Tải bản đầy đủ (.doc) (37 trang)

tiềm năng và vai trò của đmtn đối với ngân hàng thương mại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (276.02 KB, 37 trang )

Chuyên đề năm 3 Tiềm năng và vai trò của ĐMTN đối với NHTM Việt Nam
PHẦN MỞ ĐẦU
I/ Lý do chọn đề tài:
Với nền kinh tế Việt Nam đang phát triển như hiện nay, sự tồn tại và cạnh tranh
giữa các doanh nghiệp “mạnh”–“yếu” khác nhau đã buộc các doanh nghiệp phải thực
sự biết mình là ai, đứng ở vị trí nào và phải hiểu về đối thủ cạnh tranh của mình. Vậy,
ai sẽ “bắt mạch” các doanh nghiệp này để đưa ra thông tin trung thực, khách quan, góp
phần trợ giúp cho hoạt động thương mại, hợp tác và đầu tư? Lúc này, sự ra đời của
một tổ chức có thể đánh giá được khả năng hoạt động và độ tin cậy của một doanh
nghiệp là rất cần thiết. Và đó cũng chính là nhiệm vụ trọng tâm của các tổ chức Định
mức tín nhiệm (ĐMTN).
Ở Việt Nam từ trước đến nay, ngoài cơ quan Nhà nước, ít có một tổ chức nào
“dám” đánh giá uy tín của một doanh nghiệp. Đó là một thói quen bao cấp làm ảnh
hưởng không ít đến bộ mặt của nền kinh tế đất nước, là một trong những lý do khiến
các nhà đầu tư nước ngoài chưa dám đầu tư mạnh mẽ vào thị trường Việt Nam. Tất
nhiên, khi luồng vốn chạy vào trong nước ít, với thị trường vốn nội địa còn non yếu thì
hoạt động của các NHTM ở Việt Nam cũng khó lòng mà phát huy hết năng lực của nó
để phát triển mạnh mẽ và ổn định. Như vậy, tổ chức ĐMTN ra đời sẽ thúc đẩy cho sự
lưu thông và phát triển của thị trường vốn, giúp các NHTM hoạt động tốt hơn, huy
động được vốn và cho vay một cách hiệu quả nhất.
Tóm lại, việc cung cấp những thông tin tín dụng, xếp hạng và đánh giá tín
nhiệm doanh nghiệp là một công việc hết sức cần thiết. Nó gắn liền với mọi mặt hoạt
động của nền kinh tế, tài chính và xã hội, giúp xây dựng hình ảnh và độ tín nhiệm của
các doanh nghiệp Việt Nam trong quá trình hội nhập. Chính vì thế nên khi thực hiện
chuyên đề này, em đã chọn đề tài:“Tiềm năng và vai trò của Định mức tín nhiệm
đối với hoạt động của hệ thống NHTM Việt Nam”. Hi vọng qua chuyên đề có thể
mang đến cho quí thầy cô và các bạn có được một cái nhìn chung về ĐMTN. Từ đó để
thấy được những tiềm năng và vị trí của ĐMTN trong nền kinh tế khi đất nước ta
chuẩn bị bước vào một giai đoạn mới: Hội nhập và phát triển.
Chuyên đề năm 3 Tiềm năng và vai trò của ĐMTN đối với NHTM Việt Nam
II/ Mục tiêu nghiên cứu:


Từ việc nhìn thấy được sự cần thiết của ĐMTN trong nền kinh tế, chuyên đề sẽ
giới thiệu một cách khái quát những vấn đề liên quan về ĐMTN và các hoạt động của
nó ở Việt Nam như thế nào khi chỉ vừa mới được hình thành gần đây. Bên cạnh đó,
chuyên đề còn cho chúng ta thấy bức tranh tổng quan về hoạt động của NHTM ỏ Việt
Nam trong giai đoạn hiện nay, các mối quan hệ giữa NHTM và các tổ chức ĐMTN từ
việc phân tích những tiềm năng và tầm quan trọng của ĐMTN trong nền kinh tế. Đặc
biệt là vai trò của nó đối với hoạt động của hệ thống NHTM Việt Nam, chúng ta sẽ
hiểu rõ hơn những khó khăn đang tồn tại trong việc xây dựng các tổ chức ĐMTN ở
Việt Nam, từ đó đề ra một số giải pháp cho sự hình thành và phát triển của loại hình
này trong giai đoạn hiện nay.
III/ Phương pháp nghiên cứu:
1/ Phương pháp thu thập số liệu:
Các số liệu thứ cấp được thu thập từ sách, báo, các tạp chí ngân hàng, tạp chí
kinh tế và qua internet
2/ Phương pháp phân tích và xử lý số liệu:
Bằng nhận định riêng của bản thân, dựa vào những kiến thức đã học kết hợp với
các phương pháp phân tích số liệu từ thống kê ứng dụng, phương pháp so sánh và các
phép toán thông thường để tổng hợp, giải thích và nhận xét các vấn đề.
IV/ Phạm vi nghiên cứu:
Tác động của ĐMTN đối với nền kinh tế là rất lớn và sâu rộng, trên nhiều mặt
khác nhau. Tuy nhiên, trong chuyên đề này em chỉ tập trung phân tích vào khía cạnh là
vai trò của ĐMTN đối với hoạt động của hệ thống NHTM ở Việt Nam. Bên cạnh đó,
việc đánh giá và phân tích hoạt động của hệ thống NHTM ở Việt Nam cũng chỉ được
dựa trên việc tổng hợp các số liệu của một số ngân hàng tiêu biểu từ nền kinh tế trong
khoảng thời gian từ năm 2000 trở lại đây. Tuy nhiên, qua đó cũng sẽ giúp cho người
đọc có một cái nhìn cụ thể hơn về tình hình hoạt động của NHTM Việt Nam trong thời
gian qua cũng như vai trò của ĐMTN đối với nó.
Chuyên đề năm 3 Tiềm năng và vai trò của ĐMTN đối với NHTM Việt Nam
PHẦN NỘI DUNG
I/ KHÁI QUÁT VỀ ĐỊNH MỨC TÍN NHIỆM (ĐMTN)

1/ Một số khái niệm
1.1/ Định mức tín nhiệm
ĐMTN được dùng để đo lường mức độ rủi ro gắn liền với một khoảng đầu tư
nào đó. ĐMTN là việc đánh giá về khả năng của một đơn vị phát hành trong việc thực
hiện thanh toán đúng hạn một nghĩa vụ tài chính. Nghĩa vụ tài chính gồm trái phiếu,
thương phiếu, cổ phiếu, các khoảng nợ và các khoảng tiền vay ngân hàng (NH).
Có nhiều loại ĐMTN khác nhau. ĐMTN đợt phát hành trái phiếu và ĐMTN
của đơn vị phát hành. Thông thường, người ta quan tâm nhiều đến đợt phát hành vì nó
không chỉ tính tới độ tín nhiệm của đơn vị phát hành mà còn tính tới độ tín nhiệm của
những tài sản thế chấp.
Ngoài ra còn có ĐMTN trong nước hay toàn cầu. Các tổ chức ĐMTN trong
nước sẽ ĐMTN các doanh nghiệp trong nước. Trong khi đó, các tổ chức ĐMTN quốc
tế sẽ định mức những đơn vị phát hành trên toàn cầu phục vụ cho các nhà đầu tư lớn.
1.2/ Tín nhiệm doanh nghiệp (DN)
Tín nhiệm DN là ý kiến được đưa ra bởi một tổ chức ĐMTN về khả năng của
DN trong việc thực hiện các nghĩa vụ tài chính. Ý kiến này tập trung vào việc đánh giá
khả năng và mong muốn của DN trong việc thực hiện cam kết tài chính khi chúng tới
hạn. Ý kiến này không nhằm cung cấp đảm bảo khả năng trả nợ của DN được xếp
hạng với bất cứ một nghĩa vụ tài chính cụ thể nào. Tín nhiệm DN có thể tăng hoặc
giảm theo khả năng mà DN có đáp ứng được nghĩa vụ tài chính của mình hay không.
2/ Công ty ĐMTN (CRA)
2.1/ Khái niệm
Công ty ĐMTN hay một tổ chức ĐMTN (còn được gọi là CRA) là công ty
chuyên cung cấp quan điểm của họ về độ tín thác của một DN trong nghĩa vụ thanh
toán tài chính.
CRA là một tổ chức đánh giá trung gian, độc lập nhằm xem xét, phân tích và
đưa ra mức định hạng tín nhiệm đối với các công ty đang tìm kiếm nguồn vốn đầu tư.
Nó cung cấp ý kiến về mức độ tin cậy của một thể nhân cũng như khả năng hoàn thành
những nghĩa vụ tài chính của thể nhân đó.
Chuyên đề năm 3 Tiềm năng và vai trò của ĐMTN đối với NHTM Việt Nam

Sản phẩm của CRA là việc cung cấp cho thị trường một hệ thống xếp hạng các
công cụ tài chính, đặc biệt là các chứng khoán nợ,… Giúp các nhà đầu tư có cơ sở để
tham khảo và so sánh trước khi đưa ra quyết định nên đầu tư vào những công cụ nào.
Ngoài ra còn có những dịch vụ khác của CRA như đánh giá các tổ chức tài
chính, bảo hiểm, tính toán mức rủi ro tín dụng một khoảng cho vay của NH, đánh giá
xếp hạng quản trị DN, cung cấp thông tin tài chính,
2.2/ Sự khác biệt giữa một CRA và một số tổ chức khác như tư vấn tài chính,
dịch vụ thông tin, các công ty kiểm toán, ISO,…
Thực chất, chức năng của các loại hình dịch vụ này là như nhau vì chúng đều
nhằm hướng đến việc phân tích, đánh giá để đưa ra các thông tin tư vấn kịp thời cho
các DN.
Tuy nhiên, khi tiến hành đánh giá một DN, ngoài việc phân tích theo góc độ tài
chính như các tổ chức khác, CRA còn quan tâm đến các chỉ tiêu phi tài chính. Các chỉ
tiêu phi tài chính đó là năng lực cạnh tranh của DN, triển vọng phát triển của sản
phẩm, xu hướng thị trường, ý kiến và phản ứng của người tiêu dùng về các sản phẩm
và dịch vụ của DN,… Kết quả đánh giá sẽ là sự kết hợp giữa kết quả phân tích các chỉ
tiêu tài chính và phi tài chính có tính khác biệt về nghành và qui mô.
2.3/ Các mô hình của CRA
Trên thế giới, hiện có ba loại mô hình CRA:
● Thứ nhất: Mô hình CRA 100% vốn nước ngoài.
Đây là loại hình do các CRA nước ngoài thành lập và hoạt động dưới dạng mở
chi nhánh tại nước sở tại hoặc đăng ký thành lập công ty. Mô hình này thường chỉ có
một pháp nhân đứng ra thành lập hoặc có hai pháp nhân nước ngoài. Để mô hình này
có thể đi vào hoạt động đòi hỏi phải có một thị trường trái phiếu phát triển nhất định
và có sự đầu tư lớn từ trong nước cũng như quốc tế.
● Thứ hai: Mô hình công ty liên doanh với nhà đầu tư nước ngoài.
Mô hình này do các CRA nội địa và CRA nước ngoài cùng thiết lập liên doanh
để khai thác một số dịch vụ của ĐMTN. Để xây dựng mô hình thì đối tác trong nước
phải là một tổ chức tài chính hoặc một DN đã rất am hiểu về hoạt động của CRA mới
phát huy được vai trò của nó và tránh không bị đối tác nước ngoài chi phối.

Chuyên đề năm 3 Tiềm năng và vai trò của ĐMTN đối với NHTM Việt Nam
● Thứ ba: Mô hình công ty cổ phần có sự tham gia của các cổ đông chiến lược
nước ngoài.
Với mô hình loại này thì CRA đóng vai trò là một công ty cổ phần, trong đó
ngoài các cổ đông trong nước còn có sự tham gia của các cổ đông chiến lược nước
ngoài. Họ là những nhà đầu tư lớn, có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc chuyển
giao công nghệ, đào tạo nhân sự và cử người điều hành DN. Trong mô hình này không
có sự phân biệt đối xử giữa cổ đông trong nước và nước ngoài về tỷ lệ sở hữu. Nguyên
tắc phân bổ tỷ lệ sở hữu là tùy thuộc vào vai trò của từng nhà đầu tư trong việc hình
thành sự ra đời và hoạt động của CRA.
3/ Các hình thức của ĐMTN
Kinh doanh thông tin tín nhiệm từ lâu đã không còn xa lạ trên thế giới. Hoạt
động của các tổ chức ĐMTN rất đa dạng với nhiều hình thức và dịch vụ khác nhau. Về
cơ bản, có ba loại hình dịch vụ chính:
3.1/ Cung cấp thông tin tín nhiệm DN
● Thông tin tín nhiệm DN:
Thông tin tín nhiệm là những thông tin ngắn gọn, chính xác được kiểm chứng
bởi một tổ chức ĐMTN có uy tín. Thông tin tín nhiệm nhằm đánh giá khả năng thanh
toán, mức độ tín nhiệm của một cá nhân, một DN, một nghành hoặc một quốc gia.
Thông tin tín nhiệm DN giúp các nhà quản lý ra quyết định nhanh hơn và chính xác
hơn nhằm hạn chế rủi ro trong kinh doanh.
● Cung cấp thông tin tín nhiệm DN:
Đây là một dịch vụ mà các CRA có nghĩa vụ sẽ thường xuyên ĐMTN các công
ty có yêu cầu được định mức xếp hạng nhằm phục vụ cho nhà đầu tư của công ty.
Trong suốt thời gian hiệu lực của hợp đồng, CRA sẽ luôn cập nhật thông tin, theo sát
các công ty và nghành những sự kiện có ý nghĩa hoặc những sự phát triển có ảnh
hưởng tới kết quả định mức nhằm đảm bảo quá trình ĐMTN một cách chính xác. Ít
nhất một năm một lần, CRA sẽ đánh giá lại mỗi công ty. Bất cứ lúc nào trong suốt quá
trình giám sát, CRA cũng có thể ban hành hai loại công bố:
Chuyên đề năm 3 Tiềm năng và vai trò của ĐMTN đối với NHTM Việt Nam

 Cảnh bảo tín nhiệm:
Là lời cảnh báo cho công chúng rằng, đã xảy ra một sự kiện gì đó hoặc là về
điều kiện kinh doanh hoặc là một sự kiện trong công ty mà có thể ảnh hưởng đến
ĐMTN. Cảnh báo tín nhiệm có nghĩa là CRA sẽ đánh giá các sự kiện và các sự kiện
này có thể được cho rằng “tích cực”, “tiêu cực”, hoặc “đang phát triển” phụ thuộc vào
các tình huống cụ thể. ĐMTN hiện thời vẫn còn hiệu lực cho đến khi CRA hoàn thành
đánh giá đầy đủ.
 Cập nhật tín nhiệm:
Là việc xem xét lại ĐMTN đã ban hành trước đó. Bản mới được công bố sau
khi CRA đánh giá được ảnh hưởng của một sự kiện có ý nghĩa và nó bao gồm những
thông tin bổ sung cho ĐMTN đã công bố trước đó. Cập nhật ĐMTN và công bố
ĐMTN sẽ “thăng hạng”, “xuống hạng” hoặc bị hủy bỏ.
3.2/ Đánh giá tín nhiệm và xếp hạng DN
Đây là một trong những dịch vụ chính của loại hình kinh doanh tín nhiệm DN.
Đánh giá tín nhiệm là một dịch vụ rất phổ biến trên thế giới. Ở hầu hết các nước phát
triển và nhiều nước trong khu vực Đông Nam Á đã có các tổ chức hoạt động trong lĩnh
vực này. Đây là một dịch vụ hết sức cần thiết đối với nền kinh tế thị trường, đặc biệt là
đối với các NH.
Đánh giá tín nhiệm hay xếp hạng tín nhiệm DN là việc đánh giá khả năng đáp
ứng các nghĩa vụ nợ của một công ty, hay đánh giá mức độ rủi ro gắn liền với các loại
đầu tư khác nhau. Các loại đầu tư này có thể dưới dạng các công cụ cho vay như vay
và gửi tiền tại NH, hay có thể dưới dạng các chứng khoán như trái phiếu, cổ phiếu,
thương phiếu…
Xếp hạng DN là một phần của quá trình cung cấp thông tin tín nhiệm DN thong
qua các khâu thu thập, sàng lọc, chia nhóm, phân tích, đánh giá, so sánh và cho điểm
các thong tin tín nhiệm để xếp hạng các DN theo các cấp độ khác nhau. Mục đích của
việc xếp hạng DN là đưa ra ý kiến về khả năng thực hiện một nghĩa vụ tài chính của
DN vì các DN thường sử dụng vốn kinh doanh từ nhiều nguồn khác nhau, từ các nhà
đầu tư, các NH hay từ nguồn vốn của các nhà cung cấp. Vì vậy mà nó rất cần thiết cho
nền kinh tế, đặc biệt là đối với hoạt động của NH.

Khi tham gia đánh giá tín nhiệm, DN sẽ được nhận những thông tin đánh giá
độc lập, khách quan về tình hình tài chính, khả năng thanh toán nợ. Mặt khác, các DN
Chuyên đề năm 3 Tiềm năng và vai trò của ĐMTN đối với NHTM Việt Nam
còn nhận được dich vụ tư vấn tài chính, quản lý, quan hệ công chúng (PR),…Tuy
nhiên, để có thể đánh giá tín nhiệm của một DN, các CRA phải dựa trên hai chỉ tiêu là
tài chính và phi tài chính. Có hơn 100 chỉ tiêu tính điểm và các phương pháp kiểm tra
chéo phức tạp để có thể đưa tới việc xếp hạng từ AAA, AA, BB,… cho mức độ tín
nhiệm của DN.
Chỉ tiêu tài chính bao gồm các con số về vốn, vòng vay, khả năng thanh toán,
tín dụng, thua lỗ, các chỉ số tài chính,… Các chỉ tiêu phi tài chính bao gồm những
thông tin liên quan tới giám đốc, ISO, thương hiệu hoặc nhân sự, những tai tiếng, uy
tín trên thương trường,…
Những chỉ tiêu tài chính sẽ được lượng hóa, còn những chỉ tiêu phi tài chính sẽ
qua sự đánh giá bởi các chuyên gia trong ngành.
4. Tiêu chuẩn của một tổ chức ĐMTN
Các tiêu chí tối thiểu của một CRA cần phải đạt được gồm: Khách quan, độc
lập, minh bạch, công khai và chuyên nghiệp. Những tiêu chuẩn này do NH Thanh toán
quốc tế đề ra và đã được các nhà đầu tư trên thế giới thừa nhận.
Điều cần lưu ý ở đây là, tuy nhiệm vụ chính của các CRA là đánh giá mức độ
tín nhiệm của các DN, nhưng khách hàng chủ chốt của các CRA là các nhà đầu tư chứ
không phải các DN hay các nhà phát hành mặc dù họ là người trả phí dịch vụ ĐMTN.
Vì vậy mà yêu cầu đối với tổ chức này là khá khắt khe.
Đó phải là một tổ chức hoạt động với tư cách độc lập. Độc lập là mình không
chịu sức ép của bất cứ quyền lực nào, không chịu sự chi phối trong các qui định được
đưa ra bởi bất cứ một cơ quan nào, không xung đột hay có mối quan hệ lợi ích với các
tổ chức được ĐMTN. Có như vậy các đánh giá tín nhiệm mới mang tính khách quan
và đáng tin cậy. Đó cũng là nhu cầu tồn tại của bản thân các CRA.
Ngoải ra, các CRA phải có một đội ngũ chuyên gia thực sự giỏi cùng với việc
xây dựng một qui trình đánh giá khoa học, khách quan và chính xác, phù hợp với từng
điều kiện của mỗi nền kinh tế. Kết quả xếp hạng phải được thực hiện bởi một đội ngũ

chuyên gia về các lĩnh vực tài chính và phi tài chính. Từ việc thu thập thông tin đến
việc kiểm tra, thẩm định phải được tiến hành một cách đầy đủ, chính xác và được đánh
giá theo đúng tiêu chuẩn quốc tế.
Chuyên đề năm 3 Tiềm năng và vai trò của ĐMTN đối với NHTM Việt Nam
Tóm lại, điều kiện để một tổ chức ĐMTN hoạt động thành công là được tin cậy,
độc lập, không thiên vị, có năng lực về kỹ thuật - nhân lực, đầy đủ về cả số lượng lẫn
chất lượng, tiếp cận được với những thông tin đáng tin cậy về tổ chức được định mức
và tạo dựng được hình ảnh của mình trong cộng đồng DN.
5/ Hoạt động của ĐMTN ở Việt Nam
Kinh doanh thông tin tín nhiệm từ lâu đã không còn xa lạ trên thế giới. Hầu hết
các nước phát triển và trong khu vực Đông Nam Á đã có các tổ chức hoạt động trong
lĩnh vực này. Tuy nhiên tại VN, khái niệm trên vẫn còn rất mới mẻ và loại hình kinh
doanh này mới chỉ ở bước khởi đầu.
Từ năm 1996, một nhóm các cán bộ chuyên nghiệp từng công tác trong các cơ
quan thông tin tín dụng, dự án đánh giá tín nhiệm của Nhà nước đã tập hợp nhau lại
và hoạt động thông tin tín nhiệm. 5 năm sau, Công ty TNHH Giải Pháp Việt Nam
chính thức thành lập đầu năm 2001 tại Hà Nội. Công ty tập trung vào ba mảng hoạt
động chính là: Thông tin tín nhiệm, tư vấn luật và dịch vụ đại diện cho các hãng của
nước ngoài. Sau 4 năm hoạt động, năm 2004 Công ty C&R (Credit and Ratings) chính
thức được tách riêng, đánh dấu một bước phát triển lớn của Giải Pháp Việt Nam.
C&R chỉ tập trung vào hoạt động trong lĩnh vực Thông tin tín nhiệm và xếp hạng
DN. Công ty được tổ chức dưới hính thức các nhóm hạt nhân làm việc độc lập, sáng
tạo và linh hoạt. Bên cạnh đội ngũ cán bộ chuyên nghiệp, công ty còn có một mạng
lưới cộng tác viên, và các đại diện trên khắp đất nước. Sự tích cóp liên tục và bền bỉ
những thông tin nhỏ nhất đã đem đến cho C&R một kho dữ liệu đồ sộ và chính xác về
hoạt động của các DN Việt Nam.
Công ty thường cung cấp thông tin tín nhiệm ở 3 dạng:
 Báo cáo cơ bản.
 Báo cáo chuẩn .
 Báo cáo tổng hợp chi tiết.

Hiện nay, hoạt động của C&R cũng đã được mở rộng thông qua cổng thông tin
của trang web “Doanh nhân Việt Nam” (www.doanhnhanvietnam.com). Khi là thành
viên của website này, các DN có quyền cung cấp thông tin về mình và cũng có quyền
tiếp cận các thông tin tín nhiệm về các DN khác trên hầu hết các lĩnh vực kinh tế ở
Việt Nam và trên thế giới.
Chuyên đề năm 3 Tiềm năng và vai trò của ĐMTN đối với NHTM Việt Nam
Cho đến nay, VN mới có hai DN hoạt động trong lĩnh vực ĐMTN. Một là
Công ty Thông tin tín nhiệm và Xếp hạng DN (C&R) - được tách ra từ Công ty Giải
pháp VN năm 2004. Hai là Trung tâm đánh giá tín nhiệm Vietnamnet (Credit Ratings
Vietnamnet Center - CRVC) thuộc công ty phần mềm truyền thông VASC, vừa đi vào
hoạt động trong gần một năm qua. (Bắt đầu hoạt động chính thức từ ngày 4/6/2005).
Những dịch vụ chủ yếu của C&R là cung cấp thông tin tín nhiệm, xếp hạng tín nhiệm
DN và điều tra thị trường theo ngành kinh tế.
Trong khi đó, dù mới ra đời, CRVC cũng đã cung cấp khá nhiều dịch vụ đa
dạng liên quan đến loại hình ĐMTN. CRVC sẽ là tổ chức chuyên cung cấp cho DN
các dịch vụ thu thập thông tin; đánh giá xếp hạng; ĐMTN các tổ chức tài chính; xếp
hạng DN. Đồng thời, đơn vị này cũng nhận tư vấn, hỗ trợ DN trong việc tạo dựng uy
tín trên thị trường, xây dựng thương hiệu có sức cạnh tranh; thẩm định lại các thông
tin; xây dựng cơ sở dữ liệu về các DN, doanh nhân, từ đó phát triển dịch vụ tư vấn tài
chính, môi giới đầu tư
Đối tượng phục vụ chính của C&R và CRVC là các nhà đầu tư, các DN hay hệ
thống các NH trong nước và quốc tế. Trong quá trình xây dựng các chỉ tiêu, cả C&R
và CRV đều tham khảo đánh giá của các tổ chức định giá tín nhiệm lớn nhất trên thế
giới là Standard & Poor's, Moody's và Equifax… và xây dựng được hệ thống đánh giá
riêng, phù hợp với điều kiện của VN. Theo đó, hơn 100 chỉ tiêu tính điểm và các
phương pháp kiểm tra chéo phức tạp để có thể đưa tới việc xếp hạng từ AAA, AA,
BB cho mức độ tín nhiệm của DN.
Sau một thời gian hoạt động, dù số lượng không nhiều nhưng những hợp đồng
mà C&R nhận được cũng cho thấy các DNVN cũng bắt đầu có sự quan tâm tới lĩnh
vực này. Tính đến nay, C&R đã cung cấp rất nhiều báo cáo tín nhiệm cho các DN

trong và ngoài nước. Còn CRV dù chỉ mới thành lập chưa được một năm nhưng cho
đến nay cũng đã nhận được rất nhiều hợp đồng yêu cầu cung cấp thông tin đánh giá
tín nhiệm của các khách hàng khắp cả nước.
Chuyên đề năm 3 Tiềm năng và vai trò của ĐMTN đối với NHTM Việt Nam
II/ TIỀM NĂNG VÀ VAI TRÒ CỦA ĐMTN ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG
CỦA HỆ THỐNG NHTM VIỆT NAM
1/ Tổng quan về hoạt động của NHTM Việt Nam
Qua gần 15 năm hình thành và chuyển đổi từ tập trung bao cấp sang kinh
doanh thị trường, hệ thống NHTM Việt Nam đã phát triển mạnh mẽ và có nhiều đóng
góp to lớn cho sự phát triển của nền kinh tế. Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong việc
đổi mới nhưng cho đến nay, thực trạng về hoạt động của hệ thống NHTM Việt Nam
vẫn còn có rất nhiều bất cập và hạn chế, gây khó khăn cho việc phát triển của hệ
thống NHTM nói riêng và của cả nền kinh tế nói chung.
1.1/ Về khả năng huy động vốn
Trong vài năm trở lại đây, cùng với sự tăng trưởng nhanh của nền kinh tế, nhu
cầu về vốn của nền kinh tế luôn ở mức cao đã buộc các NHTM phải tăng cường huy
động vốn và tăng khối lượng tín dụng cho các DN. Tuy nhiên, sự có mặt của các NH
nước ngoài với khả năng tài chính dồi dào, loại hình dịch vụ NH đa dạng, hiện đại
dựa trên công nghệ cao đã buộc các NHTM Việt Nam phải quan tâm đầu tư hiện đại
hóa nghiệp vụ NH, hệ thống hạ tầng kỹ thuật để cung cấp các dịch vụ NH hiện đại,
tiện ích hơn. Nhưng quan trọng nhất vẫn là phải tăng cường nguồn vốn tự có của
chính bản thâm NH mới có thể đáp ứng các nhu cầu về đầu tư và mở rộng cho vay. Vì
vậy, trước khi đề cập đến khả năng huy động vốn, chúng ta cần quan tâm đến tình
hình vốn tự có của các NHTM Việt Nam vì nó có ý nghĩa rất quan trọng đối với hoạt
động kinh doanh của NH – là loại hình DN kinh doanh tiền tệ nhằm thu hút vốn của
các DN và dân cư.
■ Tình hình vốn tự có trong các NHTM Việt Nam:
Tỷ trọng Vốn tự có/ Tổng tài sản là chỉ tiêu quan trọng để đánh giá mức độ an
toàn của một NH do Luật TCTD (12/97) điều 81 đã qui định. Theo thông lệ quốc tế,
tỷ trọng này phải tối thiểu là 8%. Nhưng cho đến nay, các NHTM Việt Nam mới chỉ

đạt cao nhất gần 5%.
Chuyên đề năm 3 Tiềm năng và vai trò của ĐMTN đối với NHTM Việt Nam
Bảng 1: Tỷ lệ Vốn tự có/ Tổng tài sản có của 4 NHTM Việt Nam
ĐVT: %
Chỉ tiêu 2000 2001 2002
NH Nông nghiệp & PTNT
NH Ngoại thương
NH Đầu tư & PT
NH Công thương
4,7
1,79
2,6
2,33
3,09
1,39
1,74
1,47
4,57
3,08
3,38
3,00
Tổng 2,8 1,92 3,57
Nguồn: Đề án cơ cấu lại NHTM Nhà nước
Nhìn chung, qua bảng số liệu ta có thể thấy được tỷ lệ vốn tự có trong các
NHTM Việt Nam vẫn còn khá nhỏ bé, thậm chí trong các NHTM lớn của Việt Nam
và tỷ lệ này lại tăng giảm không đều qua các năm trong các NH Việt Nam. Cao nhất
cũng chỉ có 4,7% ở NH NN & PTNT. Nhưng tỷ lệ này cũng giảm dần trong năm tiếp
đó. Năm 2001 chỉ còn 3,09% và đến năm 2002 lại tăng trở lại với 4,57%.
Ở các NH khác cũng diễn ra với tình hình tương tự. Đặc biệt là trong năm
2001, tỷ lệ vốn tự có của các NH hầu như đều giảm đồng loạt. Đó là nguyên nhân làm

cho tỷ lệ chung của ngành giảm chỉ còn 1,92% so với năm 2000 là 2,8%.
Sang năm 2002, tình hình đã tốt hơn, các NH đều đồng loạt tăng vốn tự có.
Thậm chí là tăng cao hơn cả trong năm cũ 2000. Đây là một dấu hiệu rất tốt. Trong
đó, cao nhất là NH Đầu tư & PT, với tỷ lệ tăng đến 0,64%. Tuy nhiên, chỉ riêng NH
NN & PTNT dù có tăng đến 4,57% song vẫn còn thấp hơn so với năm 2000 là 4,7%.
Vốn tự có là tiềm lực tài chính, là điều kiện đảm bảo hoạt động trong các
NHTM, là uy tín của NHTM để tạo lòng tin đối với công chúng. Song tỷ trọng này
trong các NHTM Việt Nam vẫn còn quá thấp. Điều này làm cho rủi ro tiềm ẩn trong
các NH ngày càng tăng lên. Làm mất đi động lực tích cực của các NH trong việc thu
hồi các khoảng nợ cũng như việc tham gia vào các dự án lớn, đòi hỏi nhiều vốn sẽ là
điều rất khó khăn đối với các NH.
■ Tình hình huy động vốn:
Chuyên đề năm 3 Tiềm năng và vai trò của ĐMTN đối với NHTM Việt Nam
Trong thời gian qua, hệ thống NHTM Việt Nam đã huy động được nguồn vốn
đáng kể gồm cả nội tệ và ngoại tệ cho nền kinh tế. Song nó vẫn chưa đáp ứng đủ nhu
cầu đang ngày càng tăng lên.
Bảng 2: Tổng nguồn vốn huy động của NHTM Việt Nam
ĐVT: Tỷ đồng
Chỉ tiêu 2003 2004 T6/2005
Tốc độ tăng (%)
2004/2003 2005/2004
NHTM Nhà nước
NH Cổ phần
NH nước ngoài &
liên doanh
250.238
59.267
19.756
305.841
82.499

22.135
381.445
90.938
32.841
22,22
39,20
12,04
24,72
10,23
48,37
TỔNG CỘNG 329.261 140.475 505.224 24,67 23,08
Nguồn: www.sbv.gov.vn (Ngân hàng nhà nước Việt Nam)
Nhìn chung, nguồn vốn huy động từ các NHTM qua 3 năm đều tăng. Trong đó,
năm 2005 tổng vốn huy động toàn ngành đạt đến 505.224 tỷ đồng, có tốc độ tăng so
với năm 2004 là 23,08%. Nhưng tốc độ tăng của năm này lại thấp hơn tốc độ tăng của
năm 2004 so với năm 2003 là 24,67%, với số vốn huy động tăng đến 46.620 tỷ đồng.
Riêng đối với từng khối NH lại có sự chênh lệch nhau rất lớn. Nhìn về mặt
tuyệt đối, ta có thể thấy rõ số vốn huy động trong các khối NHQD là cao nhất. Trong
đó, năm 2003 là 250.238 tỷ đồng và cao nhất là vào năm 2005 đạt đến 381.445 tỷ
đồng. Kế đến là khối NHCP với số vốn huy động được cao nhất trong năm 2005 là
90.938 tỷ, thấp nhất là khối NH nước ngoài, chỉ có 32.841 tỷ trong năm 2005.
Thực tế số vốn huy động như trên là hoàn toàn hợp lý. Các NHQD vốn là các
NH thuộc Nhà nước nên có được nguồn hỗ trợ mạnh mẽ. Còn các NHCP và NH
Nước ngoài chỉ mới xuất hiện được vài năm. Nhất là các NH Nước ngoài, chỉ mới
được Nhà nước ta cho phép tham gia vào thị trường trong thời gian gần đây. Vì vậy số
vốn huy động được từ các khối NH này còn khá thấp. Nhưng nếu nhìn vào tốc độ tăng
trưởng, ta sẽ dễ dàng thấy được tiềm năng mạnh mẽ từ các NH Nước ngoài. Tốc độ
tăng của số vốn huy động qua các năm rất cao. Từ năm 2003 đến 2004 tăng 12,04%
và đến năm 2005 là 48,37%, cao nhất trong toàn ngành. Còn đối với khối các NHQD
Chuyên đề năm 3 Tiềm năng và vai trò của ĐMTN đối với NHTM Việt Nam

thì tạm chấp nhận với tốc độ tăng khá ổn định qua các năm là 22,22% và 22,24%. Tuy
nhiên, đáng lo ngại nhất chính là khối NHCP. Với tốc độ tăng 39,28% vào năm 2004,
là tốc độ cao nhất trong toàn ngành thì sang năm 2005 lại giảm đột biến, chỉ còn
10,23%, là tốc độ thấp nhất. Đó cũng là nguyên nhân làm cho tốc độ tăng của toàn
khối NH bị giảm xuống.
Với tốc độ tăng không ổn định của hệ thống NH trong thời gian này đã ảnh
hưởng không nhỏ đến tình hình kinh tế đất nước. Và nhìn chung, dù số vốn huy động
trong các khối NH vẫn không ngừng tăng lên song vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu
vốn của nền kinh tế nước ta trong giai đoạn hiện nay.
1.2/ Về hoạt động cho vay
Để có thể cung cấp đủ vốn cho nền kinh tế, hoạt động cho vay trong các
NHTM luôn đóng một vai trò rất quan trọng. Trong những năm qua, thị phần cho vay
của các NHTM không ngừng tăng lên và đang ngày càng được mở rộng. Mục đích là
nhằm phục vụ cho nhiều thành phần kinh tế trong nhiều lĩnh vực khác nhau chứ
không tập trung cho vay vào các thành phần kinh tế nhà nước như trước đây. Đó là
một dấu hiệu tốt của nền kinh tế và cũng giúp cho hoạt động của NHTM có nhiều đổi
mới tốt hơn.
Bảng 3: Tình hình dư nợ trong hệ thống NHTM Việt Nam
ĐVT: Tỷ đồng
Chỉ tiêu
2003 2004 T5/2005
Cho vay Tỷ lệ
(%)
Cho vay Tỷ lệ
(%)
Cho vay Tỷ lệ
(%)
NHTM VN
NH Cổ phần
NH Nước ngoài

239.071
36.525
56.448
72
11
17
302.989
53.957
58.108
73
13
14
398.712
78.657
65.096
73,5
14,5
12
TỔNG CỘNG 332.044 100 415.054 100 542.465 100
Nguồn: www.sbv.gov.vn (Ngân hàng nhà nước Việt Nam)
Qua bảng số liệu ta có thể thấy, khối NHQD chiếm tỷ lệ dư nợ cao nhất trong
toàn ngành. Còn lại là 2 khối NHCP và NH Nước ngoài có sự đổi chỗ cho nhau qua
các năm.
Chuyên đề năm 3 Tiềm năng và vai trò của ĐMTN đối với NHTM Việt Nam
Trong năm 2003, NHQD đứng đầu về số dư nợ với 239.071 tỷ, chiếm 72%. Là
NH có vị trí cao nhất. Kế đến là khối NH Nước ngoài với 56.488 tỷ đồng, đạt 17%.
Thấp nhất là khối NHCP, chỉ cho vay được 36.525 tỷ, chiếm khoảng 11% toàn ngành.
Nhưng đến năm 2004, giữa các khối NHCP và NH Nước ngoài lại có sự thay
đổi lớn. Trong khi tỷ lệ dư nợ trong các NH Nước ngoài bắt đầu giảm xuống chỉ còn
chiếm 14% thì các NHCP lại tăng lên đến 13% với số dư nợ 53.957 tỷ. Như vậy,

trong năm 2004 giữa 2 khối NH này có vị trí gần như tương đương nhau. Cao nhất
vẫn là khối NHQD với 302.989 tỷ, chiếm tỷ lệ là 73%.
Và năm 2005 là một năm có sự thay đổi vị trí thực sự. Các NHCP trong năm
này đã cho vay được đến 78.657 tỷ, chiếm đến 14,5%. Còn các NH Nước ngoài dù số
cho vay có tăng so với năm trước, nhưng nó chỉ chiếm 12% trong toàn ngành.
Như vậy, với gần 75% thị phần cho vay là của hệ thống NHTM Việt Nam đã
cho ta thấy, NHTM Việt Nam đang giữ vai trò chủ đạo trong việc cung ứng vốn cho
nền kinh tế. Thế nhưng, trong hoạt động tín dụng của NH nói chung và tình hình cho
vay nói riêng, không phải bao giờ tín dụng cũng mang lại kết quả tốt. Quan trọng nhất
là phải cho vay một cách có hiệu quả các chương trình, dự án với một mức độ rủi ro
thấp nhất. Do đó, để đảm bảo NH hoạt động có hiệu quả thì các NH phải cho vay với
doanh số lớn và đặc biệt là phải an toàn. Có như vậy mới có thể đạt được lợi nhuận
cao nhất và tránh không để cho vốn huy động được bị sử dụng một cách lãng phí.
1.3/ Về khả năng thu hồi nợ
Bảng 4: Tỷ lệ Nợ quá hạn/ Tổng dư nợ của hệ thống NHTM Việt Nam
ĐVT: %
Chỉ tiêu 2000 2001 T8/2002
Cả hệ thống NH 12,1 9,7 9,4
NHTM Nhà nước 10,8 10 5,5
Nguồn: IMF, Vietnam: Statistical Appendix and Background Notes, IMF Staff
Counrtry Report _ 10/5/2003, trang 75
Nợ quá hạn / Tổng dư nợ là chỉ số thể hiện tỷ lệ an toàn của một NH. Chỉ số
này để đo lường chất lượng nghiệp vụ NH. Những NH có chỉ số này thấp cũng có
nghĩa là chất lượng tín dụng của NH này cao. Theo qui định, nó phải đạt từ 5% trở
Chuyên đề năm 3 Tiềm năng và vai trò của ĐMTN đối với NHTM Việt Nam
xuống. Nhưng qua bảng số liệu ta có thể thấy, mặc dù tỷ lệ này đang dần được cải
thiện, song nó vẫn đang ở mức khá cao. Trong khi đó, tỷ lệ này qua các năm ở các
khối NH Nước ngoài là khá thấp (chỉ khoảng từ 3% đến 5%). Xét trên cả hệ thống
NH cao nhất là vào năm 2000 với 12,1%, thấp nhất vào T8/2002 với 9,4%.
Riêng đối với các NHTM Việt Nam trong giai đoạn này, ta có thể thấy rõ

chênh lệch về tỷ lệ Nợ quá hạn/ Tổng dư nợ từ năm 2000 là 12,1% đến T8/2002 chỉ
còn là 5,5%, tức là số nợ quá hạn đã giảm được đến 50%, nhưng vẫn còn lớn hơn rất
nhiều so với tỷ lệ an toàn là 5%.
■ Một vài nguyên nhân:
Thực trạng hoạt động yếu kém của hệ thống NHTM Việt Nam trong thời gian
qua là do có nhiều nguyên nhân khác nhau. Một trong những nguyên nhân chính gây
ra sự kém hiệu quả của hoạt động NHTM Việt Nam trong giai đoạn này chính là
quyền tự chủ của các NH chưa được tôn trọng. Việc cho vay của các NH này chịu ảnh
hưởng của những yếu tố kinh tế, đặc biệt là các khoảng cho vay đối với các doanh
nghiệp Nhà nước (DNNN). Chẳng hạn như cho phép cung ứng các khoản vay mà
không phải thế chấp các tài sản cũng như gia hạn thêm đối với một số khoản nợ,
chuyển các khoản nợ NH thành vốn ngân sách cấp. Tình hình trên là một trong những
tồn tại còn hạn chế của hệ thống NHTM Việt Nam.
Bảng 5: Dư nợ cho vay của 4 NHTM Việt Nam với các DNNN
ĐVT: Tỷ đồng
DNNN (Theo các ngành sản xuất) Tổng dư nợ Ngân hàng
Mía đường
Sắt thép
Phân bón
Xi măng
Giấy
3.881
896
858
2.900
746
TỔNG CỘNG 9281
Nguồn: Tạp chí Ngân Hàng, số 9/2004 – trang 14
Từ bảng số liệu cho thấy, số dư nợ mà các NHTM dành cho các DNNN là rất
lớn. Lớn nhất là ngành mía đường với 3.881 tỷ đồng; hai ngành sắt thép và phân bón

gần như tương đương nhau với 896 và 858 tỷ đồng. Thấp nhất là ngành công nghiệp
Chuyên đề năm 3 Tiềm năng và vai trò của ĐMTN đối với NHTM Việt Nam
giấy với 746 tỷ. Dù được cho vay với số dư nợ lớn như vậy nhưng hoạt động ở các
DNNN là khá yếu kém. Thực tế trong thời gian qua, các DNNN trên hoạt động hầu
như không có lãi. Tình hình này đã đặt các NHTM Việt Nam trong tình trạng rủi ro
rất lớn. Chính điều đó là nguyên nhân khiến cho tiềm lực tài chính của các NHTM
tăng rất chậm, nguồn tài chính để tái đầu tư bị suy kiệt theo chu kỳ xử lý nợ.
Ngoài ra, hoạt động cho vay của các NHTM Việt Nam hiện nay vẫn chủ yếu
dựa vào các tài sản dùng làm đảm bảo, thế chấp. Khi rủi ro xảy ra, việc xử lý hoặc
phát mãi những tài sản này là rất phức tạp. Về mặt pháp lý phải qua nhiều khâu, gây
mất nhiều thời gian và chi phí. Nhưng quan trọng nhất vẫn là khâu xem xét, thẩm định
dự án. Khâu này đòi hỏi cần có trình độ và tính chuyên nghiệp của bản thân NH trong
việc quản lý rủi ro.
Mặc dù là khâu quan trọng và quyết định nhất, nhưng cho đến nay, hoạt động
của các bộ phận quản lý rủi ro, thẩm định dự án trong hệ thống các NHTM Việt Nam
vẫn còn rất yếu kém. Trình độ nghiệp vụ, chuyên môn vẫn còn có sự chênh lệch rất
lớn so với các nước trong khu vực và quốc tế. Trong khi đó, những khoảng cho vay
lại thu hồi không đủ dẫn đến tỷ lệ nợ xấu, nợ quá hạn vẫn còn rất cao. Tính đến T5/
2005 thì tỷ lệ nợ xấu trong các NHTM vẫn còn từ 6,27% đến 7,7%. Đó là một sự lãng
phí rất lớn, vừa là gánh nặng không chỉ đối với hệ thống NH mà đối với cả nền kinh tế
Việt Nam nói chung.
Ngoài ra, sự yếu kém còn được biểu hiện cụ thể trong các kế hoạch hoạt động
kinh doanh của các NHTM. Ở Việt Nam cho đến nay, các NHTM phần lớn vẫn
thường tập trung vào các chỉ tiêu số lượng mà chưa thực sự quan tâm đến chỉ tiêu chất
lượng. Thậm chí, các chỉ tiêu số lượng và chất lượng còn chưa phù hợp theo chuẩn
quốc tế. Một điểm hạn chế rất lớn trong hệ thống NHTM Việt Nam đó là sự thiếu
minh bạch trong hoạt động tài chính của các NH. Điều đó gây khó khăn không nhỏ
trong việc xác minh chắc chắn điều kiện và tình trạng thật sự của chất lượng tín dụng
NH. Hậu quả là lợi nhuận báo cáo của các NH dường như bị thổi phồng nhưng không
thể xác định chắc chắn là đến mức nào.

2/ Thực trạng tham gia vào ĐMTN của các NHTM Việt Nam:
Chuyên đề năm 3 Tiềm năng và vai trò của ĐMTN đối với NHTM Việt Nam
Từ khi loại hình kinh doanh ĐMTN được ra đời ở Việt Nam cho đến nay, dù số
lượng các doanh nghiệp Việt Nam tham gia ngày càng tăng lên, song các NHTM Việt
Nam hầu như vẫn chưa chú ý nhiều đến loại hình kinh doanh này. Trước tiên vì nó là
một dịch vụ còn quá mới ở Việt Nam. Hơn nữa, các CRA Việt Nam vẫn chưa tạo được
sự tin tưởng cho các NHTM. Có lẽ vì vậy mà loại hình kinh doanh này vẫn chưa thu
hút được các NHTM Việt Nam tham gia. Gần đây nhất là Ngân hàng Đầu tư & Phát
triển Việt Nam, ngân hàng này đã thuê hẳn một tổ chức ĐMTN Quốc tế Moody’s để
đánh giá năng lực của mình. Trong đó:
+ Tín nhiệm của Tiền gửi tiền Đồng: Ba1
+ Tín nhiệm Nhà phát hành bằng tiền Đồng: Ba1
+ Tín nhiệm bằng Tiền gửi ngoại tệ: B1
+ Tín nhiệm Nhà phát hành bằng ngoại tệ: Ba3
+ Sức mạnh Tài chính độc lập: E với Triển vọng tích cực
Trong năm tiêu chí đánh giá của Moody’s, tiêu chí "năng lực tài chính độc lập"
của BIDV là hạng E với “Triển vọng tích cực”. Hạng E cho thấy tiềm lực tài chính của
BIDV là rất yếu so với chuẩn mực chung. (Cao nhất là A, đến B, C, D và E,…).
Tuy nhiên, đây không phải là điều đáng quan tâm hay lo ngại vì hầu như ai
cùng biết tiềm lực tài chính hay vấn đề quản trị công ty của nhiều DN Việt Nam, nhất
là các DNNN là rất yếu. Có đánh giá hay không thực tế vẫn vậy. Nhưng ở đây, cái lợi
mà BIDV đạt được nó lại thuộc một khía cạnh khác và nó mang một ý nghĩa to lớn
hơn.
Từ trước đến nay, các NHTM Việt Nam thường có một thói quen chung là rất ít
khi chịu công bố những điểm yếu, những mặt hạn chế của bản thân ngân hàng. Nhưng
ở đây, BIDV đã hoàn toàn làm ngược lại điều đó. Tuy nhiên nếu xem kỹ một chút thì
đây là một việc làm hết sức đúng đắn và cần thiết. Rõ ràng là trước khi thuê Moody's
đánh giá, BIDV vẫn biết là họ yếu, nhưng không biết là yếu cỡ nào. Đến khi có kết
quả đánh giá, họ biết rõ so với chuẩn mực thì tiềm lực tài chính của họ yếu ở mức nào.
Nhưng ở đây, chúng ta cần chú ý một điều là đối với những nước phát triển,

nếu một doanh nghiệp được xếp sức mạnh tài chính độc lập ở hạng E thì gần như
không có cơ hội nào trên thị trường. Tuy nhiên, ở các nước đang phát triển và các nền
kinh tế chuyển đổi thì lại hoàn toàn khác. Đơn giản là vì ở các nền kinh tế như vậy,
hầu như tất cả đều ở trong trạng thái yếu kém nên các doanh nghiệp chỉ hơn nhau về
Chuyên đề năm 3 Tiềm năng và vai trò của ĐMTN đối với NHTM Việt Nam
triển vọng phát triển và cách thức tận dụng cơ hội như thế nào thôi. Không đơn thuần
chỉ là xếp hạng E mà Moody’s đã còn cho BIDV thấy những yếu tố nào đã tạo ra mức
xếp hạng như vậy. Đây là cơ sở để BIDV tìm cách khắc phục nhằm nâng cao điểm tín
nhiệm của mình, đồng thời tìm cách tận dụng những cơ hội đang ở phía trước.
Tuy nhiên, khi đã chấp nhận thuê một tổ chức ĐMTN Quốc tế để đánh giá năng
lực cho mình, bản thân ngân hàng cũng phải chịu nhiều áp lực. Nhưng một điều hiển
nhiên là vì mục tiêu phát triển dài hạn nên không có chuyện chỉ thuê đánh giá tín
nhiệm một lần, mà theo định kỳ BIDV sẽ tiếp tục phải công bố mức độ tín nhiệm của
mình. Đây chính là áp lực rất lớn đối với BIDV vì nếu họ muốn đạt được mục tiêu
phát triển bền vững và tồn tại lâu dài thì công việc hiển nhiên trước mắt đối với họ là
làm sao trong lần công bố tới, điểm tín nhiệm phải cao hơn lần này. Nếu không, hậu
quả sẽ rất khó lường. Đây cũng chính là động lực để BIDV đẩy nhanh quá trình cải
cách, sắp xếp, cơ cấu lại để có một mô hình ngân hàng theo chuẩn mực. Đó chính là
lợi ích lớn nhất mà bản thân ngân hàng đạt được.
Nhưng câu hỏi đặt ra là liệu sau khi công bố mức tín nhiệm thấp như vậy có
làm cho giá trị của BIDV giảm đi so với việc không công bố không?
Câu trả lời là không. Đơn giản là vì mục tiêu của BIDV là xây dựng một mô
hình doanh nghiệp hiện đại với các nhà đầu tư chiến lược nước ngoài. Đối với các nhà
đầu tư chuyên nghiệp, khi quyết định một thương vụ đầu tư để trở thành cổ đông chiến
lược của một doanh nghiệp nào đó họ sẽ đánh giá rất kỹ. Nếu doanh nghiệp chưa được
đánh giá mức độ tín nhiệm thì các nhà đầu tư sẽ tự mình hoặc thuê các tổ chức khác
đánh giá. Lúc này, giá trị của doanh nghiệp được đánh giá tín nhiệm sẽ bằng giá trị
doanh nghiệm lúc chưa được đánh giá tín nhiệm cộng với giá trị của việc đánh giá tín
nhiệm. Hay nói khác hơn, một công việc vừa có tác dụng làm tăng giá trị doanh
nghiệp, vừa làm cơ sở, vừa là áp lực để phải làm cho mình tốt lên là việc hết sức nên

làm.
Ở góc độ vi mô của một ngân hàng là như vậy. Còn ở góc độ vĩ mô điều này
càng có ý nghĩa hơn, vì khi việc đánh giá tín nhiệm các ngân hàng trở thành thông lệ
và phổ biến thì nền kinh tế sẽ có một hệ thống tài chính các ngân hàng mạnh. Đây
chính là nền tảng quan trọng trong việc xây dựng một hệ thống ngân hàng phát triển
lâu dài, ổn định, tạo điều kiện cho mục tiêu tăng trưởng và phát triển kinh tế bền vững.
Nhất là trong tiến trình hội nhập khu vực và quốc tế chuẩn bị cho gia nhập WTO đang
Chuyên đề năm 3 Tiềm năng và vai trò của ĐMTN đối với NHTM Việt Nam
tới cận kề, hệ thống ngân hàng còn nhiều bất cập, đặc biệt là vấn đề minh bạch tài
chính - điều mà khách hàng cần thông tin nhất.
Minh bạch hóa hoạt động ngân hàng, trong đó công khai tài chính là cải cách tất
yếu, bắt buộc trong giai đoạn hiện nay. Sự bắt buộc đó xuất phát từ thực tế các ngân
hàng của Việt Nam còn nhỏ bé về tiềm lực tài chính và thiếu kinh nghiệm trong các
hoạt động tài chính quốc tế. Mặt khác, các thông tin về hoạt động tài chính của ngân
hàng không được công khai cũng là một rào cản trong quá trình hội nhập quốc tế. Điều
đó đã khiến cho không ít nhà đầu tư nước ngoài e ngại trong việc đầu tư vào các
NHTM Việt Nam. Từ thực trạng đó có thể thấy rõ, ảnh hưởng của các tổ chức ĐMTN
đối với hệ thống NHTM Việt Nam là rất lớn, có một vai trò quan trọng trong việc cải
tổ hệ thống NHTM Việt Nam.
Với số lượng khoảng 15.000 DN trong nền kinh tế hiện nay và hệ thống pháp
luật ngày càng đổi mới, cởi mở hơn thì việc thành lập các DN mới sẽ ngày càng tăng
lên, nhu cầu vốn trong nền kinh tế cũng sẽ rất lớn. Khi đó, sự ra đời của một tổ chức
có thể đánh giá khả năng hoạt động và độ tín nhiệm của một DN, một ngân hàng là rất
cần thiết. Hiện nay, loại hình hoạt động của ĐMTN đang rất được nhà nước và các
NHTM Việt Nam quan tâm. Tuy nhiên, việc lựa chọn một mô hình hoạt động của
CRA sao cho thích hợp với những đặc điểm của nền kinh tế Việt Nam hiện nay không
phải là dễ. Mô hình công ty cổ phần có các cổ đông chiến lược nước ngoài đang được
xem là một lựa chọn mang tính khả thi cao. Việc lựa chọn đúng các cổ đông chiến
lược nước ngoài và vận động họ tham gia thành lập các CRA đầu tiên của Việt Nam
là con đường nhanh nhất để hình thành một tổ chức ĐMTN đủ uy tín và đảm bảo vai

trò độc lập của các CRA này trong thị trường tài chính Việt Nam.
Hiệp hội các nhà đầu tư Việt Nam (VAFI) và các ngân hàng lớn hiện nay (NH
Á Châu, NH Ngoại Thương) cũng đang xúc tiến việc thành lập một cơ quan ĐMTN
nhằm đóng góp vào sự phát triển của thị trường vốn và đặc biệt là thị trường trái
phiếu Việt Nam.
Tóm lại, việc thành lập và phát triển ĐMTN ở Việt Nam là hoàn toàn phù hợp
với xu hướng và nhu cầu thị trường. Tuy nhiên, hoạt động ĐMTN ở Việt Nam vẫn
còn rất mới mẻ. Vì thế, trong những năm đầu mới được hình thành và đi vào phát
triển, bên cạnh những thuận lợi, còn có rất nhiều những khó khăn đòi hỏi các DN, các
NHTM và các nhà đầu tư Việt Nam phải chủ động để vượt qua. Dù có trải qua một
Chuyên đề năm 3 Tiềm năng và vai trò của ĐMTN đối với NHTM Việt Nam
thời gian dài hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh thông tin tín nhiệm, các CRA Việt
Nam vẫn còn phải cần 20 năm nữa để thử nghiệm với môi trường của kinh tế Việt
Nam mới có thể có được những tiêu chuẩn xếp hạng ngang tầm khu vực và thế giới.
2/ Vai trò của ĐMTN đối với hoạt động của hệ thống NHTM Việt nam
2.1/ Sự cần thiết:
Hiểu biết và quản lý rủi ro là chìa khóa để dẫn đến thành công của NH. Đối với
một khoảng lợi tức tiềm năng đều có sự rủi ro tương ứng. Cho đến nay, rủi ro tín dụng
là rủi ro chính yếu nhất, nó chiếm đến 80% tổng rủi ro mà NH phải gánh chịu. Lịch sử
đã cho thấy nhiều NH thất bại vì không hiểu chính chắn về khách hàng của mình. Vì
vậy, việc phân tích hoạt động kinh doanh và đánh giá, xếp loại DN được coi là yếu tố
quan trọng hàng đầu của các NHTM Việt Nam hiện nay.
Ở các nước trên thế giới, một trong những kỹ thuật quản lý rủi ro tín dụng của
NH là phương thức sử dụng kỹ thuật phân tích để xét duyệt khả năng và uy tín về mặt
tín dụng của khách hàng một cách thường xuyên. Nếu khách hàng được sự tín nhiệm
tín dụng cao thì được vay nhiều hơn. Đó là tiến trình xét duyệt tín dụng. Các NH sẽ
đưa ra các chỉ tiêu và kèm theo các thang điểm cơ bản để đánh giá, xếp loại tín dụng
theo A, B, C,… và các thông tin tín dụng của NHTW để cho các NH tham khảo. Các
NHTM Việt Nam hiện nay vẫn chưa làm tốt các khâu này.
Trong xu thế cạnh tranh và hội nhập tạo nên thời cơ và thách thức mới, đối với

hệ thống NHTM Việt Nam cần phải có sự đột phá vững mạnh, đổi mới công nghệ, đa
dạng hóa và nâng cao chất lượng sản phẩm. Nhằm ngăn ngừa và hạn chế rủi ro, giảm
bớt tỷ lệ nợ quá hạn hiện nay tại các NH còn khá cao. Các NH cần thận trọng, am
hiểu rõ khách hàng của mình là người đang kinh doanh như thế nào. Vì vậy, việc phân
tích tài chính, xếp loại DN là kỹ thuật nghiệp vụ không thể thiếu được trong hoạt
động tín dụng NH và đóng vai trò trong việc quyết định chất lượng tín dụng NH, cho
phép NH chủ động lựa chọn tín dụng NH và xây dựng chính sách tín dụng hợp lý
hơn.
Tuy nhiên, với trình độ chuyên môn và khả năng am hiểu khách hành, phân
tích kinh tế cũng như thẩm định dự án của khách hàng trong các NHTM Việt nam
hiện nay còn rất yếu kém, vì vậy sự ra đời của một tổ chức ĐMTN hoạt động độc lập
và chuyên nghiệp là rất cần thiết cho hệ thống NHTM Việt Nam ta.
Chuyên đề năm 3 Tiềm năng và vai trò của ĐMTN đối với NHTM Việt Nam
2.2/ Vai trò của ĐMTN đối với hoạt động của NHTM Việt Nam:
Trong một nền kinh tế, nếu vốn luôn được coi là điều kiện vật chất để duy trì
các hoạt động kinh tế thì sự tồn tại của các NH lại được coi là điều kiện cần thiết cho
việc lưu thông các nguồn vốn trong xã hội. Vì thế, việc tổ chức và đảm bảo sự an toàn
cho các hoạt động của NH luôn được xem là vấn đề quan trọng, có ảnh hưởng sâu sắc
đến quá trình phát triển của một đất nước. Với nhu cầu vốn ngày càng tăng cho các
hoạt động kinh tế thị trường thì khả năng huy động vốn trong các NH lại trở thành vấn
đề cần thiết và cấp bách. Do mối tương quan mật thiết đó mà giữa thị trường vốn và
hệ thống các NH luôn có những ảnh hưởng nhất định qua lại lẫn nhau. Sự phát triển
của hệ thống NH sẽ là điều kiện để thúc đẩy lưu thông của thị trường vốn và ngược
lại, một thị trường vốn phát triển sẽ là động lực giúp cho hoạt động của NH ngày càng
tốt hơn. Vì vậy, khi nói đến vai trò của ĐMTN đối với hệ thống NH cũng chính là vai
trò của nó đối với thị trường vốn Việt Nam.
► Thứ nhất, nó là cơ sở giúp các NH nâng cao hiệu quả trong hoạt động cho
vay tín dụng, góp phần làm giảm tỷ lệ nợ xấu, nợ quá hạn trong các NH.
Vì sự ra đời của các CRA có nhiệm vụ là đánh giá tín nhiệm của các DN. Nó
cũng giống như việc phân tích tài chính và đánh giá rủi ro tín dụng trong các NH.

Nhưng các CRA lại là các tổ chức chuyên nghiệp hơn với các nghiệp vụ chuyên môn
và bài bản hơn. Do đó, các thông tin mà CRA đưa ra sẽ cung cấp chính xác tình hình
và tài chính thực tế của các DN cũng như các thông tin phi tài chính khác. Những
thông tin đó sẽ là những cơ sở rất tốt giúp cho NH cho vay một cách hiệu quả nhất.
Bởi chỉ có những DN có mức xếp hạng cao, độ tín nhiệm tốt mới được phép vay để
đầu tư, sản xuất. Bản thân các DN này khi được đánh giá tín nhiệm cao cũng có nghĩa
là họ làm ăn rất hiệu quả. Như vậy, rủi ro từ những khoản vay của các DN này là rất
thấp. Và khi NH cho vay hiệu quả nghĩa là tỷ lệ của những khoản nợ quá hạn, nợ xấu
sẽ được giảm xuống. Điều đó sẽ góp phần nâng cao hoạt động và chất lượng tín dụng
trong các NH.
Chuyên đề năm 3 Tiềm năng và vai trò của ĐMTN đối với NHTM Việt Nam
► Thứ hai, nó sẽ là yếu tố có tác động tích cực đến khả năng huy động vốn
trong các NH.
Từ trước đến nay, do sự nhạy cảm của hoạt động ngân hàng nên các ngân hàng
quốc doanh không báo cáo tài chính công khai, còn khách hàng không thể có thông
tin về hoạt động của ngân hàng cũng như hiệu quả kinh doanh của ngân hàng mà họ
giao dịch. Điều này nhiều khi ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của các ngân
hàng, bởi khi không có thông tin, sự tin tưởng của khách hàng vào các khoản đầu tư
của họ là không chắc chắn, họ chỉ đầu tư ngắn hạn để giảm thiểu rủi ro. Có thể đơn cử
một thí dụ qua cơn sốt tăng lãi suất trong những tháng cuối năm 2005 và đầu năm
nay, đa số những người gửi tiết kiệm đều lựa chọn hình thức gửi ngắn hạn từ 1 đến 3
tháng. Theo họ, hình thức gửi ngắn hạn mặc dù lãi suất thấp hơn nhưng tránh được
những rủi ro tiềm ẩn như ngân hàng hoạt động không hiệu quả, sự biến động của thị
trường ,…khi có những bất trắc, họ có thể rút ngay tiền về để bảo toàn vốn và đầu tư
vào nơi khác sinh lợi hơn. Các khoản vay ngắn hạn đó gây khó khăn cho ngân hàng
trong việc hoạch định các phương án kinh doanh, đặc biệt là các khoản cho vay dài
hạn đối với các dự án lớn của các khách hàng tiềm năng.
Các CRA không chỉ đánh giá tín nhiệm các DN mà còn phân tích, xếp hạng
đối với cả các tổ chức tài chính, các công ty bảo hiểm và các NH… Như vậy, muốn
được đánh giá cao thì bản thân các NH phải hoạt động thật tốt. Không chỉ tốt từ khâu

hoạt động cho đến việc quản lý hành chính, quản lý rủi ro tín dụng mà cả về mặt nhân
sự. Khi một NH được CRA đánh giá tốt, có mức độ tín nhiệm cao nghĩa là NH đã làm
tốt các khâu trên. Điều đó không chỉ giúp cho NH thấy được những mặt mạnh, mặt
yếu của mình để có những hướng điều chỉnh đúng đắn và hợp lý hơn. Mặt khác, nó
còn làm cho các nhà đầu tư cảm thấy yên tâm hơn khi gửi tiền hay đầu tư vào các cổ
phiếu hoặc dự án của NH. Lúc này, việc huy động vốn đối với các NH sẽ không còn
quá khó khăn như trước đây. Và khi vốn được huy động càng ngày càng nhiều, nghĩa
là nó đã cung cấp cho nhu cầu của thị trường vốn Việt Nam đang ngày càng tăng, góp
phần thúc đẩy sự phát triển chung của cả nền kinh tế.
► Thứ ba, trong bối cảnh chung như hiện nay, khi mà các NHTM Việt Nam
đang được cổ phần hóa ngày càng nhiều và chuẩn bị được đưa lên các sàn giao dịch
chứng khoán, thì đây có thể sẽ là một kênh huy động vốn rất lớn của các NH trong
tương lai, không chỉ có các nhà đầu tư trong nước mà còn có sự tham gia của cả các
Chuyên đề năm 3 Tiềm năng và vai trò của ĐMTN đối với NHTM Việt Nam
tập đoàn đầu tư tài chính nước ngoài. Tuy nhiên, TTCK Việt Nam hiện nay vẫn còn
rất non trẻ. Vấn đề thông tin luôn là một nhu cầu không bao giờ đáp ứng đủ cho các
nhà đầu tư. Vì vậy, việc nắm giữ thông tin sẽ là một yếu tố rất quan trọng giữ vai trò
quyết định đối với các nhà đầu tư Việt Nam. Trong điều kiện mức độ hiểu biết của
công chúng đầu tư còn hạn chế, các kênh cung cấp thông tin và đánh giá đúng rủi ro
còn rất ít hoặc chưa có, sự xuất hiện của các CRA sẽ cung cấp thêm nhiều thông tin
cho cộng đồng đầu tư, và chính bảng xếp hạng của các CRA sẽ làm cho nhà đầu tư
yên tâm hơn khi tiếp cận với thị trường (nghĩa là giúp họ có cơ sở và tự tin hơn khi
thực hiện quyết định đầu tư vào một loại chứng khoán nợ nào đó). Việt Nam đã có
TTCK, song hoạt động của các tổ chức ĐMTN vẫn chưa xuất hiện. Nhưng vì vai trò
của tổ chức này là rất quan trọng, trong khi đó Việt Nam lại đang trong quá trình hội
nhập quốc tế, tự do hoá tài chính và phát triển triển TTCK, nên việc thành lập và đưa
tổ chức ĐMTN vào hoạt động tại Việt Nam là vấn đề hết sức cấp thiết.
► Thứ tư, nó thúc đẩy sự phát triển của thị trường vốn, là động lực gián tiếp
cho sự phát triển của hệ thống NHTM Việt Nam.
Hiện nay, Việt Nam đang nổ lực để xây dựng một nền kinh tế thị trường trong

đó sự minh bạch là điều kiện thiết yếu để chủ động hội nhập và phát triển. TTCK là
một kênh huy động vốn rất quan trọng nhưng hiện nay vẫn phát triển một cách chậm
chạp với quá nhiều biến động và rủi ro. Một trong những nguyên nhân của sự trì trệ
này là chưa có một tổ chức đánh giá tín nhiệm. Như vậy, để TTCK phát triển, việc
thành lập một tổ chức đánh giá tín nhiệm là vấn đề hết sức cần thiết. Việc xúc tiến
hình thành CRA tại Việt Nam cũng đồng nghĩa với việc xây dựng và hoàn thiện cơ sở
hạ tầng của thị trường vốn ở Việt Nam mà trên thực tế đang đòi hỏi phải có nhiều loại
định chế trung gian có uy tín và hoạt động độc lập. Các nhà phát hành cũng thường
dùng “xếp hạng tín nhiệm” như là một chiến lược để huy động vốn. Và các tổ chức
ĐMTN sẽ đóng vai trò như là một cầu nối giữa nhà đầu tư và thị trường. Khi thị
trường tài chính và việc toàn cầu hóa ngày càng phát triển thì việc xếp hạng tín nhiệm
được dùng như một công cụ để giám sát thị trường tài chính, nhằm làm giảm thiểu rủi
ro cho các nhà đầu tư và cho cả hệ thống nói chung.
Chuyên đề năm 3 Tiềm năng và vai trò của ĐMTN đối với NHTM Việt Nam
► Cuối cùng, tầm quan trọng của các CRA chính là sự toàn cầu hoá.
Các quỹ đầu tư giờ đây vươn ra khắp thế giới, các quan hệ tín dụng theo đó
cũng bị ảnh hưởng bởi các CRA. Họ không chỉ xếp hạng các tổ chức phát hành mà
còn xếp hạng cả các quốc gia. Bởi vì sản phẩm của các CRA chính là việc cung cấp
cho thị trường một hệ thống xếp hạng các công cụ tài chính, đặc biệt là các chứng
khoán nợ, từ đó giúp cho các nhà đầu tư có cơ sở để tham khảo, so sánh đối chiếu kỹ
càng trước khi đưa ra quyết định đầu tư cuối cùng của mình, đó là nên đầu tư vào
những công cụ nào? Điều này có nghĩa là chính hệ thống xếp hạng mà các CRA đưa
ra đóng vai trò làm người bảo vệ các nhà đầu tư giảm bớt rất nhiều rủi ro khi đầu tư
vào chứng khoán. Tạo điều kiện cho thị trường vốn Việt Nam có thể thu hút được
nhiều nguồn vốn khác nhau từ bên ngoài.
Hệ thống xếp hạng của các CRA không chỉ có lợi về phía các nhà đầu tư, mà
còn mang lại lợi ích to lớn cho các công ty chứng khoán. Chính hệ thống xếp hạng đã
làm nền tảng vững chắc cho việc lựa chọn một danh mục đầu tư lý tưởng đối với các
công ty quản lý, các công ty chứng khoán cho nghiệp vụ quản lý danh mục đầu tư và
nghiệp vụ tự doanh. Các CRA còn là nhân tố kích hoạt TTCK thêm sôi động, tạo

thêm công ăn việc làm, nâng cao và chuẩn hoá kiến thức về phân tích kinh tế, tài
chính, kế toán Hệ quả của những nhân tố kể trên sẽ mang lại luồng sinh khí cho sự
phát triển mạnh mẽ và hoàn thiện TTCK. Điều này đặc biệt có ý nghĩa hết sức quan
trọng đối với TTCK Việt Nam vốn còn rất non trẻ và sơ khai.
Tóm lại, hiệu quả hoạt động và chất lượng tín dụng của một NH được chứng
minh bằng khả năng huy động vốn, hoạt động cho vay và tình hình dư nợ của bản
thân NH. Vì vậy, vai trò của các CRA đối với hệ thống NHTM Việt Nam là rất lớn.
Nhất là trong giai đoạn hiện nay, khi Việt Nam đang sắp bước vào giai đoạn hội nhập
và phát triển. Tuy nhiên, hoạt động của các NHTM Việt Nam vẫn còn rất yếu và có
nhiều hạn chế. Sự xuất hiện của các CRA sẽ là động lực to lớn giúp cho hoạt động
của các NHTM được tốt hơn, tạo điều kiện cho các NH phát triển mạnh mẽ và ổn
định.
Chuyên đề năm 3 Tiềm năng và vai trò của ĐMTN đối với NHTM Việt Nam
III/ MỘT SỐ THUẬN LỢI, KHÓ KHĂN VÀ GIẢI PHÁP
1/ Thuận lợi:
Có thể nói, việc hình thành và phát triển ĐMTN Việt Nam mới đáp ứng được
xu hướng và nhu cầu của thị trường về một nền kinh tế minh bạch và phát triển ổn
định. Vì thế mà hoạt động của ĐMTN ở Việt Nam hiện nay đang rất được Nhà nước
và các DN quan tâm đúng đắn, sự ủng hộ từ các tập đoàn đầu tư tài chính nước ngoài,
và đặc biệt là hệ thống các NH trong nước.
Hiện nay, Nhà nước ta và các tổ chức có liên quan như Bộ Kế hoạch & Đầu tư,
Bộ Tài chính, các ngành chức năng có liên quan như NHNN, UBCKNN,… đã và
đang lên một kế hoạch cụ thể, trong đó có việc ban hành một khung pháp lý, các qui
định nhằm hỗ trợ cho việc xây dựng một CRA phù hợp với nền kinh tế Việt Nam
nhưng vẫn không quá lệch lạc so với các tiêu chuẩn quốc tế.
Ngoài ra, còn có rất nhiều cuộc hội thảo bàn về các vấn đề liên quan đến việc
hình thành các CRA tại Việt Nam, trong đó có sự tham gia của các chuyên gia kinh tế
nước ngoài, các tập đoàn CRA quốc tế để trao đổi kinh nghiệm hoạt động và làm việc.
Một thuận lợi lớn nữa là Việt Nam đã nhận được sự tài trợ và giúp đỡ kỹ thuật
thông qua dự án “Hỗ trợ kỹ thuật” do Ban thư ký ASEAN và Bộ Tài chính Nhật Bản

tài trợ về việc xúc tiến thành lập công ty CRA tại Việt Nam. Chương trình này do
viện nghiên cứu Normura thực hiện với sự tham gia tài trợ của Tổ chức phát triển
kinh tế tư nhân (MPDF) cho các hội thảo xây dựng các giải pháp hình thành CRA tại
Việt Nam. Vì thế, kinh doanh thông tin tín nhiệm được xem là có rất nhiều triển vọng
phát triển ở Việt Nam, nhất là trong thời điểm Việt Nam gia nhập WTO đang đến gần.

×