Tải bản đầy đủ (.doc) (7 trang)

Cú sốc xăng dầu ảnh hưởng đến các thị trường như thế nào?

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (125.74 KB, 7 trang )

Cú sốc xăng dầu ảnh hưởng đến các
thị trường như thế nào?
Xem xét năm tình huống mới xảy ra gần đây nhất.
Năm cuộc khủng hoảng xăng dầu chủ yếu làm rung chuyển nền kinh tế toàn cầu từ năm
1973 cũng có những tác động hết sức to lớn đối với các thị trường tài chính. Tuy nhiên khi
mà tác động của những cú sốc xăng dầu liên tiếp lên sự tăng trưởng không còn quá gay gắt
thì tác động của chúng lên các thị trường tài chính cũng trở lên nhẹ nhàng hơn. Thật sự là
trong lần tăng giá xăng dầu gần đây nhất thì các thị trường tài chính hầu hết đều vượt qua
không quá khó khăn, điều này ngược với những phản ứng trong quá khứ. Điều này một
phần là do sự tăng giá xăng dầu ở mức độ vừa phải không còn là một yếu tố quyết định đối
với sự phát triển lạm phát nói chung. Một phần nữa là do những người tham gia vào thị
trường tài chính, hoặc đúng hoặc sai, có điều kiện để dự đoán rằng giá xăng dầu sẽ giảm
xuống sau thời gian tăng đột biến.Sau đây ta sẽ phân tích việc các khu vực tài chính phản
ứng như thế nào đối với các đợt khủng hoảng giá dầu liên tục xảy ra kể từ đợt tăng giá lớn
vào năm 1973.
1. 1973 - 1975: OPEC bóp nghẹt Phương Tây
Tình hình chính trị bất ổn và thiếu hụt dầu dường như đã trở thành “cơ duyên” của “khủng hoảng dầu
mỏ”. Nhưng sự thực có phải chỉ đơn giản như vậy không? Thời gian xảy ra “khủng hoảng dầu mỏ lần
thứ nhất” trùng hợp thay lại khá khớp với với thời gian các nước Arập khởi động “vũ khí dầu mỏ”,tẩy
chay chống lại Mỹ và Israel
Hơn nữa, nguyên nhân sâu xa là vào tháng 8 năm 1971, tổng thống tạm nhiệm Nixon tuyên bố “chính
sách kinh tế mới”, chính sách tiền tệ đặt trọng tâm vào đồng USD theo “hệ thống Bretton Woods” được
thiết lập sau chiến tranh thế giới đã phá sản, nước Mỹ không tiếp tục theo đuổi việc đáp ứng các nghĩa
vụ đổi USD thành vàng cho các nước khác. Hậu quả trực tiếp của việc đồng đô la tách rời khỏi vàng là:
đô la rớt giá thảm hại, giá hàng công nghiệp tăng vọt. Các nước OPEC, chủ yếu là các nước vùng Vịnh,
vốn lệ thuộc vào việc xuất khẩu dầu thô đổi lấy đô la Mỹ để mua những mặt hàng công nghiệp và lương
thực cần dùng. “Chính sách kinh tế mới” Nixon tung ra khiến đô la dầu mỏ của họ rớt giá, ngoại trừ việc
tăng giá dầu, các nước này không còn đường nào khác. Tháng 10 và tháng 12 năm 1973, 6 thành viên
vùng Vịnh của OPEC liên tiếp 2 lần nâng giá dầu thô, từ mức 3,011 USD/thùng lên tới 11,65
USD/thùng, mức tăng là gần 4 lần. Trong bầu không khí hoảng loạn, từng hàng xe xếp dài trước các
trạm đổ xăng trên khắp nước Mỹ. Đó chính là “cuộc khủng hoảng dầu thô lần thứ nhất”.


Phản ứng của các thị trường tài chính
Trái phiếu: Trái phiếu đáo hạn đều có thời hạn 10 năm của Kho bạc Hoa Kỳ có lãi suất
6,81% vào ngày 18 tháng 10 năm 1973, thời điểm mà cuộc cấm vận dầu mỏ bắt đầu. Lúc
đầu lãi suất thời hạn 10 năm thật sự giảm sút, xuống mức 6,67% chỉ sau đó 2 tháng. Đến 18
tháng 03 năm 1974, khi lệnh cấm vận dầu mỏ chấm dứt, trái phiếu thời hạn 10 năm của Kho
bạc đã có lãi suất tăng lên đạt 7,24%. Tuy nhiên, khi mà giá cả thị trường tiếp tục tăng lên
ngay cả sau khi lệnh cấm vận dầu mỏ được dỡ bỏ, trái tức trái phiếu vẫn tiếp tục chiều
hướng tăng lên của mình, đến điểm đỉnh 8% vào mùa thu năm 1974 và tăng tiếp lên đạt
8,5% một năm sau đó. Tất cả mọi người nhận định rằng cú sốc dầu mỏ đầu tiên đã tạo ra
một mức tăng tích lũy gần 2% đối với lãi suất trái phiếu Kho bạc Mỹ trong dài hạn.
Thị trường cổ phiếu: Thị trường cổ phiếu Mỹ, được tính toán bằng chỉ số S&P 500, đã bị
tác động tồi tệ bởi sự kiện cấm vận dầu mỏ xảy ra tại Trung Đông và các nước Ả Rập. Tính
từ lúc lệnh cấm vận được ấn định cho tới khi giá dầu mỏ bình ổn trở lại vào năm 1975, giá
cổ phiếu trung bình gần như giảm một nửa. Giá trị các cổ phiếu của Mỹ đã sụt giảm tới 50%
hay 600 triệu đôla Mỹ, tương đương 40% GDP Hoa Kỳ tại thời điểm đó. Nếu so sánh về
mức độ trầm trọng thì lần sụt giảm thời gian đó chỉ kém hơn một chút so với thời điểm xảy ra
khủng hoảng bong bóng công nghệ cao vào giai đoạn 2002 - 2003.
Tiền tệ: Đồng tiền Yên Nhật Bản trước đây được phép tăng giá so với đồng đôla Mỹ sau sự
sụp đổ của hệ thống Bretton Woods vào năm 1971, đã suy yếu đáng kể sau cú sốc dầu mỏ.
Nền kinh tế Nhật Bản vốn được đánh giá là dễ bị tổn thương hơn cả khi gặp phải những
biến động co giãn của giá cả dầu mỏ. Tiền Yên Nhật Bản trước đợt cấm vận dầu mỏ được
định giá ở mức 265 Yên cho một đôla Mỹ. Sau đó đồng tiền này sụt giảm xuống còn 300
Yên cho 01 đôla vào giữa năm 1974, rồi dao động hẹp xung quang mức này cho đến năm
1977, thời điểm mà tổng thống mới đắc nhiệm Carter quyết định thực hiện nhiệm vụ giải
quyết mức thậm hụt tăng nhanh trong cán cân thương mại với Nhật Bản.
Đồng Mác Đức cũng phải đối mặt với một chiều hướng tương tự như đồng Yên Nhật, nhưng
sự sụt giảm không nhiều như đồng Yên và cũng hồi phục nhanh hơn so với đồng Yên. Đồng
Mác đã giảm từ 2,40 Mác cho 01 Đôla trước cấm vận dầu mỏ xuống còn 2,80 Mác cho 01
Đôla vào tháng 01 năm 1974. Tuy nhiên cho đến cuối năm 1974, đồng Mác đã mạnh hơn so
với trước thời điểm khủng hoảng dầu mỏ và nó tiếp tục tăng so với đồng Đôla sau đó.

2. 1979 - 1981: Cuộc cách mạng Iran và cuộc chiến Iran - Irắc
Một sự kiện địa chính trị khác với những hậu quả lịch sử to lớn đã châm ngòi cho cuộc
khủng hoảng dầu mỏ thứ hai. Bước vào năm 1979, OPEC quyết định tận dụng quyền lực
định giá của mình sau một giai đoạn kiềm chế bằng cách công bố một mức tăng giá 15%
cho năm 1979. Tuy nhiên động thái nói trên của OPEC sau đó nhanh chóng trở nên vô nghĩa
với các sự kiện gây chấn động tại Iran. Sản xuất dầu mỏ tại Iran bắt đầu giảm sút khi những
biến động xã hội leo thang. Tình hình thị trường xấu đi thậm chí ngay cả trước khi Đảng
Shah bị lật đổ và sứ quán Mỹ tại Tehran bị các tay súng bao vây vào tháng 11 năm 1979.
Cuộc cách mạng tại Iran đã gây ra thiệt hại từ 2 triệu đến 2,5 triệu thùng dầu khai thác mỗi
ngày trong giai đoạn từ tháng 11 năm 1978 cho đến tháng 06 năm 1979. Sau đó thì việc sản
xuất hầu như dừng hẳn.
Iraq tiến hành xâm lược Iran vào tháng 09 năm 1980. Chỉ trong vài tuần tổng sản lượng dầu
mỏ của cả hai nước tham chiến này chỉ còn ở mức vài triệu thùng mỗi ngày hoặc có thể tính
là 6,5 triệu thùng mỗi ngày ít hơn so với một năm trước đó. Trong năm 1979, sản lượng dầu
thô toàn thế giới đã giảm 10%. Cũng trong thời gian này, rất nhiều nước quay lại nỗ lực củng
cố các kho xăng dầu dự trữ. Cho đến thời điểm thị trường dầu thô đạt đỉnh vào giai đoàn
1980 - 1981, giá dầu thô nhẹ của Ả Rập Sêút đã tăng lên sát mức 40 Đôla một thùng, mức
tăng 25 Đôla mỗi thùng hay gấp 3 lần so với mức giá trung bình năm 1978.
Phản ứng của thị trường tài chính
Trái phiếu: Cuộc khủng hoảng dầu mỏ lần thứ hai có ảnh hưởng xấu trầm trọng hơn nhiều
đến thị trường trái phiếu so với cuộc khủng hoảng đầu tiên mặc dù trong lần thứ hai này
mức tăng giá dầu thấp hơn so với lần đầu tiên. Lãi suất trái phiếu Kho bạc Mỹ vốn dĩ đang
tăng nhanh tại thời điểm diễn ra các sự biến tại Iran vào cuối năm 1978. Cho đến tháng 12
năm đó, Lãi suất đã tăng lên mức 9%, hơn 1% so với cùng kỳ năm trước. Khi giá dầu mỏ bắt
đầu leo thang trong những tháng tiếp theo, lãi suất được giao dịch trong phạm vi hẹp hơn
mà không có xu hướng tăng rõ ràng cho đến nửa năm sau. Và trôn ốc các sự kiện diễn ra
liên tiếp trong các tháng sau đó - việc giáo chủ Ayatollah Khomeini giành quyền lực, cuộc
khủng hoảng con tin và việc áp đặt nhanh chóng lệnh phong toả các tài sản của Iran trên
lãnh thổ Hoa Kỳ - đã khiến cho lãi suất tăng lên chóng mặt. Đến tháng 01 năm 1980, lãi suất
cho trái phiếu 10 năm của Kho bạc đạt mức 11%. Sau đó vài tuần, khi mà cuộc khủng hoảng

bắt cóc con tin lâm vào thế bế tắc không có lời giải, niềm tin của thị trường còn suy yếu hơn
nữa. Vào cuối tháng 02, lãi suất đã đạt mức 13,5%, một mức cao kỷ lục. Đã có sau đấy một
thời gian phục hồi nhưng thị trường trái phiếu vẫn tiếp tục phải chịu sức ép ngay cả khi giá
dầu mỏ đạt tới đỉnh.
Thị trường cổ phiếu: Nhìn lại giai đoạn biến động, có một điều đáng chú ý là các chỉ số
chứng khoán chủ yếu tại Hoa Kỳ ít bị ảnh hưởng bởi các xáo trộn về dầu mỏ và thị trường
trái phiếu. Điều này có thể quan sát chắc chắn: trong vài ngày thị trường cổ phiếu có xuất
hiện một số biến động mạnh, nhưng nhìn chung thị trường cổ phiếu phản ứng không mạnh
mẽ bằng thị trường trái phiếu. Điều này đặc biệt đúng trong năm 1980. Lời giải thích hợp lý
nhất cho hiện tượng này là một số ngành công nghiệp có lẽ đã hưởng lợi từ việc giá năng
lượng tăng cao. Các nhà đầu tư rút vốn của mình ra khỏi những khu vực được cho là bị ảnh
hưởng nặng nề nhất - có thể nhớ lại tại thời điểm đó chính quyền Mỹ đã phải ra tay cứu trợ
hãng Chrysler, nhờ đó mọi người biết được ngành sản xuất ôtô đang gặp họa. Những các
nhà đầu tư lại chuyển vốn của mình vào các cổ phiếu của các ngành có liên quan đến năng
lượng và các ngành khác không có sự sụt giảm lâu dài giá trị cổ phiếu.
Tiền tệ: Cuộc cách mạng Iran diễn ra ngay sau khi chính quyền Carter trong tháng 11 năm
1978 đưa ra chương trình chi tiết bảo vệ giá trị đồng Đôla. Chương trình này bao gồm việc
vay tín dụng từ IMF cũng như phát hành các trái phiếu có tên gọi là trái phiếu Carter, theo đó
Kho bạc Hoa Kỳ đứng ra vay các loại tiền tệ khác ngoài đồng Đôla. Chương trình này có
hiệu quả trong một thời gian khi khôi phục lại đôi chút niềm tin thị trường, và đồng Đôla đã
tăng lên đôi chút trong bảng tỷ giá. Cũng giống như thời điểm sau cuộc khủng hoảng dầu mỏ
lần thứ nhất, trong lần khủng hoảng thứ hai đồng Yên Nhật Bản lại tiếp tục phải chịu sức ép
trên thị trường ngoại hối quốc tế. Phản ứng của đồng Mác Đức cũng lại khác. Cho đến cuối
năm 1979, khi tỷ lệ lạm phát của Mỹ bắt đầu tăng lên, đồng Mác Đức đã bắt đầu tăng giá
mạnh mẽ. Xu hướng này đã tiếp tục cho đến vào năm 1980.
3. 1990 - 1991: Irắc xâm lược Iran và cuộc chiến vùng Vịnh lần thứ nhất
Giá dầu thô trong năm 1990 tăng vọt đầy biến động gắn liền với việc Irắc xâm lược Iran và
sự leo thăng của Chiến dịch Bão táp sa mạc với kết cục là ép được Saddam Hussein phải
rút quân. Đợt tăng giá lần này là hết sức đáng kể - chỉ vài tuần trong tháng 08 năm 1990, giá
dầu thô nhẹ của Ả Rập Sêút đã tăng từ 15 Đôla một thùng lên trên 33 Đôla một thùng. Tuy

nhiên tác động lên nguồn cung ứng dầu là không nhiều bởi vì Ả Rập Sêút và các quốc gia Ả
Rập khác lần này là đồng minh với liên minh Hoa Kỳ và các quốc gia này đã có nhiều nỗ lực
để ngăn cản việc giá cả tăng lên. Ngay sau khi việc Hoa Kỳ rõ ràng sẽ chiến thắng Irắc, giá
dầu đã ngay lập tức tụt xuống. Và sau đó giá cả đã giảm xuống tiếp khi cuộc chiến vùng Vịnh
tiếp theo đó hoá ra lại nhanh hơn với ít thương vong hơn so với các dự đoán của các nhà
phân tích. Sau chiến tranh, giá dầu thô bước vào một thời kỳ giảm đều cho đến năm 1994,
khi mà giá cả đã có điều chỉnh theo lạm phát giảm xuông mức thấp nhất kể từ năm 1990.
Phản ứng của thị trường tài chính
Trái phiếu: Lãi suất trái phiếu 10 năm của Kho bạc Hoa Kỳ được giao dịch ở mức 8% tại
thời điểm cuộc xâm lược của Irắc. Hoàn toàn trái ngược hẳn so với lần khủng hoảng dầu mỏ
trước đó, đợt tăng giá trong thời gian ngắn tại thời điểm này lại có ảnh hưởng tối thiểu đến
thị trường trái phiếu. Lãi suất đứng ở mức cao nhất 9% trong tháng 09 và ngay sau đó dao
động giảm chậm dần trước thời điểm chuẩn bị cho chiến dịch Bão táp sa mạc và sau thời
điểm chiến dịch thành công. Các nhà đầu tư vào thị trường trái phiếu vào thời điểm đó bị
thuyết phục rằng việc giá dầu tăng sẽ không kéo dài, chủ yếu là do có sự tham gia của Ả
Rập Sêút vào trong cuộc chiến. Lần này thì các các đầu tư đã đúng.
Thị trường cổ phiếu:Trái ngược với thị trường trái phiếu, thị trường cổ phiếu sụt giảm đáng
kể vào giữa thời điểm cuộc xâm lược của Irắc và kết thúc chiến tranh vào năm 1990. Tuy
nhiên thị trường này nhanh chóng hồi phục lại ngay sau khi mọi người nhận thức rõ ràng
rằng Chiến dịch báo táp sa mác sẽ kết thúc thắng lợi.
Tiền tệ: So với 02 lần khủng hoảng dầu mỏ trước đó, lần này thị trường tiền tệ phản ứng với
khủng hoảng hoàn toàn khác. Đồng Mác và đồng Yên Nhật thực tế đã mạnh lên trong suốt
thời gian giá dầu tăng và chỉ bình ổn trở lại khi các hoạt động thù địch chấm dứt và giá dầu
giảm xuống.
4. 1996 - 1999: Như cầu khiến cho giá cả tăng lên
Tiếp theo cuộc khủng hoảng tài chính châu Á và việc Liên hợp quốc phê chuẩn cho phép
Irắc được tiến hành chương trình đổi dầu lấy lương thực, giá dầu đã giảm xuống còn 10
Đôla một thùng vào cuối năm 1998. Sau đó giá dầu lại tiếp tục tăng mạnh, tuy nhiên lần này
khác hẳn các lần tăng giá trước đó vì nó không hề gắn với bất kỳ một biến cố địa chính trị
nào. Thay vào đó, nhu cầu tiêu dùng trên toàn cầu gia tăng do quả bong bóng công nghệ

cao đã kích ngòi cho một sự bùng nổ về đầu tư tại Bắc Mỹ và do các nền kinh tế Châu Á bắt
đầu có sự hồi phục. OPEC không có khả năng hoặc là đã không không muốn làm dịu sự
bùng nổ nhu cầu này bằng cách tăng sản lượng sản xuất. Cho đến giữa năm 2000, giá dầu
đã tăng gấp 3 lần. Mức tăng lần này thậm chí còn mạnh mẽ hơn so với mức tăng đã diễn ra
vào thời điểm xảy ra cuộc cách mạng Iran trong quá khứ. Mức tăng xăng dầu đạt tới điểm
đỉnh trùng vào đúng thời điểm Tổng thống Clinton quyết định bán dầu thô từ Kho dự trữ xăng
dầu chiến lược ra thị trường. Tuy vậy, các nhà phân tích vẫn không đồng ý rằng hành động
này của Mỹ là lý do của việc cho việc ngừng tăng giá dầu.
Phản ứng của thị trường tài chính
Trái phiếu: Lãi suất trái phiếu 10 năm của Kho bạc Mỹ đã tăng lên cùng với xu hướng tăng
của giá dầu mỏ. Vào cuối năm 1998, lãi suất chỉ đạt mức 4,5%. Đến tháng 02 năm 1999, con
số này tăng lên 5%. Đến tháng 06 năm 1999 đã vượt mức 6%. Sau đó, lãi suất dao động
trong biên độ hẹp quanh mức đó tại thời điểm giá dầu tăng tới đỉnh. Hiển nhiên là việc giá
dầu tăng không phải là nguyên nhân duy nhất tác động đến các quyết định của những người
tham gia vào thị trường trái phiếu. Sự tăng trưởng hết sức mạnh mẽ của giá cổ phiếu, đặc
biệt là của các công ty công nghệ cao, đã gây ra một sự dịch chuyển hết sức lớn vốn đầu tư
từ trái phiếu sang cổ phiếu. Thêm vào đó, tăng trưởng kinh tế đang đạt mức cao. Tại Mỹ,
Cục dự trữ liên bang do lo sợ về áp lực lạm phát tăng cao đã tích cực triển khai các chính
sách tiền tệ thắt chặt. Chính sách tiền tệ châu Âu cũng được thắt chặt. Do đó theo một nghĩa
nào đó, đây là một sự bùng nổ vào cuối chu kỳ truyển thống với giá dầu mỏ và lãi suất trái
phiếu phản ứng theo những xu hướng cổ điển.
Cổ phiếu: Thị trường cổ phiếu phần lớn không phản ứng với đợt tăng giá dầu giai đoạn
1999 - 2000. Sự hấp dẫn cuốn hút của các cổ phiếu công nghệ cao đã che phủ sự kiện giá
dầu tăng.
Tiền tệ: Đồng Mác và đồng Yên Nhật phản ứng lại với sự tăng giá dầu lần này ngược hẳn
so với những lần trước đó. Đồng Yên mạnh lên nhanh chóng trong suốt thời gian giá dầu
tăng trong khi đồng Mác lại có xu hướng yếu đi.
5. 2002 - 2005: Irắc phần 2 và nhu cầu dầu mỏ tăng vọt
Chúng ta có thể gọi giai đoạn này là cú sốc dầu mỏ trở lại và một đợt tăng giá do nhu cầu
lần hai. Với việc giá dầu đã tăng gấp 3 lần kể từ đầu năm 2002, lần này dù im lặng và có

nhiều nghịch lý, thị trường tài chính đã bị ảnh hưởng nhiều hơn.
Phản ứng của thị trường tài chính
Trái phiếu: Những người tham gia vào thị trường trái phiếu lần này cho thấy họ ít có quan
tâm, hay lo ngại về việc giá dầu tăng cao với mức độ tương tự như 30 năm trước đây. Do
đó, lãi suất trái phiếu cũng không hề có biến động gì nhiều. Chủ tịch Greenspan của FED đã
nhận định rằng phản ứng gần đây của thị trường trái phiếu là chưa thể giải thích - ông dùng
từ “câu hỏi hóc búa”. Một phần “câu hỏi hóc búa” có liên quan đến việc mọi người không còn
dự tình về mức lạm phát gia tăng, bất chấp những sức ép gây tăng chi phí năng lượng, điều
sẽ gây ra mức tăng tương ứng giá cả nói chung.
Cổ phiếu: Trong khi thị trường cổ phiếu đã hồi phục trở lại từ sau cuộc khủng hoảng bán
trong giai đoạn 2000 - 2003, mới đây các nhà đầu tư đã bày tỏ sự lo ngại lớn về triển vọng
lợi nhuận các công ty. Việc chi phí nhiên liệu tăng cao khiến cho các nhà đầu tư lo ngại, ngay

×