đó nâng cao hiệu quả tín dụng.
 Chất lượng đội ngũ cán bộ, nhân viên ngân hàng: Chất lượng đội ngũ cán
bộ, nhân viên ngân hàng là yêu cầu hàng đầu đối với mỗi ngân hàng, vì nó ảnh hưởng
trực tiếp đến khả năng hoạt động và khả năng tạo lợi nhuận của ngân hàng. Con người
là yếu tố quyết định đến sự thành bại trong quản lý vốn tín dụng nói riêng và hoạt
động của ngân hàng nói chung. Kinh tế càng phát triển, các quan hệ kinh tế càng phức
tạp, cạnh tranh ngày càng gay gắt, đòi hỏi trình độ của người lao động càng cao. Đội
ngũ cán bộ ngân hàng có chuyên môn nghiệp vụ giỏi, có đạo đức, có năng lực sẽ là
điều kiện tiền đề để ngân hàng tồn tại và phát triển. Nếu chất lượng con người tốt thì
họ sẽ thực hiện tốt các nhiệm vụ trong việc thẩm định dự án, đánh giá tài sản thế chấp,
giám sát số tiền vay và có các biện pháp hữu hiệu trong việc thu hồi nợ vay, hay xử lý
các tình huống phát sinh trong quan hệ tín dụng của ngân hàng giúp ngân hàng có thể
ngăn ngừa, hoặc giảm nhẹ thiệt hại khi những rủi ro xảy ra trong khi thực hiện một
khoản tín dụng.
 Quy trình tín dụng: Đây là những trình tự, những giai đoạn, những bước,
công việc cần phải thực hiện theo một thủ tục nhất định trong việc cho vay, thu nợ, bắt
đầu từ việc xét đơn xin vay của khách hàng đến khi thu nợ nhằm đảm bảo an toàn vốn
tín dụng. Chất lượng tín dụng tuỳ thuộc vào việc lập ra một quy trình tín dụng đảm bảo
tính logic khoa học và việc thực hiện tốt các bước trong quy trình tín dụng cũng như
sự phối hợp chặt chẽ nhịp nhàng giữa các bước.
 Khả năng thu thập và xử lý thông tin : Thông tin là yếu tố sống còn đối với

mỗi doanh nghiệp trong kinh tế thị trường cạnh tranh gay gắt. Trong cạnh tranh ai nắm
được thông tin trước là người có khả năng dành chiến thắng lớn hơn, với ngân hàng
thông tin tín dụng hết sức cần thiết là cơ sở để xem xét, quyết định cho vay hay không
cho vay và theo dõi, quản lý khoản cho vay với mục đích đảm bảo an toàn và hiệu quả
Hoàng Thị Lý 18 Tài chính doanh nghiệp 49 C
Chuyên đề thực tập cuối khóa
đối với khoản vốn cho vay. Thông tin tín dụng có thể được thu được từ nhiều nguồn
khác nhau như mua thông tin từ các nguồn cung cấp thông tin, đến cơ sở của khách
hàng trực tiếp xem xét, thông tin từ hồ sơ xin vay vốn. Thông tin càng đầy đủ, chính
xác và kịp thời, toàn diện thì khả năng ngăn ngừa rủi ro càng lớn, chất lượng tín dụng
càng cao.
 Kiểm soát nội bộ: Thông qua kiểm soát giúp lãnh đạo ngân hàng nắm được
tình hình hoạt động kinh doanh đang diễn ra, những thuận lợi, khó khăn việc chấp
hành những quy định pháp luật, nội quy, quy chế, chính sách kinh doanh , thủ tục tín
dụng từ đó giúp lãnh đạo ngân hàng có đường lối, chủ trương, chính sách phù hợp giải
quyết những khó khăn vướng mắc, phát huy những nhân tố thuận lợi, nâng cao hiệu
quả kinh doanh. Chất lượng tín dụng phụ thuộc vào việc chấp hành những quy định,
thể lệ, chính sách và mức độ kịp thời phát hiện sai sót cũng như nguyên nhân dẫn đến
sai sót lệch lạc trong quá trình thực hiện một khoản tín dụng.
 Trang thiết bị phục vụ cho hoạt động tín dụng: Trang thiết bị tuy không phải
là yếu tổ cơ bản nhưng góp phần không nhỏ trong việc nâng cao chất lượng tín dụng
của ngân hàng. Nó là công cụ, phương tiện thực hiện tổ chức, quản lý ngân hàng kiểm
soát nội bộ, kiểm tra quá trình sử dụng vốn vay, thực hiện các nghiệp vụ giao dịch với
khách hàng. Đặc biệt, với sự phát triển như vũ bão về công nghệ thông tin hiện nay
các trang thiết bị tin học đã giúp cho ngân hàng có được thông tin và xử lý thông tin
nhanh chóng, kịp thời, chính xác, trên cơ sở đó có quyết định tín dụng đúng đắn,
không bỏ lỡ thời cơ trong kinh doanh giúp cho quá trình quản lý tiền vay và thanh toán
được thuận tiện nhanh chóng và chính xác.
1.4.2. Nhân tố khách quan.
Các ngân hàng thương mại hoạt động và chịu ảnh hưởng khá lớn của môi

trường xung quanh như môi trường kinh tế xã hội, môi trường pháp luật và thể chế,
môi trường về văn hoá, môi trường công nghệ thông tin.
 Môi trường kinh tế - xã hội
Nền kinh tế là một hệ thống bao gồm nhiều hoạt động có quan hệ biện chứng,
ràng buộc lẫn nhau cho nên bất kỳ một sự biến động nào của nền kinh tế cũng gây ra
những biến động trong tất cả các lĩnh vực kinh tế. Sự ổn định hay bất ổn định, sự tăng
trưởng nhanh hay chậm của nền kinh tế sẽ tác động mạnh mẽ tới hoạt động ngân hàng,
Hoàng Thị Lý 19 Tài chính doanh nghiệp 49 C
Chuyên đề thực tập cuối khóa
đặc biệt là hoạt động tín dụng. Môi trường này ổn định là một trong những điều kiện
thúc đẩy người dân tiêu dùng, do đó dẫn đến mở rộng hoạt động cho vay của ngân hàng.
Môi trường xã hội gồm các yếu tố như: tình hình trật tự xã hội, thói quen, tâm
lý, trình độ học vấn, bản sắc dân tộc (thể hiện qua những nét tính cách tiêu biểu của
người dân như niềm tin tưởng lẫn nhau, tính cần cù, trung thực, ham lao động và thích
tằn tiện hay ưa hưởng thụ…) hoặc các yếu tố về nơi ở, nơi làm việc… cũng ảnh hưởng
lớn đến thói quen chi dùng của người dân. Ta có thể thấy ở nơi cư trú của đa số những
người có trình độ học vấn cao thì chắc chắn nhu cầu tiêu dùng ở đó lớn, với họ việc
vay mượn được xem là công cụ để đạt được mức sống như mong muốn hơn là sự lựa
chọn chỉ sử dụng trong tình trạng khẩn cấp mà tự họ không đáp ứng được nhu cầu tài
chính của mình do vậy nhu cầu về vốn vay sẽ cao hơn nơi khác từ đó tạo ra khả năng
mở rộng cho vay tiêu dùng.
 Môi trường pháp luật và thể chế:
Môi trường pháp lý bao gồm hệ thống văn bản pháp luật của nhà nước cũng là
một nhân tố vĩ mô khác có tác động sâu rộng đến hoạt động CVTD của các ngân hàng
thương mại. Môi trường pháp lý có ảnh hưởng đến trật tự, tính ổn định và tạo điều
kiện cho hoạt động CVTD diễn ra thông suốt, đảm bảo sự phát triển bền vững, hạn
chế những rắc rối tổn hại đến lợi ích của các bên tham gia quan hệ vay mượn. Nếu hệ
thống pháp luật có quy định cụ thể, đầy đủ, kín kẽ, hợp lí các vấn đề về CVTD sẽ thúc
đẩy người tiêu dùng tìm đến ngân hàng đồng thời cũng khuyến khích tính tích cực của
các ngân hàng tham gia lĩnh vực này. Ngược lại, nếu tất cả các quy định đều mang tính

chung chung, xa rời thực tiễn sẽ khiến cả ngân hàng và khách hàng gặp nhiều khó
khăn trong việc đi đến một thoả thuận chung thì sẽ hạn chế sự phát triển của hoạt động
cho vay tiêu dung.
 Hệ thống các chính sách và chương trình kinh tế của Nhà nước.
Nếu nhà nước tăng đầu tư hoặc đưa ra các biện pháp thông thoáng để khuyến
khích đầu tư trong nước và thu hút đầu tư nước ngoài như hạ lãi suất trần cho vay,
giảm các thủ tục rườm rà, giảm thuế cho các công ty mới thành lập, tạo công ăn việc
làm cho người lao động,… sẽ có tác dụng thúc đẩy nền kinh tế phát triển nhanh hơn,
tăng GDP, giảm thất nghiệp, tăng thu nhập cho người lao động, từ đó làm tăng mức
sống cho người dân. Đây rõ ràng là tiền đề thuận lợi để phát triển cho vay tiêu dùng.
Mặt khác các chính sách như giảm thuế thu nhập, áp dụng lãi suất ưu đãi đối với cho
Hoàng Thị Lý 20 Tài chính doanh nghiệp 49 C
Chuyên đề thực tập cuối khóa
vay hộ nông dân, hộ nghèo, các hộ dân tộc ở miền núi, các chương trình xoá đói giảm
nghèo nhằm thực hiện công bằng xã hội, tạo sự phát triển cân đối giữa khu vực thành
thị và nông thôn, rút ngắn khoảng cách giàu nghèo. Những yếu tố này cũng sẽ có ảnh
hưởng đến cầu tiêu dùng của dân cư trước mắt và lâu dài.
Tuy nhiên, muốn thực hiện tốt tất cả những chủ trương chính sách và những
chương trình hành động trên cần có sự phối hợp chặt chẽ, đồng bộ giữa các cấp, các
ngành, các cơ quan, doanh nghiệp với nhau và giữa các tổ chức đó với các ngân hàng
thương mại.
 Môi trường công nghệ và hệ thống thông tin.
Môi trường công nghệ có ảnh hưởng đến hoạt động của nền kinh tế nói chung
và ngành ngân hàng nói riêng. Trình độ khoa học kỹ thuật, công nghệ càng hiện đại,
hiệu quả kinh doanh càng cao. Hệ thống máy móc hiện đại trong ngân hàng sẽ góp
phần làm giảm chi phí nhân công, giúp hoạt động ngân hàng gọn và hiệu quả hơn.
Hệ thống thông tin có ảnh hưởng đến CVTD là vì hoạt động tín dụng của ngân
hàng liên quan tới nhiều lĩnh vực khác như: kinh tế, xã hội, chính trị,… Do vậy, những
thông tin cung cấp cho hoạt động tín dụng rất phong phú và đa dạng về số lượng, chất
lượng với nhiều kênh khác nhau. Chất lượng và số lượng của các thông tin quyết định

đến độ chính xác trong việc phân tích nhận định thị trường, thu thập thông tin về
khách hàng và từ đó tác động đến đánh giá khách hàng… Nhưng ý nghĩa hơn cả là nhờ
vào hệ thống thông tin mà các ngân hàng quảng bá được hình thức CVTD đến người
dân, giúp họ biết về cho vay tiêu dùng, hiểu về CVTD và sử dụng cho vay tiêu dùng.
 Các nhân tố xuất phát từ phía khách hàng
Để đảm bảo khoản tín dụng xử dụng có hiệu quả, mang lại lợi ích cho ngân
hàng góp phần vào sự tăng trưởng và phát triển kinh tế xã hội thì khách hàng có vai trò
hết sức quan trọng. Một khách hàng có tư cách đạo đức tốt, có tình hình tài chính vững
vàng, có thu nhập sẽ sẵn sàng hoàn trả đầy đủ những khoản vốn vay của Ngân hàng
khi đến hạn, qua đó đảm bảo an toàn và nâng cao chất lượng và tín dụng.
Trong nhóm các nhân tố khách quan này, trước hết phải kể đến đạo đức, trình
độ học vấn của khách hàng, được đánh giá dựa trên năng lực pháp lý và độ tín nhiệm.
Nếu thực sự khách hàng có thu nhập cao, ổn định để trả nợ, thậm chí đưa ra được điều
kiện đảm bảo tốt thì chưa chắc họ đã có thiện chí khi trả nợ. Bởi lẽ, khi đi vay, có thể
người vay vẫn có ý định trả nợ đầy đủ, nhưng trong quá trình sử dụng tiền vay, có thể
do tư cách, do lòng tham hoặc muốn làm giàu nhanh chóng mà họ sử dụng vốn vay sai
Hoàng Thị Lý 21 Tài chính doanh nghiệp 49 C

×