Tải bản đầy đủ (.docx) (107 trang)

hoàn thiện công tác quản trị rủi ro trong cho vay doanh nghiệp tại chi nhánh ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn hà thành

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (532.14 KB, 107 trang )

BỘ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THĂNG LONG
o0o
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
ĐỀ TÀI:
HOÀN THIỆN CÔNG TÁC QUẢN TRỊ RỦI RO
TRONG CHO VAY DOANH NGHIỆP TẠI
CHI NHÁNH NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ
PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN HÀ THÀNH
Giáo viên hướng dẫn : Th.s Phạm Thị Bảo Oanh
Sinh viên thực hiện : Cung Thị Minh Đức
Mã sinh viên : A14830
Chuyên ngành : Ngân hàng
HÀ NỘI - 2012
1
LỜI CẢM ƠN
Em xin chân thành cảm ơn sự chỉ bảo tận tình của giáo viên hướng dẫn là Thạc
sĩ Phạm Thị Bảo Oanh, cô đã luôn giúp đỡ, trau dồi thêm kiến thức, chỉ ra những thiếu
sót và giúp em có những định hướng tốt hơn trong suốt thời gian em thực hiện làm
khóa luận. Em cũng xin đặc biệt cảm ơn anh Phạm Hoàng Anh - nhân viên phòng kinh
doanh Chi nhánh Ngân hàng Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn Hà Thành đã
giúp đỡ, cung cấp thông tin, tài liệu hữu ích tạo điều kiện cho em hoàn thành khóa
luận này.
Em xin chân thành cảm ơn!
Ngày 04 tháng 11 năm 2012
Sinh viên
Cung Thị Minh Đức
2
MỤC LỤC
3
LỜI MỞ ĐẦU


1.Tính cấp thiết của đề tài
Hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam nói chung những năm qua
phát triển mạnh mẽ, hỗ trợ tích cực cho phát triển kinh tế của Việt Nam. Tuy nhiên,
thực tế cũng chứng minh nền kinh tế bị tác động tiêu cực, thậm chí đi đến khủng
hoảng nếu hệ thống ngân hàng hoạt động thiếu kiểm soát, không đánh giá đúng và đủ
các dạng rủi ro tiềm ẩn. Đặc trưng của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam là tỷ
trọng thu nhập từ hoạt động cho vay chiếm trên 70% trong tổng thu hoạt động của
ngân hàng. Chính vì thế mà rủi ro trong cho vay cũng tiềm ẩn nguy cơ gây tổn thất
lớn. Đặc biệt trong thời kì hội nhập kinh tế quốc tế, kinh tế phát triển nhanh chóng,
nhu cầu sử dụng vốn của doanh nghiệp không ngừng gia tăng và luôn chiếm tỷ trọng
lớn nhất trong tổng dư nợ cho vay của ngân hàng. Hoạt động cho vay gia tăng mạnh
mẽ thì rủi ro trong cho vay cũng ngày càng phức tạp hơn về nguyên nhân, hình thức và
phạm vi tác động. Rủi ro trong cho vay ảnh hưởng rất lớn đến nền kinh tế nói chung và
hoạt động ngân hàng nói riêng, trong đó phải kể đến rủi ro trong cho vay doanh
nghiệp. Do tác động của rủi ro trong cho vay đến kết quả hoạt động của hệ thống ngân
hàng nên quản trị rủi ro trong cho vay là một trong những vấn đề quan trọng hiện nay,
được sự quan tâm chú ý đặc biệt của các ngân hàng và các cơ quan quản lý Nhà nước.
Thời gian gần đây, tỷ lệ nợ xấu cho vay doanh nghiệp của các ngân hàng
thương mại Việt Nam nói chung và Agribank Hà Thành nói riêng có dấu hiệu tăng cao
và việc quản trị rủi ro trong cho vay doanh nghiệp tại Agribank Hà Thành cũng chưa
thực sự được quan tâm đúng mức. Việc tỷ lệ nợ xấu tăng cao ảnh hưởng đến uy tín của
ngân hàng cũng như việc hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Vì vậy, công tác quản
trị rủi ro trong cho vay doanh nghiệp đang là một bài toán lớn không chỉ với bản thân
chi nhánh mà còn của toàn hệ thống và các cấp, ngành khác.
Sau một thời gian thực tập tại chi nhánh cùng với những kiến thức đã được học
tập tại trường, em đã nhận thức rõ được tầm quan trọng và tiềm năng của vấn đề trên
có ý nghĩa đến sự phát triển lâu dài của chi nhánh. Chính vì vậy, em quyết định chọn
đề tài: “Hoàn thiện công tác quản trị rủi ro trong cho vay doanh nghiệp tại Chi
nhánh Ngân hàng Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông Thôn Hà Thành” làm đề tài
cho khóa luận tốt nghiệp bậc đại học của mình.

2.Mục đích nghiên cứu của đề tài
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài tập trung vào ba nội dung chính sau:
- Làm rõ cơ sở lý luận về hoạt động cho vay doanh nghiệp và quản trị rủi ro
trong cho vay doanh nghiệp của ngân hàng thương mại.
4
- Phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động cho vay doanh nghiệp và quản trị rủi
ro trong cho vay doanh nghiệp của Chi nhánh Ngân hàng Nông Nghiệp và Phát Triển
Nông Thôn Hà Thành giai đoạn từ năm 2009 – 2011.
- Đưa ra các giải pháp kiến nghị nhằm hoàn thiện công tác quản trị rủi ro trong
cho vay khách hàng doanh nghiệp tại Chi nhánh Ngân hàng Nông Nghiệp Và Phát
Triển Nông Thôn Hà Thành.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài
Đối tượng nghiên cứu của đề tài: Hoạt động cho vay doanh nghiệp và quản trị
rủi ro trong cho vay doanh nghiệp tại Chi nhánh Ngân hàng Nông Nghiệp và Phát
Triển Nông Thôn Hà Thành.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài: Đề tài tập trung nghiên cứu thực trạng hoạt
động cho vay doanh nghiệp và quản trị rủi ro trong cho vay doanh nghiệp tại Chi
nhánh Ngân hàng Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn Hà Thành giai đoạn năm
2009 – 2011.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài nghiên cứu, khóa luận sử dụng phương pháp thống kê, miêu
tả, tổng hợp số liệu và so sánh số liệu giữa các năm, các chỉ tiêu để thấy được những
kết quả đạt được cũng như những hạn chế trong quản trị rủi ro. Đồng thời, khóa luận
còn kết hợp sử dụng phương pháp phân tích tổng hợp, đánh giá thực trạng, tìm ra
nguyên nhân và đưa ra phương hướng giải quyết.
5. Kết cấu của khóa luận
Ngoài lời mở đầu, kết luận, danh mục bảng biểu, danh mục sơ đồ hình vẽ, danh
mục chữ viết tắt, phụ lục, kết cấu của khóa luận gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về quản trị rủi ro trong cho vay doanh nghiệp của
ngân hàng thương mại.

Chương 2: Thực trạng quản trị rủi ro trong cho vay doanh nghiệp tại Chi
nhánh Ngân hàng Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn Hà Thành.
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện công tác quản trị rủi ro trong cho vay
doanh nghiệp tại Chi nhánh Ngân hàng Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn
Hà Thành.
5
DANH MỤC VIẾT TẮT
Kí hiệu viết tắt
BCTC
CBCV
CVDN
CIC
DNNN
DNNVV
EUR
GBP
JPY
NHNN
NHNN&PTNT
NHTM
TNHH
TSCĐ
TSĐB
USD
VNĐ
Tên đầy đủ
Báo cáo tài chính
Cán bộ cho vay
Cho vay doanh nghiệp
Trung tâm thông tin tín dụng

Doanh nghiệp nhà nước
Doanh nghiệp nhỏ và vừa
Euro
Bảng Anh
Yên Nhật
Ngân hàng nhà nước
Ngân hàng Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn
Ngân hàng thương mại
Trách nhiệm hữu hạn
Tài sản cố định
Tài sản đảm bảo
Đô la Mỹ
Đồng Việt Nam
6
DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU, HÌNH VẼ
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN TRỊ RỦI RO TRONG CHO VAY DOANH
NGHIỆP CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1.Tổng quan về hoạt động cho vay doanh nghiệp
1.1.1. Khái niệm cho vay
Cho vay là một quan hệ kinh tế phát sinh giữa các chủ thể trong nền kinh tế với
nhau, trong đó chủ thể cung ứng vốn chuyển sang cho chủ thể đang tạm thời thiếu vốn
quyền sử dụng một lượng giá trị trong một thời gian nhất định, sau thời gian đã thỏa
thuận chủ thể đi vay phải hoàn trả một lượng giá trị lớn hơn giá trị ban đầu gồm cả gốc
và phần lãi cho chủ thể cho vay. Trong đó, lãi cho vay tỷ lệ với giá trị khoản vay, thời
gian vay và mức độ rủi ro trong cho vay khách hàng.
Theo Wikipedia: “Cho vay là việc bên cho vay cung cấp nguồn tài chính cho
bên đi vay, trong đó bên đi vay sẽ hoàn trả cả gốc và lãi cho bên cho vay theo một
thời hạn đã thỏa thuận”.
Theo giáo trình “Nghiệp vụ ngân hàng thương mại” của trường Đại học Thăng

Long, do PGS.TS Mai Văn Bạn làm chủ biên: “Cho vay là quan hệ giữa một bên là
người cho vay bằng cách chuyển giao tiền hoặc tài sản cho bên người vay để sử dụng
trong một thời gian nhất định với cam kết của người vay là hoàn trả cả gốc và lãi khi
đến hạn”.
Theo Luật các Tổ chức tín dụng năm 2010: “Cho vay là hình thức cấp tín dụng,
theo đó bên cho vay giao hoặc cam kết giao cho khách hàng một khoản tiền để sử
dụng vào mục đích xác định trong một thời gian nhất định theo thỏa thuận với nguyên
tắc có hoàn trả cả gốc và lãi”.
Nhu cầu sử dụng vốn phục vụ quá trình SXKD của các doanh nghiệp là rất
lớn. Tuy nhiên, việc tìm kiếm nguồn vốn trực tiếp trên thị trường tài chính của các
doanh nghiệp gặp nhiều hạn chế, không đáp ứng đủ lượng vốn cần thiết cho doanh
nghiệp. Vì vậy, vay mượn vốn tại ngân hàng trở thành kênh huy động vốn hữu hiệu
cho các doanh nghiệp nói chung trong nền kinh tế, góp phần thúc đẩy sự tăng trưởng
của các doanh nghiệp, tạo ra sức sống cho nền kinh tế. CVDN luôn chiếm tỷ trọng
lớn trong hoạt động cho vay đem lại nguồn thu lớn nhất cho mỗi ngân hàng. Hoạt
động CVDN ngày càng đóng vai trò quan trọng cho nền kinh tế, cho doanh nghiệp và
cho cả ngân hàng. Vì vậy, việc làm rõ khái niệm CVDN có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng.
Như vậy, từ khái niệm cho vay và nhu cầu vay mượn của các doanh nghiệp,
định nghĩa được đưa ra: “Cho vay doanh nghiệp là một trong những hình thức cho
8
vay của NHTM, theo đó ngân hàng giao hoặc cam kết giao cho doanh nghiệp đang
tạm thời thiếu vốn một khoản tiền để sử dụng vào mục đích xác định trong một thời
gian nhất định theo thỏa thuận với nguyên tắc hoàn trả cả gốc và lãi”.
1.1.2. Nguyên tắc cho vay
Cho vay là hoạt động sinh lời lớn nhất song rủi ro cũng cao nhất cho NHTM.
Vì vậy, để đảm bảo tính an toàn và khả năng sinh lời hoạt động cho vay của NHTM
dựa trên một số nguyên tắc nhất định sau:
Một là, khách hàng vay vốn phải sử dụng vốn vay đúng mục đích đã thỏa
thuận trong hợp đồng cho vay.

Ngân hàng cho vay theo nhu cầu vốn để thực hiện kế hoạch SXKD của khách
hàng. Khách hàng phải cam kết sử dụng khoản vốn vay theo đúng mục đích đã thỏa
thuận với ngân hàng, không trái với quy định của pháp luật. Mục đích tài trợ được ghi
trong hợp đồng cho vay đảm bảo ngân hàng tài trợ cho các hoạt động không trái luật
pháp, phù hợp với mục tiêu chiến lược phát triển của ngân hàng cũng như chủ trương
xây dựng phát triển đất nước. Mục đích sử dụng vốn còn là căn cứ thẩm định để đưa ra
phán quyết cấp tín dụng của ngân hàng. Việc khách hàng sử dụng vốn đúng mục đích
ảnh hưởng rất lớn tới khả năng thu hồi vốn vay của ngân hàng. Cũng như là cơ sở để
sau khi giải ngân, ngân hàng có căn cứ giám sát hoạt động sử dụng vốn của khách
hàng có sử dụng đúng mục đích không, thông qua đó đảm bảo khoản vay có hiệu quả.
Về phía khách hàng, việc sử dụng vốn vay đúng mục đích góp phần nâng cao hiệu quả
sử dụng vốn, thực hiện được mục tiêu SXKD, đảm bảo khả năng hoàn trả cho ngân
hàng. Từ đó củng cố, nâng cao uy tín của khách hàng đối với ngân hàng, tạo mối quan
hệ tín dụng tốt đẹp và lâu dài giữa ngân hàng với khách hàng.
Hai là, khách hàng phải cam kết hoàn trả nợ gốc và lãi vay đúng thời hạn đã
thỏa thuận.
Đây là yêu cầu bắt buộc đối với doanh nghiệp vay vốn và cũng là điều kiện để
ngân hàng tồn tại và phát triển. Tùy thuộc vào phương thức cho vay mà khách hàng có
thể trả vốn và lãi theo những cách thức khác nhau: trả lãi hàng tháng, trả gốc cuối kì,
trả theo niên kim cố định, trả gốc làm nhiều lần trong thời hạn cho vay… theo sự thỏa
thuận giữa hai bên. Xuất phát từ bản chất của quan hệ cho vay là quan hệ chuyển
nhượng tạm thời quyền sử dụng vốn nên sau một thời gian nhất định vốn vay phải
được hoàn trả cả gốc lẫn lãi. Nguồn vốn mà ngân hàng sử dụng để cho vay chủ yếu là
vốn huy động từ tiền gửi của các cá nhân, tổ chức và doanh nghiệp. Sau một thời
gian sử dụng vốn vay, khách hàng phải hoàn trả vốn và chi phí sử dụng vốn như đã
cam kết. Do vậy, ngân hàng luôn yêu cầu người xin vay phải thực hiện đúng cam
kết hoàn trả vốn và lãi đầy đủ và đúng hạn. Đối với phương án SXKD thì nguồn trả
9
nợ chính của doanh nghiệp là từ doanh thu bán hàng còn đối với dự án SXKD thì
nguồn trả nợ chính của doanh nghiệp là lợi nhuận sau thuế và khấu hao TSCĐ.

1.1.3. Điều kiện cho vay
CVDN là một trong các sản phẩm cho vay của ngân hàng. Doanh nghiệp chỉ có
thể vay vốn của ngân hàng khi thỏa mãn tất cả các điều kiện vay vốn theo quy định
của pháp luật, bao gồm:
Thứ nhất, khách hàng phải có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi
nhân sự và chịu trách nhiệm dân sự theo quy định của pháp luật.
Quan hệ cho vay giữa ngân hàng với khách hàng là quan hệ được pháp luật bảo
vệ. Vì vậy, nó phải được lập trên cơ sở quy định của luật pháp. Các chủ thể tham gia
quan hệ vay mượn phải có đủ tư cách pháp lý. Hơn thế trong quan hệ cho vay sẽ phát
sinh sự chuyển giao và giao dịch về tài sản do đó cần có sự xác nhận của các bên tham
gia hợp đồng cho vay theo đúng quy định của luật pháp. Như vậy, khách hàng phải có
đủ tư cách pháp lý để thực hiện giao dịch. Nếu khách hàng không có đủ tư cách pháp
lý, trong quá trình cho vay vốn của ngân hàng mà doanh nghiệp hoạt động SXKD
không hiệu quả sẽ khó có thể hoàn trả được nợ gốc và lãi đúng hạn, khi đó sẽ gây khó
khăn cho ngân hàng trong quá trình thu hồi nợ và có thể phải nhờ đến sự can thiệp của
pháp luật. Trong trường hợp này, ngân hàng có quyền khởi kiện khách hàng trước
pháp luật, lập hồ sơ đề nghị tòa án tịch thu tài sản để có thể thu hồi được nợ theo quy
định của pháp luật. Bên cạnh đó, nếu doanh nghiệp không đáp ứng đủ điều kiện pháp
lý thì trong trường hợp doanh nghiệp không hoàn trả nợ gốc và lãi mà ngân hàng khởi
kiện doanh nghiệp trước pháp luật thì khi đó sẽ không đảm bảo ngân hàng có thể thu
hồi được hoàn toàn khoản vay đó.
Thứ hai, khách hàng phải có mục đích sử dụng vốn vay hợp pháp.
Vốn vay phải được sử dụng hợp pháp tức là không vi phạm pháp luật. Theo
Luật các Tổ chức tín dụng năm 2010, ngân hàng sẽ không cho khách hàng vay vốn để
hoạt động SXKD các mặt hàng mà pháp luật cấm. Mục đích sử dụng vốn vay phải phù
hợp với cam kết trong đơn xin vay vốn và đăng ký kinh doanh của doanh nghiệp, tổ
chức kinh tế. Vì khi sử dụng vốn bất hợp pháp thì các tài sản đó sẽ bị phong tỏa hoặc
bị tịch thu từ đó ảnh hưởng đến khả năng hoàn trả nợ gốc và lãi cho ngân hàng. Ngoài
ra, khi vốn vay sử dụng bất hợp pháp thì tư cách pháp lý của khách hàng có thể bị mất
đi do đó ảnh hưởng đến quan hệ cho vay hợp pháp giữa ngân hàng với khách hàng.

Thứ ba, khách hàng phải có năng lực tài chính lành mạnh đủ để đảm bảo
hoàn trả tiền vay đúng hạn đã cam kết.
Khi đề cập đến khả năng tài chính lành mạnh của khách hàng vay vốn, đối với
doanh nghiệp thì thông thường ngân hàng chú trọng đến báo cáo kết quả hoạt động
10
SXKD và khả năng quản lý tốt; chứng minh sự phát triển ổn định của doanh nghiệp;
đảm bảo cho doanh nghiệp có cơ sở vững chắc về tài chính để đảm bảo cho cam kết
hoàn trả tiền vay đúng hạn. Bên cạnh đó, doanh nghiệp phải có tình hình tài sản và
nguồn vốn ổn định để đảm bảo doanh nghiệp hoạt động thường xuyên, liên tục và tạo
điều kiện cho doanh nghiệp có khả năng phát triển trong tương lai cũng như việc trả
tiền vay đúng hạn đã cam kết. Do đó, ngân hàng yêu cầu khách hàng phải có năng lực
tài chính lành mạnh để khách hàng duy trì và phát triển hoạt động SXKD cũng như
việc đầu tư SXKD có hiệu quả để khách hàng đảm bảo được trả nợ cho ngân hàng đầy
đủ và đúng hạn.
Thứ tư, khách hàng phải có phương án, dự án sản xuất kinh doanh khả thi
và hiệu quả.
Doanh nghiệp khi đi vay vốn phải có kế hoạch SXKD khả thi và hiệu quả vì
bản chất của NHTM là tổ chức kinh doanh trong đó việc cho vay vốn phải đảm bảo
các nguyên tắc sinh lời cơ bản. Do đó, dự án và phương án mà ngân hàng tài trợ vốn
phải đảm bảo tính khả thi và hiệu quả. Nếu khách hàng không có kế hoạch SXKD khả
thi và hiệu quả thì không tạo ra thu nhập và sẽ ảnh hưởng đến khả năng thu hồi nợ gốc
và lãi của ngân hàng cũng như gây ra rủi ro cho ngân hàng.
Trong hoạt động cho vay của NHTM, nguồn thu từ phương án và dự án vay
vốn được coi là nguồn thu “thứ nhất” đảm bảo an toàn vốn cũng như phát triển liên tục
của khách hàng và ngân hàng. Bởi vì, khi kế hoạch SXKD có hiệu quả tức là có nguồn
thu thì khách hàng sẽ đảm bảo được khả năng thanh toán nợ gốc và lãi cho ngân hàng.
Đây là điều kiện liên quan đến quyết định cho vay của ngân hàng.
Thứ năm, khách hàng phải thực hiện đảm bảo tiền vay theo đúng quy định.
Đây là yếu tố mà mọi ngân hàng đều phải quan tâm vì đảm bảo tiền vay là công
cụ đảm bảo trong việc thực hiện trách nhiệm và nghĩa vụ của khách hàng trong quan

hệ vay vốn. Đảm bảo tiền vay còn là nguồn thu nợ “thứ hai” cho NHTM (trong trường
hợp khách hàng không trả được khoản vay). Tuy nhiên, đối với hình thức CVDN,
nhiều doanh nghiệp là khách hàng truyền thống của ngân hàng nên khi cho vay không
cần có TSĐB mà cho vay dựa trên uy tín của doanh nghiệp (cho vay tín chấp). Trong
trường hợp này thì ngân hàng cần đặc biệt quan tâm đến hiệu quả kinh doanh mà
doanh nghiệp thu được, công tác quản lý của họ và thái độ, uy tín của khách hàng
trong việc trả nợ.
1.1.4. Đặc điểm cho vay doanh nghiệp
1.1.4.1. Đối tượng vay vốn
CVDN là hình thức cho vay nhằm đáp ứng nhu cầu vay vốn cho khách hàng để
thực hiện các dự án đầu tư, phương án sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và mua sắm tài
11
sản cố định. Do vậy, đối tượng khách hàng của khoản vay này là các doanh nghiệp.
Các doanh nghiệp bao gồm doanh nghiệp lớn và doanh nghiệp nhỏ và vừa có nhu cầu
sử dụng vốn vay phục vụ hoạt động SXKD hợp pháp.
1.1.4.2. Nhu cầu vay vốn
Xuất phát từ mục đích kinh doanh để tạo ra nguồn thu, vì vậy mà doanh nghiệp
đến ngân hàng vay vốn để phục vụ cho các nhu cầu bổ sung vốn lưu động; mua sắm
máy móc thiết bị, đầu tư mở rộng hoạt động SXKD hoặc đầu tư dự án mới nhưng chưa
đủ nguồn lực tài chính để thực hiện.
Theo luật các Tổ chức tín dụng, đối với những nhu cầu vay vốn để mua bán,
thanh toán và đáp ứng nhu cầu tài chính mà pháp luật cấm hoặc không phù hợp với
ngành nghề đăng ký kinh doanh thì ngân hàng tuyệt đối không được cho vay.
1.1.4.3. Thời hạn cho vay
Thời hạn vay vốn căn cứ vào kế hoạch SXKD, đặc điểm luân chuyển vốn, chu
kỳ SXKD, thời hạn thu hồi vốn của dự án đầu tư mà ngân hàng đưa ra thời hạn vay
khá đa dạng. Thời hạn vay bao gồm cả ngắn hạn, trung hạn và dài hạn.
Căn cứ vào kế hoạch sản xuất kinh doanh: kế hoạch SXKD được chia làm 2
loại: phương án SXKD và dự án SXKD. Đối với phương án SXKD thì thời gian thực
hiện của phương án thường trong ngắn hạn nên ngân hàng cho khách hàng vay với

thời hạn từ 1 năm trở xuống. Còn đối với dự án SXKD thì khách hàng có thể vay với
thời hạn trên 1 năm đến 5 năm đối với dự án trung hạn, trên 5 năm đối với dự án dài hạn.
Căn cứ vào đặc điểm luân chuyển vốn: vốn kinh doanh bao gồm vốn cố định
và vốn lưu động. Tùy thuộc vào mục đích vay vốn của khách hàng mà ngân hàng sẽ
đưa ra thời hạn cho vay hợp lý. Đối với việc vay vốn để mua sắm tài sản cố định là
những tư liệu lao động có giá trị lớn tham gia vào nhiều chu kỳ SXKD nên thời hạn
vay sẽ phụ thuộc vào thời gian khấu hao của TSCĐ. Đối với việc vay vốn lưu động
phục vụ SXKD trong ngắn hạn thì ngân hàng sẽ cho vay với thời hạn là từ 1 năm trở
xuống.
Căn cứ vào chu kỳ kinh doanh: chu kỳ kinh doanh là sự biến động của các
hoạt động kinh tế ngắn hạn trong một thời kỳ nhất định, trong đó các giai đoạn tăng
trưởng và các giai đoạn suy giảm luân chuyển lẫn nhau không ngừng. Vì vậy, thời hạn
cho vay phụ thuộc vào chu kỳ kinh doanh ngắn hay dài sẽ lần lượt được áp dụng với
thời hạn cho vay ngắn hạn hoặc trong trung và dài hạn.
Căn cứ vào thời hạn thu hồi vốn: đối với những phương án SXKD thì kế
hoạch thực hiện trong thời gian ngắn nên thời gian thu hồi vốn sẽ nhanh. Vậy thời hạn
cho vay sẽ ở mức dưới 1 năm. Còn với những dự án SXKD thì ngược lại.
12
Thời hạn cho vay là yếu tố quan trọng mà ngay từ khi tiếp nhận hồ sơ vay vốn
của khách hàng, ngân hàng đã phải xác định khoản vay này là ngắn hạn, trung hạn hay
dài hạn, để từ đó ngân hàng áp dụng các mức lãi suất sao cho phù hợp với mức độ rủi
ro của từng khoản vay.
1.1.4.4. Lãi suất cho vay
Lãi suất cho vay là một yếu tố quan trọng trong hoạt động kinh doanh của ngân
hàng. Lãi suất cho vay phải được thỏa thuận giữa ngân hàng và khách hàng trong hợp
đồng cho vay trên cơ sở phù hợp với quy định của nhà nước trong từng thời kỳ. Lãi
suất CVDN thường được các ngân hàng đưa ra với mức lãi suất linh hoạt, có nhiều
mức phù hợp với phương thức và loại cho vay. Doanh nghiệp là chủ thể lớn trong nền
kinh tế nên ngân hàng thường có chính sách lãi suất và điều kiện cho vay ưu đãi. Tuy
nhiên, việc áp dụng lãi suất cho vay còn phụ thuộc vào mối quan hệ của khách hàng

với ngân hàng và mức độ rủi ro của khoản vay cũng như mức độ rủi ro trong hoạt
động SXKD của khách hàng. Chẳng hạn như đối với khách hàng truyền thống đã có
uy tín với ngân hàng thì ngân hàng sẽ đưa ra mức lãi suất ưu đãi nhưng đối với khách
hàng đến xin vay lần đầu thì ngân hàng có thể áp dụng với mức lãi suất cao hơn. Bên
cạnh đó, mức lãi suất cho vay cao sẽ được ngân hàng áp dụng cho những kế hoạch
SXKD không mấy khả thi và hiệu quả và những doanh nghiệp có năng lực tài chính
chưa đạt tiêu chuẩn trong quá trình thẩm định.
1.1.4.5. Đảm bảo tiền vay trong cho vay doanh nghiệp
Đảm bảo tiền vay là hệ thống các biện pháp ngân hàng đề ra để tạo cơ sở kinh
tế, pháp lý, đảm bảo cho ngân hàng thu hồi nợ gốc và lãi trong tương lai. Ngân hàng
có thể áp dụng biện pháp đảm bảo linh hoạt, cả đảm bảo bằng tài sản và không đảm
bảo bằng tài sản (tín chấp) để tạo cơ sở thu hồi nợ. Kế hoạch kinh doanh khả thi, hiệu
quả là tiêu chí quyết định trong việc xem xét cho vay. Do đó, không phải bất cứ một
món vay nào cũng phải có tài sản đảm bảo. Đặc biệt là đối với khách hàng truyền
thống và có tín nhiệm cao với ngân hàng. Tuy nhiên trong nền kinh tế thị trường, mọi
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp luôn chứa đựng khả năng rủi ro, điều đó rất có
thể kéo theo rủi ro của ngân hàng cho vay vốn. Bởi vậy trên thực tế, cho vay có đảm
bảo bằng tài sản được coi là điều kiện quan trọng trong việc cho vay của NHTM.
Đồng thời việc yêu cầu khách hàng vay vốn phải có TSĐB cho nghĩa vụ trả nợ sẽ nâng
cao tính chịu trách nhiệm và chia sẻ rủi ro của doanh nghiệp với ngân hàng. Do đó,
ngân hàng thường áp dụng các biện pháp đảm bảo tiền vay, đa dạng về hình thức như:
thế chấp, cầm cố tài sản, bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay và bảo lãnh của
bên thứ ba. Ngoài ra, đối với doanh nghiệp đã có uy tín với ngân hàng thì có thể cho
vay tín chấp - là hình thức cho vay dựa trên uy tín của khách hàng mà không cần tài
13
sản đảm bảo. Hiện nay, theo Nghị định 85/2003/NĐ-CP ngày 25/10/2003 của Chính
phủ, những khách hàng vay vốn có đủ những điều kiện sau thì mới được vay vốn
không có tài sản đảm bảo:
- Sử dụng vốn vay có hiệu quả, trả nợ gốc, lãi vốn vay đúng hạn.
- Có kế hoạch SXKD khả thi hiệu quả, phù hợp với quy định của pháp luật.

- Có khả năng tài chính để trả nợ vay.
Vì vậy, tỷ lệ cho vay có đảm bảo bằng tài sản có xu hướng gia tăng, góp phần
giảm thiểu tổn thất khi rủi ro xảy ra.
1.1.5. Phân loại cho vay doanh nghiệp
1.1.5.1. Phân loại theo thời gian
Phân theo tiêu chí thời gian, CVDN bao gồm: ngắn hạn, trung hạn và dài hạn.
Cho vay trong ngắn hạn: là việc ngân hàng tài trợ vốn cho các doanh nghiệp
có nhu cầu sử dụng vốn từ 12 tháng trở xuống, chủ yếu phục vụ cho việc bổ sung vốn
lưu động bị thiếu của doanh nghiệp và SXKD trong ngắn hạn. Mức độ rủi ro của hoạt
động cho vay này là thấp vì doanh nghiệp vay dùng chính nguồn thu được từ sử dụng
vốn vay để trả nợ.
Cho vay trong trung hạn: là việc ngân hàng tài trợ vốn cho các doanh nghiệp
có nhu cầu sử dụng vốn trên 12 tháng đến 60 tháng. Loại này được cấp chủ yếu phục
vụ cho việc đầu tư mua sắm tài sản cố định, cải tiến hoặc đổi mới thiết bị, công nghệ
hoặc mở rộng SXKD.
Cho vay dài hạn: là việc ngân hàng tài trợ vốn cho các doanh nghiệp có nhu
cầu sử dụng vốn trên 60 tháng. Loại hình cho vay này chủ yếu phục vụ cho xây dựng
cơ bản, đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, đầu tư vào các dự án có quy mô lớn. Loại hình
cho vay này tiềm ẩn nhiều rủi ro nhất vì thời gian thực hiện dài nên chịu ảnh hưởng
nhiều của sự biến động kinh tế và vốn vay tham gia vào nhiều chu kỳ SXKD nên việc
hoàn trả được thực hiện trong nhiều chu kỳ.
1.1.5.2. Phân loại theo mục đích sử dụng
Căn cứ vào mục đích sử dụng vốn, CVDN được chia thành 5 loại:
Cho vay bổ sung vốn lưu động: Là việc ngân hàng CVDN, đáp ứng nhu cầu
bổ sung vốn lưu động, phục vụ hoạt động SXKD trong ngắn hạn.
Cho vay mua sắm tài sản cố định: Là các khoản vay nhằm tài trợ cho doanh
nghiệp mua sắm các thiết bị, máy móc, công nghệ phục vụ cho việc tái đầu tư, mở
rộng sản xuất hoặc đầu tư lần đầu.
Cho vay dự án cơ sở hạ tầng: Là các khoản vay nhằm tài trợ cho doanh
nghiệp chi phí để thực hiện các dự án và đầu tư vào cơ sở hạ tầng để tăng lợi nhuận và

góp phần xây dựng phát triển đất nước.
14
Cho vay đầu tư bất động sản: Là các khoản vay hỗ trợ chi phí cho doanh
nghiệp vào việc kinh doanh đất đai, nhà ở.
1.1.5.3. Phân loại theo loại tiền
Cho vay doanh nghiệp bằng nội tệ: Là việc ngân hàng cho doanh nghiệp vay
để tài trợ cho hoạt động SXKD bằng nội tệ.
Cho vay doanh nghiệp bằng ngoại tệ: Là việc ngân hàng cho doanh nghiệp
vay để tài trợ cho hoạt động SXKD bằng ngoại tệ như: USD, EUR, JPY, GBP…
1.1.5.4. Phân loại theo loại doanh nghiệp
CVDN theo thành phần kinh tế được chia làm 2 loại: cho vay đối với các doanh
nghiệp lớn và cho vay đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Cho vay đối với các doanh nghiệp lớn: các doanh nghiệp lớn là các doanh
nghiệp có tư cách pháp nhân với quy mô vốn lớn; đối với doanh nghiệp hoạt động
trong lĩnh vực nông nghiệp và công nghiệp thì có quy mô vốn trên 100 tỷ đồng; còn
đối với doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực thương mại thì có quy mô vốn trên 50
tỷ đồng hoặc có số lượng lao động lớn trên 300 người như các tập đoàn, tổng công
ty… Ngân hàng cho doanh nghiệp lớn vay để mở rộng SXKD, đầu tư vào các phương
án và dự án đầu tư theo chỉ định của Nhà nước.
Cho vay đối với các doanh nghiệp nhỏ, vừa và siêu nhỏ:
Theo Nghị định 56/2009/NĐ – CP, doanh nghiệp nhỏ và vừa là cơ sở kinh
doanh đã đăng ký kinh doanh theo quy định pháp luật, được chia thành ba cấp: siêu
nhỏ, nhỏ, vừa theo quy mô tổng nguồn vốn (tổng nguồn vốn tương đương tổng tài sản
được xác định trong bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp) hoặc số lao động bình
quân năm (tổng nguồn vốn là tiêu chí ưu tiên). Cụ thể như sau: đối với doanh nghiệp
siêu nhỏ thì có số lao động nhỏ hơn 10 người; đối với doanh nghiệp nhỏ thì có số lao
động trên 10 người đến 200 người và tổng nguồn vốn là nhỏ hơn 20 tỷ đồng, riêng đối
với lĩnh vực thương mại dịch vụ thì trên 10 người đến 50 người và tổng nguồn vốn là
nhỏ hơn 10 tỷ đồng; đối với doanh nghiệp vừa thì số lao động là trên 200 người đến
300 người và tổng nguồn vốn là trên 20 tỷ đồng đến 100 tỷ đồng riêng lĩnh vực thương

mại dịch vụ thì số lao động trên 50 người đến 100 người và tổng nguồn vốn là trên 10
tỷ đồng đến 50 tỷ đồng. Ngân hàng cho vay doanh nghiệp nhỏ, vừa và siêu nhỏ để đáp
ứng nhu cầu SXKD hợp pháp của các loại hình doanh nghiệp này.
1.1.5.5. Phân loại theo ngành nghề kinh doanh
CVDN theo ngành nghề kinh doanh rất đa đạng, bao gồm: cho vay các ngành
thuộc lĩnh vực nông nghiệp – nông thôn, cho vay ngành công nghiệp, cho vay ngành
xây dựng và ngành thương mại dịch vụ.
15
Cho vay các ngành thuộc lĩnh vực nông nghiệp – nông thôn: là các khoản
vay tài trợ cho doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp như nông nghiệp,
lâm nghiệp, thủy hải sản, chăn nuôi…
Cho vay ngành công nghiệp: là các khoản vay đáp ứng nhu cầu phục vụ
SXKD trong lĩnh vực công nghiệp như: điện, thép, công nghiệp khai khoáng, giày da,
may mặc, dệt…
Cho vay ngành xây dựng: là các khoản vay tài trợ cho doanh nghiệp đầu tư
vào lĩnh vực xây dựng như: xi măng, kinh doanh bất động sản, giao thông vận tải…
Cho vay thương mại, dịch vụ: là các khoản vay tài trợ cho các ngành thương
mại, dịch vụ như: du lịch, thương mại và dịch vụ…
1.1.5.6. Phân loại theo nhóm nợ
Theo Quyết định 18/2007/QĐ – NHNN về việc sửa đổi, bổ sung một số điều
của Quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng
trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng ban hành theo Quyết định số
493/2005/QĐ – NHNN ngày 22 tháng 4 năm 2005 của Thống đốc Ngân hàng Nhà
nước, các ngân hàng tiến hành phân loại nợ căn cứ vào nợ vay đã hạch toán vào tài
khoản nợ theo 5 nhóm sau:
Nhóm 1 (nợ đủ tiêu chuẩn): bao gồm các khoản nợ trong hạn mà ngân hàng
đánh giá là có khả năng thu hồi gốc và lãi đúng hạn; Các khoản nợ quá hạn dưới 10
ngày và ngân hàng đánh giá là có khả năng thu hồi đầy đủ cả gốc và lãi quá hạn và thu
đúng thời hạn còn lại.
Nhóm 2 (nợ cần chú ý): bao gồm các khoản nợ của doanh nghiệp đã quá hạn từ

10 ngày đến 90 ngày và các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ trong hạn theo thời hạn
nợ đã cơ cấu lại.
Nhóm 3 (nợ dưới tiêu chuẩn): bao gồm các khoản nợ của doanh nghiệp đã quá
hạn từ 91 ngày đến 180 ngày và các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn dưới
90 ngày theo thời hạn nợ đã được cơ cấu lại.
Nhóm 4 (nợ nghi ngờ): bao gồm các khoản nợ của doanh nghiệp quá hạn từ 181
ngày đến 360 ngày và các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn từ 91 ngày đến
180 ngày theo thời hạn nợ đã được cơ cấu lại.
Nhóm 5 (nợ có khả năng mất vốn): bao gồm các khoản nợ quá hạn của doanh
nghiệp trên 360 ngày và các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn trên 180 ngày
theo thời hạn nợ đã được cơ cấu lại.
1.1.5.7. Phân loại theo tài sản đảm bảo
Cho vay không có tài sản đảm bảo: Là loại hình cho vay không có tài sản thế
chấp, cầm cố hoặc sự bảo lãnh của người thứ ba, mà việc cho vay chỉ dựa vào uy tín
16
của bản thân khách hàng. Ngân hàng chỉ cho vay đối với những khách hàng có uy tín.
Khách hàng có uy tín là khách hàng có năng lực tài chính lành mạnh, trung thực trong
kinh doanh, quản trị kinh doanh có hiệu quả, có tín nhiệm với ngân hàng trong sử
dụng vốn vay, hoàn trả nợ cả gốc và lãi. Hiện nay, những khách hàng vay vốn phải có
đủ điều kiện theo Nghị định 85/2003/NĐ – CP ngày 25/10/2003 của Chính phủ:
- Sử dụng vốn vay có hiệu quả, trả nợ gốc, lãi vốn vay đúng hạn.
- Có kế hoạch SXKD khả thi hiệu quả, phù hợp với quy định của pháp luật.
- Có khả năng tài chính để trả nợ vay.
Cho vay có tài sản đảm bảo: Là loại hình khi cho vay đòi hỏi khách hàng vay
vốn phải có tài sản cầm cố, thế chấp hoặc bảo lãnh của người thứ ba. Sự đảm bảo này
là căn cứ pháp lý để ngân hàng có thêm nguồn thứ hai, bổ sung cho nguồn nợ thứ nhất
thiếu chắc chắn. Loại hình cho vay này thường áp dụng chủ yếu đối với những khách
hàng lần đầu có mối quan hệ vay mượn với ngân hàng hoặc những khách hàng chưa có
nhiều uy tín với ngân hàng.
1.2. Rủi ro trong cho vay doanh nghiệp

1.2.1. Khái niệm
Hoạt động cho vay thiết lập mối quan hệ vay mượn giữa hai chủ thể là ngân
hàng và doanh nghiệp. Khi quan hệ cho vay giữa ngân hàng và doanh nghiệp không
được thực hiện theo đúng thỏa thuận trong hợp đồng thì rủi ro xuất hiện, với hoạt động
cho vay thì đó là rủi ro cho vay.
Có nhiều cách hiểu rủi ro cho vay khác nhau, trong giáo trình “Nghiệp vụ ngân
hàng thương mại” của trường Đại học Thăng Long do PGS.TS Mai Văn Bạn làm chủ
biên định nghĩa là: “Rủi ro cho vay phát sinh khi ngân hàng cho khách hàng vay mà
không thu được gốc và lãi đúng hạn, hoặc chỉ thu được một phần gốc và lãi, hoặc
không thu được cả gốc và lãi khoản cho vay đó”. Còn TS. Hồ Diệu, trong giáo trình
“Tín dụng ngân hàng” của Học viện Ngân hàng đã nêu “Rủi ro cho vay là rủi ro về sự
tổn thất tài chính (trực tiếp hoặc gián tiếp) xuất phát từ người đi vay không thực hiện
nghĩa vụ trả nợ đúng hạn theo cam kết hoặc mất khả năng thanh toán”.
Từ những định nghĩa nêu trên có thể thấy rằng: “Rủi ro trong cho vay doanh
nghiệp là một trong những loại hình rủi ro trong hoạt động kinh doanh ngân
hàng, nó xảy ra khi doanh nghiệp không trả được nợ gốc và lãi đúng hạn hoặc chỉ
trả một phần gốc và lãi hoặc mất khả năng thanh toán và tổn thất thuộc về người
cho vay”.
Rủi ro trong CVDN hàm chứa tỷ trọng lớn nhất trong tổng rủi ro, mang lại
khoản tổn thất lớn nhất trong hoạt động kinh doanh ngân hàng.
17
Rủi ro trong CVDN luôn tiềm ẩn trong toàn bộ dư nợ cho vay của ngân hàng và
gắn liền với khả năng khách hàng không trả được nợ theo hợp đồng. Cụ thể là luồng
thu nhập dự tính mang lại từ các tài sản có sinh lời của các ngân hàng có thể không
được hoàn trả đầy đủ xét cả về mặt số lượng và thời hạn.
1.2.2. Đặc điểm rủi ro trong cho vay doanh nghiệp
1.2.2.1. Quy mô khoản tổn thất
Quy mô khoản tổn thất là số lượng tiền mất mát khi ngân hàng không thu hồi
được đầy đủ cả gốc và lãi của những khoản cho vay. Quy mô khoản tổn thất của ngân
hàng trong CVDN thường lớn hơn so với loại hình cho vay khác vì cơ bản khoản vay

đối với khách hàng doanh nghiệp là lớn để phục vụ cho hoạt động SXKD. Mà trong
kinh doanh thì doanh nghiệp không thể tránh khỏi được rủi ro như ảnh hưởng của thị
trường đầu vào, thị trường đầu ra và khả năng tài chính của khách hàng khi đó doanh
nghiệp gặp khó khăn trong việc trả nợ dẫn đến rủi ro cho ngân hàng.
Quy mô khoản tổn thất trong CVDN càng lớn thì nợ quá hạn càng tăng, ảnh
hưởng đến chất lượng cho vay của ngân hàng. Dẫn đến việc ngân hàng phải trích lập
dự phòng nhiều làm giảm lợi nhuận của ngân hàng.
1.2.2.2. Rủi ro từ nguồn thu nợ thứ nhất
Nguồn thu nợ thứ nhất của ngân hàng chủ yếu là nguồn thu từ kế hoạch SXKD
của doanh nghiệp. Khi kế hoạch SXKD đem lại nguồn thu cho doanh nghiệp thì khả
năng thu nợ đầy đủ cả gốc và lãi đúng hạn cao nghĩa là khoản vay của ngân hàng có
rủi ro thấp hoặc không có rủi ro. Ngược lại, trong kinh doanh không thể tránh được
những rủi ro, khi gặp rủi ro từ môi trường bên trong cũng như bên ngoài mà doanh
nghiệp không có biện pháp xử lý nhanh chóng và kịp thời thì kế hoạch SXKD của
doanh nghiệp gặp khó khăn, không tìm được đầu ra cho sản phẩm, thu nhập thu về
thấp và không có nguồn thu. Khi đó việc trả nợ cho ngân hàng sẽ gặp khó khăn và
ngân hàng cũng không thu được nợ đầy đủ và đúng hạn thì ngân hàng cũng gặp rủi ro
đối với khoản vay làm giảm chất lượng cho vay của ngân hàng.
1.2.2.3. Rủi ro từ nguồn thu nợ thứ hai
Trong trường hợp khách hàng không trả được nợ từ hiệu quả sử dụng vốn thì
ngân hàng sẽ thu nợ từ việc phát mại TSĐB của khách hàng thế chấp khi đi vay. Việc
thu nợ từ nguồn này ngân hàng cũng sẽ gặp rủi ro vì khi phát mại TSĐB, giá trị của
TSĐB sẽ thấp hơn so với giá trước đây khi ngân hàng thẩm định để cho vay. Khi đó,
ngân hàng chỉ thu được một phần của khoản nợ để giảm bớt phần nào khoản tổn thất.
Bên cạnh đó, ngân hàng có thể gặp phải trường hợp TSĐB của khách hàng đã bị phân
hủy, hỏng hóc khi TSĐB là hàng hóa dễ thay đổi trong môi trường hoặc không còn
trong trường hợp TSĐB đã được khách hàng tiêu thụ mà ngân hàng không biết. Chính
18
vì vậy, trong quá trình CVDN, CBCV của ngân hàng luôn phải kiểm tra thường xuyên
TSĐB của khách hàng để có biện pháp xử lý kịp thời làm giảm rủi ro cho ngân hàng.

1.2.3. Các loại rủi ro chính trong cho vay doanh nghiệp
1.2.3.1. Rủi ro trong giai đoạn thu thập thông tin
Nguồn thông tin do khách hàng cung cấp: rủi ro xảy ra khi doanh nghiệp
cung cấp thông tin và tài liệu cho ngân hàng là không đầy đủ và thiếu chính xác.
Những nguồn thông tin của doanh nghiệp cung cấp cho ngân hàng có thể là doanh
nghiệp chỉnh sửa làm sai lạc thông tin để đạt được điều kiện vay vốn của ngân hàng.
Nếu các thông tin hoặc số liệu đã được kiểm toán thì kết quả kiểm toán chỉ là đối phó
và không chính xác. Từ những thông tin đó, CBCV thẩm định và ra quyết định cho
vay không đúng, do đó rủi ro có thể xảy ra và làm giảm chất lượng khoản vay. Như
vậy, trong quá trình kiểm tra, kiểm soát thông tin của doanh nghiệp cung cấp, CBCV
đã không thực hiện nghiêm túc làm giảm hiệu quả công tác quản trị rủi ro trong
CVDN.
Nguồn thông tin lưu trữ tại ngân hàng: nguồn thông tin lưu trữ tại ngân hàng
là những thông tin cũ, không được cập nhật, do đó mà không đánh giá được chính xác
năng lực pháp lý, năng lực tài chính và khả năng trả nợ của khách hàng tại thời điểm
xin vay vốn. Vì vậy, CBCV mà dựa trên những thông tin này thì việc thẩm định và
phân tích khoản vay của khách hàng cũng không chính xác, từ đó làm ảnh hưởng đến
việc ra quyết định cho vay. Việc ra quyết định cho vay không đúng thì rủi ro có thể
xảy ra cho ngân hàng.
Nguồn thông tin tại trung tâm thông tin tín dụng: cũng như nguồn thông tin
lưu trữ tại ngân hàng thì nguồn thông tin tại trung tâm thông tin tín dụng của NHNN
(CIC) cũng không được cập nhật thường xuyên và là những thông tin cũ của khách
hàng. Dựa vào những thông tin cũ đó thì không thể đánh giá được tình hình hoạt động
của khách hàng ở thời điểm khách hàng xin vay vốn. Như vậy, nó sẽ ảnh hưởng xấu
đến quá trình thẩm định và ra quyết định cho vay của ngân hàng và khi đó rủi ro có thể
xảy ra.
Nguồn thông tin khác: nguồn thông tin khác là nguồn thông tin từ báo chí,
internet, phương tiện thông tin đại chúng… những thông tin này cũng không được đầy
đủ, chính xác và cập nhật nên cũng không phản ánh chính xác được tình hình hoạt
động của doanh nghiệp, do đó cũng ảnh hưởng xấu đến việc ra quyết định cho vay của

ngân hàng.
1.2.3.2. Rủi ro trong thẩm định
Là rủi ro mà ngân hàng đánh giá sai khách hàng. Do hiện tượng thiếu thông tin,
thông tin không chính xác từ phía khách hàng dẫn đến “thông tin không cân xứng” làm
19
cho ngân hàng thường chấp nhận cho các khách hàng có khả năng trả nợ kém vay vốn
dẫn đến rủi ro không thu hồi được vốn sau khi cho vay. Hơn nữa, do quá tin tưởng vào
TSĐB, bảo lãnh, bảo hiểm từ phía khách hàng dẫn đến đánh giá sai giá trị các khoản
thế chấp, bảo lãnh, bảo hiểm gây ra rủi ro không thu hồi được nợ khi khách hàng không
trả được nợ trong khi ngân hàng lại từ chối cho vay khách hàng tốt.
1.2.3.3. Rủi ro trong quản lý, thu hồi nợ
Là rủi ro phát sinh do quá trình giám sát thu hồi nợ không theo dõi được dòng
tiền của khách hàng để khách hàng sử dụng vốn quay vòng không đúng mục đích đã
cam kết ban đầu hoặc sử dụng vốn vay sai nguyên tắc gây lãng phí nghiêm trọng nên
không thu được nợ đúng kì hạn hoặc không thu được nợ.
1.2.3.4. Rủi ro tác nghiệp
Rủi ro tác nghiệp phát sinh do hệ thống thông tin không hiệu quả, do sai sót kỹ
thuật, những sai phạm trong kiểm soát nội bộ, những biến cố không định trước hay
những vấn đề hoạt động khác có thể dẫn đến mất mát không định trước hay những vấn
đề về danh tiếng. Phạm vi và thời gian xảy ra những rủi ro tác nghiệp rất rộng lớn, nó
có thể xảy ra bất cứ lúc nào trong thời gian hoạt động của ngân hàng.
Theo Basel II: Rủi ro tác nghiệp là nguy cơ xảy ra tổn thất trực tiếp hay gián
tiếp do các quy trình, con người và hệ thống nội bộ không đạt yêu cầu hoặc thất bại
hay do các sự kiện bên ngoài. Rủi ro tác nghiệp bao gồm cả rủi ro pháp lư nhưng loại
trừ rủi ro chiến lược và rủi ro uy tín.
Các nhóm yếu tố gây ra rủi ro tác nghiệp:
Quy trình: rủi ro tác nghiệp tăng theo mức độ phức tạp của giao dịch - giao
dịch có nhiều bước, nhiều quy trình hoặc nhiều mốc tham chiếu; các giao dịch đòi hỏi
phải có kiểm soát nội bộ và phê duyệt; và các giao dịch không được xác định rõ ràng
hoặc không được thực hiện theo đúng chính sách quy định. Mọi bộ phận hay quy trình

của hoạt động CVDN đều chịu rủi ro tác nghiệp.
Con người: Rủi ro tác nghiệp tăng lên cùng với sự tham gia của con người vào
hoạt động khởi tạo, phê duyệt, báo cáo hoặc điều chỉnh một giao dịch. Các khía cạnh
của rủi ro tác nghiệp bao gồm hành vi gian lận, lỗi, sự bỏ sót và lạm dụng của nhân
viên. Ngân hàng càng có nhiều nhân viên, nhiều địa điểm giao dịch và khách hàng thì
rủi ro tác nghiệp càng cao. Số lượng nhân viên tăng nhanh là dấu hiệu tăng rủi ro tác
nghiệp.
Hệ thống: đây chỉ là một phần của rủi ro tác nghiệp nhưng lại có thể ảnh hưởng
đến tất cả các loại rủi ro khác trong ngân hàng.
Các sự kiện bên ngoài: Các yếu tố nằm ngoài sự kiểm soát của ngân hàng
cũng góp phần gây ra rủi ro tác nghiệp. Các vấn đề về cơ sở hạ tầng như: hệ thống
20
truyền dữ liệu, giao thông, điện, nước, điện thoại, các thay đổi về pháp lư, chính trị
ngay cả thời tiết khắc nghiệt cũng có thể tạo ra hoặc làm tăng thêm các rủi ro trong
ngân hàng.
Các vấn đề khác: Các vấn đề khác có ảnh hưởng đến rủi ro tác nghiệp bao
gồm: số tiền của khoản vay và số lượng các thay đổi mà một ngân hàng đang gặp phải
(lãnh đạo mới, nhân viên mới, sản phẩm mới, nhưng thay đổi về chương trình hệ
thống…)
1.2.3.4. Rủi ro đạo đức
Ngân hàng hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh đặc biệt, nhạy cảm, gắn chặt
với tiền và luôn đối mặt với nhiều rủi ro. Trong các vấn đề rủi ro, dường như rủi ro
đạo đức đang là một nguy cơ ngày càng lớn đối với các ngân hàng.
Trên sbv.gov.vn, theo nhà kinh tế học Paul Krugman: “Trong lĩnh vực ngân
hàng, rủi ro đạo đức được hiểu là trường hợp khi một bên đưa ra các quyết định
liên quan tới mức độ chấp nhận rủi ro, trong khi bên kia phải chịu tổn thất nếu các
quyết định đó thất bại”.
Trong hoạt động kinh doanh ngân hàng, rủi ro đạo đức nảy sinh từ chính hoạt
động kinh doanh của ngân hàng và khách hàng sử dụng vốn của các NHTM. Hậu quả
của rủi ro đạo đức do hai chủ thể này gây nên lại do người gửi tiền vào ngân hàng và

chính ngân hàng đó gánh chịu. Hai chủ thể gây ra rủi ro đạo đức:
Rủi ro đạo đức của khách hàng: Trong hoạt động ngân hàng, rủi ro đạo đức
của khách hàng thường thể hiện ở việc khách hàng vay sử dụng những khoản vay
không đúng mục đích cam kết trong hợp đồng. Hơn nữa, từ sự thiếu thông tin và thiếu
giám sát, ngân hàng sẽ dễ dàng gặp rủi ro đạo đức khi khách hàng sử dụng các khoản
vay một cách quá mạo hiểm và không có hiệu quả. Tuy nhiên, ở mức độ nghiêm trọng
hơn, rủi ro đạo đức biểu hiện ở những hành vi gian lận, lừa đảo của khách hàng. Trên
thực tế, để đạt được mục tiêu vay vốn của mình, nhiều khách hàng đã làm giả hồ sơ,
hợp đồng mua bán vòng vo nhằm có thể vay được vốn từ ngân hàng. Vậy đây chính là
sự bất cân xứng về thông tin, mà nếu ngân hàng không nắm rõ được nguồn thông tin sẽ
dẫn tới tiềm ẩn rủi ro đạo đức sau khi hợp đồng vay vốn được kí kết.
Rủi ro đạo đức của lãnh đạo ngân hàng: Rủi ro đạo đức xảy ra đối với người
quản lý ngân hàng: chẳng hạn khi nhà quản lý hay bộ phận nhóm cán bộ quản lý đã có
quan hệ lợi ích với khách hàng, mặc dù điều kiện khách hàng vay vốn có thể chưa hội
tụ, thậm chí không đủ điều kiện và đã được CBCV ghi rõ là không duyệt, nhưng vì lý
do lợi ích của cá nhân, nhà quản lý hay nhóm cán bộ quản lý đã bằng mọi cách, hướng
dẫn khách hàng hợp thức hoá hồ sơ, thậm chí còn yêu cầu cán bộ thẩm định phải thực
hiện theo ý kiến chỉ đạo. Ngân hàng chạy theo mục tiêu lợi nhuận, nới lỏng quá mức
21
các chính sách đầu tư và tín dụng nhằm đáp ứng và nắm bắt cơ hội thị trường mà bỏ
qua các nguyên tắc cơ bản trong việc thẩm định, giám sát và đưa ra các điều kiện ràng
buộc đối với khách hàng trước và trong khi sử dụng vốn. Ngân hàng cho vay quá mạo
hiểm, thiếu các chính sách cho vay, thiếu sự kiểm soát chặt chẽ và khoa học.Rủi ro đạo
đức xuất phát từ phía nhân viên ngân hàng khi giao dịch với khách hàng. Đó là hành vi
nhận hối lộ của khách hàng để cho vay đảo nợ, cho vay kế hoạch SXKD nhiều rủi ro,
cố ý gây khó cho khách hàng để nhận bồi dưỡng hoặc nhân viên ngân hàng thiếu trách
nhiệm, không nắm bắt và tìm hiểu thông tin liên quan đến khoản vay một cách chính
xác, thiếu thận trọng trong phân tích diễn biến thị trường liên quan tới khách hàng kinh
doanh… dẫn đến việc ngân hàng quyết định cho vay những dự án, phương án không
thực hiện được hay thực hiện không hiệu quả dẫn đến nợ quá hạn hoặc khách hàng

không có khả năng trả nợ.
1.2.4. Nguyên nhân gây rủi ro trong cho vay doanh nghiệp
Hoạt động cho vay rất đa dạng do đối tượng vay, mục đích vay, thời hạn vay,
phương thức hoàn trả và khả năng hoàn trả là khác nhau. Do vậy, nguyên nhân gây rủi
ro cho vay cũng rất đa dạng, với mỗi món vay khác nhau khả năng xảy ra tổn thất là
khác nhau. Có 3 nguyên nhân chính gây ra rủi ro trong cho vay: nguyên nhân khách
quan, nguyên nhân từ phía doanh nghiệp và nguyên nhân do chính ngân hàng.
1.2.4.1. Nguyên nhân khách quan
Đây là những nguyên nhân gây nên rủi ro cho hoạt động CVDN của ngân hàng
do môi trường bên ngoài tác động vào. Nguyên nhân này xuất hiện đột ngột, khó đoán,
khó kiểm soát, nó thường gây ra những thiệt hại lớn cho khách hàng và ngân hàng. Nó
bao gồm các nguyên nhân cụ thể sau:
Chính sách của Chính phủ
Mỗi nền kinh tế có biến động thì ngay lập tức Nhà nước phải đưa ra các chính
sách kinh tế mới phù hợp với điều kiện hiện hành nhằm hạn chế những ảnh hưởng xấu
tới toàn bộ nền kinh tế. Các chính sách của Nhà nước thường xuyên quan tâm và có sự
thay đổi kịp thời gồm có:
+ Chính sách tiền tệ: NHNN sử dụng các công cụ như: lãi suất chiết khấu, tỷ
lệ dự trữ bắt buộc, nghiệp vụ thị trường mở… để điều chỉnh mức cung tiền tệ khi có
biến động xảy ra. Cụ thể là khi NHNN giảm lãi suất sẽ gây ảnh hưởng xấu đến hoạt
động kinh doanh ngân hàng như: các khoản cho vay cũ của ngân hàng đang cho vay
với mức lãi suất cao thì đột xuất phải giảm xuống làm cho lợi nhuận của ngân hàng
giảm xuống, dẫn đến sự sai lệch trong các bản dự toán chi phí thu nhập của ngân hàng
và thay đổi chiến lược kinh doanh của ngân hàng có thể gây rủi ro khi ngân hàng ở thế
bị động.
22
+ Chính sách đầu tư phát triển: Đây là những chính sách mà khi Nhà nước
điều chỉnh sẽ gây ảnh hưởng trực tiếp cho các NHTM, thường là những ảnh hưởng
không tích cực cho hoạt động kinh doanh của NHTM: ảnh hưởng đến hoạt động cho
vay, ảnh hưởng đến hoạt động đầu tư…

Môi trường tự nhiên
Sự thay đổi của môi trường tự nhiên như thay đổi thời tiết dẫn đến hạn hán, bão
lũ,… làm cho hoạt động SXKD của doanh nghiệp bị trì trệ, đặc biệt là đối với doanh
nghiệp hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, khai thác nuôi
trồng đánh bắt thủy hải sản. Ví dụ như doanh nghiệp vay tiền đầu tư vào nông nghiệp
gặp lũ lụt hay hạn hán gây mất mùa làm cho họ không thu hoạch được sản phẩm dẫn
đến không có sản phẩm bán và không có thu nhập dẫn đến việc không trả nợ được
ngân hàng đúng hạn. Hoặc môi trường tự nhiên thay đổi làm cho nguồn nguyên liệu
của khách hàng trở nên khan hiếm làm cho hoạt động sản xuất bị ứ đọng làm cho họ
không trả nợ theo đúng hạn hoặc không trả nợ.
Môi trường pháp lý
Môi trường pháp lý ổn định là một trong những điều kiện tốt để phát triển hoạt
động kinh doanh, tuy nhiên nếu môi trường pháp lý thay đổi bất thường sẽ gây ra
nhiều ảnh hưởng cho hoạt động kinh doanh và là nguyên nhân dẫn đến việc phá sản,
kinh doanh thua lỗ. Việc phá sản và kinh doanh thua lỗ của khách hàng sẽ làm ảnh
hưởng đến khả năng trả nợ của khách hàng cho ngân hàng làm giảm chất lượng khoản
vay và gây ra rủi ro cho ngân hàng. Bên cạnh đó, môi trường pháp lý thiếu đồng bộ, có
nhiều khe hở thì rất dễ bị khách hàng lợi dụng để thực hiện các vụ làm ăn phi pháp,
gây nguy cơ rủi ro cao cho ngân hàng không thu hồi được nợ…
Môi trường kinh tế
Sự phát triển của nền kinh tế có ảnh hưởng lớn đến hoạt động của các doanh
nghiệp. Kinh tế càng phát triển, doanh nghiệp càng có điều kiện mở rộng hoạt động
SXKD và nhu cầu vay vốn càng cao. Tuy nhiên, sự phát triển này không phải đi lên
theo một đường thẳng mà thường xuyên biến động. Sự hưng thịnh hay suy thoái của
chu kỳ kinh doanh ảnh hưởng tới lợi nhuận của người vay và sẽ tạo nên niềm vui hay
gây nên nỗi lo lắng cho người đi vay. Trong giai đoạn kinh tế hưng thịnh, người vay
hoạt động tốt do lợi nhuận thu được tương đối cao, nhưng trong giai đoạn kinh tế suy
thoái thì khả năng hoàn trả của người đi vay bị giảm sút. Nguyên nhân là do nền kinh
tế suy thoái nên mức độ tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp bị chậm lại làm cho thu
nhập của doanh nghiệp giảm sút mà chi phí không đổi, do đó khả năng hoàn trả của

người vay giảm sút. Tùy vào mức độ nghiêm trọng của khủng hoảng mà việc ảnh
23
hưởng đến các doanh nghiệp cũng như khả năng thanh toán các khoản nợ của họ ở
mức khác nhau.
1.2.4.2. Nguyên nhân thuộc về chủ quan người vay
Các yếu tố chủ quan từ phía doanh nghiệp vay vốn như: khả năng kinh doanh
yếu kém hay doanh nghiệp có hành vi lừa đảo, vi phạm pháp luật… cũng có thể gây ra
các tổn thất cho ngân hàng. Trong trường hợp này, nếu ngân hàng cho vay phát hiện ra
sớm thì rủi ro có thể được ngăn chặn.
Nguyên nhân rủi ro từ phía người vay rất đa dạng, nhưng đối với CVDN thì
nguyên nhân tập trung ở một số loại chính sau:
Thiệt hại từ phía thị trường đầu vào: Giá cả của các yếu tố đầu vào tăng cùng
với các chi phí phục vụ cho sản xuất tăng làm giảm đi nguồn thu dự tính của doanh
nghiệp, vì thế việc trả nợ cho ngân hàng sẽ gặp nhiều khó khăn.
Do thị trường đầu ra: Thị trường đầu ra nếu có những biến động phức tạp, giá
cả giảm xuống thấp cũng sẽ làm nguồn thu của khách hàng giảm xuống. Ngoài ra, sự
thay đổi thị hiếu tiêu dùng, cung vượt quá cầu, hoạt động marketing yếu kém… cũng
gây nên tình trạng ứ đọng sản phẩm làm ảnh hưởng tới nguồn trả nợ cho ngân hàng
của khách hàng.
Rủi ro về khả năng tài chính của khách hàng: Nguồn vốn tự có thấp hay thu
nhập của khách hàng không ổn định, khách hàng sẽ không có khả năng tự khôi phục
khi gặp khó khăn vì vậy cũng sẽ mất khả năng thanh toán nợ cho ngân hàng.
Ý thức trả nợ: ý thức trả nợ của bên đi vay nhiều khi chưa tốt, nhiều khách
hàng sau khi nhận được tiền vay đã bỏ trốn gây ra thiệt hại nghiêm trọng cho ngân
hàng. Hoặc đơn giản hơn, để đạt mục đích được vay vốn ngân hàng, nhiều khách hàng
sẵn sàng tìm mọi thủ đoạn để ứng phó với ngân hàng như mua chuộc hoặc cung cấp
các báo cáo tài chính sai lệch. Trong trường hợp này, nếu không phát hiện ra, ngân
hàng sẽ đánh giá sai về khả năng tài chính của khách và cho vay vốn với khối lượng và
thời gian không hợp lý, dẫn đến rủi ro tiềm ẩn là rất cao.
1.2.4.3. Nguyên nhân thuộc về ngân hàng

Chính sách cho vay của ngân hàng không hợp lý: sự hoạt động của một ngân
hàng dựa trên cơ sở chính sách cho vay thống nhất, hợp lý, có hiệu quả nhiều hơn là
dựa trên kinh nghiệm và trao quyền quyết định cho cá nhân điều hành. Một chính sách
cho vay không đồng bộ, thống nhất sẽ gây ra định hướng lệch lạc cho hoạt động cho
vay, dẫn đến việc cho vay không đúng đối tượng, tiềm ẩn rủi ro cho vay cho ngân hàng.
Trình độ và năng lực của đội ngũ cán bộ cho vay: trình độ chuyên môn và
năng lực của CBCV yếu kém, dẫn đến cán bộ cho vay không đánh giá chính xác về
khách hàng và kế hoạch SXKD của khách hàng, từ đó làm phát sinh những hợp đồng
24
cho vay kém an toàn gây rủi ro cho ngân hàng. Đồng thời, khả năng thẩm định TSĐB
cũng không hiệu quả làm ảnh hưởng xấu đến chất lượng khoản vay. Chính vì vậy mà
việc đánh giá và đo lường rủi ro khoản vay không chính xác làm giảm hiệu quả công
tác quản trị rủi ro trong CVDN.
Phẩm chất đạo đức của cán bộ cho vay: cùng với sự hạn chế về trình độ là
vấn đề phẩm chất đạo đức của CBCV. Đặc thù nghề nghiệp buộc một CBCV phải
không những có trình độ mà còn phải có đạo đức tốt. CBCV mà phẩm chất đạo đức
kém, không có tinh thần trách nhiệm, dễ bị cám dỗ bởi vật chất thì sẽ gây thiệt hại rất
lớn cho ngân hàng bằng cách cho vay chỉ dựa trên mối quan hệ với khách hàng, dựa
trên lợi ích cá nhân mà bỏ qua những điều kiện, quy định và thủ tục cần thiết.
Ngân hàng chưa đa dạng hóa các danh mục đầu tư: Việc đa dạng hóa các
danh mục làm cân đối và kiềm chế rủi ro bằng cách dự báo và kiểm soát mức độ rủi ro
với từng thị trường, khách hàng, loại sản phẩm và điều kiện hoạt động khác nhau.
Nhiều chuyên gia ngân hàng tin rằng, đa dạng hóa là giải pháp phòng ngừa rủi ro cho
vay hữu hiệu nhất. Mặc dù biết rõ tầm quan trọng của việc đa dạng hóa danh mục đầu
tư nhưng một số ngân hàng vẫn chỉ cho vay một hoặc hai ngành hoặc chỉ cho vay một
vài doanh nghiệp lớn, nhóm kinh doanh đơn lẻ. Một danh mục đầu tư phụ thuộc chủ
yếu vào một ngành hay một loại mặt hàng là rất nguy hiểm vì không ngành nào là
không có rủi ro.
Ngân hàng không giám sát được việc sử dụng vốn của khách hàng: nguyên
nhân này là do ngân hàng quá tin tưởng vào khách hàng và TSĐB mà lơ là trong khâu

kiểm tra, giám sát khách hàng. Bên cạnh đó, ngân hàng còn quá nhấn mạnh vào lợi
nhuận và phát triển mà sao nhãng sự an toàn của các khoản vay dẫn đến việc khách
hàng không sử dụng vốn đúng mục đích, tình hình SXKD không hiệu quả ảnh hưởng
đến khả năng trả nợ cho ngân hàng. Hơn nữa, ngân hàng còn thiếu kinh nghiệm trong
việc ngăn ngừa và hạn chế rủi ro, từ đó chưa có biện pháp xử lý kịp thời làm cho mức
độ rủi ro tăng cao.
1.3. Quản trị rủi ro trong cho vay doanh nghiệp
1.3.1. Khái niệm quản trị rủi ro trong cho vay doanh nghiệp
Để đạt được mục tiêu hạn chế tối đa rủi ro có thể xảy ra thì mỗi ngân hàng đều
có những cách thức quản trị khác nhau. Hiện nay, có khá nhiều nguồn tài liệu đề cập
đến khái niệm quản trị.
Theo Koontz O’ Donnel trên Wikipedia.org: “Quản trị là thông qua nhiệm vụ
của nó, cho rằng nhiệm vụ cơ bản của quản trị là “thiết kế và duy trì một môi trường
mà trong đó các cá nhân làm việc với nhau trong các nhóm có thể hoàn thành các
nhiệm vụ và các mục tiêu đã định”.
25

×