Tải bản đầy đủ (.doc) (85 trang)

giải pháp tăng cường huy động vốn tiền gửi tại pgd đào tấn – chi nhánh hà nội – ngân hàng thương mại cổ phần an bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (601.45 KB, 85 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐẠI NAM
KHOA TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG


KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
Đề tài :
GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG HUY ĐỘNG VỐN TIỀN GỬI
TẠI PGD ĐÀO TẤN – CHI NHÁNH HÀ NỘI – NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN AN BÌNH

Giảng viên hướng dẫn : PGS.TS. PHAN TRỌNG PHỨC
Sinh viên thực hiện : LÊ ÁNH THÙY DƯƠNG
Lớp : NH03-01
Khoá : 3 (2009-2013)
Hệ : CHÌNH QUY
Hà Nội, tháng 05 /2013
LỜI CẢM ƠN
Để trang bị những hành trang cần thiết trước khi ra trường và bước vào cuộc
sống thì bất kỳ sinh viên nào cũng cần trải qua quá trình thực tập. Thông qua quá trình
thực tập giúp sinh viên nắm vững hơn những lý thuyết đã được học và hiểu sâu sắc
hơn thực tế hoạt động của đơn vị. Nhận thức được điều trên, được sự đồng ý của nhà
trường trong thời gian qua em đã được phòng giao dịch Đào Tấn – Chi nhánh Hà Nội
– Ngân hàng TMCP An Bình tiếp nhận đi thực tập.
Quá trình thực tập sẽ giúp chúng em khắng định lại những gì đã học tập nghiên
cứu trên cơ sở lý thuyết, giúp em thấy những điểm giống nhau và khác nhau giữa lý
thuyết và thực tế để từ đó vận dụng những lý luận cần thiết vào thực tế.
Sau một thời gian học tập và nghiên cứu cùng với việc được xem xét, tìm hiểu,
quan sát tình hình thực tế tại Ngân hàng thương mại cổ phần An Bình - Chi nhánh Hà
Nội – Phòng giao dịch Đào Tấn trong thời gian thực tập vừa qua. Đặc biệt với sự giúp
đỡ, tạo điều kiện của ban lãnh đạo ngân hàng, các cô chú, anh chị ở các phòng ban đã
giúp em hoàn thành khoá luận tốt nghiệp.


Em xin gửi lời cám ơn tới thầy giáo hướng dẫn PGS.Ts.Phan Trọng Phức cùng
các thầy cô giáo trường Đại học Đại Nam - những người đã cung cấp cơ sở kiến thức
về kinh tế và xã hội, người đã trực tiếp hướng dẫn để em có thể hoàn thành bài khoá
luận tốt nghiệp này.
Tuy nhiên do không có nhiều thời gian thực tập và trình độ kiến thức, kinh
nghiệm còn hạn chế nên bản khoá luận này không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất
mong nhận được sự nhận xét góp ý của các thầy cô giáo để em hoàn thiện bản báo cáo
này tốt hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!

i
KÍ HIỆU CÁC CỤM TỪ VIẾT TẮT
Từ viết tắt Ý nghĩa
ABBANK Ngân hàng thương mại cổ phần An Bình
NHNN Ngân hàng nhà nước
NHTM Ngân hàng thương mại
NHTW Ngân hàng trung ương
PGD Phòng giao dịch
TCTD Tổ chức tín dụng
TMCP Thương mại cổ phần
KKH Không kỳ hạn
CKH Có kỳ hạn
DN Doanh nghiệp
Ngân hàng NN và PTNT Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn
CP Chi phí
VND Tiền Việt Nam đồng
MỤC LỤC
ii
Mức thuận lợi và lợi ích của khách hàng gửi tiền 11
Uy tín ngân hàng và số lượng vốn bị rút trước hạn 12

Mức độ đa dạng hoá của các hình thức huy động vốn 12
Nhìn vào biểu đồ và bảng trên ta có thể thấy rõ tỷ lệ vốn huy động từ dân cư ngày càng
tăng nhanh và tỷ lệ vốn bộ phận doanh nghiệp ngày càng giảm. Trong 3 năm vừa qua,
phòng giao dịch Đào Tấn đã làm rất tốt công tác huy động vốn, đặc biệt là bộ phận dân
cư với các chính sách, dịch vụ và các gói ưu đãi cho khách hàng cá nhân, nhận được sự
tín nhiệm từ khách hàng cá nhân (năm 2012 tăng 22% so với 2010, và tăng 7% so với
2011). Số lượng khách hàng cá nhân cũng tăng từ 1211 lên 1784 người trong năm 2011
và năm 2012 tăng 1131 người so với năm 2011. Tuy nhiên, do đặc điểm kinh doanh cũng
như tác động của nền kinh tế mà các doanh nghiệp có xu hướng ít dự trữ tiền tại ngân
hàng hơn. Năm 2012, tiền gửi doanh nghiệp giảm 7%, lượng khách hàng tăng cả năm
không nhiều (tăng thêm 57 đơn vị). Do vậy, phòng giao dịch Đào Tấn cần xem xét chú
trọng đến các khách hàng doanh nghiệp, cần có các chính sách chăm sóc khách hàng tốt
hơn để tăng quy mô vốn ở bộ phận này. Khách hàng doanh nghiệp là một trong những
nhân tố quan trọng góp phần tăng lượng vốn của ngân hàng. Bộ phận dân cư gửi tiền
thường xuyên và trong thời hạn lâu hơn, song doanh nghiệp lại gửi tiền với lượng tiền
lớn hơn nhiều vì vậy nếu chỉ chú trọng đến một bộ phận khách hàng mà hoạt động huy
động ở bộ phận kia không hiệu quả thì hoạt động kinh doanh của ngân hàng cũng không
hiệu quả, không đem lại nhiều lợi ích cho ngân hàng, nguồn huy động không phong phú.
33
Cơ cấu huy động vốn theo kỳ hạn 34
Xét về thời hạn nguồn tiền gửi, tiền gửi có kỳ hạn luôn cao hơn tiền gửi không kỳ hạn.
Năm 2010, tiền gửi có kỳ hạn chiếm 75% (46,453 tỷ) trong khi tiền gửi không kỳ hạn là
25% (15,168 tỷ). Sang năm 2011 mặc dù khối lượng tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn
đã tăng nhưng do tiền gửi có kỳ hạn tăng với quy mô lớn hơn đạt 83% ( 144,368 tỷ) cho
nên tỷ lệ tiền gửi không kỳ hạn giảm xuống còn 17% (30,501 tỷ). Đến năm 2012, cơ cấu
này lại có sự thay đổi khi tiền gửi có kỳ hạn chiếm 87% tổng vốn huy động ( 262,321 tỷ)
trong khi tỷ lệ tiền gửi không kỳ hạn chiếm 13% (38,91 tỷ) 34
Biểu đồ 2.4: Cơ cấu huy động vốn theo kỳ hạn 34
Biểu đồ 2.6: Biến động tình hình huy động vốn từ doanh nghiệp 40
Đơn vị: Tỷ đồng 40


iii
iv
DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU
SƠ ĐỒ
Mức thuận lợi và lợi ích của khách hàng gửi tiền 11
Mức thuận lợi và lợi ích của khách hàng gửi tiền 11
Uy tín ngân hàng và số lượng vốn bị rút trước hạn 12
Uy tín ngân hàng và số lượng vốn bị rút trước hạn 12
Mức độ đa dạng hoá của các hình thức huy động vốn 12
Mức độ đa dạng hoá của các hình thức huy động vốn 12
Nhìn vào biểu đồ và bảng trên ta có thể thấy rõ tỷ lệ vốn huy động từ dân cư ngày càng
tăng nhanh và tỷ lệ vốn bộ phận doanh nghiệp ngày càng giảm. Trong 3 năm vừa qua,
phòng giao dịch Đào Tấn đã làm rất tốt công tác huy động vốn, đặc biệt là bộ phận dân
cư với các chính sách, dịch vụ và các gói ưu đãi cho khách hàng cá nhân, nhận được sự
tín nhiệm từ khách hàng cá nhân (năm 2012 tăng 22% so với 2010, và tăng 7% so với
2011). Số lượng khách hàng cá nhân cũng tăng từ 1211 lên 1784 người trong năm 2011
và năm 2012 tăng 1131 người so với năm 2011. Tuy nhiên, do đặc điểm kinh doanh cũng
như tác động của nền kinh tế mà các doanh nghiệp có xu hướng ít dự trữ tiền tại ngân
hàng hơn. Năm 2012, tiền gửi doanh nghiệp giảm 7%, lượng khách hàng tăng cả năm
không nhiều (tăng thêm 57 đơn vị). Do vậy, phòng giao dịch Đào Tấn cần xem xét chú
trọng đến các khách hàng doanh nghiệp, cần có các chính sách chăm sóc khách hàng tốt
hơn để tăng quy mô vốn ở bộ phận này. Khách hàng doanh nghiệp là một trong những
nhân tố quan trọng góp phần tăng lượng vốn của ngân hàng. Bộ phận dân cư gửi tiền
thường xuyên và trong thời hạn lâu hơn, song doanh nghiệp lại gửi tiền với lượng tiền
lớn hơn nhiều vì vậy nếu chỉ chú trọng đến một bộ phận khách hàng mà hoạt động huy
động ở bộ phận kia không hiệu quả thì hoạt động kinh doanh của ngân hàng cũng không
hiệu quả, không đem lại nhiều lợi ích cho ngân hàng, nguồn huy động không phong phú.
33
Cơ cấu huy động vốn theo kỳ hạn 34

Xét về thời hạn nguồn tiền gửi, tiền gửi có kỳ hạn luôn cao hơn tiền gửi không kỳ hạn.
Năm 2010, tiền gửi có kỳ hạn chiếm 75% (46,453 tỷ) trong khi tiền gửi không kỳ hạn là
25% (15,168 tỷ). Sang năm 2011 mặc dù khối lượng tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn
đã tăng nhưng do tiền gửi có kỳ hạn tăng với quy mô lớn hơn đạt 83% ( 144,368 tỷ) cho
nên tỷ lệ tiền gửi không kỳ hạn giảm xuống còn 17% (30,501 tỷ). Đến năm 2012, cơ cấu
này lại có sự thay đổi khi tiền gửi có kỳ hạn chiếm 87% tổng vốn huy động ( 262,321 tỷ)
trong khi tỷ lệ tiền gửi không kỳ hạn chiếm 13% (38,91 tỷ) 34
Biểu đồ 2.4: Cơ cấu huy động vốn theo kỳ hạn 34
Biểu đồ 2.6: Biến động tình hình huy động vốn từ doanh nghiệp 40
Đơn vị: Tỷ đồng 40
BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 2.1: Biến động lợi nhuận của PGD Đào Tấn Error: Reference source not found
Biểu đồ 2.2: Huy động vốn PGD Đào Tấn 2010 – 2012 Error: Reference source not
found
Biểu đồ 2.3: Cơ cấu nguồn huy động theo đối tượng gửi tiền Error: Reference source
not found
Biểu đồ 2.4: Cơ cấu huy động vốn theo kỳ hạn Error: Reference source not found
Biểu đồ 2.5: Cơ cấu huy động vốn theo loại tiền gửi.Error: Reference source not found
Biểu đồ 2.6: Biến động tình hình huy động vốn từ doanh nghiệp Error: Reference
v
source not found
Biểu đồ 2.7: Biến động tình hình huy động vốn từ dân cư Error: Reference source not
found
vi
LỜI MỞ ĐẦU
1. Sự cấp thiết của việc lựa chọn đề tài
Ngân hàng thương mại là trung gian tài chính lớn nhất trong nền kinh tế. Đối với
các tổ chức này, huy động vốn là hoạt động có vai trò đặc biệt quan trọng, không huy
động được lượng vốn đủ lớn, các ngân hàng rất khó mở rộng tín dụng cũng như phát
triển các hoạt động khác. Trong điều kiện kinh tế Việt nam đang hội nhập ngân hàng

thương mại càng cần vốn để duy trì và nâng cao vị thế trên thị trường. Trên thực tế
lượng vốn các NHTM huy động được chưa đủ lớn để đáp ứng nhu cầu phát triển, mặt
khác không ít ngân hàng đang phải đối mặt với tình trạng mất cân đối giữa các loại
vốn. Tăng cường vốn trở thành vấn đề rất cấp bách với các ngân hàng thương mại hiện
nay. Phòng giao dịch Đào Tấn là một trong những phòng giao dịch thuộc chi nhánh Hà
Nội của NHTM cổ phẩn An Bình hoạt động trong môi trường cạnh tranh mới nên còn
gặp rất nhiều khó khăn. Hoạt động huy động vốn của phòng dù đã có được những
thành công nhất định nhưng vẫn còn những hạn chế, tình hình huy động vốn của PGD
Đào Tấn qua các năm không ổn định do sự bất ổn của nền kinh tế gây ra bên cạnh
những hình thức huy động chưa thực sự đa đạng. Nếu không tăng cường huy động vốn
thì phòng giao dịch Đào Tấn sẽ rất khó phát triển và cạnh tranh trong thời kỳ kinh tế
khủng hoảng như hiện nay.
Xuất phát từ nhận định trên, đề tài “Giải pháp tăng cường huy động vốn tiền gửi
của Ngân hàng TMCP An Bình - chi nhánh Hà Nội – PGD Đào Tấn” được em lựa
chọn để nghiên cứu.
2. Mục tiêu nghiên cứu
- Khái quát tình hình kinh doanh những năm gần đây của PGD Đào Tấn – Chi
nhánh Hà Nội – Ngân hàng TMCP An Bình
- Phân tích thực trạng công tác huy động vốn tiền gửi tại PGD Đào Tấn
- Một số đề xuất, giải pháp nhằm tăng cường huy động vốn tiền gửi tại ngân hàng
3. Kết cấu báo cáo thực tập
Chương 1: Nghiệp vụ huy động vốn tiền gửi tại ngân hàng thương mại.
Chương 2: Nghiệp vụ huy động vốn tiền gửi PGD Đào Tấn – Chi nhánh Hà Nội –
Ngân hàng TMCP An Bình.
Chương 3: Giải pháp tăng cường nghiệp vụ huy động vốn tiền gửi tại PGD Đào
Tấn và một số kiến nghị, đề xuất.
1
CHƯƠNG 1: NGHIỆP VỤ HUY ĐỘNG VỐN TIỀN GỬI TẠI NGÂN
HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Nghiệp vụ huy động vốn tại ngân hàng thương mại

1.1.1. Khái niệm ngân hàng thương mại
Ngân hàng là một loại hình tổ chức quan trọng đối với nền kinh tế. Các ngân hàng
có thể được định nghĩa qua chức năng, các dịch vụ hoặc vai trò mà chúng thực hiện
trong nền kinh tế. Trong đó, cách tiếp cận thận trọng nhất là có thể xem xét ngân hàng
trên phương diện những loại hình dịch vụ mà chúng cung cấp. Ngân hàng là các tổ
chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất – đặc biệt
là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính so với
bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế. (Theo Peter S. Rose – Giáo trình
Quản trị Ngân hàng thương mại)
Ở Việt Nam hiện nay, theo luật các Tổ chức tín dụng (Luật TCTD 2010), Ngân
hàng thương mại được định nghĩa là: “ Ngân hàng thương mại là loại hình ngân hàng
được thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh nhằm
mục tiêu lợi nhuận.”
1.1.2. Các nghiệp vụ cơ bản của ngân hàng thương mại
Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội
dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để cấp tín dụng, cung ứng
dịch vụ thanh toán.
1.1.2.1. Hoạt động huy động vốn
Để có thể duy trì và mở rộng hoạt động kinh doanh tiền tệ, các ngân hàng bên cạnh
nguồn vốn tự có thì phải huy động vốn từ các nguồn khác nhau. Các ngân hàng thương
mại có thể huy động vốn dưới các hình thức sau:
- Nhận tiền gửi của các tổ chức, cá nhân và các TCTD khác thông qua các công cụ
như: mở tài khoản tiền gửi, tài khoản tiền gửi thanh toán, tiền gửi tiết kiệm, tài khoản
tiền gửi sử dụng séc và sử dụng thẻ thanh toán. Đây chính là hình thức huy động vốn
chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng nguồn vốn của ngân hàng.
- Phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu và giấy tờ có giá khác để huy động vốn
của tổ chức, cá nhân trong nước và ngoài nước.
- Vay vốn của ngân hàng trung ương và các tổ chức tín dụng khác.
1.1.2.2. Hoạt động sử dụng vốn
 Hoạt động cấp tín dụng

Là một trong các hoạt động chính và quan trọng nhất của ngân hàng. NHTM được
cấp tín dụng cho các tổ chức, cá nhân dưới các hình thức cho vay, chiết khấu thương
phiếu và giấy tờ có giá khác, bảo lãnh, cho thuê tài chính và các hình thức khác theo
quy định của ngân hàng nhà nước như: bao thanh toán tài trợ nhập khẩu, tài trợ xuất
khẩu, cho vay thấu chi, cho vay theo hạn mức tín dụng, cho vay dự án và cho vay theo
hạn mức dự phòng, Trong đó, cho vay là hoạt động quan trọng và chiếm tỷ trọng lớn
2
nhất, đem lại nguồn thu nhập chủ yếu cho ngân hàng.
 Hoạt động đầu tư
Hoạt động này đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo mục tiêu thanh khoản và
đa dạng hoá tài sản của ngân hàng. Ngân hàng thường nắm giữ đa dạng các chứng
khoán như chứng khoán chính phủ, chứng khoán của các ngân hàng khác và chứng
khoán công ty. Các chứng khoán ngân hàng nắm giữ thường được chia làm hai loại:
- Các chứng khoán kém thanh khoản được giữ với mục đích đầu tư, có đội rủi ro
cao và thường được mong đợi có tỷ lệ sinh lời cao.
- Các chứng khoán thanh khoản cao được nắm giữ như một tài sản đệm cho ngân
quỹ, có khả năng sinh lời cao hơn tiền mặt và khi cần có thể bán để chi trả. Chứng
khoán ngắn hạn của chính phủ thường được xếp hàng đầu trong danh mục các chứng
khoán thanh khoản cao của ngân hàng. Bên cạnh đó, một số giấy nợ kỳ hạn ngắn của
các tổ chức tín dụng hoặc các công ty tài chính uy tín cũng là khoản đầu tư ưa thích
của ngân hàng. Các chứng khoán công ty với mức độ rủi ro cao cũng được các ngân
hàng nắm giữ với mục đích thu lợi, nắm quyền kiểm soát.
1.1.2.3. Các hoạt động khác
- Góp vốn mua cổ phần: Các ngân hàng thương mại được sử dụng vốn điều lệ và
quỹ dự trữ để góp vốn, mua cổ phần của các doanh nghiệp và các tổ chức tín dụng
khác trong nước theo quy định của pháp luật. Ngoài ra, ngân hàng thương mại còn
được góp vốn, mua cổ phần và liên doanh với ngân hàng nước ngoài để thành lập ngân
hàng liên doanh.
- Quản lý ngân quỹ: Các ngân hàng mở tài khoản và giữ tiền của phần lớn các
doanh nghiệp và nhiều cá nhân. Nhờ đó, ngân hàng thường có mối quan hệ chặt chẽ

với nhiều khách hàng. Do có kinh nghiệm trong quản lý ngân quỹ và khả năng trong
việc thu ngân, các ngân hàng đã cung cấp cho khách hàng dịch vụ quản lý ngân quỹ,
trong đó ngân hàng đồng ý quản lý việc thu và chi cho một công ty kinh doanh và tiến
hành đầu tư phần thặng dư tiền mặt tạm thời vào các chứng khoán sinh lợi và tín dụng
ngắn hạn cho đến khi khách hàng cần tiền mặt để thanh toán.
Ngoài ra, ngân hàng còn thực hiện kinh doanh ngoại hối; uỷ thác và nhận uỷ thác
làm đại lý trong các lĩnh vực liên quan đến hoạt động ngân hàng, kể cả việc quản lý tài
sản; vốn đầu tư của tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước theo hợp đồng uỷ thác, đại
lý; cung ứng các dịch vụ bảo hiểm, tư vấn tài chính, bảo quản vật quý giá,…
1.1.3. Huy động vốn của ngân hàng thương mại
1.1.3.1. Khái niệm về vốn của ngân hàng thương mại
Vốn của ngân hàng thương mại là những giá trị tiền tệ do NHTM tạo lập hoặc huy
động cho vay, đầu tư hoặc các dịch vụ kinh doanh khác nhằm đạt được mục tiêu khác
nhau. Biểu hiện của vốn trong kinh doanh ngân hàng chủ yếu là tiền.
Thực chất, vốn của ngân hàng là một bộ phận của thu nhập quốc dân tạm thời nhàn
rỗi trong quá trình sản xuất, phân phối và tiêu dùng, người chủ sở hữu của chúng gửi
vào ngân hàng với mục đích thanh toán, tiết kiệm hay đầu tư. Nói cách khác, họ
3
chuyển nhượng quyền sử dụng vốn cho ngân hàng, để ngân hàng trả cho họ một khoản
thu nhập.
Như vậy, ngân hàng đã thực hiện vai trò tập trung vốn và phân phối lại vốn dưới
hình thức tiền tệ, làm tăng nhanh quá trình luân chuyển vốn, kích thích mọi hoạt động
kinh tế phát triển. Đồng thời, chính các hoạt động đó lại quyết định sự tồn tại và phát
triển hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
1.1.3.2. Phân loại vốn của ngân hàng thương mại
a. Vốn chủ sở hữu
Vốn chủ sở hữu của ngân hàng thương mại là vốn tự có do ngân hàng tạo lập được
thuộc sở hữu riêng của ngân hàng, thông qua góp vốn của các chủ sở hữu hoặc hình
thành từ kết quả kinh doanh. Mặc dù chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn
của ngân hàng, song lại là điều kiện pháp lý bắt buộc khi thành lập một ngân hàng. Vì

đây là là nguồn vốn ổn định, nên một mặt ngân hàng chủ động sử dụng nó vào mục
đích kinh doanh của mình, mặt khác lại được coi như tài sản đảm bảo, gây lòng tin đối
với khách hàng và duy trì khả năng thanh toán trong trường hợp ngân hàng gặp rủi ro
tín dụng. Vốn tự có của ngân hàng thương mại được hình thành bởi vốn điều lệ ( vốn
pháp định ) ,vốn tự bổ sung ( quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ , quỹ dự phòng bù đắp rủi
ro, quỹ khen thưởng…)
b. Nguồn tiền gửi và nghiệp vụ huy động vốn tiền gửi
Vốn huy động là một trong những nguồn vốn quan trọng trong kết cấu vốn của ngân
hàng thương mại. Vốn huy động là tài sản bằng tiền của các tổ chức và cá nhân đang
tạm thời quản lý và sử dụng với trách nhiệm hoàn trả. Bản chất của vốn huy động là
các tài sản thuộc các chủ sở hữu khác nhau. Ngân hàng chỉ có quyền sử dụng mà
không có quyền sở hữu và có trách nhiệm hoàn trả cả gốc và lãi khi đến hạn hoặc khi
họ có nhu cầu rút vốn.
Vốn huy động có vai trò quan trọng đối với hoạt động kinh doanh của ngân hàng
thương mại. Nó cũng là nguồn vốn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn kinh
doanh. Thông thường vốn huy động chiếm tỷ trọng trên 90% tổng nguồn vốn. Do đó
hoạt động huy động vốn của ngân hàng càng hiệu quả thì tổng nguồn vốn của ngân
hàng sẽ tăng, là tiền đề để tiến hành hoạt động sử dụng vốn.
Huy động vốn là một nghiệp vụ chủ chốt, không thể thiếu được của các ngân hàng
nói chung và của phòng giao dịch Đào Tấn nói riêng, bởi nguồn vốn chính của một
ngân hàng là nguồn vốn huy động. Hơn nữa, huy động vốn không phải là một nghiệp
vụ độc lập mà nó gắn liền với các nghiệp vụ sử dụng vốn và các nghiệp vụ trung gian
khác như thanh toán, chuyển tiền của ngân hàng thương mại.
Ngân hàng phải luôn đảm bảo cho mình một nguồn vốn dồi dào đáp ứng nhu cầu
của khách hàng đến vay vốn và đáp ứng nhu cầu vốn cho quá trình phát triển của đất
nước. Bên cạnh đó, huy động vốn phải dựa trên cơ sở xác định thị trường đầu ra, lĩnh
4
vực đầu tư có hiệu quả hay không, lãi suất ra sao.
Đặc biệt huy động vốn tiền gửi là nguồn huy chủ yếu và ảnh hưởng lớn đến lợi
nhuận của ngân hàng. Đặc điểm chung của tiền gửi là chúng phải được thanh toán khi

khách hàng yêu cầu ngay cả khi đó là tiền gửi có kỳ hạn nhưng chưa đến hạn thanh
toán. Sự thay đổi, đặc biệt là tiền gửi ngắn hạn, làm thay đổi cầu thanh khoản của ngân
hàng. Tiền gửi là nguồn tiền quan trọng, chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng nguồn tiền
của ngân hàng. Để gia tăng tiền gửi trong môi trường cạnh tranh và để có được nguồn
tiền có chất lượng ngày càng cao, các ngân hàng phải đưa ra và thực hiện nhiều hình
thức huy động khác nhau:
 Huy động vốn dưới hình thức tiền gửi tiết kiệm
- Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn
Tiền gửi có kỳ hạn là khoản tiền gửi với thời gian xác định. Nguyên tắc tiến hành
khoản tiền gửi này là người gửi chỉ được rút tiền khi đến thời hạn như đã thoả thuận có
thể là 1 tháng, 3 tháng, 6 tháng, 9 tháng, 1 năm, 5 năm Khi gửi tiền tiết kiệm kỳ hạn,
ngân hàng sẽ phát hành cho người gửi tiền một sổ tiết kiệm tương ứng với số tiền, kỳ
hạn, và lãi suất, Theo quy định, ngân hàng có quyền từ chối việc rút tiền trước thời
hạn của người gửi tiền. Tuy nhiên, hiện tại quy định này đã được nới lỏng: các ngân
hàng cho phép người gửi tiền được rút ra trước hạn nhưng phải báo trước cho ngân
hàng một khoảng thời gian nhất định, nếu không báo trước người gửi sẽ không được
hưởng lãi suất hoặc rất thấp. Thậm chí các ngân hàng còn cung cấp cho người gửi tiền
gói sản phẩm tiền gửi rút gốc linh hoạt, theo đó người gửi sẽ được đăng ký một kỳ rút
gốc trước hạn bất kỳ.
- Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn
Tiền gửi không kỳ hạn là khoản tiền gửi mà người gửi có thể gửi vào và rút ra theo
nhu cầu sử dụng mà không cần báo trước cho ngân hàng. Ngân hàng trả lãi cho loại
tiền gửi này nhưng rất thấp. Gửi tiền dạng này nhằm đảm bảo an toàn cho khoản tiền
và dự phòng cho các nhu cầu chi tiêu trong thời gian ngắn đồng thời đươc hưởng một
chút lãi. Mục đích của khách hàng đối với loại tiền này là hưởng những tiện ích trong
thanh toán khi có nhu cầu chi trả trong hoạt động sản xuất kinh doanh và tiêu dùng.
 Huy động vốn dưới hình thức tiền gửi thanh toán
Đây là khoản tiền của doanh nghiệp hoặc cá nhân gửi vào ngân hàng để nhờ ngân
hàng giữ hộ và thanh toán hộ. Người gửi có thể gửi thêm tiền hoặc rút tiền ra khỏi tài
khoản bất cứ lúc nào. Trong phạm vi số dư cho phép, các nhu cầu chi trả của doanh

nghiệp và cá nhân đều được ngân hàng thực hiện. Các khoản thu bằng tiền của doanh
nghiệp và cá nhân đều có thể được nhập vào tiền gửi thanh toán theo yêu cầu. Lãi suất
5
của tiền gửi thanh toán thấp, thậm chí khách hàng không được hưởng lãi. Nhưng bù
vào đó, khách hàng được hưởng các dịch vụ thanh toán qua ngân hàng với mức phí
thấp. Với loại tiền gửi này, người gửi không nhằm mục đích hưởng lãi mà chủ yếu
nhằm sử dụng dịch vụ thanh toán qua ngân hàng. Thông thường với tài khoản tiền gửi
thanh toán thông thường, người gửi chỉ có thể chi tối đa số tiền có trong tài khoản của
mình nhưng với nhiều trường hợp người gửi muốn thanh toán nhiều hơn số tiền trong
tài khoản nhưng chưa kịp nộp thêm tiền vào tài khoản thì sẽ xảy ra khó khăn. Thực tế
này đặt ra cho ngân hàng yêu cầu kết hợp tài khoản tiền gửi thanh toán với tài khoản
cho vay, kết quả là tài khoản thấu chi ra đời. Ngoài ra, ngân hàng còn nâng lãi suất này
nhằm cạnh tranh với các tổ chức tín dụng khác.
c. Nguồn tiền vay và nghiệp vụ huy động tiền vay
Nguồn vốn đi vay là quan hệ vay mượn giữa ngân hàng thương mại với ngân hàng
trung ương hay với tổ chức tín dụng khác. Trong quá trình hoạt động kinh doanh, tạm
thời có ngân hàng thừa vốn, trong khi đó có ngân hàng lại thiếu vốn làm phát sinh nhu
cầu đi vay và cho vay lẫn nhau. Thị trường vay mượn giữa các ngân hàng gọi là thị
trường liên ngân hàng hay thị trường II. Ngân hàng đi vay nhằm các mục đích:
- Bổ sung vốn khả dụng để kinh doanh
- Đáp ứng yêu cầu thanh khoản hàng ngày
- Đáp ứng yêu cầu dự trữ bắt buộc theo quy định
- Đáp ứng nhu cầu thanh toán
Vay chiết khấu hay tái cấp vốn của Ngân hàng Trung ương
Ngân hàng trung ương cho ngân hàng thương mại vay dưới hình thức tái chiết khấu
(tái cấp vốn). Tái cấp vốn là hình thức cấp tín dụng của ngân hàng trung ương nhằm
cung ứng vốn ngắn hạn và phương tiện thanh toán cho tổ chức tín dụng. Các hình thức
tái cấp vốn bao gồm:
-Cho vay có đảm bảo bằng cầm cố giấy tờ có giá: Là hình thức ngân hàng thương
mại đem giấy tờ có giá chưa đến hạn thanh toán đến ngân hàng trung ương cầm cố xin

vay vốn ngắn hạn. Thời hạn vay phải ngắn hơn thời hạn còn lại của giấy tờ có giá và
số tiền vay chỉ trong giới hạn một tỷ lệ % nhất định so với giá trị của giấy tờ có giá.
Khi đến hạn, nếu ngân hàng thương mại không hoàn trả thì ngân hàng trung ương có
thể xiết nợ các giấy tờ có giá. Theo Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam, Ngân hàng
nhà nước xem xét, quyết định cho vay đặc biệt đối với tổ chức tín dụng trong các
trường hợp tổ chức tín dụng lâm vào tình trạng mất khả năng chi trả, đe doạ sự ổn định
của hệ thống các tổ chức tín dụng hoặc tổ chức tín dụng có nguy cơ mất khả năng chi
trả do sự cố nghiêm trọng khác.
-Chiết khấu giấy tờ có giá: Là việc ngân hàng trung ương chiết khấu lại (tái chiết
khấu) các giấy tờ có giá chưa đến hạn thanh toán đã được ngân hàng thương mại chiết
6
khấu trước đó. Chiết khấu được hiểu là hành vi mua đứt (miễn truy đòi) có kỳ hạn
hoặc mua có bảo lưu quyền truy đòi các giấy tờ có giá trước khi đến hạn thanh toán.
Để được NHTW tái chiết khấu, các giấy tờ có giá phải chưa đáo hạn, người phát hành
phải có uy tín. Bao gồm: tín phiếu kho bạc, trái phiếu, một số giấy tờ có giá do các
NHTM uy tín lớn phát hành. Tái chiết khẩu của ngân hàng trung ương làm cho dự trữ
thứ cấp (giấy tờ có giá) của ngân hàng thương mại giảm xuống, đồng thời làm dự trữ
sơ cấp (tiền mặt) tăng lên, đáp ứng kịp thời vốn cho ngân hàng thương mại.
Mục đích cho vay của ngân hàng trung ương với ngân hàng thương mại là: thực thi
chính sách tiền tệ, đảm bảo an toàn hệ thống ngân hàng. Chi phí của nguồn vốn này
cao hay thấp phụ thuộc vào chính sách tiền tệ của ngân hàng trung ương: giả sử khi
ngân hàng trung ương muốn tăng mức cung ứng tiền thì ngân hàng trung ương sẽ giảm
mức lãi suất chiết khấu từ đó sẽ kích thích các ngân hàng thương mại vay ngân hàng
trung ương nhiều hơn do đó tăng khả năng cấp tín dụng cho nền kinh tế thúc đẩy kinh
tế phát triển và ngược lại.
 Vay các tổ chức tín dụng khác
Trong quá trình hoạt động ngân hàng có thể vay tổ chức tín dụng khác thông qua thị
trường tiền tệ liên ngân hàng. Các ngân hàng đang có dự trữ vượt yêu cầu do có kết dư
gia tăng bất ngờ về các khoản tiền huy động hoặc giảm cho vay sẽ có thể cho các ngân
hàng khác vay để tìm kiếm lãi suất cao hơn. Ngược lại, các ngân hàng đang thiếu hụt

dự trữ có nhu cầu vay mượn tức thời để đảm bảo thanh khoản. Như vậy nguồn vay
mượn từ các ngân hàng khác là để đáp ứng nhu cầu dự trữ và chi trả cấp bách, và trong
nhiều trường hợp nó bổ sung hoặc thay thế cho nguồn vay mượn từ ngân hàng Nhà
nước. Vì thế, chi phí của nguồn vốn này thường cao và thời gian sử dụng thường ngắn.
Quá trình vay mượn cũng rất đơn giản. Ngân hàng vay chỉ cần liên hệ trực tiếp với
ngân hàng cho vay hoặc thông qua ngân hàng đại lý. Khoản vay có thể không cần đảm
bảo, hoặc được đảm bảo bằng các chứng khoán của kho bạc. Các hình thức cho vay
chủ yếu là: vay qua đêm, vay kỳ hạn.
d. Các nguồn khác:
 Uỷ thác đầu tư
Ngân hàng thương mại thực hiện các dịch vụ uỷ thác như uỷ thác cho vay, uỷ thác
đầu tư, uỷ thác cấp phát…Các hoạt động này tạo nên nguồn uỷ thác trong các NHTM.
Cùng với sự phát triển các mối quan hệ đa phương, rất nhiều các tổ chức kinh tế xã hội
có cùng mục tiêu phát triển như ngân hàng, các nguồn tài chính của các tổ chức này đã
sử dụng mạng lưới ngân hàng như kênh dẫn vốn tới các mục tiêu. Kết quả là hình
thành nguồn uỷ thác, gia tăng vốn của ngân hàng.
7
 Huy động vốn dưới hình thức phát hành giấy tờ có giá
Ngày nay trong hoạt động kinh doanh của các NHTM cạnh tranh là yếu tố không
thể thiếu được. Các ngân hàng thương mại cạnh tranh nhau về lãi suất huy động đến
lãi suất cho vay. Trong lĩnh vực huy động vốn các ngân hàng thương mại phải luôn
luôn tìm các biện pháp để có thể huy động được đủ nguồn vốn phục vụ cho nhu cầu sử
dụng vốn của mình. Các ngân hàng thương mại không chỉ sử dụng các công cụ truyền
thống để huy động vốn mà còn đưa ra các các công cụ mới có hiệu quả hơn để huy
động vốn một cách dễ dàng đáp ứng nhu cầu vốn của mình và kỳ phiếu, tín phiếu, trái
phiếu ngân hàng đã ra đời. Kỳ phiếu và trái phiếu là giấy tờ có giá xác nhận khoản nợ
của ngân hàng với người nắm giữ. Kỳ phiếu được phát hành thường xuyên và có kỳ
hạn ngắn: 3, 6 12 tháng. Trái phiếu thường có kỳ hạn lớn hơn 1 năm.
Các giấy tờ có giá do ngân hàng phát hành có tính thanh khoản cao, chúng có thể
chuyển hoá dễ dàng ra tiền thông qua việc mua bán trên thị trường vốn hoặc chiết khấu

tại các ngân hàng. Để có thể mua bán được trên thị trường vốn, thì các giấy tờ có giá
phải được chuẩn hoá về mệnh giá, thời hạn, ngày phát hành và ngày đáo hạn. Do các
giấy tờ có giá được hưởng lãi suất hấp dẫn lại có độ thanh khoản cao, nên ngân hàng
có thể huy động được nhanh chóng một lượng vốn lớn thông qua phát hành giấy tờ có
giá, đồng thời có thể chủ động sử dụng nguồn vốn này vào mục đích đã đặt ra. Phát
hành giấy tờ có giá thường được thực hiện khi ngân hàng đã cam kết tài trợ cho những
dự án vay vốn lớn với thời hạn giải ngân ngắn, hay thiếu hụt nguồn vốn sau khi đã cân
đối giữa nguồn vốn và sử dụng vốn trong toàn hệ thống. Do đó, việc phát hành giấy tờ
có giá của ngân hàng thường được thực hiện theo đợt.
Việc phát hành kỳ phiếu, trái phiếu có ưu thế: giúp ngân hàng huy động được đúng
số lượng vốn cần thiết và có thời hạn đáp ứng nhu cầu sử dụng vốn của ngân hàng.
Tuy nhiên chi phí của nguồn vốn này tương đối cao do ngân hàng phải trả lãi cao hơn
các hình thức huy động truyền thống. Thêm vào đó, không phải ngân hàng nào cũng
dễ dàng phát hành giấy tờ có giá. Các ngân hàng nhỏ thường khó vay mượn trực tiếp
bằng cách này; họ thường phải vay thông qua các ngân hàng đại lý hoặc được bảo lãnh
bởi Ngân hàng Đầu tư. Khả năng vay mượn còn phụ thuộc vào trình độ phát triển của
thị trường tài chính, tạo khả năng chuyển đổi cho các công cụ nợ dài hạn của ngân
hàng. Nghiệp vụ vay mượn tương đối phức tạp. Ngân hàng phải nghiên cứu thị trường
để quyết định quy mô, mệnh giá, lãi suất và thời hạn vay mượn thích hợp. Các vấn đề
chuyển nhượng, điều chỉnh lãi suất, bảo quản hộ…cũng cần phải được quan tâm.
1.1.4. Nghiệp vụ huy động vốn tiền gửi của ngân hàng thương mại
1.1.4.1. Các hình thức huy động vốn qua tiền gửi tại ngân hàng thương mại
a. Huy động vốn từ tiền gửi của dân cư
Các tầng lớp dân cư đều có các khoản thu nhập tạm thời chưa sử dụng ( các khoản
8
tiết kiệm ). Trong điều kiện có khả năng tiếp cận được với ngân hàng, họ đều có thể
gửi tiết kiệm nhằm thực hiện mục tiêu an toàn và sinh lời đối với các khoản tiết kiệm,
đặc biệt là nhu cầu an toàn. Nhằm thu hút được ngày càng nhiều tiền tiết kiệm, các
ngân hàng khuyến khích người dân thay đổi thói quen giữ tiền mặt tại nhà bằng cách
mở rộng mạng lưới huy động vốn, đưa ra các hình thức huy động đa dạng và lãi suất

cạnh tranh hấp dẫn.
b. Huy động vốn từ tiền gửi doanh nghiệp, tổ chức kinh tế
Nhiều khoản thu bằng tiền của doangh nghiệp và tổ chức xã hội sẽ được chi trả sau
một thời gian xác định. Tiền gửi thanh toán tuy rất thuận tiện cho hoạt động thanh toán
song lãi suất lại thấp. Để đáp ứng nhu cầu tăng thu cho người gửi tiền ngân hàng đã
đưa ra hình thức tiền gửi có kỳ hạn. Người gửi không được sử dụng các hình thức
thanh toán đối với tiền gửi thanh toán để áp dụng với loại tiền gửi này. Nếu cần chi
tiêu, người gửi phải rút tiền ra. Tuy không thuận lợi bằng tiền gửi thanh toán nhưng
tiền gửi có kỳ hạn lãi được hưởng lãi suất cao hơn tuỳ theo kỳ hạn gửi tiền.
1.1.4.2. Vai trò của vốn tiền gửi đối với ngân hàng thương mại
Vốn tiền gửi chiếm tỷ trọng lớn nhất trong cơ cấu nguồn vốn kinh doanh của ngân
hàng thương mại, nó là nguồn vốn quan trọng nhất của ngân hàng. Vốn huy động là
nguồn lực chính để ngân hàng tiến hành các nghiệp vụ kinh doanh của mình. Bởi vì nó
không chỉ lớn về quy mô mà còn đa dạng về thời hạn và so với các nguồn khác thì nó
có nhiều ưu điểm hơn hẳn. Xét về vốn tự có của ngân hàng, nó chiếm tỷ trọng rất nhỏ
so với nhu cầu kinh doanh của ngân hàng. Hơn nữa việc tăng vốn tự có là không dễ vì
vốn tự có được hình thành chủ yếu từ lợi nhuận và đóng góp của chủ sở hữu. Với các
ngân hàng thương mại cổ phần thì có thể phát hành cổ phiếu để tăng vốn nhưng lại đối
mặt với ngu cơ giảm cổ tức của cổ đông do hiệu ứng pha loãng. Xét về phần vốn vay
từ ngân hàng trung ương và các ngân hàng thương mại khác thì chỉ đáp ứng được một
lượng vốn nhỏ, bị giới hạn về cả quy mô và thời hạn, chịu ràng buộc về các quy định
của ngân hàng nhà nước, và đây chỉ là nguồn vốn vay nhằm giải quyết tạm thời thiếu
hụt vốn khả dụng trong thời gian ngắn chứ không thể đáp ứng nhu cầu về vốn kinh
doanh của ngân hàng.
Đối với ngân hàng thương mại, cho vay là một hoạt động sinh lời cao, do đó các
ngân hàng đã tìm kiếm mọi cách để huy động nguồn vốn cho vay. Một trong những
nguồn vốn quan trọng là các khoản tiền gửi tiết kiệm của khách hàng – một quỹ sinh
lợi được gửi tại ngân hàng trong một khoảng thời gian nhất định, đôi khi được hưởng
mức lãi suất tương đối cao. Khi huy động được càng nhiều vốn tiền gửi, ngân hàng sẽ
mở rộng được khả năng cho vay hơn, tín dụng cũng tăng trưởng hơn, tính thanh khoản

tăng, chính vì vậy sẽ đem lại một nguồn lợi nhuận lớn cho ngân hàng, tăng sự phát
triển và ổn định của ngân hàng.
1.2. Hiệu quả huy động vốn tiền gửi đối với ngân hàng thương mại
1.2.1. Khái niệm hiệu quả huy động vốn tiền gửi của NHTM
9
Bất kỳ hoạt động nào của mình, con người đều quan tâm đến hiệu quả. Điều này có
nghĩa với một lượng chi phí nhất định , con người đều mong muốn có một kết quả lớn
nhất , đáp ứng nhu cầu cao nhất của con người hoặc muốn tạo ra một khối lượng sản
phẩm cho trước.
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, ngân hàng cũng như các tổ chức tín dụng
khác đang phải đối mặt với các cuộc cạnh tranh khốc liệt. Bất kỳ biến động nào dù nhỏ
hay lớn đều ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh của ngân hàng nói chung và hoạt
động huy động vốn nói riêng. Vì vậy, hiệu quả huy động vốn không chỉ đánh giá chính
xác đúng đắn hoạt động huy động vốn nói riêng mà còn phản ánh khả năng thích nghi
và khẳng định sự phát triển trên thị trường của ngân hàng.
Hiện nay, có nhiều quan điểm về hiệu quả, có thể xem xét một số định nghĩa sau:
- Trong “Đại từ điển tiếng việt” hiệu quả là kết quả đích thực
- Trong “Đại từ điển kinh tế thị trường” thì “Hiệu quả kinh tế còn gọi là hiệu ích
kinh tế”, đó là sự so sánh giữa chiếm dụng và tiêu hao trong hoạt động kinh tế với
thành quả có ích đạt được. Nói một cách đơn giản , đó là sự so sánh giữa chi phí đầu ra
với chi phí đầu vào, giữa chi phí với kết quả. Phạm trù hiệu quả phản ánh mối quan hệ
tương hỗ giữa mục đích, kết quả, chi phí, nguồn lực trong huy động, hay một quá trình
được nghiên cứu. Vì vậy trong khuôn khổ của luận văn, “hiệu quả huy động vốn tiền
gửi của ngân hàng thương mại được nhìn nhận như là kết quả đích thực thu được từ
tiền gửi của các tổ chức kinh tế, cá nhân trong hoạt động huy động vốn của ngân
hàng”(Quản trị ngân hàng thương mại). Để hoạt động kinh doanh đạt được lợi nhuận
cao, các ngân hàng phải đảm bảo cho các hoạt động được hiệu quả. Huy động vốn là
một hoạt động kinh doanh của NHTM, hiệu quả trong huy động vốn tiền gửi góp phần
quan trọng trong hoạt động ngân hàng nói chung và trong việc tạo nên lợi nhuận nói
riêng. Là một hoạt động kinh doanh nên có thể hiểu hiệu quả huy động vốn với ngân

hàng là mối tương quan so sánh giữa các kết quả và chi phí bỏ ra. Hiệu quả này càng
cao khi các kết quả đạt được càng cao và chi phí bỏ ra càng thấp. Hiệu quả huy động
vốn góp phần quan trọng trong việc tạo lợi nhuân, tạo sự ổn định của nguồn vốn, thúc
đẩy tăng trưởng và hạn chế rủi ro trong ngân hàng.
Hiệu quả huy động vốn được thể hiện ở các mặt sau:
- Hiệu quả đối với xã hội: Hiệu quả huy động vốn tiền gửi đối với xã hội được nhìn
nhận trên góc độ các lợi ích mà lượng vốn này được sử dụng để bổ sung lượng vốn
cho nền kinh tế và nâng cao mức sống của người dân thay vì sử dụng đồng vốn đó vào
chi tiêu khác. Hiệu quả này có được là nhờ việc tiết kiệm chi tiêu, tăng cường các hoạt
động sản xuất kinh doanh, tạo nên công ăn việc làm cho người lao động, nâng cao mức
sống của người dân thông qua sinh lời của khoản tiết kiệm tại ngân hàng và các lợi ích
gián tiếp của quá trình sử dụng vốn tiết kiệm để kinh doanh mang lại.
Hiệu quả của việc huy động vốn từ dân cư của NHTM đối với xã hội ngày càng cao
trong điều kiện đất nước đó đang cần nhiều vốn để phát triển nền kinh tế, nhất là các
10
nước đang phát triển.
- Hiệu quả đối với khách hàng: khi khách hàng tham gia vào hoạt động huy động
vốn thì hiệu quả của hoạt động này được hiểu là các lợi ích mà người dân thu được khi
gửi tiền vào ngân hàng. Hiệu quả này có được là nhờ sinh lời từ khoản tiền người dân
cho ngân hàng sử dụng trong một thời gian nhất định và các tiện ích khác khi tham gia
vào dịch vụ của ngân hàng.
Hiệu quả từ việc huy động vốn của ngân hàng đối với khách hàng càng cao khi mức
lãi suất và các ưu đãi họ được hưởng trên khoản tiền họ đã gửi vào ngân hàng cao hơn
so với các ngân hàng khác và so với hình thức đầu tư khác.
- Hiệu quả đối với NHTM: Hiệu quả huy động vốn của ngân hàng thương mại dựa
trên mối tương quan so sánh giữa kết quả thu được từ vốn huy động và chi phí bỏ ra để
huy động. Hiệu quả này càng cao khi kết quả đạt được (chính là doanh thu của việc sử
dụng khoản vốn huy động tiền gửi) càng cao và lượng chi phí bỏ ra càng thấp (bao
gồm lãi phải trả và các chi phí khác).
1.2.2. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả huy động vốn của NHTM

1.2.2.1. Chỉ tiêu định tính
Mức thuận lợi và lợi ích của khách hàng gửi tiền.
Đây là nhân tố quan trọng trong mối quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng. Mặc
dù các ngân hàng ngày nay cạnh tranh với nhau chủ yếu ở chất lượng sản phẩm và
dịch vụ nhưng giá cả mỗi ngân hàng vốn là một nhân tố hấp dẫn khách hàng. Nghĩa là
ngân hàng phải trả cho khách hàng thoả đáng nếu không muốn nói là tốt hơn các ngân
hàng khác. Một khách hàng không muốm mang vốn nhàn rỗi của mình đầu tư váo sản
xuất kinh doanh, họ có thể mang đến ngân hàng để gửi tiền để thu lãi tiền gửi. Ngân
hàng nào đem lại cho khách hàng mức lợi nhuận tối đa và lợi ích tốt nhất ngân hàng đó
sẽ huy động được vốn nhàn rỗi từ khách hàng. Khi đánh giá chất lượng công tác huy
động vốn, người ta thường sử dụng chỉ tiêu trên để xem xét, đánh giá.
Hiện nay khi NHNN ban hành cơ chế lãi suất thoả thuận, tức là giao quyền tự quyết
và lãi suất huy động và cho vay cho các ngân hàng. Ngân hàng nào đưa ra mức lãi suất
huy động vừa có khả năng cạnh tranh với các ngân hàng bạn, lại vừa hấp dẫn được
khách hàng thì chứng tỏ công tác huy động vốn của ngân hàng đó là rất tốt. Hơn nữa,
nếu ngân hàng rút ngắn được quy trình huy động vốn, hạ được chi phí huy động vốn
đảm bảo thuận lợi cho người gửi tiền về thời hạn, loại tiền, lãi suất huy động, đại điểm
giao dịch thì khách hàng sẽ đem vốn nhàn rỗi gửi tại ngân hàng đó và ngân hàng cùng
hoạt động kinh doanh có hiệu quả. Một số ngân hàng khi cần thiết một khối lượng vốn
lớn đã áp dụng tiền gửi tiết kiệm có thưởng. Hình thức đó phần nào hấp dẫn được
khách hàng bởi khách hàng là người luôn được lợi mà hoàn toàn không gặp rủi ro nào
hết. Việc huy động vốn theo hình thức này có thể được tổ chức theo từng đợt huy động
vốn, giá trị của giải thưởng tuỳ thuộc vào lượng tiền dự định trong đợt huy động.
11
Phương pháp này xét kỹ còn có lợi hơn phương pháp lãi suất. Mặc dù bản chất là
giống nhau. Ngân hàng bị giảm một phần lợi nhuận nhưnh bù lại số lượng khoản giao
dịch tăng lên nên cuối cùng lợi nhuận ngân hàng sẽ tăng lên. Bên cạnh đó ngân hàng
có thể áp dụng một số biện pháp khác: tặng quà nhân dịp ngày lễ, tết hay những ngày
trọng đại đối với khách hàng có số tiền gửi lớn và thường xuyên.
Thông thường tại các ngân hàng hiện nay, mỗi khi ngân hàng có nhu cầu gửi thêm

tiền mặt hoặc rút ra thì họ phải trực tiếp mang sổ tiết kiệm tới tổ chức tín dụng nơi họ
gửi vào. Khi có sự thoả thuận giữa các ngân hàng với nhau thì khách hàng có thể gửi
tiền vào và rút tiền ra tại nơi thuận tiện nhất đối với họ. Điều này cần có sự tăng cường
quan hệ chặt chẽ giữa các ngân hàng. Mỗi ngân hàng không thể tự khép kín hoạt động
của mình mà cần có sự liên kết với nhau có như vậy khả năng cung cấp cho khách hàng
của mình mới phát triển và hiệu quả.
Uy tín ngân hàng và số lượng vốn bị rút trước hạn.
Với phương châm “đi vay để cho vay” ngân hàng muốn hoạt động kinh doanh có
hiệu quả thì ngân hàng phải tạo được uy tín đối với khách hàng. Uy tín của ngân hàng
có sự tác động tới công tác huy động vốn và sử dụng vốn của ngân hàng. Khi ngân
hàng có uy tín, khách hàng sẽ tìm đến với ngân hàng đó để giao dịch, ngân hàng thu
hút được nguồn vốn nhàn rỗi từ khách hàng. Ngược lại, khi ngân hàng mất uy tín
khách hàng sẽ không đến với ngân hàng bởi vì họ sợ gặp rủi ro. Khi đó, những khách
hàng đã gửi tiền tại ngân hàng sẽ tìm cách rút tiền gửi ra khỏi ngân hàng mặc dù số
tiền gửi đó chưa đến hạn và khách hàng phải chịu thiệt vì số tiền lãi mà họ được hưởng
được tính theo lãi suất thấp hơn hoặc lãi suất bằng không. Nếu số lượng vốn bị rút
trước hạn quá lớn, ngân hàng đó sẽ rơi vào tình trạng mất cân đối giữa huy động vốn
và sử dụng vốn. Ngân hàng sẽ không còn khả năng thanh toán và cuối cùng là phá sản.
Vì vậy, để đánh giá chất lượng công tác huy động vốn của một ngân hàng người ta
còn so sánh tỷ lệ rút vốn trước hạn của một ngân hàng với các ngân hàng khác. Nếu tỷ
lệ này cao thì chứng tỏ uy tín của ngân hàng không cao, công tác huy động vốn chưa
được phát huy tốt.
Mức độ đa dạng hoá của các hình thức huy động vốn.
Phần lớn các ngân hàng hiện nay đều huy động vốn theo các hình thức truyền
thống: tiền gửi tiết kiệm, phát hành các công cụ nợ kỳ phiếu, trái phiếu, tín phiếu…do
vậy các ngân hàng không đáp ứng được nhu cầu của các khách hàng.
Việc đa dạng hoá các hình thức huy động là chỉ tiêu quan trọng để đánh giá công
tác huy động. Hiện nay các ngân hàng đều phấn đấu huy động vốn đảm bảo tăng
trưởng nhanh và vững chắc theo từng năm, năm sau cao hơn năm trước cả về số lượng
và chất lượng. Thông thường tỷ lệ tăng nguồn vốn huy động của các NHTM ở Việt

12
Nam khoảng 5- 9%.
Cơ cấu nguồn vốn huy động chuyển biến theo chiều hướng tích cực là: Tăng cường
nguốn vốn huy động dài hạn bởi hiện nay nguồn vốn huy động của các ngân hàng thì
có đến 80% là ngắn hạn (dưới 12 tháng) làm cho khả năng cung ứng vốn vay trung -
dài hạn bị hạn chế, đồng thời là nhân tố tiềm ẩn đe doạ sự ổn định và an toàn của hoạt
động ngân hàng. Tăng cường nguồn vốn huy động bằng ngoại tệ, cố gắng giảm vốn
huy động có lãi suất cao, tăng huy động vốn có lãi suất thấp, đảm bảo vốn cho hoạt
động kinh doanh. Thực hiện tốt việc lập và điều chỉnh kế hoạch về nguồn vốn tạo điều
kiện tăng doanh thu và tăng lợi nhuận.
Tuy nhiên công tác huy động vốn phải tuân thủ các chỉ tiêu mang tính bắt buộc sau:
Số lượng vốn huy động không được vượt quá 20 lần vốn tự có của bản thân ngân
hàng. Đồng thời tỷ lệ (Vốn Tự Có/Vốn Huy Động) x 100% luôn phải lớn hơn hoặc
bằng 5%.
Việc tuân thủ các chỉ tiêu trên sẽ giúp cho ngân hàng tránh được các rủi ro, đảm bảo
tăng trưởng nhanh, ổn định và vững chắc.
1.2.2.2. Chỉ tiêu định lượng
a. Quy mô nguồn vốn và tốc độ tăng trưởng nguồn vốn huy động
Vấn đề đầu tiên được quan tâm đến khi xem xét khả năng huy động vốn của một
NHTM chính là quy mô vốn Ngân hàng đó huy động được. Bên cạnh việc đánh giá
quy mô tổng vốn của ngân hàng, sự xem xét chi tiết quy mô từng loại vốn, vốn chủ sở
hữu và vốn nợ, cũng rất cần thiết. Các khoản mục được tính đến khi xác định quy mô
vốn chủ sở hữu bao gồm:
- Vốn cổ phần (vốn được cấp, vốn góp)
- Thặng dư vốn
- Lợi nhuận giữ lại
- Các quỹ: quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ, quỹ dự phòng rủi ro, các quỹ khác
- Tỷ lệ nhất định cổ phần ưu đãi có thời hạn và giấy nợ có khả năng chuyển đổi
thành cổ phiếu.
Khi xét về quy mô, vốn nợ của ngân hàng thương mại thường được xác định gồm

tiền gửi, tiền vay và vốn nợ khác. Trong đó, vốn nợ khác là vốn nhận uỷ thác, tiền
trong thanh toán và các khoản phải trả, phải nộp. Các khoản tiền gửi bao gồm:
- Tiền gửi thanh toán của doanh nghiệp
- Tiền gửi có kỳ hạn của các tổ chức
- Tiền gửi tiết kiệm của dân cư ( không kỳ hạn và có kỳ hạn )
- Tiền gửi của các tổ chức tín dụng
Để xác định quy mô tiền vay, các khoản mục được sử dụng gồm:
- Các giấy tờ có giá ngắn hạn khác, giấy tờ có giá dài hạn.
- Các khoản vay ngân hàng trung ương và vay các tổ chức tín dụng
Quy mô vốn chỉ là một chỉ số tuyệt đối và nếu chỉ được dùng đơn lẻ, nó không phản
ánh đầy đủ khả năng huy động vốn của một ngân hàng. Dựa vào chỉ tiêu quy mô vốn,
13
nhiều chỉ số tương đối được xác định. Các chỉ tiêu này cho thấy một cách đầy đủ hơn
khả năng huy động vốn của NHTM. Nếu quy mô vốn cho biết độ lớn của lượng vốn
ngân hàng huy động được thì tốc độ tăng trưởng phản ánh sự tăng (giảm) của vốn tại
các thời điểm khác nhau cũng như sự tăng (giảm) đó là nhiều hay ít.
Tốc độ tăng
=
Quy mô vốn năm i
x 100%
Quy mô vốn năm i - 1
( Giáo trình Ngân hàng thương mại – Tô Ngọc Hưng)
Tốc độ tăng trưởng >100: vốn của ngân hàng tăng
Tốc độ tăng trưởng <100: vốn của ngân hàng giảm
Vốn của ngân hàng gia tăng với những tỷ lệ xấp xỉ nhau trong nhiều năm thể hiện
một sự tăng trưởng vốn ổn định. Điều đó, một mặt, giúp ngân hàng thuận lợi hơn
trong việc dự kiến lượng vốn huy động được để có kế hoạch điều hoà vốn, tạo được sự
phù hợp giữa phương án mở rộng huy động vốn và mở rộng tín dụng. Trên khía cạnh
khác, sự tăng trưởng vốn ổn định còn cho thấy phần nào hình ảnh tốt của ngân hàng
trong mắt công chúng.

Quy mô nguồn vốn huy động là một trong những yếu tố đầu tiên ảnh hưởng tới hiệu
quả hoạt động huy động vốn của NHTM, được thể hiện qua chỉ tiêu : Tỷ lệ hoàn thành kế
hoạch huy động vốn.
Tỷ lệ hoàn thành
=
Vốn huy động thực tế
Nguồn vốn huy động kế hoạch
(Giáo trình Quản trị ngân hàng – Hồ Diệu )
Nếu tỷ lệ hoàn thành kế hoạch huy động vốn càng cao, điều này cho thấy công tác lập
kế hoạch đã sự báo chính xác hoặc gần chính xác lượng vốn có thể huy động được của
phòng giao dịch Đào Tấn. Việc xác định và tính toán lượng vốn huy động trong kế hoạch
rất quan trọng. Khi lượng vốn huy động thực tế chênh lệch không lớn với kế hoạch huy
động, ngân hàng dễ dàng dự trù được chi phí, tính toán trước được những rủi ro và lượng
vốn sử dụng trong kỳ tới do đã được dự báo trước một cách cẩn thận và hợp lý. Vì vậy,
hoạt động huy động vốn và sử dụng vốn sẽ có hiệu quả.
b. Cơ cấu nguồn vốn huy động
Một yếu tố quan trọng khác được đưa ra để đánh giá khả năng huy động vốn của
NHTM là cơ cấu vốn. Cơ cấu vốn được phản ánh thông qua tỷ trọng của từng loại vốn
trong tổng vốn của ngân hàng. Quy mô của loại vốn i được sử dụng để tính tỷ trọng
của nó trong tổng vốn huy động.
Tỷ trọng của loại
=
Quy mô của loại vốn i
Tổng vốn huy động
Việc tính toán tỷ trọng vốn nợ tương đối phức tạp. Nó có thể được thực hiện dựa
14
trên việc sử dụng nhiều tiêu chí khác nhau để phân loại vốn: theo đối tượng huy động,
theo kỳ hạn gửi tiền, theo tính chất hay theo loại tiền. Theo mỗi khía cạnh, những phân
tích, đánh giá được đưa ra sẽ phản ánh một cách đầy đủ hơn khả năng huy động vốn
của NHTM.

Tỷ trọng loại vốn nào cao phản ánh ưu thế của ngân hàng trong việc huy động loại
vốn đó. Mặt khác,nó cũng cho thấy sự chú trọng của ngân hàng vào những hình thức
huy động nhất định. Qua đó, người ta có thể nhận thấy chính sách huy động vốn của
ngân hàng và đánh giá được ngân hàng có đạt được mục tiêu trong trường hợp thực
hiện thay đổi cơ cấu hay không.
Việc nhận xét cơ cấu vốn của một ngân hàng không phải vấn đề đơn giản. Sự đánh
giá đó, ngoài việc phải căn cứ trên cơ sở các số liệu có sẵn, còn cần được nhìn nhận
đặc điểm cũng như môi trường kinh doanh cụ thể của từng ngân hàng. Mỗi ngân
hàng duy trì cho mình một cơ cấu vốn riêng. Sự áp đặt cơ cấu vốn giống các ngân
hàng khác có thể gây bất lợi hoặc không phát huy được thế mạnh của ngân hàng.
c. Chi phí huy động
 Chi phí huy động
Ngân hàng là doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ, nguồn vốn sở hữu của các ngân hàng
thường không thể đáp ứng nhu cầu sử dụng, do vậy ngân hàng phải huy động vốn với
chi phí nhất định. Do chi phí huy động vốn tác động trực tiếp đến hiệu quả hoạt động
của ngân hàng nên khi xét hiệu quả huy động vốn, ta phải xét đến chỉ tiêu chi phí huy
động vốn. Chi phí huy động vốn được tính như sau (Theo Quản trị ngân hàng – Hồ
Diệu):
 CP huy động vốn = Lãi trả cho nguồn huy động + CP huy động khác
Trong đó, lãi trả cho nguồn huy động là thành phần quan trọng ảnh hưởng đến quy
mô và hiệu quả huy động vốn.
 Lãi trả nguồn huy động = Quy mô huy động × Lãi suất huy động
Chi phí huy động vốn cho ta thấy để huy động được một lượng vốn cần phải chi phí
bao nhiêu.
Chi phí huy động trong hệ thống vốn rất đa dạng và không ngừng gia tăng trong
điều kiện các ngân hàng gia tăng cạnh tranh phi lãi suất bao gồm : chi phí trả trực tiếp
cho người gửi tiền (quà tặng, quay số trúng thưởng, bảo hiểm,…), chi phí tăng tính
tiện ích cho người gửi tiền (trang bị máy đếm tiền, huy động tại nhà, tại cơ quan,…),
chi phí bảo hiểm tiền gửi, Một số chi phí khác được tính vào chi phí quản lý và rất
khó phân bổ cho hoạt động huy động vốn. Việc xác định chi phí huy động vốn là công

việc phức tạp và khó khăn, quyết định tới hiệu quả huy động vốn của ngân hàng
thương mại nói chung và tại các phòng giao dịch nói riêng. Vì vậy, huy động vốn được
15
coi là hiệu quả xét trên phương diện chi phí khi :
- Ngân hàng huy động được vốn với chi phí thấp để sử dụng, trong khi vẫn đạt
được yêu cầu về sự phù hợp giữa huy động và sử dụng vốn.
- Ngân hàng quản lý chi phí thường xuyên, coi đây là công việc quan trọng vì khi
có thay đổi cơ cấu nguồn hay lãi suất đều làm thay đổi chi phí trả lãi.
 Thu nhập từ sử dụng vốn
Thông thường các ngân hàng chịu chi phí thấp với nguồn vốn có thời hạn ngắn do
tính ổn định không cao và ngược lại chi phí cao với nguồn vốn có thời hạn dài do tính
ổn định của nó. Việc chi phí vốn huy động sẽ tác động đến thu nhập của việc sử dụng
nguồn vốn huy động, vì thế các ngân hàng luôn tìm cách giảm tối đa chi phí để tăng lợi
nhuận. Thu nhập là chỉ tiêu quan trọng để đánh giá hiệu quả huy động vốn.
 Thu nhập sử dụng vốn = Doanh thu từ lãi sử dụng vốn – CP huy động
Ngoài ra để xem xét hiệu quả huy động vốn, người ta cũng thường xuyên sử dụng
một chỉ tiêu nữa là : Tỷ suất lợi nhuận vốn huy động. Chỉ tiêu này có công thức :
 Tỷ suất lợi nhuận
=
Thu nhập sau thuế vốn huy động
Nguồn vốn huy động
d. Một số chỉ tiêu khác
Ngoài chỉ tiêu chi phí huy động vốn, hiệu quả công tác huy động vốn còn được
đánh giá qua một số chỉ tiêu sau :
 Giá thành của 1 đơn
=
Tổng chi phí (C)
Tổng số vốn huy động (V)
Trong đó :
C : Tổng chi phí bao gồm : Lợi tức trả cho người gửi, Chi phí quản lý, Lương trả

cho cán bộ công nhân viên, Chi phí tiếp thị, khuyến mãi, quảng cáo,
Giá thành của một đồng vốn huy động được càng thấp thì lợi nhuận thu được khi sử
dụng đồng vốn đó cho vay càng cao và như vậy hiệu quả huy động cũng tăng. Vì vậy,
để tăng hiệu quả huy động vốn thì giá thành của một đồng vốn là thấp nhất, mà điều
đó phải phụ thuộc vào việc giảm các chi phí bỏ ra để thu hút được số vốn đó.
 Hệ số sử dụng
=
Số vốn được sử dụng
Tổng số vốn huy động
(Theo Tín dụng ngân hàng – Hồ Diệu)
Số lượng vốn được sử dụng trong tổng số vốn huy động càng tăng thì hệ số sử dụng
16
vốn càng lớn. Điều này cho thấy số vốn huy động được quay vòng nhanh và có hiệu
quả từ đó làm cho lợi nhuận thu được cũng tăng theo.
 Lãi suất đầu
=
Chi phí lãi tiền gửi
x 100%
Số vốn huy động
Chỉ tiêu này xác định lãi suất huy động bình quân của ngân hàng trong từng thời kỳ
nhất định. Qua đó, so sánh khả năng hấp dẫn khách hàng của ngân hàng bằng lãi
suất đồng thời cho phép so sánh chi phí huy động giữa các ngân hàng.
e. Khả năng đáp ứng nhu cầu kinh doanh
Để đánh giá khả năng đáp ứng nhu cầu kinh doanh, thường sử dụng các chỉ tiêu so
sánh nguồn vốn huy động được với các nhu cầu tín dụng, thanh toán và các nhu cầu
khác để thấy nguồn vốn huy động có thể đáp ứng được bao nhiêu, ngân hàng phải vay
thêm bao nhiêu để thoả mãn nhu cầu ấy. Để đạt được mục tiêu này, ngân hàng phải có
cơ cấu vốn hợp lý. Cơ cấu vốn huy động ở đây bao gồm cơ cấu vốn theo ngắn hạn và
trung, dài hạn ; cơ cấu vốn theo nội tệ và ngoại tệ ; theo tiền gửi dân cư và tiền gửi
doanh nghiệp. Cơ cấu vốn hợp lý có thể đáp ứng được tối đa nhu cầu sử dụng vốn,

không có tình trạng bất hợp lý giữa vốn huy động với nhu cầu sử dụng vốn. Theo giáo
trình Tín dụng và thẩm định tín dụng ngân hàng – Nguyễn Minh Kiều ta có chỉ số :
Khả năng đáp ứng
=
Vốn huy động
x 100%
Sử dụng vốn
f. Sự phù hợp giữa huy động vốn và sử dụng vốn
Hoạt động chính của ngân hàng thương mại là huy động vốn nhằm thu lợi nhuận.
Theo đó ngân hàng sẽ chuyển hoá nguồn vốn – tiền gửi, tiền vay, vốn của chủ - thành
các loại tài sản như ngân quỹ, tín dụng, chứng khoán, các tài sản khác theo một phương
thức thích hợp, nhằm thoả mãn các mục tiêu mà ngân hàng đặt ra.
Tài sản mang lại thu nhập chủ yếu cho ngân hàng còn nguồn vốn liên quan tới chi
phí chủ yếu của ngân hàng, chi phí trả lãi. Quy mô huy động càng tăng, tài sản càng
tăng, khả năng sinh lời càng lớn hoặc ngược lại. Nếu dùng chỉ tiêu chênh lệch thu chi từ
lãi (thu nhập từ lãi – chi phí trả lãi) để đo mối liên hệ sinh lời giữa nguồn vốn và tài sản
thì sinh lời tăng khi lãi suất bình quân của tài sản phải lớn hơn lãi suất bình quân của
nguồn vốn, hoặc lãi suất biên của tài sản phải lớn hơn lãi suất biên của nguồn vốn. Điều
này có nghĩa là nguồn vốn và sự gia tăng nguồn vốn với quy mô và cấu trúc nhất định,
cần được phân bổ các tài sản sinh lời thích hợp.
Tỷ suất này càng cao thì hiệu quả huy động vốn càng cao.
Ngân hàng có thể theo đuổi lãi suất huy động cao để kiếm tìm các nguồn tiền với
quy mô lớn, để cho vay với lãi suất cao hoặc từ lãi suất cho vay phải chấp nhận trên thị
trường, nỗ lực tìm kiếm các nguồn với chi phí thấp.
Quy mô và cấu trúc tiền gửi liên quan chặt chẽ đến ngân quỹ và chứng khoán thanh
17

×