Tải bản đầy đủ (.doc) (67 trang)

giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng tại chi nhánh ngân hàng nông nghiệp & phát triển nông thôn hà thành

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (451.04 KB, 67 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Trong bối cảnh đổi mới chung của đất nước, Ngân hàng thương mại với vai
trò trung gian tài chính quan trọng của xã hội đã từng bước cải tổ hoạt động của
mình, hịa nhập với cơ chế mới, mở rộng cho vay đối với các thành phần kinh tế
thơng qua hoạt động tín dụng. Tín dụng ngân hàng là cơng cụ tài trợ vốn cho nền
kinh tế, góp phần thúc đẩy sự phát triển cân đối của các ngành, các lĩnh vực khác
theo định hướng của Nhà nước.
Trên thế giới người ta thống kê được rất nhiều loại rủi ro cố hữu trong hoạt
động ngân hàng, song được quan tâm nhất là rủi ro tín dụng. Bởi vì trên thực tế
đối với Ngân hàng thương mại thì nghiệp vụ tín dụng là nghiệp vụ chiếm tỷ trọng
lớn khoảng 80%, đây là nghiệp vụ tạo ra khoảng 90% tổng lợi nhuận của Ngân
hàng. Hơn nữa đây là lĩnh vực kinh doanh tiềm ẩn nhiều rủi ro nhất trong hoạt
động kinh doanh ngân hàng. Rủi ro từ nghiệp vụ tín dụng rất lớn, nó có thể xảy ra
bất kì lúc nào, làm sai lệch đảo lộn kế quả hoạt động kinh doanh của Ngân hàng,
có thể gây ra sự phá sản của ngân hàng. Trong khi đó hoạt động ngân hàng lại là
một “mắt xích” quan trọng trong sự vận động nhịp nhàng của nền kinh tế. Trong sự
nghiệp đổi mới, hệ thống ngân hàng nói chung và Ngân hàng thương mại nói riêng
đã góp phần tích cực vào cơng cuộc xây dựng hoàn thiện một nền kinh tế thị
trường bền vững. Vì vậy, đó sự phá sản của ngân hàng sẽ là một cú sốc mạnh
không chỉ ảnh hưởng tới hệ thống ngân hàng mà còn ảnh hưởng tới tồn bộ đời
sống kinh tế, chính trị, xã hội.
Hiểu rõ rủi ro trong hoạt động Ngân hàng, đặc biệt là rủi ro tín dụng, đánh
giá đúng thực trạng rủi ro tín dụng để tìm ra biên pháp hạn rủi ro là một yêu cầu
cấp thiết, đảm bảo an toàn hiệu quả trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề trên. Bản thân em là sinh viên
chuyên ngành Tài chính – Ngân hàng, tương lai sẽ là một nhân viên Ngân hàng
việc tìm hiểu và nắm rõ được vấn đề này sẽ giúp ích cho em rất nhiều cho công
việc tương lai sau này. Nên trong thời gian thực tập tại chi nhánh NHNo&PTNT
Hà Thành Em mạnh dạn chọn đề tài : “Giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng tại chi
nhánh NHNo&PTNT Hà Thành” làm chuyên đề tốt nghiệp.



Ngoài phần mở đầu và kết luân, chuyên đề được kết cấu thành 3 chương:

Chương 1: Tổng quan về rủi ro tín dụng của NHTM.
Chương 2: Thực trạng rủi ro tín dụng tại chi nhánh
NHNo&PTNT Hà Thành.
Chương 3: Giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng tại chi
nhánh NHNo&PTNT Hà Thành.


CHƯƠNG 1:
TỔNG QUAN VỀ RỦI RO TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1.1. Tổng quan về Ngân hàng thương mại.
1.1.1.1. Khái niệm.
Ngân hàng thương mại là một loại hình tổ chức có vai trị quan trọng đối với nền
kinh tế nói chung và đối với từng cộng đồng địa phương nói riêng. Có nhiều cách
định nghĩa về Ngân hàng thương mại, trong đó chủ yếu thường dựa trên mục đích
hoạt động kinh doanh của nó trên thị trường tài chính và đơi khi cịn kết hợp tính
chất, mục đích đối tượng từng hoạt động.
Theo tinh thần của Luật các tổ chức tín dụng( cơng bố ngày 26/12/1997) và luật
sửa đổi bổ sung một số điều của Luật các tổ chức tín dụng có hiệu lực thi hành tử
ngày 1/10/2004: Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng thực hiện các hoạt động
kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền
gửi, sử dụng số tiền này để cấp tín dụng, cung ứng dịch vụ thanh tốn và các hoạt
động kinh doanh khác có liên quan.
Tại Mỹ, bất kì tổ chức nào cung cấp tài khoản tiền gửi, cho phép khách hàng rút
tiền theo yêu cầu và cho vay đối với các tổ chức kinh doanh hay cho vay thương
mại sẽ được xem là một Ngân hàng.
Như vậy ta có thể hiểu: Ngân hàng thương mại là một doanh nghiệp đặc biệt

kinh doanh về tiền tệ với hoạt động thường xuyên là huy động vốn, cho vay, chiết
khấu, bảo lãnh, cung cấp dịch vụ tài chính và các hoạt động khác có liên quan.
Ngân hàng thương mại là tổ chức tài chính trung gian cung cấp danh mục các dịch
vụ tài chính đa dạng nhất đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh tốn và thực
hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kì một tổ chức kinh doanh nào trong
nền kinh tế.
Sự đa dạng trong các dịch vụ và chức năng của Ngân hàng dẫn đến việc chúng
được gọi là các “ Bách hóa tài chính” (Financial department stores – a full sercice
Financial institution).
1.1.1.2. Vai trò của ngân hàng thương mại.


Từ khái niệm về NHTM nêu trên, áp dụng vào thực tế nước ta, một nước có hơn
80% dân số sống bằng nghề nông, việc phát triển sản xuất theo chiều hướng cơng
nghiệp hố - hiện đại hố rất cần đến NHTM. Nhất là khi quá trình CNH-HĐH của
chúng ta đã đi vào chiều sâu, yêu cầu cần có vốn đầu tư để xây dựng cơ sở hạ tầng,
tăng tốc độ đầu tư, từng bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đảm bảo nhịp độ tăng
trưởng kinh tế nhanh và bền vững, thực hiện thành công các mục tiêu phát triển
kinh tế thì vai trị của các NHTM càng được Đảng và Nhà nước ta coi trọng.
 NHTM là nơi cung cấp vốn cho nền kinh tế.
Vốn được tạo ra từ q trình tích luỹ, tiết kiệm của mỗi cá nhân, doanh nghiệp
và các tổ chức trong nền kinh tế. Do đó, để có nhiều vốn phải tăng thu nhập quốc
dân và có mức tiêu dùng hợp lý. Tăng thu nhập quốc dân đồng nghĩa với việc mở
rộng sản xuất và lưu thơng hàng hóa, đẩy mạnh sự phát triển của các ngành trong
nền kinh tế. Điều đó muốn thực hiện được phải cần có vốn. Nếu bị thiếu vốn,
doanh nghiệp sẽ mất đi cơ hội đầu tư mới hoặc khơng tiến hành kịp thời q trình
tái sản xuất. NHTM chính là người đứng ra tiến hành khơi thơng nguồn vốn nhàn
rỗi ở các tổ chức, cá nhân, các thành phần kinh tế. Thơng qua hình thức cấp tín
dụng, ngân hàng tạo điều kiện cho doanh nghiệp có khả năng mở rộng sản xuất, cải
tiến máy móc, thiết bị, đổi mới quy trình cơng nghệ, nâng cao năng suất lao động,

đem lại hiệu quả kinh tế cao, cũng có nghĩa là đưa doanh nghiệp lên những nấc
thang cạnh tranh cao hơn. Một khi cạnh tranh càng mạnh mẽ, thì kinh tế càng phát
triển. Như vậy, với khả năng cung cấp vốn, NHTM đã trở thành một trong những
điểm khởi đầu cho sự phát triển của nền kinh tế quốc gia.
 NHTM là cầu nối giữa doanh nghiệp với thị trường, giúp cho các nhà
kinh doanh xây dựng chiến lược quản trị doanh nghiệp.
Thị trường ở đây được hiểu ở hai góc độ, thị trường đầu vào và thị trường đầu ra
của doanh nghiệp. Để có thể tiến hành bất kỳ một hoạt động kinh doanh nào,
doanh nghiệp cần tham gia vào thị trường đầu vào nhằm thực hiện thành công
chiến lược 5P: Product (sản phẩm), Price (giá cả), Promotion (Khuyếch trương),
Place (địa điểm) và People (Con người). Từ đó, doanh nghiệp có thể tiếp cận mạnh
mẽ vào thị trường đầu ra, tìm kiếm lợi nhuận cao hơn. Quy trình đó chỉ được bắt


đầu khi doanh nghiệp được trang bị đầy đủ vốn cần thiết. Nhưng khơng phải doanh
nghiệp nào cũng có đủ khả năng về tài chính. Nguồn vốn tín dụng của NHTM sẽ
giúp cho các doanh nghiệp giải quyết được những khó khăn đó, giúp doanh nghiệp
có đủ khả năng thoả mãn tối đa nhu cầu của thị trường trên mọi phương diện: giá
cả, chủng loại, chất lượng, thời gian, địa điểm…NHTM sẽ là cầu nối giữa doanh
nghiệp và thị trường cả về không gian và thời gian.
 NHTM là cầu nối nền tài chính quốc gia với nền tài chính quốc tế.
Trong xu thế khu vực hố, tồn cầu hố như hịên nay thì vai trị này càng thể
hiện rõ rệt. Áp lực cạnh tranh buộc nền kinh tế mỗi quốc gia phải hội nhập và khi
mở cửa hội nhập phải có tiềm lực lớn mạnh về mọi mặt. Nhưng làm thế nào có thể
hồ nhập nền tài chính của một quốc gia với phần còn lại của thế giới? Điều này sẽ
phải nhờ vào hệ thống NHTM vì hệ thống này có khả năng cung cấp nhiều loại
hình dịch vụ khác nhau hỗ trợ cho việc thu hút đầu tư từ bên ngoài vào trong nước
cũng như trong nước ra bên ngồi theo các hình thức: thanh tốn quốc tế, nghiệp
vụ hối đoái, cho vay uỷ thác đầu tư…Hoạt động của NHTM giúp cho luồng vốn ra,
vào một cách hợp lý, đưa nền tài chính nước nhà bắt kịp với nền tài chính quốc tế.

Đây là một trong những điều tiên quyết cho tiến trình hội nhập kinh tế ở các quốc
gia trên thế giới.
 NHTM là công cụ để Nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
Một trong những con đường dẫn đến lạm phát của nền kinh tế là lạm phát qua
con đường tín dụng. Khi xảy ra lạm phát, Ngân hàng trung ương sẽ tăng tỉ lệ dự trữ
bắt buộc, lãi suất tái chiết khấu hoặc tham gia vào nghiệp vụ thị trường mở, thông
qua ngân hàng thương mại để thay đổi lượng tiền trong lưu thơng. Các NHTM sẽ
kiểm sốt lạm phát thơng qua các hoạt động tín dụng. Từ đó, ngân hàng xác định
hướng đầu tư vốn và đề ra các biện pháp xử lý những tác động xấu ảnh hưởng đến
nền kinh tế, làm cho quá trình tái sản xuất diễn ra liên tục, góp phần điều hồ, lưu
thơng tiền tệ, ổn định sức mua của đồng tiền, kiềm chế lạm phát.
1.1.1.3. Hoạt động của ngân hàng thương mại.
 Huy động vốn.


Đây là hoạt động đầu tiên, sự khởi đầu cho hoạt động của ngân hàng. Với hoạt
động huy động vốn, ngân hàng đã đóng vai trị là nhân tố tập hợp các nguồn vốn
tạm thời nhàn rỗi trong xã hội thơng qua các hình thức:
- Nhận tiền gửi của các cá nhân và tổ chức kinh tế. Đây là nguồn tiền chiếm tỷ
trọng chủ yếu trong cơ cấu nguồn vốn huy động của ngân hàng.
- Nguồn đi vay: Trong quá trình kinh doanh, đơi khi ngân hàng cũng lâm vào
tình trạng thiếu hụt vốn tạm thời để đáp ứng nhu cầu thanh toán chi trả hay nhu
cầu vay vốn của khách hàng. Khi đó, NHTM có thể vay Ngân hàng nhà nước,
vay trên thị trường liên ngân hàng, vay của các tổ chức tín dụng khác…Đây là
nguồn vốn rất cần thiết và quan trọng, vì nó đáp ứng nhu cầu kịp thời và đảm
bảo cho hoạt động của ngân hàng được diễn ra một cách liên tục.
- Ngoài ra ngân hàng cịn có hoạt động nhận uỷ thác, thơng qua đó ngân hàng
có thêm vốn từ dịch vụ uỷ thác.
 Sử dụng vốn.
Vốn huy động sẽ được ngân hàng đem đầu tư vào các khoản mục tài sản khác

nhau, nhằm mang lại lợi nhuận cho ngân hàng. Ngân hàng thường sử dụng vốn huy
động qua các hình thức:
- Hoạt động tín dụng: đây là hoạt động đem lại lợi nhuận chủ yếu cho các
ngân hàng, là hoạt động cơ bản của ngân hàng. Tuy nhiên, hoạt động tín dụng lại
chứa rất nhiều rủi ro, ảnh hưởng quan trọng đến hoạt động của ngân hàng.
- Các hoạt động đầu tư khác: các hoạt động đầu tư rất đa dạng và góp phần
làm tăng thêm thu nhập cho các ngân hàng. Các ngân hàng có thể tham gia vào
hoạt động góp vốn, mua cổ phần của các công ty, liên doanh liên kết, mua bán
chứng khoán, cổ phiếu, trái phiếu…nhằm đa dạng hoá danh mục đầu tư, giảm
thiểu rủi ro, đem lại lợi nhuận cho các ngân hàng.
 Dịch vụ thanh toán và ngân quỹ.
Để đảm bảo lưu thông và tăng độ an toàn, thuận tiện cho các doanh nghiệp trong
quan hệ kinh doanh, các ngân hàng thương mại thực hịên dịch vụ thu, chi hộ và
thực hiện các dịch vụ thanh tốn khác mà Ngân hàng nhà nước quy định. Ngồi ra,
các NHTM còn thực hiện các dịch vụ thu, phát tiền mặt cho khách hàng, đồng thời


tổ chức và tham gia vào hệ thống thanh toán nội bộ và hệ thống thanh toán liên
ngân hàng trong nước và quốc tế.
Những hoạt động này ngoài việc mang lại thu nhập cho ngân hàng cịn có tác
dụng thu hút khách hàng gửi tiền vào tài khoản ngân hàng, từ đó thu hút khách
hàng cho các hoạt động tài chính.
 Các hoạt động khác.
Để tạo ra lợi thế kinh doanh cũng như tận dụng mọi khả năng vốn có của mình,
các NHTM ngồi các hoạt động cơ bản trên còn thực hiện các hoạt động khác như:
kinh doanh ngoại hối và vàng, nghiệp vụ uỷ thác và đại lý, bảo lãnh thanh toán, tư
vấn và các dịch vụ khác liên quan đến hoạt động ngân hàng theo quy định của pháp
luật.
1.1.2. Hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại.
Tín dụng là hoạt động kinh doanh chủ yếu của NHTM để tạo ra lợi nhuận.

Doanh thu từ hoạt động tín dụng phải đủ bù đắp chi phí tiền gửi, chi phí dự trữ, chi
phí kinh doanh và quản lý, chi phí vốn trơi nổi, chi phí thuế các loại và các chi phí
rủi ro đầu tư khác.
Kinh tế càng phát triển, doanh số từ hoạt động tín dụng của các ngân hàng
thương mại càng tăng nhanh và ngày càng có nhiều loại hình tín dụng. Ở các nước
đang phát triển như Việt Nam, cho vay ngắn hạn vẫn chiếm bộ phận lớn hơn cho
vay dài hạn, xuất phát từ chỗ thiếu an toàn của các khoản đầu tư dài hạn ( trong đó
có các tác nhân chủ yếu như tình hình tăng trưởng, lạm phát,...)
Khi một ngân hàng được thành lập, hoạt động tín dụng là hoạt động kinh doanh
chính mang lại lợi nhuận cho ngân hàng. Do đó, điều mà ngân hàng quan tâm
chính là vấn đề lợi tức và mức độ rủi ro của khoản cho vay, đồng thời phải làm sao
huy động được càng nhiều tiền càng tốt để phục vụ nhu cầu cho vay.

Hoạt động tín dụng có vai trị rất quan trọng đối với NHTM. Đó là một lĩnh vực


phức tạp và thường xuyên biến động theo những biến chuyển của mơi trường kinh
tế. Để hiểu nó, chúng ta cần tìm hiểu những nét đặc trưng quan trọng của hoạt động
này.
1.1.2.1.

Khái niệm về hoạt động tín dụng.

Tín dụng là hình thức tài trợ của ngân hàng cho khách hàng trên cơ sở tín
nhiệm . Theo Luật các tổ chức tín dụng của nước Cộng hồ xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, điều 49 ghi “Tổ chức tín dụng được cấp tín dụng cho tổ chức, cá nhân dưới
các hình thức cho vay, chiết khấu thương phiếu và giấy tờ có giá khác, bảo lãnh,
cho thuê tài chính và các quy định khác của Ngân hàng Nhà nước”.
Như vậy, ta thấy hoạt động tín dụng của ngân hàng gồm tất cả các hoạt động tài
trợ của ngân hàng cho khách hàng, mang lại thu nhập cho ngân hàng đồng thời ẩn

chứa các rủi ro cho ngân hàng.
1.1.2.2. Đặc điểm của hoạt động tín dụng.
Hoạt động tín dụng là hoạt động bên phần tài sản trong bảng cân đối kế toán của
NHTM. Hoạt động này có những đặc điểm cơ bản sau:

Thứ nhất, đây là hoạt động mang lại thu nhập lớn nhất.
Thơng thường thì thu nhập từ hoạt động tín dụng mang lại 90% thu nhập cho
các ngân hàng thương mại. Thu dự tính từ hoạt động tín dụng phụ thuộc vào quy
mô, thời gian và lãi suất và ba yếu tố này có mối liên hệ khăng khít. Các ngân
hàng thương mại ln sử dụng mọi nỗ lực của mình để tăng quy mơ tín dụng như
mở rộng mạng lưới, đa dạng hố các loại hình tín dụng, phát triển cơng nghệ mới
nhằm gia tăng tiện ích cho khách hàng, giảm lãi suất hoặc cung cấp các điều kiện
ưu đãi…các biện pháp này một mặt làm tăng quy mô, song mặt khác cũng làm
tăng chi phí. Do vậy, ngân hàng phải nghiên cứu và xác lập mối quan hệ giữa các
biện pháp tăng quy mơ với thu nhập rịng từ hoạt động tín dụng thơng qua chênh
lệch lãi suất biên.

tài sản.

Thứ hai, hoạt động tín dụng chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng


Thường thì khoản mục tín dụng chiếm 70% tổng tài sản. Với quy mơ như vậy,
hoạt động tín dụng ảnh hưởng rất nhiều đến chiến lược hoạt động của ngân hàng
như chiến lược dự trữ, vay, đầu tư,…

Thứ ba, hoạt động tín dụng mang rủi ro cao nhất.
Chính vì hai đặc điểm trên của hoạt động tín dụng nên nếu tổn thất xảy ra sẽ làm
giảm thu nhập dự tính và có thể gây thua lỗ hoặc phá sản cho ngân hàng. Do đó, an
tồn tín dụng là nội dung chính trong quản lý rủi ro của mọi ngân hàng thương

mại. Có hai mối quan hệ giữa rủi ro và sinh lợi trong hoạt động tín dụng. Trước khi
tài trợ, mối quan hệ có thể là: rủi ro càng cao, sinh lợi kỳ vọng càng lớn. Tuy
nhiên, sau khi tài trợ, quan hệ đó lại là tổn thất càng cao thì sinh lợi càng thấp. Vì
hoạt động tín dụng mang lại rủi ro cao nên các ngân hàng thương mại ln nghiên
cứu và tìm các giải pháp để hạn chế rủi ro phát sinh, cách giải quyết và bù đắp các
tổn thất xảy ra.
1.1.2.3.
Vai trị của họat động tín dụng.

Thứ nhất, tín dụng đáp ứng nhu cầu vốn của nền kinh tế để duy
trì quá trình tái sản xuất, đồng thời góp phần đầu tư phát triển kinh tế.
Nhu cầu vốn trong hoạt động sản xuất kinh doanh luôn là vấn đề quan trọng đối
với mỗi doanh nghiệp. Hoạt động tín dụng góp phần vào q trình ln chuyển vốn
trong nền kinh tế được diễn ra nhanh hơn, hiệu quả hơn để có thể duy trì hoạt động
sản xuất kinh doanh được diễn ra liên tục, đồng thời giúp người thừa vốn có thể
bảo quản an tồn đồng vốn của mình cũng như có thể kinh doanh kiếm lời.

Thứ hai, tín dụng thúc đẩy q trình tập trung vốn và tập trung
sản xuất.
Ngân hàng huy động vốn tạm thời nhàn rỗi trong xã hội rồi thực hiện cho vay đối
với các đơn vị kinh tế có nhu cầu vốn phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh.
Đầu tư tập trung là yêu cầu tất yếu của nền kinh tế sản xuất hàng hố, hạn chế sự
lãng phí vốn, tiết kiệm mọi nguồn lực như thời gian, chi phí huy động vốn cho sản
xuất.
Khi vay vốn ngân hàng, doanh nghiệp phải tơn trọng các hợp đồng tín dụng,


phải thực hiện thanh toán lãi và nợ vay đúng hạn. Chính vì vậy địi hỏi doanh
nghiệp sử dụng vốn vay phải quan tâm tới việc nâng cao hiệu quả sử dụng đồng
vốn, giảm chi phí sản xuất kinh doanh, tăng lợi nhuận doanh nghiệp, góp phần thúc

đẩy sản xuất của nền kinh tế.

Thứ ba, tín dụng tạo điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
Tín dụng là một cơng cụ giúp các doanh nghiệp trong nước có đủ năng lực để
tham gia vào thị trường thế giới như việc tài trợ mua bán chịu hàng hoá, mở rộng
sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm cho phù hợp yêu cầu về quy mô và chất
lượng trên thị trường quốc tế.

Thứ tư, tín dụng là cơng cụ tài trợ vốn cho các ngành kinh tế
kém phát triển và các ngành kinh tế trọng điểm.
Thơng qua tín dụng ngân hàng, chính phủ có thể tài trợ cho các ngành kinh tế
kém phát triển bằng việc cho vay ưu đãi với lãi suất thấp, thời hạn dài, mức vốn
lớn. Bên cạnh đó, chính phủ cịn tập trung vốn vào việc phát triển các ngành kinh
tế mũi nhọn, tạo động lực thúc đẩy các ngành kinh tế khác phát triển theo. Điều
này được thể hiện rõ trong chính sách, chiến lược phát triển đất nước từng thời kỳ.

Thứ năm, tín dụng góp phần điều chỉnh cơ cấu kinh tế, chính
sách kinh tế.
Việc ưu tiên cho vay theo vùng kinh tế hay ngành kinh tế có thể thay đổi cơ cấu
kinh tế tuỳ theo chiến lược phát triển trong từng thời kỳ. Ngoài ra, chính phủ cũng
có thể thơng qua tín dụng để điều chỉnh tỷ lệ lạm phát theo mong muốn.
1.2. RỦI RO TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.2.1. Các loại rủi ro thường gặp trong hoạt động kinh doanh của NHTM.
NHTM là loại doanh nghiệp kinh doanh hàng hoá đặc biệt- hàng hoá tiền tệ.
Ngân hàng huy động nguồn tiền gửi từ các cá nhân và doanh nghiệp. Với công
nghệ ngân hàng cho phép các NHTM có thể chuyển nguồn tiền của mình đầu tư tới
các vùng, các thị trường khác nhau ngày càng xa trụ sở chính. Điều này, một mặt
cho phép ngân hàng giảm bớt rủi ro thông qua đa dạng hoá khách hàng, đa dạng



sản phẩm và thị trường, song mặt khác cũng tăng tính rủi ro do tính biến động lớn
trên thị trường thế giới và khu vực, do thông tin sai lệch,…
Ngân hàng phải phân loại rủi ro để có thể quản lý nhằm hạn chế rủi ro một cách
hiệu quả nhất.
Phân chia rủi ro theo ngun nhân gồm có:

Rủi ro tín dụng:
Là khả năng xảy ra những tổn thất ngoài dự kiến của ngân hàng do khách hàng
vay không trả đúng hạn, không trả hoặc không trả đầy đủ vốn và lãi.

Rủi ro hối đoái:
Khi tỷ giá hối đoái thay đổi vượt q thay đổi dự tính thì ngân hàng sẽ phải chịu
tổn thất này. Loại rủi ro này xảy ra trong hoạt động kinh doanh ngoại tệ của
NHTM.

Rủi ro lãi suất:
Là khả năng xảy ra tổn thất cho ngân hàng khi lãi suất thay đổi ngồi dự tính.
Lãi suất ngân hàng (cả bên tài sản lẫn bên nguồn vốn) thường xuyên biến động với
các mức độ khác nhau có thể dẫn đến tổn thất. Rủi ro lãi suất có liên quan chặt chẽ
đến rủi ro tín dụng.

Rủi ro thanh khoản:
Là khả năng xảy ra tổn thất ngoài dự kiến cho ngân hàng khi có một lượng tiền
gửi lớn được rút ra vượt quá dự kiến của ngân hàng. Khi đó, ngân hàng sẽ phải bán
các tài sản lỏng với giá rẻ hoặc vay ngân hàng trung ương để thanh toán. Rủi ro
thanh khoản cao có thể làm cho ngân hàng phá sản.

Rủi ro tồn đọng vốn:
Là rủi ro xảy ra khi vốn của ngân hàng bị tồn đọng lớn, không cho vay và đầu
tư được làm thu nhập của ngân hàng giảm sút.


Rủi ro khác:
Các rủi ro khác là khả năng xảy ra cướp ngân hàng, nhầm lẫn trong thanh toán,


hoả hoạn, lỗi cơng nghệ…
1.2.2.

Quan niệm về rủi ro tín dụng.

Rủi ro tín dụng gắn liền với hoạt động quan trọng nhất, có quy mơ lớn nhất của
NHTM- hoạt động tín dụng. Khi cho vay, ngân hàng cố gắng phân tích các yếu tố
của người vay sao cho độ an tồn là cao nhất. Và nhìn chung, ngân hàng chỉ cho
vay khi thấy an toàn. Tuy nhiên, dù một người có tài giỏi đến mấy thì cũng khơng
thể dự đốn chính xác các vấn đề sẽ xảy ra. Khi khách hàng không trả nợ đúng
hạn, không trả hoặc không trả đầy đủ vốn và lãi cho ngân hàng thì rủi ro tín dụng
sẽ xảy ra.. Trên quan điểm quản lý tồn bộ ngân hàng, rủi ro tín dụng là khơng thể
tránh khỏi, là khách quan. Đây là loại rủi ro lớn nhất, thường xuyên xảy ra và gây
hậu quả nặng nề nhất. Nhiều quan điểm nhất trí rằng, rủi ro tín dụng là bạn đường
trong kinh doanh, có thể đề phịng, hạn chế chứ khơng thể loại trừ. Do vậy, rủi ro
dự kiến luôn được xác định trước trong chiến lược hoạt động chung của ngân hàng.
1.2.3.
Biểu hiện của rủi ro tín dụng.
Khi cấp tín dụng cho khách hàng, các ngân hàng thương mại đều mong muốn
khoản tín dụng được hoàn trả đầy đủ và đúng thời hạn như đã thoả thuận. Chính vì
thế, sau khi cấp tín dụng , NHTM thực hiện theo dõi, giám sát việc sử dụng vốn
vay của khách hàng. Nếu thấy có biểu hiện sử dụng vốn sai mục đích hoặc có sự
khác thường mà có thể dẫn đến việc khơng hồn trả được vốn vay của khách hàng,
NHTM phải tìm biện pháp ngăn ngừa, can thiệp kịp thời. Các biểu hiện thường gặp
dẫn đến rủi ro tín dụng là:

- Khách hàng trì hỗn nộp báo cáo tài chính hoặc cố tình khơng cung
cấp những thông tin mà ngân hàng yêu cầu.
- Sử dụng vốn vay sai mục đích ban đầu.
- Số tiền gửi giảm sút.
- Chậm trễ hoặc cố tình trì hỗn những cuộc viếng thăm, kiểm tra cơ sở
sản xuất kinh doanh của cán bộ ngân hàng, có ý khơng hợp tác hay lạnh nhạt
với ngân hàng ngay sau khi nhận được vốn vay.
- Khách hàng có ý xin hỗn nợ hoặc chậm trễ trong việc thanh toán lãi


định kỳ, hoàn trả nợ vay ngân hàng chậm hoặc quá kỳ hạn, không trả được
như cam kết.
Các dấu hiệu trên là biểu hiện của những khó khăn về mặt tài chính của khách
hàng đi vay, do đó có thể gây ra rủi ro tín dụng. Vì vậy, chúng là cơ sở để ngân
hàng tìm biện pháp điều chỉnh và ngăn chặn kịp thời, tránh những khoản nợ quá
hạn có thể gây ra rủi ro tín dụng.
1.2.4.
Sự cần thiết phải phịng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng.
Chúng ta cần phải phịng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng vì loại rủi ro này xảy ra
sẽ gây ra những tác hại nghiêm trọng đối với không chỉ bản thân ngân hàng mà còn
đối với khách hàng và cả nền kinh tế.
 Đối với NHTM:
Rủi ro tín dụng làm giảm thu nhập của ngân hàng, từ đó làm cho việc mở rộng
tín dụng sẽ gặp nhiều khó khăn. Các khoản cho vay bị mất hoặc khó địi làm cho
ngân hàng khơng thu được lãi trong khi đó ngân hàng vẫn phải trả lãi cho các
khoản tiền gửi. Rủi ro tín dụng lớn làm ngân hàng phải trích nhiều tiền cho dự
phòng rủi ro, giảm thu nhập của ngân hàng. Ngồi ra, rủi ro tín dụng có thể gây ra
rủi ro thanh khoản cho ngân hàng, mất lòng tin của khách hàng đối với ngân hàng,
ở mức độ lớn sẽ dẫn đến nguy cơ phá sản ngân hàng.
 Đối với người đi vay:

Khi rủi ro tín dụng xảy ra thì các chủ thể kinh doanh dựa chủ yếu vào ngân hàng
sẽ bị giảm hoặc mất nguồn vốn đầu tư và mở rộng quy mơ, nhất là ảnh hưởng tới
tính liên tục của q trình sản xuất có thể dẫn đến phá sản doanh nghiệp. Đối với
chủ thể gây ra rủi ro tín dụng thì mất đi hẳn nguồn vốn từ ngân hàng đó và khó có
thể tìm được nguồn vốn trong nền kinh tế vì uy tín về khả năng trả nợ khơng cịn.
 Đối với nền kinh tế:
Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động kinh doanh của ngân hàng liên quan đến
rất nhiều thành phần kinh tế, từ cá nhân, hộ gia đình đến các tổ chức kinh tế, các tổ
chức tín dụng. Vì vậy, kết quả kinh doanh của ngân hàng phản ánh kết quả kinh
doanh của nền kinh tế và đương nhiên nó phụ thuộc vào tình hình sản xuất kinh


doanh của khách hàng. Một khi rủi ro tín dụng xảy ra, không chỉ ngân hàng bị thiệt
hại mà người đi vay cũng bị thua lỗ, làm giảm lợi ích của nền kinh tế, nạn thất
nghiệp gia tăng. Ngân hàng không huy động được nhiều vốn từ khách hàng nữa, từ
đó sẽ làm giảm đầu tư trong nền kinh tế. Mặt khác, khi một ngân hàng chịu rủi ro
tín dụng lớn, mất uy tín và phá sản có thể sẽ làm cả hệ thống ngân hàng bị chao
đảo gây khủng hoảng cho toàn bộ nền kinh tế.
1.2.5.
Chỉ tiêu đánh giá độ rủi ro trong hoạt động tín dụng của NHTM.
Rủi ro tín dụng gây ra tổn thất cho NHTM, vì thế ngân hàng phải quản lý rủi ro
tín dụng nhằm hạn chế đến mức thấp nhất các tổn thất có thể xảy ra. Từ những
nguyên nhân nảy sinh rủi ro tín dụng, NHTM cụ thể hố thành những chỉ tiêu hoặc
dấu hiệu chính phát sinh trong hoạt động tín dụng, phản ánh rủi ro tín dụng của
NHTM như sau:
1.2.5.1. Nợ quá hạn và tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ:
Nợ quá hạn là khoản nợ mà khách hàng không trả được khi đã đến hạn thoả
thuận ghi trên hợp đồng tín dụng. Khi một món nợ khơng được trả khi đến hạn thì
tồn bộ nợ gốc cịn lại của hợp đồng sẽ được chuyển thành nợ quá hạn.
1.2.5.2. Nợ xấu và tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ:

Nợ xấu là khoản nợ quá hạn và kèm theo một số tiêu chí khác như quá một kỳ
gia hạn nợ, hoặc khơng có tài sản đảm bảo, hoặc tài sản không bán được, con nợ bị
thua lỗ triền miên, phá sản,…
Ngoài ra, theo quyết định 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/4/2005 cũng có thể
phân loại nợ thành 5 nhóm, trong đó, nhóm 2 là nợ cần chú ý và nhóm 3,4,5 là nợ
xấu (nợ dưới tiêu chuẩn, nợ nghi ngờ và nợ có khả năng mất vốn). Ta cũng có thể
phân loại nợ thành 5 nhóm như vậy để đánh giá độ rủi ro tín dụng của NHTM.
 Nhóm 1 (Nợ đủ tiêu chuẩn) bao gồm:
Các khoản nợ trong hạn mà tổ chức tín dụng đánh giá là có đủ khả năng thu
hồi đầy đủ cả gốc và lãi đúng thời hạn.
Các khoản nợ khác được phân loại vào nhóm 1 theo quy định tại khoản 2,


điều 6 của QĐ này.
 Nhóm 2 (Nợ cần chú ý) bao gồm:
Các khoản nợ quá hạn dưới 90 ngày; các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ
trong hạn theo thời hạn nợ đã cơ cấu lại.
Các khoản nợ khác được phân loại vào nhóm 2 theo quy định tại khoản 3,
khoản 4, điều 6 của QĐ này.
 Nhóm 3 (Nợ dưới tiêu chuẩn) bao gồm:
Các khoản nợ quá hạn từ 90 đến 180 ngày; các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn
trả nợ quá hạn dưới 90 ngày theo thời hạn đã cơ cấu lại.
Các khoản nợ khác được phân loại vào nhóm 3 theo quy định tại khoản 3,
khoản 4, điều 6 của QĐ này.
 Nhóm 4 (Nợ nghi ngờ) bao gồm:
Các khoản nợ quá hạn từ 181 đến 360 ngày; các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn
trả nợ quá hạn từ 90 đến 180 ngày theo thời hạn đã cơ cấu lại.
Các khoản nợ khác được phân loại vào nhóm 4 theo quy định tại khoản 3,
khoản 4, điều 6 của QĐ này.
 Nhóm 5 (Nợ có khả năng mất vốn) bao gồm:

Các khoản nợ quá hạn trên 360 ngày; các khoản nợ khoanh chờ chính phủ xử
lý; các khoản nợ đã cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn trên 180 ngày theo thời
hạn đã được cơ cấu lại.
Các khoản nợ khác được phân loại vào nhóm 5 theo quy định tại khoản 3,
khoản 4, điều 6 của QĐ này.
Các chỉ tiêu trên có liên quan chặt chẽ với nhau và phản ánh các mức độ rủi ro
tín dụng khác nhau. Đối với ngân hàng, việc khách hàng không trả nợ đúng hạn có
liên quan đến thanh khoản và rủi ro thanh khoản. Ngân hàng phải mất chi phí gia
tăng để tìm nguồn mới để chi trả cho các khoản tiền gửi và cho vay đúng hợp


đồng. Nợ khó địi là một lời cảnh báo cho ngân hàng, hy vọng thu lại tiền vay rất
mong manh nên ngân hàng cần có những biện pháp hữu hiệu để giải quyết.
Tuy nhiên, các quan điểm khác nhau cũng như các cách tính tốn khác nhau về
kỳ hạn nợ và nợ quá hạn có thể làm các chỉ tiêu trên bị biến dạng.
- Thứ nhất là do định kỳ hạn nợ không đúng.
Nhiều cán bộ ngân hàng khi cho vay không quan tâm đúng đắn đến chu kỳ kinh
doanh của người vay, hoặc do nguồn ngắn hạn là chủ yếu nên họ đặt kì hạn nợ
ngắn hạn để hạn chế rủi ro. Một khi kì hạn nợ khơng phù hợp với chu kỳ thu nhập
của người vay nên dĩ nhiên là khi đến hạn, người vay sẽ không thể trả được nợ, gây
nợ quá hạn. Khoản nợ này trở thành mối đe doạ tài chính đối với người vay, buộc
họ phải trả thêm khoản “phụ phí” để được gia hạn nợ, hoặc phải chịu lãi suất phạt.
- Thứ hai là do đảo nợ hoặc giãn nợ.
Nhiều khoản nợ người vay khơng có khả năng hồn trả có thể được đảo nợ làm
giảm nợ quá hạn so với thực tế. Để che dấu đối với cấp trên, hoặc để không phải
chịu lãi phạt, cán bộ ngân hàng và khách hàng có thể tự thoả thuận với nhau để
được đảo nợ- cho vay khoản mới để trả nợ cũ. Cán bộ ngân hàng cũng có thể thực
hiện giãn nợ đối với khoản nợ mà chắc chắn người vay không trả được. Những
hành vi này làm cho chỉ tiêu nợ quá hạn và nợ khó địi khơng phản ánh đầy đủ rủi
ro tín dụng, gây khó khăn cho q trình quản lý và hạn chế rủi ro tín dụng.

- Thứ ba là do chính sách cho vay.
Rất nhiều các khoản cho vay khó địi khơng thể thu hồi bằng phát mại tài sản
(các khoản nợ của doanh nghiệp Nhà nước, của người nghèo,…) Hầu hết những
khoản nợ này được cho vay theo chỉ thị của chính phủ. Khi chính phủ chưa có biện
pháp giải quyết thì nó vẫn tồn tại trên bảng cân đối kế toán của ngân hàng. Nhiều
ngân hàng khi được chính phủ đồng ý thì xếp nó vào nhóm nợ Khoanh. Tuy nhiên,
các khoản nợ này thực sự đe doạ thu nhập của ngân hàng nếu chính phủ khơng có
cách để bù đắp.


Ngoài các chỉ tiêu để phản ánh mức độ rủi ro tín dụng nêu trên, các NHTM cịn
sử dụng các hình thức đo rủi ro khác như:
- Điểm của khách hàng:
Qua phân tích tình hình tài chính, năng lực sản xuất kinh doanh, hiệu quả dự án,
hồ sơ về các khoản vay trong quá khứ của khách hàng…ngân hàng sẽ lập hồ sơ về
khách hàng, xếp loại và cho điểm. Nếu khách hàng được cho điểm cao, rủi ro tín
dụng thấp và ngược lại.
- Các khoản cho vay có vấn đề:
Có thể chưa đến hạn và chưa được coi là nợ quá hạn, song trong quá trình theo
dõi, cán bộ ngân hàng nhận thấy nhiều khoản cho vay đang có dấu hiệu kém lành
mạnh, có nguy cơ trở thành nợ quá hạn. Khoản cho vay có vấn đề được xây dựng
dựa trên quy định của ngân hàng.
- Tính kém đa dạng của tín dụng:
Đa dạng hố là một biện pháp hạn chế rủi ro. Nếu ngân hàng tập trung tài trợ
cho một nhóm khách hàng, một ngành hay một vùng hẹp thì nguy cơ về rủi ro tín
dụng sẽ cao hơn so với đa dạng hoá.
- Mất ổn định vĩ mơ:
Chính sách thường xun thay đổi, lạm phát cao, tình hình chính trị mất ổn định,
vùng hay bị thiên tai… đều tạo nên mất ổn định vĩ mô, tác động xấu đến người
vay, từ đó ảnh hưởng đến các khoản nợ của ngân hàng. Do vậy, mất ổn định vĩ mô

cũng được ngân hàng xem là một nội dung phản ánh rủi ro tín dụng.
1.2.6. Biện pháp quản lý rủi ro tín dụng.
 Sàng lọc, lựa chọn khách hàng.
Sự lựa chọn đối nghịch trong thị trường cho vay đòi hỏi ngân hàng phải sàng lọc
và lựa chọn khách hàng vay. Để hạn chế rủi ro tín dụng, ngân hàng phải lựa chọn
những khách hàng có triển vọng tốt ra khỏi những khách hàng có triển vọng xấu.


Để việc sàng lọc khách hàng vay có hiệu quả, ngân hàng phải tập hợp các thông
tin tin cậy về những khách hàng vay tiền. Trên cơ sở các thông tin thu thập được
tiến hành tính điểm tín dụng, đánh giá xếp loại khách hàng có triển vọng tốt hay
xấu để quyết định cho vay.
Đối với những khách hàng vay là cá nhân, ngân hàng cần tập hợp các thông tin
về tuổi, thu nhập, tài sản, tình trạng hơn nhân, thời gian làm việc, những khoản
tiền đã vay cũng như các khoản nợ còn tồn đọng…bằng cách phỏng vấn trực tiếp
người vay, hoặc những người có liên quan đến khách hàng.
Đối với các khoản vay kinh doanh của các doanh nghiệp, ngồi các thơng tin về
tình hình tài chính, tính khả thi của phương án sản xuất kinh doanh…ngân hàng
cũng cần tìm hiểu thêm về khả năng cạnh tranh, cách thức sử dụng tiền vay cũng
như kế hoạch trong tương lai của doanh nghiệp.
Nói chung, dù cho vay đối với cá nhân hay tổ chức, ngân hàng cũng cần phải
tinh tường trong việc lựa chọn khách hàng vay.
 Theo dõi, giám sát việc sử dụng vốn vay.
Để hạn chế việc khách hàng sử dụng vốn vay sai mục đích hoặc sử dụng vốn
vào các hoạt động kinh doanh có mức độ rủi ro cao, dẫn đến ít có khả năng thanh
tốn nợ cho ngân hàng. Trong q trình cho vay, cán bộ tín dụng phải thường
xuyên kiểm tra, đánh giá tình hình sử dụng vốn vay của khách hàng, cũng như việc
tuân thủ các điều khoản đã ghi trong hợp đồng tín dụng. Nếu khách hàng khơng
tn thủ có thể sử dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành những quy định của hợp
đồng. Điều này đòi hỏi việc soạn thảo hợp đồng tín dụng phải rõ ràng, đầy đủ,

chính xác, chặt chẽ.
 Xây dựng mối quan hệ lâu dài với khách hàng.
Xây dựng mối quan hệ lâu dài với khách hàng là một trong những nguyên lý
quan trọng trong quản lý rủi ro tín dụng. Đây là một cách để ngân hàng thu được
thông tin về khách hàng vay tiền của họ.


Nếu một khách hàng đã có quan hệ lâu dài với ngân hàng trong các hoạt động gửi
hoặc vay tiền, thì thơng qua các giao dịch phát sinh trên các tài khoản tiền gửi, tiền
vay, cán bộ tín dụng có thể biết được nhu cầu về khả năng thanh toán của khách
hàng, biết khi nào khách hàng cần vay tiền cũng như lịch sử tín dụng của khách
hàng. Qua đó, ngân hàng có thể giảm thiểu các chi phí liên quan đến việc thu thập
thông tin, đánh giá tiềm năng và rủi ro tín dụng của khách hàng. Việc phân loại
khách hàng theo mức độ rủi ro tín dụng cũng trở nên dễ dàng và đảm bảo chính xác
hơn.
Cịn đối với khách hàng, mối quan hệ lâu dài với ngân hàng cũng giúp họ dễ vay
tiền ngân hàng với lãi suất thấp hơn, vì ngân hàng khơng phải bỏ ra chi phí để thu
thập thơng tin đánh giá khách hàng.
Sự gắn bó chặt chẽ giữa ngân hàng và khách hàng đem lại lợi ích cho cả hai. Để
tạo ra sự gắn bó này, ngân hàng có thể nắm giữ những cổ phần trong các doanh
nghiệp mà họ cho vay. Hoặc, ngân hàng cũng có thể đưa ra một hạn mức tín dụng
cho khách hàng, theo đó ngân hàng cam kết cho khách hàng vay một lượng vốn
nhất định vào một thời điểm nhất định trong tương lai. Đổi lại, khách hàng phải
định kỳ cung cấp cho ngân hàng các thông tin về tình hình thu nhập, về hoạt động
kinh doanh, tài sản Có và tài sản Nợ…Cam kết này có lợi cho cả hai bên: khách
hàng yên tâm sẽ được vay khi cần tiền, cịn ngân hàng có thể giảm thiểu được các
chi phí thu thập thơng tin đánh giá khách hàng. Đồng thời việc quản lý rủi ro, hạn
chế rủi ro tín dụng cũng trở nên dễ dàng và hiệu quả hơn.
 Bảo đảm tiền vay.
Đảm bảo tiền vay là một trong những công cụ quan trọng để quản lý rủi ro tín

dụng. Biện pháp đảm bảo tiền vay hữu hiệu nhất là sử dụng tài sản thế chấp. Trong
trường hợp khách hàng khơng hồn trả được vốn vay và lãi, ngân hàng có thể bán
các tài sản đảm bảo để bù lại tổn thất do món vay gây nên.
Ngồi ra, ngân hàng có thể u cầu khách hàng mở tài khoản chính tại ngân
hàng mình và giữ lại một khoản vốn vay tối thiều, chẳng hạn 5% giá trị món vay
để dự phịng. Bằng cách này, ngân hàng có thể giám sát người vay một cách hiệu


quả hơn, đồng thời giúp tăng khả năng thanh toán tiền vay. Trong trường hợp nếu
người vay vỡ nợ, ngân hàng lấy phần đó để bù đắp một phần tổn thất.
 Bảo hiểm tín dụng.
Trong hoạt động tín dụng, có những khách hàng vay mang nhiều rủi ro, nhưng
lại là những khách hàng tiềm năng. Để có thể hạn chế rủi ro mà vẫn giữ được
khách hàng, ngân hàng có thể chuyển rủi ro cho các chủ thể khác có khả năng chịu
đựng rủi ro bằng cách thực hiện bảo hiểm tín dụng.
 Hạn chế cho vay.
Để hạn chế rủi ro tín dụng, đơi khi ngân hàng cũng cần phải từ chối cung cấp tín
dụng cho những khách hàng có nhu cầu vay và sẵn sàng trả lãi suất cao, hoặc chỉ
đáp ứng một phần trong toàn bộ nhu cầu vay của khách hàng.
Việc từ chối cho vay đối với khách hàng là nhằm ngăn ngừa hiện tượng lựa
chọn đối nghịch trong cho vay vì những khách hàng có khả năng vay vốn với lãi
suất cao thưòng là những khách hàng sử dụng vốn vay vào những dự án có mức
độ rủi ro cao.
 Lập quỹ dự phòng rủi ro.
Quỹ dự phòng rủi ro tạo ra nguồn bù đắp tổn thất cho ngân hàng khi có rủi ro
xảy ra. Do đó, việc lập quỹ dự phịng rủi ro được coi là một trong những biện pháp
quan trọng để tăng khả năng chống đỡ rủi ro của ngân hàng, giúp ngân hàng có thể
ổn định và phát triển được hoạt động kinh doanh trong trường hợp có rủi ro xảy ra.
Mỗi ngân hàng thương mại phải trích lập dự phịng rủi ro đúng và đủ theo quy định
của ngân hàng nhà nước.

1.3.

NGUYÊN NHÂN GÂY RA RỦI RO TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI
1.3.1. Nguyên nhân từ phía ngân hàng.
Các ngành nghề của các doanh nghiệp đi vay là rất đa dạng. Do đó, hầu hết các
cán bộ tín dụng khơng thể hiểu biết hết và có đầy đủ thơng tin về các ngành nghề
lĩnh vực mà doanh nghiệp đi vay đang đầu tư kinh doanh. Hơn nữa, các cán bộ


ngân hàng cũng rất khó thẩm định đúng một khi các số liệu tài chính mà doanh
nghiệp cung cấp chưa hẳn đã đúng. Chính vì khó khăn trong việc đánh giá tình
hình tài chính của doanh nghiệp nên Ngân hàng thường có xu hướng ưu tiên các hồ
sơ vay vốn có tài sản thế chấp, tài sản đảm bảo. Tuy nhiên, khi dẫn đến việc xử lý
thu hồi nợ thì cũng rất khó khăn.
Chất lượng cán bộ kém, khơng đủ trình độ đánh giá khách hàng hoặc đánh giá
khơng tốt, cố tình làm sai… là một trong những nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng.
Các cán bộ ngân hàng phải tiếp cận với nhiều ngành nghề, nhiều vùng, thậm chí
nhiều quốc gia. Để cho vay tốt, họ phải am hiểu về khách hàng, lĩnh vực mà khách
hàng kinh doanh cũng như môi trường mà khách hàng sống. Họ phải có khả năng dự
báo các vấn đề liên quan đến người đi vay… Như vậy, các cán bộ tín dụng phải
được đào tạo và tự đào tạo kỹ lưỡng, chuyên nghiệp, liên tục và toàn diện. Khi họ
cho vay đối với khách hàng mà họ chưa đủ trình độ để hiểu kỹ, hiểu rõ thì rủi ro tín
dụng ln có khả năng xảy ra rất lớn. Sống trong môi trường “tiền bạc”, nhiều cán
bộ tín dụng khơng tránh khỏi sự cám dỗ của đồng tiền. Họ có thể tiếp tay cho khách
hàng rút ruột ngân hàng. Như vậy, chất lượng cán bộ tín dụng bao gồm cả trình độ
cũng như đạo đức nghề nghiệp không đảm bảo là nguyên nhân gây ra rủi ro tín
dụng.
1.3.2. Nguyên nhân từ phía khách hàng.
Trình độ yếu kém của người vay trong việc dự đoán các vấn đề kinh tế, yếu kém

trong quản lý, chủ định lừa đảo cán bộ ngân hàng, chây ì hoặc cố tình khơng trả
nợ… là ngun nhân gây ra rủi ro tín dụng. Rất nhiều người đi vay sẵn sàng mạo
hiểm với kỳ vọng thu được lợi nhuận cao. Để đạt được mục đích của mình, họ sẵn
sàng tìm mọi thủ đoạn ứng phó với ngân hàng như cung cấp thông tin sai, mua
chuộc các cán bộ ngân hàng… Nhiều người đã khơng tính tốn kỹ lưỡng hoặc
khơng có khả năng tính tốn kỹ lưỡng những bất trắc có thể xảy ra, khơng có khả
năng thích ứng và khắc phục khó khăn trong kinh doanh. Một khi họ đã bị phá sản
và khơng có khả năng trả nợ thì ngân hàng sẽ chịu rủi ro lớn, có thể là khơng địi
được nợ, hoặc địi được khơng đầy đủ mà cịn mất chi phí quản lý những khoản nợ
xấu đó. Trong trường hợp cịn lại, người vay kinh doanh có lãi song vẫn không trả


nợ cho ngân hàng đúng hạn. Họ chây ì với hy vọng có thể quỵt nợ, hoặc sử dụng
vốn vay càng lâu càng tốt.
1.3.3. Các nguyên nhân khác.
Khi khách hàng nhận tiền vay từ ngân hàng, họ sẽ dùng đồng vốn đó vào mục
đích kinh doanh như: đầu tư vào dây chuyền sản xuất, đầu tư mua nguyên vật liệu,
…Trong quá trình sản xuất kinh doanh tất yếu sẽ xảy ra những rủi ro không mong
muốn mà đôi khi các doanh nghiệp không lường trước được như: rủi ro do nền
kinh tế không ổn định, rủi ro do các thủ tục pháp lý rườm rà, rủi ro do thị trường bị
bóp méo bởi các hàng hố nhập lậu.
 Rủi ro do nền kinh tế không ổn định:
Khi tiến hành sản xuất kinh doanh thì doanh nghiệp sẽ tiến hành đánh giá thị
trường, đưa ra các dự đoán và dự báo về tình hình kinh tế thị trường cũng như
doanh số của doanh nghiệp mình. Nếu nền kinh tế vận hành theo đúng những gì đã
dự báo thì khơng có gì phải bàn cãi. Tuy nhiên, ta biết rằng nền kinh tế nước ta
hiện giờ vẫn còn phụ thuộc vào các ngành sản xuất nông nghiệp và các ngành công
nghiệp phục vụ nông nghiệp. Mà những ngành này lại phụ thuộc nhiều vào rủi ro
thời tiết. Ngoài ra, khi nền kinh tế thế giới khủng hoảng thì tất yếu sẽ ảnh hưởng
đến nền kinh tế nội địa, và đặc biệt ảnh hưởng đến các doanh nghiệp xuất nhập

khẩu. Các mặt hàng mà Việt Nam có thế mạnh như dệt may, xuất khẩu hàng nông
sản (xuất khẩu café, hạt điều, cá basa…) có nguy cơ khơng bán được khi nền kinh
tế thế giới bị khủng hoảng. Hay một sự thay đổi trong chinh sách nhập khẩu (tăng
thuế, giảm hạn ngạch, thay đổi tiêu chuẩn nhập khẩu) tại các nước sở tại cũng sẽ
ảnh hưởng đến sản lượng xuất khẩu.
 Rủi ro do các thủ tục pháp lý:
Sự chậm trễ, rườm rà của các thủ tục pháp lý như cấp giấy phép, thủ tục hải
quan,…nhiều khi ảnh hưởng đến cơ hội kinh doanh của các doanh nghiệp. Việc
chậm trễ trong các thủ tục pháp lý sẽ dẫn đến hệ quả của các hợp đồng kinh tế bị
đình trệ, các dự án đầu tư bị hỗn khơng biết đến bao giờ. Điều này gây tổn thất
lớn về mặt kinh tế đối với các doanh nghiệp vay vốn.


 Rủi ro do hàng hoá nhập lậu tràn vào trong nước:
Hàng hoá nhập lậu là nỗi ám ảnh của các doanh nghiệp trong nước. Vì hàng
nhập lậu có ưu điểm rẻ về giá và đa dạng về chủng loại nên đánh mạnh vào nhu
cầu của bộ phận dân cư có thu nhập thấp.
Những nguyên nhân bất khả kháng trên tác động tới người vay, làm họ mất khả
năng thanh toán cho ngân hàng. Các rủi ro như thiên tai, chiến tranh hoặc những
thay đổi tầm vĩ mô (Thay đổi chính phủ, chính sách kinh tế, hàng rào thuế quan,…)
vượt quá tầm kiểm soát của người vay lẫn người cho vay.
Những thay đổi này thường xuyên xảy ra, tác động tích cực hoặc tiêu cực tới
người vay. Nhiều người vay, với bản lĩnh cũng như trình độ của mình có khả năng
dự báo, thích ứng hoặc khắc phục những khó khăn. Cũng có khi người vay bị tổn
thất song vẫn có khả năng trả nợ cho ngân hàng đúng hạn, đủ gốc và lãi. Tuy
nhiên, nếu những tác động của các nguyên nhân bất khả kháng đối với người vay
là nặng nề thì khả năng trả nợ của họ bị suy giảm, gây ra rủi ro tín dụng cho ngân
hàng.



CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG RỦI RO TÍN DỤNG TẠI CHI NHÁNH NHNo&PTNT
HÀ THÀNH
2.1. TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG CỦA CHI NHÁNH
NHNo&PTNT HÀ THÀNH
2.1.1 .Lịch sử hình thành của NHNo & PTNT chi nhánh Hà Thành
Chi nhánh ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nơng thơn Hà Thành có tên viết
tắt là Chi nhánh NHNo & PTNN Hà Thành, đặt trụ sở tại số 236- đường Lê Thanh
Nghị- quận Hai Bà Trưng- TP Hà Nội.
Trước đây, chi nhánh có tên gọi là Chi nhánh NHNo & PTNT Chợ Mơ, là chi
nhánh cấp II trực thuộc Chi nhánh NHNo& PTNT Thăng Long. Chi nhánh Chợ
Mơ bắt đầu đi vào hoạt động vào ngày 12 tháng 3 năm 2001. Địa chỉ là số nhà 486
phố Bạch Mai- quận Hai Bà Trưng- TP Hà Nội. Ban đầu chi nhánh Chợ Mơ gồm
một phòng giao dịch mang tên phòng giao dịch Kim Đồng. Ngày 12/01/2004, chi
nhánh Chợ Mơ mở thêm phòng giao dịch Trương Định theo quyết định số 31/QĐTCCB&ĐT của giám đốc chi nhánh NHNo&PTNT Thăng Long, trụ sở làm việc
tại 484- đường Trương Định- quận Hai Bà Trưng- TP Hà Nội.
Theo quyết định số 1292/QĐ/HĐQT-TCCB ngày 29/11/2007 của Chủ tịch hội
đồng quản trị NHNo&PTNT Việt Nam, chi nhánh Chợ Mơ được điều chỉnh thành
chi nhánh cấp I mang tên Chi nhánh NHNo&PTNT Hà Thành và phụ thuộc
NHNo&PTNT Việt Nam, đồng thời chuyển địa điểm về số nhà 236 đường Lê
Thanh Nghị- quận Hai Bà Trưng- TP Hà Nội.
Khi được nâng cấp và chuyển địa điểm thì chi nhánh đã mở rộng và có thêm


nhiều các phòng chức năng và phòng giao dịch.
Chi nhánh kinh doanh đa ngành, đa lĩnh vực về tài chính, tiền tệ, tín dụng, dịch
vụ ngân hàng và phi ngân hàng phù hợp với quy định của pháp luật, không ngừng
nâng cao lợi nhuận của ngân hàng, góp phần thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia,
phục vụ phát triển kinh tế Đất nước:
nhận.


Huy động vốn ngắn hạn, trung hạn và dài hạn của các tổ chức và cá

Tiếp nhận vốn ủy thác đầu tư và phát triển của các tổ chức trong và
ngoài nước.
-

Vay vốn ngân hàng nhà nước và các tổ chức tín dụng khác.

-

Cho vay ngắn hạn, trung hạn, dài hạn đối với các tổ chức, cá nhân.

-

Chiết khấu thương phiếu, trái phiếu, giấy tờ có giá.

-

Thực hiện thanh toán giữa các khách hàng.

-

Thực hiện kinh doanh ngoại tệ.

Thanh toán quốc tế và thực hiện các dịch vụ khác liên quan đến thanh
toán quốc tế.
-

Thực hiện chuyển tiền trong và ngồi nước dưới nhiều hình thức


-

Tư vấn tài chính, tín dụng cho khách hàng.

2.1.2. Nhiệm vụ của ngân hàng NNo&PTNT VN – chi nhánh Hà Thành
Cũng như các chi nhánh khác của ngân hàng nông nghiệp và phát triển nơng thơng
Việt Nam nói chung, ngân hàng nơng nghiệp và phát triển nơng thơn chi nhánh Hà
Thành có các nhiệm vụ chủ yếu sau đây:
 Huy động vốn
Khai thác nhận tiền gửi tiết kiệm khơng kỳ hạn, có kỳ hạn, tiền gửi thanh
toán của các tổ chức cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế trong nước và nước
ngoài bằng đồng Việt Nam và ngoại tệ.


×