Tải bản đầy đủ (.doc) (133 trang)

Một số giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá Việt Nam sang EU

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (790.1 KB, 133 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Trong chiến lược đa dạng hoá thị trường của chính sách thương mại của
Việt Nam, Liên minh Châu Âu (gọi tắt là EU) luôn luôn được coi là một thị
trường quan trọng. Với hơn 370 triệu dân sống trên 15 quốc gia trải dài từ bắc
xuống nam châu lục với mức sống thuộc loại cao nhất thế giới, EU nhập khẩu từ
Việt Nam một lượng hàng hoá ngày càng lớn qua từng năm.
Xét thấy tiềm năng ngoại thương với EU và nhận thức sâu sắc về bài học
kinh nghiệm mất thị trường truyền thống từ sự sụp đổ của Liên Xô, các nước
Đông Âu, Việt Nam đã nỗ lực thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu với EU. Cho
đến nay, thị trường này đã chiếm đến 27,7% kim ngạch thương mại hàng năm
của Việt Nam và giá trị xuất nhập khẩu tăng khoảng 60% mỗi năm.
Hiện nay, thị trường Mỹ đang rộng mở sau khi hiệp định thương mại Việt
Nam - Hoa Kỳ được áp dụng. Tuy nhiên, để xuất khẩu hàng hóa vào thị trường
này vẫn còn nhiều khó khăn và thách thức, nên EU vẫn được coi là bạn hàng
truyền thống và quan trọng của Việt Nam. Việc giải quyết những vướng mắc,
tồn tại nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của Việt Nam sang EU tiếp tục phát
triển trong những năm đầu của thế kỷ mới, đang là một công tác quan trọng của
Nhà nước và nhân dân Việt Nam.
Đã có nhiều công trình nghiên cứu về thị trường EU, thực trạng quan hệ
thương mại giữa Việt Nam và khu vực này đồng thời cũng đã có những khuyến
nghị đề xuất nhằm thúc đẩy mối quan hệ đó. Tuy vậy, vấn đề này vẫn là một vấn
đề mới có tính thời sự và khơi gợi nhiều khía cạnh cần nghiên cứu và phân tích
sâu. Chính vì đề tài: “Một số giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá Việt
Nam sang EU” được chọn để nghiên cứu. Ngoài lời mở đầu, kết luận và danh
mục tài liệu tham khảo, phụ lục, luận văn được trình bày trong ba chương:
Chương I: Những vấn đề lý luận chung về xuất khẩu hàng hoá
Chương II: Thực trạng xuất khẩu hàng hoá Việt Nam sang Liên minh
Châu Âu
Chương III: Một số giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá Việt Nam
sang thị trường Liên minh Châu Âu.
1


Trước hết, đề tài làm rõ sự cần thiết của việc mở rộng quan hệ thương mại
Việt Nam - EU. Trên cơ sở đó, đề tài đi sâu phân tích nền tảng của mối quan hệ
thương mại giữa hai bên.
Thứ hai, việc phân tích thực trạng hoạt động xuất khẩu Việt Nam sang EU
từ năm 1990 đến nay và chỉ ra những tồn tại thách thức trong mối quan hệ này
sẽ làm tiền đề để đề xuất các kiến nghị và giải pháp.
Cuối cùng, việc lựa chọn và sử dụng tài liệu, phân tích và tổng hợp số liệu,
đánh giá tình hình thực tế... được sử dụng để hoàn thiện trình độ nghiên cứu và
phương pháp luận khoa học.
Đề tài tập trung phân tích hoạt động xuất khẩu giữa Việt Nam và EU trong
những năm qua, đặc biệt từ những năm 1990 đến nay. Trên cơ sở phân tích số
liệu và thực trạng, đi sâu phân tích những khó khăn, tồn tại và đưa ra các giải
pháp mang tính khả thi nhằm góp phần thúc đẩy hoạt động xuất khẩu trong
những năm tới.
Trên nền tảng phương pháp luận duy vật biện chứng, đề tài đã vận dụng
các phương pháp tổng hợp, phân tích thực trạng và số liệu thực tế, kết hợp với
phương pháp so sánh, diễn dịch, quy nạp, liệt kê để bổ trợ và đi sâu phân tích, từ
đó đưa ra các giải pháp thích hợp.
Do điều kiện thời gian nghiên cứu, nguồn tài liệu và trình độ nghiên cứu
còn nhiều hạn chế nên không tránh khỏi thiếu sót. Em rất mong được sự giúp đỡ
và phê bình của các thầy cô.
2
CHƯƠNG I. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ XUẤT KHẨU
HÀNG HOÁ
I.
KHÁI NIỆM VÀ VAI TRÒ
KHÁI NIỆM VÀ VAI TRÒ
1. Khái niệm
Xuất khẩu là một hoạt động “ mũi nhọn” của nền kinh tế quốc dân đảm
nhận chức năng lưu thông hàng hoá trong nước và nước ngoài cho nên hoạt

động xuất khẩu là một bộ phận cấu thành của nền kinh tế. Do xuất khẩu là lĩnh
vực chỉ phát huy vai trò của mình trong điều kiện “ mở cửa” cho nên hoạt động
xuất khẩu là đặc trưng của nền kinh tế thị trường “ mở”.
Do trình độ không đồng đều về lực lượng sản xuất giữa các quốc gia đã
hình thành lợi thế so sánh giữa các quốc gia, sự khác nhau về giá cả, trình độ
công nghệ đã đưa đến sự khác nhau về nhu cầu hàng hoá, lý do trên đã thôi thúc
các quốc gia xuất khẩu hàng hoá ra nước ngoài.
Thực tế, xuất khẩu là hoạt động thu lợi nhuận bằng cách bán hàng hoá ra
thị trường nước ngoài và các thị trường khác với thị trường trong nước. Đây là
“lối ra” cho sản phẩm trong nước, nhờ vậy có thể tăng quy mô và tích luỹ đối
với sản xuất. Tuy nhiên, trong điều kiện cạnh tranh về giá và “ phi giá” đối với
sản xuất tăng để hoạt động xuất khẩu có hiệu quả thì đòi hỏi tất yếu phải thống
nhất hoạt động theo mục tiêu đã định sẵn xét ở góc độ vĩ mô cũng như vi mô. Ví
dụ, mục tiêu nhất quán và lâu dài của hoạt động xuất khẩu Việt Nam là “ động
lực” cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, góp phần nâng cao
đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
2. Đặc điểm
Như định nghĩa đã cho thấy, xuất khẩu là một hoạt động tiêu thụ hàng hoá
trong đó công ty và khách hàng nằm ở hai lãnh thổ khác nhau. Do vậy, xuất
khẩu có các đặc điểm sau:
Khách hàng ở ngoài hoàn toàn khác biệt với khách hàng trong nước về
ngôn ngữ, lối sống, thói quen tiêu dùng, điều kiện sống, phong tục tập quán…
đặc điểm này khiến cho doanh nghiệp xuất nhập khẩu phải có những thay đổi
nhất định sao cho phù họp với khách hàng ở ngoại quốc.
3
Quãng đường vận chuyển hàng hóa tới tay người tiêu dùng thường xa và
phải sử dụng tàu biển hoặc đường hàng không do vậy giá cả thường cao hơn
trong nước.
Các nghiệp vụ liên quan đến xuất khẩu như: thanh toán, kí kết hợp đồng,
thủ tục hải quan, vận chuyển hàng hóa đều khá phức tạp và chứa nhiều rủi ro.

Thị trường xuất khẩu là thị trường hàng hóa khác hoàn toàn với thị trường
trong nước. Mặt khác có nhiều ràng buộc về kinh tế, chính trị, luật pháp vì vậy
nó khó tiếp cận và hoạt động hơn.
3. Vai trò của hoạt động xuất khẩu
3.1 Đối với doanh nghiệp hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu
Hoạt động xuất khẩu có vai trò rất to lớn trong hoạt động của doanh nghiệp
xuất nhập khẩu, thể hiện ở các điểm sau:
Hoạt động xuất khẩu giúp các doanh nghiệp xuất nhập khẩu tồn tại và phát
triển. Với bản chất là hoạt động tiêu thụ, do vậy việc đẩy mạnh hoạt động xuất
khẩu cũng là một vấn đề sống còn của mỗi doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu.
Đối với những doanh nghiệp chuyên hoạt động trên thị trường trong nước
thì việc đưa sản phẩm của mình ra nước ngoài cũng có ý nghĩa quan trọng, đặc
biệt là việc doanh nghiệp có thể tiêu thụ số lượng sản phẩm lớn hơn. Nhờ vậy
mà doanh nghiệp có thể sử dụng tối đa công suất của mình trong việc sản xuất
cũng như tiêu thụ.
Xuất khẩu là một nhân tố tích cực nhất đối với doanh nghiệp trong việc
nâng cao chất lượng sản phẩm và đề ra những giải pháp nhằm củng cố, nâng cao
hiệu quả trong công tác.
Mặt khác, thị trường quốc tế là một thị trường rộng lớn, chứa đựng nhiều
cơ hội cũng như nhiều rủi ro. Những doanh nghiệp kinh doanh trên thì trường
này nếu thành công có thể tăng cao thế lực, uy tín của doanh nghiệp ngày càng
được mở rộng, thế lực và uy tín của doanh nghiệp không ngừng được nâng cao
và ngược lại thúc đẩy các hoạt động hướng về xuất khẩu.
4
3.2 Vai trò của xuất khẩu trong nền kinh tế quốc dân
Vai trò đầu tiên của xuất khẩu với nền kinh tế bản địa đó là thúc đẩy sự
phát triển của nền kinh tế. Buôn bán với nước ngoài cũng là một cách tốt nhất để
giải quyết vấn đề về hạn chế nguồn lực của mỗi quốc gia. Thông qua trao đổi và
chuyên môn hoá sản xuất, các quốc gia sẽ sử dụng có hiệu quả mọi nguồn tài
nguyên nhằm đạt mục tiêu chiến lược là phát triển nền kinh tế và thực hiện Công

nghiệp hóa – Hiện đại hóa đất nước. Tiếp đó, vai trò của xuất khẩu thể hiện trên
các mặt sau:
Xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu phục vụ Công nghiệp hóa
– hiện đại hóa đất nước.
Xuất khẩu đóng góp vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất
phát triển. Trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế có hai hướng phát triển. Thứ
nhất, xuất khẩu những sản phẩm vượt quá nhu cầu nội địa – theo hướng này thì
xuất khẩu mang tính thụ động và ít tăng cao. Thứ hai, coi xuất khẩu là một mũi
nhọn từ đó sản xuất theo nhu cầu của thị trường thế giới. Điều đó có tác động
tích cực đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển.
Xuất khẩu tạo ra những tiền đề kinh tế kĩ thuật hiện đại từ phía nước
ngoài nhằm cải tạo và mở rộng năng lực sản xuất trong nước, nâng cao trìng độ
của người lao động, sử dụng có hiệu quả kinh nghiệm quản lý của các quốc gia
phát triển. Bên cạnh đó, xuất khẩu còn có tác động tích cực đến việc giải quyết
công ăn việc làm, cải thiện đời sống cho nhân dân và là cơ sở thúc đẩy, mở rộng
các mối kinh tế đối ngoại của các nước.
II.
CÁC HÌNH THỨC XUẤT KHẨU CHỦ YẾU CỦA DOANH NGHIỆP
CÁC HÌNH THỨC XUẤT KHẨU CHỦ YẾU CỦA DOANH NGHIỆP
VIỆT NAM
VIỆT NAM
Hoạt động xuất khẩu hàng hoá dịch vụ được thực hiện dưới nhiều hình thức
khác nhau. Căn cứ vào đặc điểm sở hữu hàng hoá trước khi xuất khẩu, nguồn
hàng nhập khẩu, người ta có thể chia thành một số loại hình xuất khẩu khác
nhau. Sau đây là một số loại hình xuất khẩu mà các doanh nghiệp Việt Nam hay
dùng:
5
1. Xuất khẩu trực tiếp
Xuất khẩu trực tiếp là hình thức các doanh nghiệp tự bỏ vốn ra thu mua
các sản phẩm của các đơn vị sản xuất trong nước hoặc tự sản xuất sau đó bán

các sản phẩm này cho bạn hàng ở nước ngoài.
Xuất khẩu theo hình thức này có hiệu quả hơn các hình thức xuất khẩu
khác. Bởi vì doanh nghiệp có thể thu mua hay tự sản xuất được hành hoá chất
lượng cao, phù hợp với điều kiện sản xuất của doanh nghiệp cũng như phù hợp
với yêu cầu của khách hàng. Tuy nhiên, đây lại là hình thức xuất khẩu có rủi ro
lớn, hàng hóa có thể không tiêu thụ được từ lý do khách hàng hay thị trường.
Điều này có thể làm cho doanh nghiệp bị ứ đọng vốn, thậm chí thất thoát, tổn
thất do chất lượng hàng hóa giảm theo thời gian, bị lưu kho.
2. Hoạt động gia công xuất khẩu
Theo hình thức này thì bên xuất khẩu chính là bên nhận gia công, còn
người thuê gia công chính là bên nhập khẩu. Những người thuê gia công gửi
nguyên liệu hoặc bán thành phẩm và sau đó nhận sản phẩm và trả thù lao gia
công.
Hình thức xuất khẩu này có đặc điểm là doanh nghiệp không phải bỏ vốn
kinh doanh mà hiệu quả thu được lại cao, ít rủi ro, khả năng thanh toán đảm bảo
đầu ra chắc chắn. Nhưng đây là một hình thức khá phức tạp vì phải thỏa thuận
với khách hàng về số lượng, chất lượng, tỉ lệ thu hồi sản phẩm và quá trình giám
sát gia công. Do đó đòi hỏi doanh nghiệp phải có kĩ năng tốt trong các nghiệp
vụ sản xuất các loại sản phẩm này.
3. Hoạt động xuất khẩu uỷ thác
Đây là loại hình dịch vụ thương mại trong đó doanh nghiệp đứng ra làm vai
trò trung gian thực hiện các hoạt động xuất khẩu cho các doanh nghiệp muốn uỷ
thác. Với hình thức này, hàng hoá trước khi kết thúc quá trình xuất khẩu vẫn
thuộc quyền sở hữu của đơn vị uỷ thác, doanh nghiệp chỉ có nhiệm vụ làm các
thủ tục xuất khẩu hàng hóa kể cả việc vận chuyển hàng hóa và được nhận một
khoản thù lao gọi là phó uỷ thác do đơn vị uỷ thác trả.
Ưu điểm của hình thức này là rủi ro thấp, dễ thực hiện và ít trách nhiệm.
Doanh nghiệp không phải là người cuối cùng chịu trách nhiệm về hàng hóa cũng
6
không phải bỏ vốn ra để mua hàng. Tuy phí uỷ thác doanh nghiệp nhận được

nhỏ nhưng được thanh toán nhanh và không có các thủ tục rườm rà.
4. Hoạt động xuất khẩu theo hình thức buôn bán đối lưu
Đây là hình thức xuất khẩu mà hoạt động xuất khẩu phải gắn chặt với hoạt
động nhập khẩu. Trong phương thức này, nhà xuất khẩu đồng thời là nhà nhập
khẩu. Mục đích là thu về một lượng hàng hóa tương đương với hàng hóa xuất
khẩu, vì vậy còn gọi là hình thức hàng đổi hàng. Đối với hình thức này thì hàng
hóa mang ra trao đổi phải cân bằng về mặt giá trị, giá cả, số lượng và điều kiện
thanh toán đặc biệt được quan tâm.
5. Xuất khẩu theo nghị định thư
Đây là hình thức xuất khẩu hàng hóa thường là trả nợ thực hiện theo nghị
định thư giữa hai chính phủ của hai nước. Xuất khẩu theo hình thức này có
nhiều ưu điểm: khả năng thanh toán chắc chắn, giá cả dễ chấp nhận.
Theo nghị định 57CP tháng 10/1998 về quản lý nhà nước đối với hoạt động
xuất khẩu quy định các hình thức dưới đây cũng được coi là xuất khẩu:
- Tạm nhập tái xuất.
- Chuyển khẩu hàng hóa.
- Quá cảnh hàng hóa.
III.
CÁC LÝ THUYẾT XUẤT KHẨU
CÁC LÝ THUYẾT XUẤT KHẨU
1. Lý thuyết về lợi thế tuyệt đối của Adam Smith
Ngay từ giữa thế kỷ 16, trường phái trọng thương đã chú ý tới vai trò quan
trọng của ngoại thương trong việc làm tăng cuả cải quốc gia. Đến thế kỷ 18, đại
biểu xuất sắc của kinh tế chính trị cổ điển Anh Adam-Smith đã đưa ra khái niệm
“ Lợi thế tuyệt đối “ để lý giải nhận định trên. Ông cho rằng các nước trên thế
giới buôn bán với nhau vì họ khác nhau và vì họ cùng có lợi. Sự khác nhau về
điều kiện thiên nhiên và địa lý buộc các nước này phải chuyên môn hoá vào việc
sản xuất một số mặt hàng nhất định.
Ví dụ: nước có khoáng sản thì tập trung vào việc phát triển công nghiệp,
còn nước có đất đai phì nhiêu thì tập trung vào sản xuất nông sản. Khi đó, nhờ

chuyên môn hóa sản lượng của các loại hàng hoá tăng lên và thông qua trao đổi
quốc tế cả hai bên đều có lợi.
7
Thực vậy, giả sử chỉ có sự trao đổi giữa hai quốc gia: Việt Nam và Đài
Loan, trên hai mặt hàng: gạo và đường.
Bảng 1: Khối lượng sản phẩm trước và sau khi thực hiện trao đổi quốc tế
Việt Đài KLSP trước KLSP sau
Gạo(kg/giờ) 6 1 7 12
Đường(kg/giờ 4 5 9 10
Theo trên, Việt Nam nên xuất khẩu gạo vì chi phí sản xuất theo giờ công
thấp hơn ( 1/6 < 1 ), còn Đài Loan nên xuất khẩu đường (1/5 < 1/4 ). Do đó tỷ lệ
trao đổi quốc tế nằm trong khoảng: 1/5 < TLTĐQT < 6/4
Việt Nam thu lợi tối đa khi trao đổi theo tỷ lệ trao đổi của Đài Loan và
ngược lại. Quá trình trao đổi trên cơ sở lợi thế tuyệt đối làm cho khối lượng sản
phẩm thế giới tăng lên, điều này có nghĩa là các nguồn lực được sử dụng có hiệu
quả hơn. Tuy vậy, khi tỷ lệ trao đổi thay đổi thì lợi ích thu được của các quốc
gia từ thương mại cũng thay đổi, đây là quá trình phân phối lại lợi ích giữa các
quốc gia.
Tuy nhiên, quan điểm về lợi thế tuyệt đối chưa phản ánh một cách đầy đủ
những sự khác biệt giữa các nước. Ngoài những khác biệt về khả năng thiên
nhiên và địa lý, các nước còn phân biệt với nhau bởi năng suất lao động, nhu cầu
thị trường, khả năng cung ứng và sử dụng các nguồn lực. Để thể hiện đầy đủ sự
khác biệt giữa các nước theo các tiêu chí trên, các nhà kinh tế đã đưa ra một
quan điểm mới, quan điểm về “ Lợi thế so sánh “ hay “ Lợi thế tương đối ”,
được thể hiện thông qua mô hình của David Ricardo và mô hình Hecksher –
Ohlin. Chúng được coi là mô hình cơ bản để giải thích về nguồn gốc những lợi
ích từ thương mại.
2. Lý thuyết về lợi thế so sánh của David Ricardo
Ra đời vào đầu thế kỷ 19, mô hình D.Ricardo được coi là mô hình đơn giản
nhất lý giải về nguồn gốc và những lợi ích thu được từ thương mại. Theo mô

hình này, lao động là yếu tố duy nhất tham gia vào sản xuất và được di chuyển
tự do từ ngành này sang ngành khác, các nước khác nhau chỉ vì năng suất lao
động khác nhau và mức lợi tức không đổi theo quy mô. Nếu không có thuế quan
và chi phí vận chuển không đáng kể thì “các nước sẽ chuyên môn hoá vào việc
8
sản xuất và xuất khẩu các sản phẩm mà họ làm ra với chi phí tương đối, hay chi
phí cơ hội thấp hơn các nước khác “. Việc chuyên môn hoá sản xuất dựa trên cơ
sở lợi thế so sánh giúp cho các nước có điều kiện trao đổi hàng hóa với nhau và
làm cho họ cùng có lợi, thể hiện thông qua việc mở rộng khả năng tiêu dùng của
các bên trao đổi và nâng cao hiệu quả sản xuất vì những hàng hóa nhập khẩu đòi
ít lao động hơn so với sản xuất trực tiếp trong nước. Việc phân phối lợi ích từ
thương mại giữa các bên tham gia là công bằng dựa trên sự khác biệt về năng
suất lao động.
Song, nếu so sánh với thực tiễn thương mại quốc tế, mô hình này còn nhiều
hạn chế và đôi khi còn đưa ra phán đoán sai lệch, như :
Thứ nhất, việc chuyên môn hoá sản xuất hoàn toàn mà mô hình đòi hỏi,
mỗi nước chỉ tập trung sản xuất một vài sản phẩm có lợi thế tuyệt đối, là không
thể có được trong thực tiễn.
Thứ hai, do giả định rằng lao động có thể di chuyển tự do và không tốn
kém giữa các ngành, ông đã phán đoán không sát với thực tế rằng thương mại
không tác động lên sự phân phối thu nhập trong nội bộ các nước.
Cuối cùng, D.Ricardo đã bỏ qua vai trò của lời thế nhờ quy mô - một
nguồn gốc của trao đổi quốc tế.
3. Mô hình chuẩn của Hecksher – Ohlin
Để khắc phục điều này, Heckscher – Ohlin đã đưa ra một mô hình giải
thích nguồn gốc của thương mại thông qua sự khác biệt về nguồn lực- “ mô hình
tỷ lệ các yếu tố” với hai yếu tố sản xuất và tham gia vào hai ngành sản xuất khác
nhau, sự khác biệt duy nhất là nguồn lực thì “ các nước có thiên hướng xuất
khẩu hàng hoá cần nhiều yếu tố sản xuất mà nước họ có dồi dào”. Do nhu cầu
cơ bản giống nhau, chỉ khác nhau về cung lao động, nên khi tham gia thương

mại, giá tương đối trao đổi có xu hướng hội tụ – mức giá của nước xuất khẩu có
xu hướng tăng lên và ở nước nhập khẩu có xu hướng giảm đi. Xuất khẩu là một
hoạt động “ mũi nhọn” của nền kinh tế quốc dân đảm nhận chức năng lưu thông
hàng hoá trong nước và nước ngoài cho nên hoạt động xuất khẩu là một bộ phận
cấu thành của nền kinh tế. Do xuất khẩu là lĩnh vực chỉ phát huy vai trò của
mình dẫn tới có tác động khác nhau đến các nhóm dân cư trong một nước,
những người sở hữu yếu tố dồi dào sẽ được hưởng lợi từ thương mại và ngược
9
lại cho dù tất cả thành viên trong xã hội đều có mức sống tốt hơn nhờ thương
mại do khả năng tiêu dùng được mở rộng. Dù đã có những thành tựu đáng kể
nhưng mô hình này vẫn bị hạn chế bởi khả năng thu nhập có hạn của dân chúng.
“Mô hình chuẩn” sẽ cho thấy một bức tranh thực tế hơn về thương mại
quốc tế, khi đặt nó trong quan hệ với sản xuất và tiêu dùng. Theo mô hình này
khi có thương mại, mức cung tương đối hàng hóa của thế giới được xác định từ
khả năng sản xuất của tất cả các nước tham gia thương mại và mức cầu tương
đối từ sở thích của chúng. Sự tăng trưởng kinh tế ở một nước gây ra tác động lên
phúc lợi của các nước còn lại thông qua điều kiện mậu dịch – mức giá hành xuất
khẩu so tương đối với hàng nhập khẩu theo hai hướng :
Với các yếu tố khác không đổi, nếu điều kiện mậu dịch của một nước được
cải thiện hơn, thì thúc đẩy sự tăng trưởng ban đầu ở trong nước đó, nhưng lại
gây thiệt hại cho các nước khác; tăng trưởng theo hướng thiên lệch về xuất khẩu.
Ngược lại, nó làm mất đi thuận lợi đến tốc độ tăng trưởng trong nước
nhưng lại mang thuận lợi cho các nước khác – tăng trưởng thiên lệch về nhập
khẩu. (Đồ thị trong phụ lục 2)
Vậy, mối quan hệ giữa thương mại và tăng trưởng kinh tế được thông qua
điều kiện mậu dịch.
Bên cạnh đó, còn có sự tác động của thuế quan nhập khẩu và trợ cấp xuất
khẩu còn có sự tác động lên điều kiện mậu dịch và cung cầu tương đối của thế
giới, thuế quan nhập khẩu làm tăng giá trị tương đối của hàng xuất khẩu của
nước đó, giúp cải thiện điều kiện mậu dịch trong nước.

Ngược lại, trợ cấp xuất khẩu lại làm cho điều kiện mậu dịch trong nước xấu
đi do nó làm tăng cung tương đối của thế giới về hàng hoá mà nó xuất khẩu
trong khi lại làm giảm cầu tương đối của thế giới về hàng hoá đó. Như vậy, xét
dưới góc độ mậu dịch, tác động gián tiếp của thuế quan nhập khẩu ảnh hưởng rõ
cho nước áp dụng nó. Những tác động này không được thể hiện rõ trên thực tế vì
nó gây sự lệch lạc trong sản xuất và tiêu dùng. Hơn nữa, đối với một nước nhỏ
thì ảnh hưởng của nó lên điều kiện mậu dịch là không đáng kể. Do đó, thương
mại không những tác động mạnh lên phân phối thu nhập trong nội bộ một nước,
mà còn tác động đến phân phối thu nhập quốc tế thông qua điều kiện mậu dịch.
10
Về mặt lý thuyết, các nhà kinh tế học đã chứng minh rằng, các nước buôn
bán với nhau hoặc vì họ khác biệt về nguồn lực, công nghệ hay vì lợi thế kinh tế
nhờ quy mô, thì trong bất cứ môi trường nào thương mại cũng luôn mang lại lợi
ích cho các bên tham gia, các lợi ích này là tiềm tàng. Bên cạnh đó, các nhà kinh
tế còn chỉ ra rằng việc tiến hành thương mại gây tác động không đồng đềudến
phân phối thu nhập giữa các nhóm dân cư trong nội bộ một nước và giữa các
nước theo chiều hướng một số người, một số ngành được lợi từ hoạt động này.
Đây là một trong những cơ sở để chính phủ tham gia điều tiết hoạt động thương
mại, thông qua việc ban hành các chính sách.
IV
. NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU
. NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU
Các nhà nước khác nhau có chính sách thương mại khác nhau, thể hiện ý
chí và mục tiêu của từng nhà nước trong việc can thiệp và điều chỉnh các hoạt
động thương mại quốc tế có liên quan đến nền kinh tế của nước mình, nhưng
nhìn chung các nước đều phải quan tâm đến các nhân tố chung sau:
1. Môi trường chính trị
Trước hết là sự ổn định về chính trị, đây là nhân tố cần thiết cho mọi hoạt
động nói chung, chứ không chỉ xuất khẩu nói riêng. ổn định về chính trị tác
động đến sự ổn định tương đối về chính sách và pháp luật, tạo điều kiện tốt cho

sản xuất trong nước và thúc đẩy hoạt động xuất khẩu.
2. Chính sách trợ cấp của chính phủ
Trợ cấp xuất khẩu cũng là một trong các biện pháp có tác dụng thúc đẩy
mở rộng xuất khẩu đối với mặt hàng được khuyến khích xuất khẩu. Biện phá
này thường được áp dụng vì khi thâm nhập vào thị trường nước ngoài thì sự rủi
ro cao hơn so với khi tiêu thụ trong nước. Việc trợ cấp xuất khẩu cho các mặt
hàng được khuyến khích xuất khẩu có thể các hình thức trợ giá, miễn giảm thuế
xuất khẩu, hạ lãi suất cho vay vốn sản xuất hàng xuất khẩu hoặc cho bạn hàng
nước ngoài vay ưu đãi để có điều kiện mua hàng nước mình.
3. Các hiệp định thương mại
Trong hoạt động kinh doạnh thương mại quốc tế, các mối quan hệ quốc tế
có ảnh hưởng trực tiếp mạnh mẽ đối với hoạt động xuất khẩu. Khi xuất khẩu
hàng hoá từ quốc gia này sang quốc gia khác, nhà xuất khẩu phải đối mặt với
hàng rào thuế quan và phi thuế quan, các hàng rào này nới lỏng hay chặt chẽ phụ
thuộc chủ yếu vào quan hệ kinh tế song phương giữa nước nhập khẩu và nước
11
xuất khẩu. Do đó trong xu hướng toàn cầu hoá nền kinh tế hiện nay nhiều liên
minh kinh tế ở các mức khác nhau được hình thành, nhiều hiệp định thương mại
song phương và đa phương hiữa các quốc gia được ký kết với mực tiêu thúc đẩy
thương mại trong khu vực và toàn thế giới. Nếu một quốc gia tham gia vào các
liên minh kinh tế và các hiệp định thương mại thì đó sẽ là một nhân tố tích cực
đẩy mạnh hoạt động xuât khẩu của quốc gia đó, ngược lại nó sẽ là rào cản việc
thâm nhập vào thị trường của trong khu vực. Tóm lại, các hiệp định thương mại
đóng vai trò rất quan trọng trong hoạt đông kinh tế không chỉ của một quốc gia
mà còn ảnh hưởng đến hoạt động kinh tế của cả khu vực và toàn cầu.
4. Chính sách tỷ giá hối đoái
Tỷ giá hối đoái là giá cả của một đơn vị tiền tệ này thể hiện bằng một số
đơn vị tiền tệ của nước kia. Tỷ giá hối đoái và chính sách tỷ giá hối đoái là nhân
tố quan trọng để doanh nghiệp đưa ra quyết định liên quan đến hoạt động mua
bán hàng hóa quốc tế nói chung và hoạt động xuất khẩu nói riêng.

Để nhận biết được sự tác động của tỷ giá hối đoái đối với các hoạt động của
nền kinh tế nói chung, hoạt động xuất nhập khẩu nói riêng, các nhà kinh tế
thường phân biệt tỷ giá hối đoái danh nghĩa (TGDN) và tỷ giá hối đoái thực tế
(TGTT).
Tỷ giá hối đoái danh nghĩa (tỷ giá chính thức) là tỷ giá được nêu trên các
phương tiện thông tin đại chúng như: báo chí, đài phát thanh, ti vi... do Ngân
hàng Nhà nước công bố hàng ngày.
Tuy nhiên, tỷ giá hối đoái chính thức không phải là một yếu tố duy nhất ảnh
hưởng đến khả năng cạnh tranh của các nhà sản xuất trong nước về các mặt hàng
Vấn đề đối với các nhà xuất khẩu và những doanh nghiệp có hàng hoá cạnh
tranh với hàng nhập khẩu là có được hay không một tỷ giá chính thức, được điều
chỉnh theo lạm phát trong nước và lạm phát xảy ra tại các nền kinh tế của các
bạn hàng của họ. Một tỷ giá hối đoái chính thức được điều chỉnh theo các quá
trình lạm phát có liên quan gọi là tỷ giá hối đoái thực tế.
Id: chỉ số giá cả trong nước
If: chỉ số giá cả nước ngoài
12
If
Id*TGDN
TGTT
=
Nếu tỷ giá hối đoái thực tế thấp hơn so với nước xuất khẩu và cao hơn so
với nước nhập khẩu thì lợi thế sẽ thuộc về nước xuất khẩu do giá nguyên vật liệu
đầu vào thấp hơn, chi phí nhân công rẻ hơn làm cho giá thành sản phẩm ở nước
xuất khẩu rẻ hơn so với nước nhập khẩu. Còn đối với nước nhập khẩu thì cầu về
hàng nhập khẩu sẽ tăng lên do phải mất chi phí lớn hơn để sản xuất hàng hoá ở
trong nước. Điều này đã tạo điều kiện thuận lợi cho các nước xuất khẩu tăng
nhanh được các mặt hàng xuất khẩu của mình, do đó có thể tăng được lượng dự
trữ ngoại hối.
Tương tự, tỷ suất ngoại tệ hàng xuất khẩu cũng như “một chiếc gậy vô

hình” đã làm thay đổi, chuyển hướng giữa các mặt hàng, các phương án kinh
doanh của doanh nghiệp xuất khẩu.
5. Mục tiêu và chiến lược phát triển kinh tế
Thông qua mục tiêu và chiến lược phát triển kinh tế thì Chính phủ có thể
đưa ra các chính sách khuyến khích hay hạn chế xuất nhập khẩu. Chẳng hạn
chiến lược phát triển kinh tế theo hướng công nghiệp hóa- hiện đại hóa đòi hỏi
xuất khẩu để thu ngoại tệ đáp ứng nhu cầu nhập khẩu các trang thiết bị máy
móc phục vụ sản xuất; mục tiêu bảo hộ sản xuất trong nước đưa ra chính sách
khuyến khích xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu hàng tiêu dùng....
6. Rủi ro
Bên cạnh đó là các rủi ro trong hoạt động xuất khẩu cũng có tác động lớn
đến hoạt động này như: rủi ro do thiếu thông tin, do năng lực quản lý kém, do
lạm phát, sự biến động của các yếu tố đầu vào, thiếu vốn, gây thiệt hại cho giá
trị kim ngạch xuất khẩu, mất lòng tin của khách hàng, gây đình trệ sản xuất
trong nước, thất nghiệp, do đó cần phải có quan tâm toả đáng để hạn chế những
rủi ro không đáng có cho các mặt hàng xuất khẩu.
7. Các chính sách thuế
Một số chính sách chủ yếu cần quan tâm đối với nhà xuất khẩu:
- Thuế quan
Trong hoạt động xuất khẩu, thuế quan là loại thuế đánh vào từng đơn vị
hàng xuất khẩu. Việc đánh thuế xuất khẩu được Chính phủ ban hành nhằm quản
lý xuất khẩu theo chiều hướng có lợi nhất cho nền kinh tế trong nước và mở
13
rộng các quan hệ kinh tế đối ngoại. Tuy nhiên, thuế quan cũng gây ra một khoản
chi phí xã hội do sản xuất trong nước tăng lên không có hiệu quả và mức tiêu
dùng trong nước lại giảm xuống. Nhìn chung, công cụ này thường chỉ áp dụng
đối với một số ít mặt hàng nhằm hạn chế số lượng xuất khẩu và bổ sung cho
nguồn thu của ngân sách.
-Trợ cấp xuất khẩu
Trong một số trường hợp Chính phủ phải thực hiện chính sách trợ cấp xuất

khẩu để tăng mức độ xuất khẩu hàng hóa của nước mình, tạo điều kiện cho sản
phẩm có sức cạnh tranh về giá trên thị trường thế giới. Trợ cấp xuất khẩu sẽ làm
tăng giá nội địa của hàng xuất khẩu, giảm tiêu dùng trong nước nhưng tăng sản
lượng và mức xuất khẩu.
-Hạn ngạch
Là một công cụ chủ yếu trong hàng rào phi thuế quan, nó được hiểu như
quy định của Nhà nước về số lượng tối đa của một mặt hàng hay một nhóm hàng
được phép xuất khẩu trong một thời gian nhất định thông qua việc cấp giấy
phép. Sở dĩ có công cụ này vì không phải lúc nào Nhà nước cũng khuyến khích
xuất khẩu mà đôi khi vì quyền lợi quốc gia phải kiểm soát một vài mặt hàng hay
nhóm hàng như sản phẩm đặc biệt, nguyên liệu do nhu cầu trong nước còn
thiếu....
8. Các yếu tố khoa học công nghệ
Ngày nay với sự phát triển như vũ bãocủa khoa học công nghệ, nhiều công
nghệ mới, thành tựu mới của khoa học kỹ thuật đã giúp sản xuất tạo ra những
sản phẩm mới với chất lượng và mẫu mã đa dạng hơn, nhờ đó mà chu kỳ sống
của sản phẩm được kéo dài và thu được nhiều lợi nhuận hơn.
Trong hoạt động xuất khẩu cũng vậy, việc áp dụng các tiến bộ khoa học
công nghệ có tác động làm tăng hiệu quả của công tác này. Điều thấy rõ nhất là
nhờ sự phát triển của Bưu chính viễn thông, tin học mà các đơn vị ngoại thương
có thể đàm phán ký kết hợp đồng với các đối tác qua điện thoại, điện tín,... giảm
được chi phí đi lại. Bên cạnh đó, khoa học công nghệ còn có tác động vào cá
lĩnh vực như vận tải hàng hoá, bảo quan hàng hoá, kỹ thuật nghiệp vụ ngân
14
hàng,... đây cũng là những nhân tố có ảnh hưởng tích cực đến hoạt động xuất
nhập khẩu.
9. Nhân tố con người
Con người được được đặt ở vị trí trung tâm của mọi hoạt động, hoạt động
xuất khẩu hàng hoá đặc biệt phải nhấm mạnh đến yếu tố con người bởi vì con
người là chủ thể sáng tạo và trực tiếp điều hành các hoạt động. Ảnh hưởng của

nhân tố này thể hiện qua hai chỉ tiêu:
 Đó là tinh thần làm việc biểu hiện bởi bầu không khí làm việc và tình
đoàn kết và ý chí phấn đấu cho mục tiêu chung.
 Năng lực công tác biểu hiện qua kỹ năng điều hành cộng tác, các nghiệp
vụ cụ thể và qua kết quả hoạt động.
Để nâng cao vai trò nhân tố con người cần phải nâng cao nghiệp vụ của cán
bộ công nhân viên mặt khác phải quan tâm thích đáng đến lợi ích vật chất cũng
như tinh thần.
V.
MỘT SỐ CHỈ TIÊU ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ CỦA HOẠT ĐỘNG
MỘT SỐ CHỈ TIÊU ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ CỦA HOẠT ĐỘNG


KINH DOANH XUẤT KHẨU
KINH DOANH XUẤT KHẨU
1. Cách xác định hiệu quả hoạt động kinh doanh xuất khẩu
Để một thương vụ đạt hiệu quả thì doanh nghiệp phải lập phương án kinh
doanh xuất khẩu. Nội dung của phương án kinh doanh bao gồm:
Mặt hàng: xem xét mặt hàng nào xuất khẩu có hiệu quả, tức là xem xét mặt
hàng nào trong nước có khả năng đáp ứng và thị trường nước ngoài chấp nhận.
Số lượng và giá cả: xem xét số lượng hàng có thể cung ứng và số lượng hàng
mà phía đối tác yêu cầu, cũng như giá cả của từng mặt hàng hoá.
Từ đó tính doanh thu xuất khẩu : DT
XK
= Q
C
*P
C
*K
N

Trong đó: DT
XK
: là doanh thu xuất khẩu
Q
C
: là khối lượng hàng hóa được chấp nhận
K
N
: là tỷ giá ngoại tệ tại thời điểm thanh toán
P
C
: là giá cả của 1 đơn vị hàng hoá
15
Lợi nhuận thương vụ xuất khẩu:
Nếu P > 0 thì thương vụ này có hiệu quả
Nếu P < 0 thì thương vụ không có hiệu quả
2. Một số chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh doanh xuất khẩu
Nhằm đánh giá hiệu quả của hoạt động kinh doanh xuất khẩu thường dùng
một số chỉ tiêu sau:
-Tỷ xuất lợi nhuận của vốn sản xuất kinh doanh
Công thức này cho thấy một đồng vốn đầu tư vào sản xuất kinh doanh thì
tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận. Nếu tỷ suất (P
1
) càng cao thì hiệu quả
kinh tế của doanh nghiệp càng cao.
- Tỷ suất lợi nhuận của doanh số bán thực hiện
Công thức này nhằm xác định mỗi đồng doanh số bán ra thực hiện mang lại
bao nhiêu đồng lợi nhuận.
Đối với chỉ tiêu thông tin P
2

càng cao thì doanh nghiệp kinh doanh càng có
hiệu quả. Công thức này nhằm xác định mỗi đồng doanh số bán ra thực hiện
mang lại bao nhiêu đồng lợi nhuận.
- Tỷ suất lợi nhuận của tổng chi phí sản xuất kinh doanh
Công thức này cho thấy doanh nghiệp bỏ ra một đồng chi phí thì có thể thu
được bao nhiêu đồng lợi nhuận.
16
∑ ∑
=
khÈu xuÊthµng phÝ chi - khÈu xuÊthµng DTP

1
Vốn sản xuất kinh doanh

nhuận

Lợi
=
P
1
7
doanh kinh xuÊtns¶ phÝ chi Tæng
nhuËn Lîi
=
3
P

Doanh số bán thực hiện

nhuận


Lợi
=
2
P
- Tỷ suất giá trị gia tăng (GTGT) của tổng giá trị kinh doanh
Công thức này chỉ ra rằng cứ một đồng giá trị kinh doanh của doanh
nghiệp sẽ đóng góp cho xã hội bao nhiêu đồng GTGT.
Vốn lưu động: là vốn đầu tư vào tài sản lưu động của doanh nghiệp, nó là số
tiền ứng trước về tài sản lưu động nhằm đảm bảo quá trình sản xuất kinh doanh
liên tục của doanh nghiệp. Đặc điểm của vốn này là luân chuyển không ngừng,
luôn thay đổi hình thái biểu hiện, hoàn chuyển toàn bộ giá trị ngay một lần và
hoàn thành một vòng tuần hoàn trong một chu kỳ sản xuất kinh doanh.
Nhằm đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động thông qua công thức sau:
Công thức này cho thấy doanh nghiệp bỏ ra một đồng vốn lưu động thì kết
quả hoạt động sản xuất kinh doanh thu được là bao nhiêu.
- Tỷ suất ngoại tệ hàng xuất khẩu:
Là số lượng bản tệ bỏ ra để thu được một đơn vị ngoại tệ.
Trong đó:
K
XK
: tỷ suất ngoại tệ hàng xuất khẩu theo L/C tại ngân hàng
P
X
: chi phí cho lô hàng xuất khẩu
T
X
: số ngoại tệ thu được từ lô hàng xuất khẩu
Nếu K
XK

: nhỏ hơn tỷ giá hối đoái thì hoạt động xuất khẩu có hiệu quả. Trong
trường hợp K
XK
bằng tỷ giá hối đoái thì tuỳ từng trường hợp cụ thể mà công ty
quyết định có tiếp tục kinh doanh hay không. Tuy nhiên, trong tình trạng thiếu
vốn ngoại tệ và vì mục đích tạo công ăn việc làm cho người lao động, giữ mối
quan hệ bạn hàng các công ty kinh doanh xuất nhập khẩu vẫn chấp nhận lợi
nhuận bằng không.
17
doanh kinh trÞ gi¸ Tæng
nhuËn Lîi
=
H

X
X
XK
T
P
K
=
Kết quả hoạt động SXKD
Vốn lưu động
H
VLĐ
=
- Tỷ suất doanh lợi xuất khẩu (D
X
)
Trong đó:

L
X
: lợi nhuận về bán hàng xuất khẩu tính bằng ngoại tệ được chuyển đổi
ra tiền Việt Nam theo tỷ giá công bố của ngân hàng Nhà nước.
C
X
: tổng chi phí thực hiện hoạt động xuất khẩu
Chỉ tiêu này phản ánh hiệu quả của chi phí, với một đồng chi phí đem lại bao
nhiêu đồng lợi nhuận.
- Lượng xuất khẩu tối ưu: đơn vị kinh doanh phải xác định được số lượng
hàng xuất khẩu tối ưu trên cơ sở tối ưu hoá cả về giá trị sử dụng và giá trị.
Gọi: N là nhu cầu xuất khẩu hàng năm.
D là lượng hàng đặt của mỗi đơn hàng.
C là toàn bộ chi phí cho lô hàng.
C
1
là phần chi phí thu mua tương đối cố định cho một lần đặt mua.
C
2
là chi phí bảo quản lô hàng lưu động trong kho trong một năm (khoản chi
phí này có thể tính bằng phần trăm so với số lượng hàng lưu kho bình quân một
năm).
g là đơn giá mua hàng.
Vậy tổng chi phí cho lô hàng là:
Tối thiểu hoá chi phí bằng cách lấy vi phân hàm số C và cho vi phân hàm C
bằng 0. Số lượng hàng xuất khẩu tối ưu là:
- Chỉ tiêu lợi nhuận trong xuất khẩu
+ Lợi nhuận tính cho một mặt hàng:
P
X

= q(p – f)
18
X
X
X
C
L
D
=
Ng
2
D
C
D
N
CC
×++=
21
2
C
D
NC
C
2
2
1
'
+−=
2
1

C
N2C
D
=
Trong đó:
P
x
: lợi nhuận của mặt hàng xuất khẩu
q : khối lượng hàng xuất khẩu
p : giá trị một đơn vị hàng xuất khẩu
f : chi phí đầy đủ của một đơn vị hàng xuất khẩu
Chỉ tiêu này phân biệt lợi nhuận của từng mặt hàng, lô hàng, chuyến hàng.
+ Tổng lợi nhuận hàng năm của doanh nghiệp xuất khẩu:
Ngoài các chỉ tiêu định lượng ở trên, để xác định hiệu quả hoạt động xuất
khẩu còn có các chỉ tiêu định tính. Đây là những chỉ tiêu gián tiếp rất khó lường
nhưng không phải là không ước lượng được. Các chỉ tiêu đó có thể là:
- Chỉ tiêu thu hút các nguồn vốn đầu tư liên doanh liên kết với các tổ chức tư
thương nước ngoài.
- Chỉ tiêu mở rộng môi trường và bạn hàng kinh doanh
- Chỉ tiêu về uy tín, tín nhiệm về chính trị xã hội tăng lên do hoạt động xuất
khẩu đem lại...
Nhìn chung, đây chỉ là một số chỉ tiêu đánh giá một cách tương đối chính
xác một thương vụ xuất khẩu, nhưng nếu xét trong một năm kinh doanh của
doanh nghiệp thì chưa phản ánh được hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp xuất
khẩu bởi nó còn liên quan đến một số chi phí khác như: chi phí quản lý thương
vụ, chi phí quản lý sản xuất, …
Thực tế cho thấy, các doanh nghiệp hàng năm vẫn trích từ doanh thu để
phân bổ vào một số quỹ như: quỹ giảm giá hàng, quỹ hỗ trợ thất nghiệp, quỹ dự
phòng các khoản nợ khó đòi, quỹ hỗ trợ xuất khẩu,…do vậy khi tính kết quả
hoạt động sản xuất phải trích một khoản để phân bổ vào các quỹ trên (các quỹ

này không có trong quá trình hoạch toán).
19
∑ ∑
=
−=
n
i
iij
fpqP
1
)(
VI.
KINH NGHIỆM CỦA CÁC NƯỚC
KINH NGHIỆM CỦA CÁC NƯỚC
Những năm đầu của thế kỷ 21 được đánh dấu bởi nhiều sự kiện quan
trọng như: Trung Quốc ra nhập WTO, khủng bố ngày 11/9,... đã gây một tác
động lớn đến nền kinh tế thế giới cũng như các quốc gia đang phát triển. Hơn
lúc nào, các quố gia này ngày càng thấy được tầm quan trọng trong việc mở
rộng và duy trì thị trường tiêu thụ hàng hoá nhằm hạn chế những rủi ro do biến
động của tình hình chính trị và kinh tế thế giới. Đối với Việt Nam, mặc dù EU là
một thị trường khó tính những lại là một bạn hàng ổnn định. Thực tế trong
những năm gần đây, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang EU không có
chiều hướng giảm, trong khi đó sau vụ khủng bố ngày 11/9 thị trường Mỹ đã có
nguy cơ mất đi vị trí “đầu đàn”, các thị trường khác cũng bị ảnh hưởng. Mặt
khác, hiện nay EU vẫn giành cho Việt Nam những ưu đãi hết sức thuận lợi, có
thể nói đây là những tiền đề quan trọng để thúc đẩy nhanh quan hệ thương mại
giữa hai bên.
Là một nước thực hiện mở cửa sau, Việt Nam có lợi thế là tiếp thu được
kinh nghiệm của các nước đi trước nhằm thúc đẩy hoạt động thương mại có hiệu
quả, đặc biệt là " khuyến khích xuất khẩu ".

1. Kinh nghiệm của Nhật Bản - điển hình cho nhóm nước tư bản công
nghiệp phát triển.
Nhằm khuyến khích xuất khẩu, Nhật Bản đã sử dụng các biện pháp sau:
* Cho bay vốn lãi suất ưu đãi ( nhất là trong hoạt động dưa vốn ra đầu
tư nước ngoài).
* Chế độ tài chính ưu đãi ( miễn thuế thu nhập từ xuất khẩu, hệ thống
trợ cấp mất giá trong xuất khẩu, trợ cấp việc mở chi nhánh ở nước ngoài ).
* Thành lập các cơ quan khuyến khích xuất khẩu.
Đây là những biện pháp đã góp phần vào việc tạo nên sự thần kỳ của nền
kinh tế Nhật Bản trong những thập kỷ vừa qua với sự phát triển chưa từng có
của hàng xuất khẩu trên phạm vi toàn thế giới.
2. Kinh nghiệm của Trung Quốc.
Có thể nói Trung Quốc đã rất thành công trong việc đưa ra các giải pháp
thúc đẩy hoạt động xuất khẩu trong những năm qua.
20
Trước hết là điều chỉnh mở rộng quyền kinh doanh. Theo đó quyền hoạt
động xuất khẩu được phân bổ cho các địa phương và các ngành công nghiệp.
Các thành phần kinh tế khác nhau, các vùng lãnh thổ khác nhau cũng được tham
gia vào hoạt động xuất khẩu bỏ hẳn cơ chế độc quyền. Chức năng của bộ thương
mại và hợp tác quốc tế là giám sát, điều tiết hoạt động xuất khẩu của các tổ chức
kinh tế theo đúng pháp luật.
Thứ hai, có sự đa dạng hoá các hình thức kinh doanh ngoại thương, những
hình thức kinh doanh thông dụng của cơ chế thị trường đã dần thay thế cho các
hiệp định thuương mại, nghị định thư.
Mậu dịch trả tiền ngay, mậu dịch gia công, mậu dịch bồi hoàn, tô nhượng,
đã thực sự thúc đẩy quan hệ buôn bán đa chiều với các nước khác.
Thứ ba, phát triển mạnh mẽ nền ngoại thương mở theo hướng ngoại và
khuyến khích " tự do xuất khẩu ". Phần lớn hàng hoá xuất khẩu được kinh doanh
theo kiểu “ thả nổi ”, tuỳ sự điều tiết của thị trường, chính vì vậy mà sản phẩm
hàng hoá Trung Quốc ngày càng đa dạng về chủng loại, phong phú về quy mô.

Rõ ràng, hoạt động xuất khẩu của Trung Quốc được tiến hành đồng bộ
trên tất cả các mặt, then trọng bằng cách cho thí điểm dần và thả lỏng theo cơ
chế thị trường trong điều kiện cho phép.
3. Kinh nghiệm của Malayxia.
Bước sang thập kỷ 70, Malayxia đã thi hành chính sách kinh tế mới ( NEP ),
nó cũng trùng với chiến lược công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu. Những
khuyến khích này chủ yếu bao gồm giảm thế doanh thu đối với hoạt động xuất
khẩu và những mạt hàng xuất khẩu có sử dụng nguyên vật liệu trong nước, trợ
cấp về thuế cho các chi phí khuyến khích có liên quan đến hàng xuất khẩu, khấu
hao gia tốc đối với các công ty xuất khẩu hơn 20% sản lượng và thực hiện hỗ trợ
tín dụng cho xuất khẩu thông qua việc bảo lãnh và cho vay với lãi xuất thấp.
Trên đây là kinh nghiệm thành công của các nước đi trước nhưng để áp
dụng vào Việt Nam trong việc mở rộng thị trường, đặc biệt là Trung Quốc, thì
chính phủ ta cần phải xem xét lại cho hợp lý. Bởi vì, tiềm năng xuất khẩu của
Việt Nam được hiểu như khả năng xuất khẩu của Việt Nam đang ở dạng “ tiềm
ẩn “, “chưa được khai thác”. Do mỗi nước có lợi thế so sánh khác nhau nên việc
áp dụng các biện pháp thúc đẩy xuất khẩu phải phù hợp với từng quốc gia riêng.
21
Song, đây cũng là những kinh nghiệm quý mà Việt Nam cần học tập trong quá
trình phát triển kinh tế đất nước.
Như vậy, xuất khẩu có một vai trò hết sức quan trọng trong nền kinh tế
quốc dân: tạo nguồn vốn cho nhập khẩu, chuyển dịch cơ cấu. Thông qua các lý
thuyết về thương mại quốc tế, cũng như thực tiễn và kinh nghiệm xuất khẩu của
các quốc gia trong khu vực cho thấy rõ ràng: xuất khẩu mang lại nhiều nguồn lợi
cho các quốc gia và họ không ngừng thúc đẩy và đưa ra những chính sách hợp
lý để hoạt động này ngày càng phát triển và có hiệu quả hơn. Việt Nam có đầy
đủ các yếu tố thuận lợi nên cần phải nhận thức rõ và nắm vững các yếu tố tác
động đến xuất khẩu nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu ngày càng có hiệu quả
hơn.
CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG VIỆC XUẤT KHẨU HÀNG HOÁ

VIỆT NAM SANG LIÊN MINH CHÂU ÂU TRONG THỜI GIAN QUA
I. TÍNH TẤT YẾU KHÁCH QUAN TRONG VIỆC MỞ RỘNG QUAN HỆ VIỆT NAM
-
-
LIÊN MINH CHÂU ÂU
Đại hội lần thứ VIII của Đảng đã xác định nhiệm vụ “Mở rộng quan hệ đối
ngoại, chủ động tham gia các tổ chức quốc tế”. Đại hội Đảng lần thứ IX của
22
Đảng đã khẳng định chủ trương “ Phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ
nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển ổn định
và bền vững”. Điều này cho thấy sự quan tâm của nhà nước đến việc mở rộng
thị trường và nâng cao vị thế xủa Việt Nam trên thương trường quốc tế.
Vị thế của EU trên thế giới
Sau khi hợp nhất thành công EU đã trở thành một trung tâm kinh tế tài
chính mạnh, ngang hàng với Mỹ và Nhật Bản. Trên 100 nước thiết lập mối quan
hệ với EU tại uỷ ban Châu Âu; thực tế cho thấy, trong những năm gần đây
khủng hoảng kinh tế đã khiến cho nhiều nước, tổ chức kinh tế như: ASEAN,
Nhật Bản, Mỹ, … bị ảnh hưởng. Nền kinh tế của Nhật Bản đã có dấu hiệu suy
thoái, tốc độ tăng trưởng bình quân của các quốc gia Châu Á suy giảm mạnh.
Trong khi đó, EU vẫn giữ được tốc độ tăng trưởng ổn định và hầu như không bị
ảnh hưởng bởi các cuộc khủng hoảng. Điều này cho thấy EU là một tổ chức
mạnh kinh tế trên thế giới và việc thiết lập. Duy trì mối quan hệ này là một
quyết định sáng suốt của Đảng và nhà nước trong công cuộc phát triển kinh tế
và hội nhập quốc tế của Việt Nam.
Mặt khác, trong quan hệ với các cường quốc kinh tế EU cũng có một vị thế
thuận lợi như:
Quan hệ EU và Mỹ, EU vừa là một đối tác cùng chia sẻ các giá trị có được,
vừa là một đối thủ công nghệ, thương mại quan trọng. Tuyên bố được kí vào
ngày 20/11/1990 giữa Mỹ và EU cùng với các quốc gia thành viên EU đã cho
thấy sự công nhận của Mỹ trước sự ra đời của đối tác Châu Âu dân chủ và ổn

định, đồng thời cũng góp phần vào việc giải quyết nhiều mâu thuẫn thương mại
giữa EU và Mỹ về các mặt hàng nông sản, thép và hàng không dân dụng.
Trong quan hệ EU và Nhật Bản, Nhật Bản luôn được EU đánh giá là một
đối tác quan trọng. Người Châu Âu luôn muốn xâm chiếm thị trường Nhật Bản
trong khi lại cố gắng không để hàng hoá Nhật Bản thống trị thị trường Châu Âu.
Đối với các nước đang phát triển, EU là một thị trường tiêu thụ lớn với 370
triệu dân có mức sống vào hàng cao nhất trên thế gióicùng với các quy định và
luật pháp khá hài hoà, chặt chẽ. Chẳng những thế, quá trình nhất thể hoá Châu
Âu đã cho ra đời đồng tiên chung EURO điều này khẳng định vai trò cuả đồng
EURO sẽ ngang hàng với đồng USD trong thanh toán quốc tế. Trên thực tế sau
23
s kin ngy 11/9/2001 ng USD ang cú xu th gim dn vai trũ so vi cỏc
ng tin khỏc trờn th gii bi s suy thoỏi ca nn kinh t M. S n nh ca
ng EURO s giỳp cỏc tp on kinh t ln v cỏc quc gia trỏnh c ri ro
khi t giỏ ng USD v ng Yờn Nht b giao ng.
Mt khỏc EU cũn cú nhng u ói c bit dnh cho phn ln nhng mt
hng xut khu ch lc ca cỏc nc ang phỏt trin. Cỏc nc ny c hng
ch u ói ph cp v nhn nhiu khon vin tr khụng hon li cựng cỏc cỏc
h tr k thut v cụng ngh t EU.
Chớnh vỡ th, trong nhng nm qua buụn bỏn ca EU vi th gii khụng
ngng phỏt trin. Theo tớnh toỏn ca U ban Chõu u, t trng ca EU trong
thng mi th gii lờn ti 19,2% trong ú M l 18,1%, Nht Bn chim 9,6%;
dch v chim 26% vt trờn M 3% v gp trờn 3 ln Nht Bn.
Biu 1: T trng phõn theo nc, khu vc(1998).
Hng hoỏ
18%
10%
53%
19%
Mỹ Nhật Bản Các nước khác EU

Ngun: Eurostat v IMF.
Kim ngch xut khu ca EU trờn th gii chim 9% GDP hng nm ca
khu vc kinh t ny. Bn thõn giao dch ni b ó chim hn 1/5 trao i hng
hoỏ trờn th gii, hot ng thng mi khụng b hn ch cỏc sn phm nh: ụ
tụ, qun ỏo hay mỏy tớnh m cũn m rng dn c dch v: ngõn hng, bo him
truyn thụng, vn,... õy l nhng lnh vc ang phỏt trin mnh ti cỏc quc gia
EU.
24
Nền tảng quan hệ ngoại thương Việt Nam – EU
Bản chất của mọi quan hệ ngoại thương giữa các nước với các tổ chức quốc
tếvà khu vực để giải quyết vấn đề thị trường. Xuất phát từ nhu cầu thị trường và
lợi thế so sánh của Việt Nam và EU sẽ rút ra kết luận những mặt hàng nào Việt
Nam có thể xuất khẩu với khối lượng lớn vào EU, để từ đó thấy rõ tính tất yếu
khách quan của việc mở rộng hơn nữa quan hệ ngoại thương với khu vực này.
1.1. Việt Nam
Trước hết, Việt Nam có sự ổn định chính trị, xã hội tương đối cao. Từ sau
khi thực hiện công cuộc đổi mới, chúng ta đã đạt được nhiều thắng lợi quan
trọng, tạo nên thế và lực mới cho đất nước. Chính sự ổn định này đã giúp cho
Việt Nam hạn chế bớt tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng khu vực, đạt tốc
độ tăng trưởng cao nhất trong vùng Đông Nam Á.
Mặt khác, Việt Nam chủ trương đối ngoại mở rộng, đa phương hoá, đa
dạng hoá các mối quan hệ đối ngoại nhằm mục tiêu thêm bạn bớt thù, đảm bảo
ổn định an ninh quốc gia.
Thứ hai, Việt Nam có quy mô dân số lớn, lao động trẻ chiếm số đông và có
trình độ văn hoá, có khả năng tham gia vào quá trình hội nhập. Dân số Việt Nam
hiện nay khoảng 80 triệu người, với một tỷ lệ lớn lao động với chi phí cho một
giờ công thường là thấp hơn so với các nước trong khu vực khoảng 0,16 USD,
trong khi đó Nhật Bản là 13 USD, Hồng Kông là 2,43 USD. Nhờ lợi thế này mà
Việt Nam có thể phát triển những ngành, lĩnh vực sử dụng nhiều lao động như
nông nghiệp, dệt may, giày dép, thủ công mỹ nghệ, ... Thực tế cho thấy trong

năm 2001, những mặt hàng trên đã được xếp hạng trong “top ten” mặt hàng xuất
khẩu.
Việt Nam là một nước có 80% dân số lao động tập trung ở nông thôn nên
nông nghiệp là lĩnh vực then chốt của nền kinh tế trong nhiều năm qua. Lợi thế
về xuất khẩu nông sản của Việt Nam bao hàm cả tính ngắn hạn và dài hạn. Về
ngắn hạn tỷ trọng xuất khẩu nông sản chiếm tỷ trọng ngày càng giảm nhưng xét
trong dài hạn, sản xuất nông sản và khả năng bảo đảm năng suất cao bình quân
10 tấn/ha/năm là khả thi trên 4 đến 5 triệu ha đất nước lúa nước đủ cung ứng
lương thực cho nhân dân và có phần nhất định cho xuất khẩu. Bên cạnh đó, xuất
25

×