Tải bản đầy đủ (.doc) (71 trang)

nâng cao chất lượng bảo đảm tiền vay trong hoạt động tín dụng tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện ứng hòa – hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (422.21 KB, 71 trang )

Chuyên đề tốt nghiệp Học viện Ngân hàng
LỜI NÓI ĐẦU
Ngân hàng là một trong các tổ chức tài chính quan trọng trong việc phát triển
kinh tế ở Việt Nam - hoạt động trên lĩnh vực kinh doanh tiền tệ dưới hình thức huy
động vốn, sử dụng vốn và cung ứng các dịch vụ trung gian tài chính khác. Tuy
nhiên, hoạt động kinh doanh này luôn tiềm ẩn vô số các rủi ro mà trong đó đặc biệt
là rủi ro tín dụng bởi tín dụng là hoạt động quan trọng mang lại lợi nhuận lớn cho
các ngân hàng. Chính vì thế, các nhà quản lý ngân hàng đã nghiên cứu rất nhiều để
tìm ra nguyên nhân nhằm đưa ra biện pháp phòng ngừa rủi ro tín dụng. Và theo
tổng kết thì nguyên nhân chính là sự không an toàn về vốn. Do vậy, có thể khẳng
định rằng an toàn về vốn là sự cần thiết để dẫn đến sự phát triển trong hoạt động
kinh doanh của ngân hàng thương mại.
Bảo đảm tiền vay đã ra đời như là một trong các biện pháp hữu hiệu đảm bảo
an toàn các khoản cho vay. Khi bên đi vay không thực hiện đúng nghĩa vụ trả nợ
của mình, ngân hàng sẽ coi bảo đảm tiền vay là nguồn thu hồi khoản nợ đã cho vay.
Bảo đảm tiền vay còn giúp cho ngân hàng mở rộng việc tạo lập tín dụng đối với
khách hàng vì đây là một trong những điều kiện cấp tín dụng. Do đó, công tác
BĐTV càng được quan tâm đánh giá đúng thì các ngân hàng thương mại sẽ càng
hạn chế được rủi ro, thu hồi được nhiều khoản nợ và phát triển tăng sức cạnh tranh
trên thị trường, hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Chính vì vậy, em đã chọn đề tài “
Nâng cao chất lượng bảo đảm tiền vay trong hoạt động tín dụng tại Ngân
Hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Huyện Ứng Hòa – Hà Nội” nghiên
cứu trong thời gian thực tập tại ngân hàng để làm chuyên đề tốt nghiệp cuối khóa.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Từ những lý luận cơ bản về bảo đảm tiền vay của NHTM, chuyên đề này sẽ
phân tích và đánh giá thực trạng, tìm nguyên nhân dẫn đến các mặt hạn chế trong
công tác nâng cao chất lượng bảo đảm tiền vay của Ngân hàng từ năm 2010 đến
năm 2012.
Nguyễn Hải Đăng Lớp: 8A2
1
Chuyên đề tốt nghiệp Học viện Ngân hàng


Kết cấu chuyên đề gồm những phần sau:
Lời mở đầu
Chương 1: Lý luận về bảo đảm tiền vay và chất lượng bảo đảm tiền vay của
Ngân hàng thương mại.
Chương 2:Thực trạng bảo đảm tiền vay tại NH No&PTNT huyện Ứng Hòa-
Hà Nội.
Chương 3: Giải pháp nhằm nâng cao chất lượng bảo đảm tiền vay tại NH
No&PTNT huyện Ứng Hòa – Hà Nội.
Kết luận
Mục đích nghiên cứu của chuyên đề là nhằm làm rõ 2 vấn đề sau:
Bảo đảm tiền vay vai trò và các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng bảo đảm
tiền vay của các NHTM.
Thực trạng chất lượng bảo đảm tiền vay tại NH No&PTNT huyện Ứng Hòa –
Hà Nội trong 3 năm 2010-2012 để từ đó nêu ra một số các giải pháp khắc phục và
kiến nghị.
Nguyễn Hải Đăng Lớp: 8A2
2
Chuyên đề tốt nghiệp Học viện Ngân hàng
CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN VỀ BẢO ĐẢM TIỀN VAY VÀ CHẤT LƯỢNG BẢO ĐẢM
TIỀN VAY CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. NHTM và hoạt động cho vay của NHTM
1.1.1. Khái quát về ngân hàng thương mại
Lịch sử hình thành và phát triển của ngân hàng gắn liền với lịch sử phát triển
của nền sản xuất hàng hóa. Quá trình phát triển kinh tế là điều kiện và đòi hỏi sự
phát triển của NH; đến lượt mình sự phát triển của hệ thống NH trở thành động lực
thúc đẩy kinh tế phát triển. Do đó, NH là một loại hình tổ chức quan trọng đối với
nền kinh tế.
Theo quan điểm của các nhà kinh tế học trên thế giới thì ngân hàng thương
mại là một doanh nghiệp hoạt động và kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ và tín

dụng.
Theo Peter S.Rose: ''Ngân hàng là loại hình tổ chức tài chính cung cấp một
danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất - đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, các
dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ
chức kinh doanh nào trong nền kinh tế.''
Theo quy định tại luật các tổ chức tín dụng Việt Nam định nghĩa: “Ngân hàng
thương mại là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động Ngân
hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan. Theo tính chất và mục tiêu
hoạt động, các loại hình Ngân hàng gồm Ngân hàng thương mại, Ngân hàng đầu
tư, Ngân hàng chính sách, Ngân hàng hợp tác và các loại hình Ngân hàng khác”
NHTM là tổ chức kinh doanh hàng hóa đặc biệt – tiền tệ thực hiện các hoạt
động cơ bản là huy động vốn, sử dụng vốn và hoạt động dịch vụ tài chính khác. Các
hoạt động này tác động hỗ trợ thúc đẩy nhau phát triển tạo ra lợi nhuận và uy tín
cho ngân hàng. Ngân hàng huy động vốn để thực hiện nhiệm vụ cho vay; cho vay
có hiệu quả thì mới đem lại lợi nhuận xây dựng cơ sở vật chất, trang thiết bị, nâng
cao chất lượng dịch vụ…; để huy động vốn từ mọi khách hàng nhiều hơn và đồng
Nguyễn Hải Đăng Lớp: 8A2
3
Chuyên đề tốt nghiệp Học viện Ngân hàng
thời muốn hoạt động cho vay và huy động vốn thực hiện tốt thì ngân hàng cũng
phải làm tốt hoạt động trung gian cung cấp các dịch vụ cho khách hàng.
1.1.2. Các hoạt động cơ bản của NHTM
1.1.2.1. Hoạt động huy động vốn
Vốn chi phối toàn bộ các hoạt động và quyết định đối với việc thực hiện các
chức năng của NHTM. Hoạt động của NHTM chủ yếu dựa trên nguồn vốn huy
động còn nguồn vốn tự có của NHTM là rất nhỏ chủ yếu để hạn chế những rủi ro
cho ngân hàng. Chính vì vậy, nghiệp vụ huy động vốn luôn được coi là nghiệp vụ
khởi đầu tạo điều kiện và giữ vai trò quan trọng ảnh hưởng đến chất lượng hoạt
động của ngân hàng. Nguồn huy động của ngân hàng rất phong phú bao gồm có:
•Tiền gửi thanh toán

Đây là loại tiền gửi không kỳ hạn có lãi suất rất thấp mang tính chất tượng
trưng. Mục đích của người gửi tiền là để hưởng các dịch vụ của ngân hàng phục vụ
cho quá trình thanh toán của mình. Loại tiền gửi này tuy có chi phí thấp nhưng chứa
đựng rủi ro cao, do người gửi có thể rút bất kỳ lúc nào. Tỉ lệ tiền gửi thanh toán ở
Việt Nam còn thấp rất nhiều so với tỷ lệ chung trên thế giới vì người dân nước ta
vẫn giữ thói quen sử dụng tiền mặt trong lưu thông.
•Tiền gửi tiết kiệm
Mục đích của loại tiền gửi này là để hưởng lãi suất. Có hai loại tiền gửi tiết
kiệm là: Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn và không có kỳ hạn. Các kỳ hạn do sự thoả
thuận giữa khách hàng và ngân hàng.
•Các loại khác
Ngoài hai loại tiền gửi chủ yếu trên ngân hàng còn thực hiện một số hình thức
tiền gửi khác như tiền gửi tiết kiệm bằng VNĐ đảm bảo giá trị theo giá vàng, tiết
kiệm tích lũy, tiết kiệm tích lũy thưởng, tiền gửi bậc thang, tiết kiệm bậc thang…
Ngân hàng không chỉ huy động vốn bằng tiền gửi mà còn bằng nhiều hình
thức huy động vốn khác như phát hành chứng khoán, vay trên thị trường tiền tệ, vay
từ tổ chức tín dụng khác, vay từ NHTW… Tuy nhiên, các hình thức này không
thường xuyên mà chỉ thực hiện trong những trường hợp nhất định bởi chứa đựng
trong đó các ràng buộc và điều kiện.
Nguyễn Hải Đăng Lớp: 8A2
4
Chuyên đề tốt nghiệp Học viện Ngân hàng
1.1.2.2. Nghiệp vụ sử dụng vốn
Ngân hàng dùng vốn huy động được cùng với vốn tự có để thực hiện các hoạt
động kinh doanh nhằm thu được lợi nhuận. Việc sử dụng vốn chính là quá trình tạo
nên các loại tài sản khác nhau của ngân hàng trong đó cho vay là khoản mục tài sản
đem lại thu nhập lớn nhất đồng thời cũng chứa đựng rủi ro nhất.
•Ngân quỹ
Bao gồm tiền mặt tại quĩ, tiền gửi tại NHNN (dự trữ bắt buộc và tiền gửi đảm
bảo khả năng thanh toán), các chứng khoán có tính thanh khoản cao. Đây là khoản

mục tài sản không sinh lời hoặc sinh lời thấp song lại có tính thanh khoản cao nhất
đáp ứng nhu cầu chi trả thường xuyên cho khách hàng.
•Nghiệp vụ cho vay
Đây là hoạt động chủ yếu và quan trọng nhất của ngân hàng, nó thường đem lại
cho ngân hàng khoản lợi nhuận cao tới 60 – 70%. Hoạt động cho vay mang lại lợi
nhuận cơ bản cho ngân hàng, nhưng đồng thời nó cũng mang lại rủi ro rất cao cho
nên NH luôn xem xét kỹ lưỡng tới từng món vay và từng đối tượng khách hàng vay .
•Nghiệp vụ đầu tư
Hoạt động đầu tư của NHTM diễn ra chủ yếu trên thị trường tài chính thông
qua hoạt động hùn vốn, góp vốn, kinh doanh chứng khoán trên thị trường với mục
đích kiếm lời, phân tán rủi ro qua việc đa dạng hoá các hoạt động kinh doanh.
•Cho thuê
Là việc NH bỏ tiền mua tài sản để cho khách hàng thuê theo những thỏa thuận
nhất định giữa khách hàng với ngân hàng. Khách hàng cũng phải trả cả gốc lẫn lãi
cho NH sau một khoảng thời gian nhất định.
•Các hoạt động sử dụng vốn khác
như: uỷ thác, đại lý, kinh doanh và dịch vụ bảo hiểm, thực hiện các dịch vụ tư
vấn và các dịch vụ khác liên quan đến hoạt động ngân hàng như dịch vụ bảo quản
hiện vật quí, giấy tờ có giá, cho thuê két, cầm đồ… theo qui định của NHNN Việt
Nam giúp cho NH thu được những khoản lợi nhuận đáng kể.
Nguyễn Hải Đăng Lớp: 8A2
5
Chuyên đề tốt nghiệp Học viện Ngân hàng
1.1.2.3. Hoạt động trung gian tài chính khác
Ngoài hai nghiệp vụ trên, NH còn thực hiện cung cấp các dịch vụ khác cho
khách hàng nhằm thu phí và khuyến khích khách hàng đến với NH. Ngày nay, hoạt
động này ngày càng mang lại nhiều lợi nhuận cho ngân hàng. Các dịch vụ trung
gian thường gặp là: dịch vụ chuyển khoản, dịch vụ cung cấp các công cụ thanh toán,
dịch vụ thu hộ - chi hộ, dịch vụ chuyển tiền, dịch vụ kiều hối - thu đổi ngoại tệ, dịch
vụ thuê mua và bảo lãnh, dịch vụ tư vấn thông tin,…

Vai trò của các nghiệp vụ trung gian này là bổ sung thêm vào các nghiệp vụ cơ
bản, nó tạo giá trị gia tăng và có thể tạo ra sự khác biệt của ngân hàng trong cạnh tranh.
1.1.3. Hoạt động cho vay của NHTM
1.1.3.1. Khái niệm
Theo mục 1 - điều 3 - Quyết định 1627/2001/QĐ-NHNN về quy chế cho vay
của Tổ chức tín dụng với khách hàng thì: “Cho vay là một hình thức cấp tín dụng,
theo đó tổ chức tín dụng giao cho khách hàng một khoản tiền để sử dụng vào mục
đích và thời gian nhất định theo thoả thuận với nguyên tắc hoàn trả cả gốc và lãi”.
Như vậy, hoạt động này có sự chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị từ người
sở hữu ( NHTM ) sang khách hàng để sau một thời gian nhất định quay về với
lượng giá trị lớn hơn giá trị ban đầu.
Rõ ràng cho vay là chức năng kinh tế hàng đầu của các ngân hàng - thực hiện
điều hòa vốn trong nền kinh tế dưới hình thức phân phối nguồn vốn tạm thời nhàn
rỗi huy động từ trong xã hội cho những người thiếu vốn để đáp ứng nhu cầu về vốn
phục vụ cho sản xuất kinh doanh và đời sống dân cư. Cho vay thúc đẩy sự tăng
trưởng của các doanh nghiệp, tạo ra sức sống cho nền kinh tế. Hơn nữa thông qua
các khoản cho vay của ngân hàng, thị trường sẽ có thêm thông tin về chất lượng tín
dụng của từng khách hàng và nhờ đó giúp cho họ có khả năng nhận thêm các khoản
tín dụng mới từ những nguồn khác với chi phí thấp hơn.
Đối với hầu hết các ngân hàng, khoản mục cho vay chiếm quá nửa giá trị tổng
tài sản và tạo ra từ 1/2 đến 2/3 nguồn thu của ngân hàng. Tuy nhiên ngân hàng cũng
phải đối mặt với rủi ro rất cao khi cho vay nếu không có các biện pháp bảo đảm an
toàn cho các khoản vay.
Nguyễn Hải Đăng Lớp: 8A2
6
Chuyên đề tốt nghiệp Học viện Ngân hàng
1.1.3.2. Nguyên tắc cho vay
Các nguyên tắc cho vay của ngân hàng được quy định cụ thể như sau:
+ Khách hàng vay vốn phải sử dụng vốn vay đúng mục đích.
Đây là nguyên tắc cơ bản vì có sử dụng vốn đúng mục đích thì khách hàng

mới có thể thực hiện được dự án, phương án sản xuất kinh doanh theo lợi ích dự
kiến để từ đó thu hồi được vốn trả nợ cho ngân hàng. Nguyên tắc này cũng hạn chế
được được rủi ro đạo đức và hạn chế khả năng khách hàng dùng vốn vay để thực hiện
các hành vi mà pháp luật nghiêm cấm.
+ Khách hàng phải cam kết hoàn trả gốc và lãi đúng thời hạn.
Nguyên tắc này đảm bảo phương châm hoạt động của ngân hàng là “đi vay để
cho vay” và thực hiện nguyên tắc trong hạch toán kinh doanh lấy thu bù chi và có lãi.
Những nguyên tắc trên đều nhằm đảm bảo an toàn và khả năng sinh lời cho
hoạt động ngân hàng.
1.1.3.3. Qui trình cho vay
+ Khách hàng lập và nộp hồ sơ vay vốn đến ngân hàng.
+ Ngân hàng thẩm định hồ sơ vay vốn và quyết định cho vay.
+ Ngân hàng xác định các chỉ tiêu cho vay và ký kết hợp đồng tín dụng với
khách hàng.
+ Giải ngân và kiểm soát trong khi cấp vốn vay.
+ Thu nợ và đưa ra các quyết định mới liên quan đến an toàn của các khoản
cho vay.
1.1.3.4. Phân loại cho vay
Trong nền kinh tế thị trường, họat động cho vay của NHTM rất đa dạng và
phong phú với nhiều hình thức khác nhau. Việc áp dụng từng loại cho vay là tùy
thuộc vào đặc điểm kinh tế của đối tượng sử dụng vốn tín dụng nhằm sử dụng và
quản lý tín dụng có hiệu quả, phù hợp với sự vận động cũng như đặc điểm kinh tế
khác nhau của đối tượng tín dụng. Để tránh nhầm lẫn và có cái nhìn tổng quát về
các loại hình cho vay, người ta phân loại cho vay theo một số tiêu chí sau:
Nguyễn Hải Đăng Lớp: 8A2
7
Chuyên đề tốt nghiệp Học viện Ngân hàng
•Căn cứ theo thời gian
Việc phân chia theo thời gian có nghĩa rất quan trọng đối với ngân hàng vì
thời gian liên quan mật thiết đến tính an toàn và sinh lợi của khoản cho vay cũng

như khả năng hoàn trả của khách hàng. Theo thời gian cho vay chia thành :
Cho vay ngắn hạn : từ 12 tháng trở xuống được sử dụng để bù đắp thiếu hụt
vốn lưu động tạm thời của các doanh nghiệp, phục vụ nhu cầu tiêu dùng cá nhân và
hộ gia đình.
Cho vay trung hạn : từ trên 1 năm đến 5 năm sử dụng chủ yếu để đầu tư mua
sắm tài sản cố định, cải tiến và đổi mới trang thiết bị, mở rộng sản xuất và xây dựng
công trình vừa và nhỏ có thời hạn thu hồi vốn nhanh.
Cho vay dài hạn : thời hạn trên 5 năm đáp ứng nhu cầu đầu tư dài hạn như xây
dựng cơ bản, xây dựng cơ sở hạ tầng, cải tiến và mở rộng sản xuất có quy mô lớn.
•Căn cứ vào cách thức cho vay
Cho vay trực tiếp là hình thức trong đó ngân hàng cấp vốn trực tiếp cho khách
hàng có nhu cầu vay vốn, đồng thời khách hàng hoàn trả nợ vay trực tiếp cho ngân hàng.
Cho vay gián tiếp là hình thức cho vay thông qua các tổ chức trung gian như
nhóm sản xuất, hội nông dân, hội cựu chiến binh, hội phụ nữ. Cho vay gián tiếp
thường được áp dụng với thị trường có nhiều món vay nhỏ, người vay phân tán,
cách xa ngân hàng.
•Căn cứ theo tài sản đảm bảo
TSBĐ các khoản tín dụng cho phép ngân hàng có được nguồn thu nợ thứ hai
bằng cách bán các tài sản đó khi nguồn thu nợ thứ nhất không thu hồi được.
Cho vay có BĐ bằng tài sản là việc cho vay vốn của tổ chức tín dụng mà theo
đó nghĩa vụ trả nợ của khách hàng vay được cam kết bảo đảm thực hiện bằng tài
sản cầm cố, thế chấp, tài sản hình thành từ vốn vay hoặc bảo lãnh bằng tài sản của
bên thứ ba. Hình thức này áp dụng đối với những khách hàng không đủ uy tín.
Cho vay không có BĐ bằng tài sản là hình thức cho vay không có tài sản bảo
đảm thế chấp, cầm cố hay có sự bảo lãnh của người thứ ba. Trong hình thức này
người đi vay chủ yếu dựa vào uy tín và mối quan hệ truyền thống của bản thân mình
với ngân hàng để được cho vay.
Nguyễn Hải Đăng Lớp: 8A2
8
Chuyên đề tốt nghiệp Học viện Ngân hàng

•Căn cứ vào phương thức cho vay
Cho vay thấu chi
Là hình thức tín dụng ngắn hạn qua đó ngân hàng cho phép người vay được
chi trội (vượt) trên số dư tiền gửi thanh toán của mình đến một giới hạn nhất định
và trong khoảng thời gian xác định. Giới hạn này được gọi là hạn mức thấu chi.
Cho vay trực tiếp từng lần
Là hình thức cho vay tương đối phổ biến của ngân hàng đối với các khách
hàng không có nhu cầu vay thường xuyên, không có đủ điều kiện được cấp hạn mức
thấu chi. Vốn của ngân hàng chỉ tham gia vào một số giai đoạn nhất định của chu kì
sản xuất. Mỗi món vay được tách biệt nhau thành các hồ sơ khác nhau.
Cho vay theo hạn mức
Tổ chức tín dụng và khách hàng xác định và thỏa thuận một hạn mức tín dụng
duy trì trong một khoảng thời gian nhất định.
Cho vay trả góp
Khi vay vốn, tổ chức tín dụng và khách hàng xác định và thỏa thuận số lãi vốn
vay phải trả cộng với số nợ gốc được chia ra để trả nợ theo nhiều kỳ hạn trong thời
hạn cho vay.
Cho vay luân chuyển
Nghiệp vụ cho vay dựa trên sự luân chuyển của hàng hóa. Ngân hàng cho
khách hàng vay để mua hàng và sẽ thu nợ khi doanh nghiệp bán hàng.
1.2. Bảo đảm tiền vay của NHTM
1.2.1. Khái niệm
Theo khoản 1 điều 2, Nghị định 178/1999/NĐ - CP ngày 29/12/1999 về bảo
đảm tiền vay của các tổ chức tín dụng :
Bảo đảm tiền vay là việc tổ chức tín dụng áp dụng các biện pháp nhằm phòng
ngừa rủi ro, tạo cơ sở kinh tế và pháp lý để thu hồi được các khoản nợ đã cho
khách hàng vay.
Theo Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 về giao dịch bảo đảm thì:
Tài sản bảo đảm là tài sản mà bên bảo đảm dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa
vụ dân sự đối với bên nhận bảo đảm.

Nguyễn Hải Đăng Lớp: 8A2
9
Chuyên đề tốt nghiệp Học viện Ngân hàng
Tài sản bảo đảm do các bên thoả thuận và thuộc sở hữu của bên có nghĩa vụ
hoặc thuộc sở hữu của người thứ ba mà người này cam kết dùng tài sản đó để bảo
đảm thực hiện nghĩa vụ của bên có nghĩa vụ đối với bên có quyền.
Cho vay là nghiệp vụ sinh lời chủ yếu nhưng cũng chứa đựng rất nhiều rủi ro.
Có rất nhiều nguyên nhân gây ra rủi ro cho ngân hàng. Chẳng hạn do chủ quan
khách hàng làm ăn thua lỗ hoặc kém hiệu quả, cố tình chây ì hoặc lừa đảo của
khách hàng…dẫn đến không trả được nợ cho ngân hàng hay do chất lượng cán bộ
tín dụng yếu kém như không có khả năng đánh giá chất lượng các khoản vay, hoặc
cố tình làm sai qui định để mưu lợi riêng….
Trước khi cho vay các ngân hàng đều thực hiện đầy đủ các khâu thu thập
thông tin, phân tích tình hình hoạt động kinh doanh, đánh giá khả năng trả nợ của
khách hàng…tuy nhiên do tác động của nhiều yếu tố cả khách quan lẫn chủ quan
mà vẫn không thể loại bỏ hoàn toàn các rủi ro mất vốn cho ngân hàng. Do vậy, bảo
đảm tiền vay được sử dụng như là một trong những biện pháp, công cụ để giảm thiểu
tối đa rủi ro tín dụng và tăng khả năng thu hồi nợ cho ngân hàng.
Ngân hàng tùy vào từng đối tượng khách hàng mà dùng tài sản hay uy tín của
một cá nhân, tổ chức để bảo đảm cho một khoản vay. Khi bên đi vay không thực
hiện đúng nghĩa vụ trả nợ của mình, trong trường hợp cho vay có bảo đảm bằng tài
sản, ngân hàng sẽ coi TSBĐ là nguồn thu hồi khoản nợ đã cho vay.
1.2.2. Điều kiện xác định là TSBĐ tiền vay
Tùy theo từng loại khách hàng mà ngân hàng thực hiện bảo đảm tiền vay dưới
hình thức bảo đảm bằng tài sản hoặc bảo đảm không có tài sản. Thông thường, đối
với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các cá nhân chưa có uy tín cao muốn vay vốn
phải có tài sản bảo đảm. Từ góc độ của người cho vay, tài sản bảo đảm phải thể
hiện được ba đặc trưng sau :
•Giá trị của tài sản bảo đảm phải lớn hơn giá trị khoản vay.
Bảo đảm tiền vay không chỉ là nguồn thu nợ thứ hai của ngân hàng mà còn có ý

nghĩa nâng cao trách nhiệm của người đi vay đối với nghĩa vụ trả nợ cho ngân hàng
bởi nếu không họ sẽ mất tài sản. Nếu giá trị của TSBĐ mà nhỏ hơn nghĩa vụ được
bảo đảm bao gồm vốn gốc, lãi kể cả lãi quá hạn và các chi phí khác thì khách hàng dễ
Nguyễn Hải Đăng Lớp: 8A2
10
Chuyên đề tốt nghiệp Học viện Ngân hàng
có động cơ không trả nợ. Điều này sẽ gây khó khăn cho hoạt động của ngân hàng,
làm cho hoạt động BĐTV không phát huy được tác dụng và ý nghĩa của nó nữa.
•Tài sản bảo đảm phải có sẵn trên thị trường tiêu thụ.
Tài sản bảo đảm chỉ dễ xử lý, đem lại nguồn thu cho ngân hàng khi nó có thị
trường tiêu thụ và có tính thanh khoản cao. Mức độ thanh khoản cũng có quan hệ
đến lợi ích của người cho vay. Nếu mức độ thanh khoản thấp, tài sản khó bán trên
thị trường thì ngân hàng sẽ khó mà chấp nhận cho vay. Ngược lại, ngân hàng sẽ
chấp nhận một tài sản là TSBĐ nếu nó có tính thanh khoản cao, dễ mua bán trên thị
trường. Trường hợp TSBĐ có mức độ thanh khoản trung bình ngân hàng vẫn có thể
chấp nhận tuy nhiên khi đó phải tính đến chi phí do kéo dài thời gian xử lý.
•Phải có đầy đủ cơ sở pháp lý để người cho vay có quyền ưu tiên về xử lý tài
sản bảo đảm.
Tài sản phải thuộc quyền sở hữu hợp pháp của người đi vay, người bảo lãnh
hoặc thuộc quyền quản lý sử dụng của doanh nghiệp Nhà nước trong trường hợp
doanh nghiệp này đi vay hoặc bảo lãnh. Điều này sẽ tạo điều kiện cho ngân hàng dễ
dàng thực hiện hành vi chuyển giao, phát mại khi khách hàng không thực hiện được
nghĩa vụ trả nợ của mình.
TSBĐ cũng phải được pháp luật thừa nhận và không thuộc diện cấm giao dịch.
Điều này đảm bảo cở sở pháp lý trong việc chuyển giao tài sản từ người đi vay sang
ngân hàng đồng thời tránh những rắc rối phát sinh khi có sự cố để giúp cho ngân
hàng có quyền ưu tiên về xử lý tài sản nhằm thu hồi nợ.
1.2.3. Nguyên tắc bảo đảm tiền vay
Cho vay là hoạt động đem lại thu nhập lớn cho ngân hàng. Chính vì vậy việc
đề ra các nguyên tắc đảm bảo an toàn trong cho vay không chỉ là trách nhiệm riêng

của NHTM mà còn là trách nhiệm của Ngân hàng trung ương và các cơ quan quản
lý. Để thực hiện tốt công tác an toàn trong ngân hàng thì theo điều 4 Nghị định
178/1999/NĐ-CP ngày 29/12/1999 về bảo đảm tiền vay của tổ chức tín dụng có quy
định cụ thể nguyên tắc bảo đảm tiền vay như sau:
+ Tổ chức tín dụng có quyền lựa chọn, quyết định việc cho vay có bảo đảm
bằng tài sản, cho vay không có bảo đảm theo quy định của Tổng giám đốc về chính
Nguyễn Hải Đăng Lớp: 8A2
11
Chuyên đề tốt nghiệp Học viện Ngân hàng
sách khách hàng trong từng thời kỳ, hoặc theo quyết định của Tổng giám đốc trong
từng trường hợp cụ thể và chịu trách nhiệm về quyết định của mình. Trường hợp tổ
chức tín dụng nhà nước cho vay không có bảo đảm bằng tài sản theo chỉ định của
Chính phủ, thì tổn thất do nguyên nhân khách quan của các khoản cho vay này được
Chính phủ xử lý.
+ Khách hàng vay được tổ chức tín dụng lựa chọn cho vay không có bảo đảm
bằng tài sản, nếu trong quá trình sử dụng vốn vay, tổ chức tín dụng phát hiện khách
hàng vay vi phạm cam kết trong hợp đồng tín dụng, thì tổ chức tín dụng có quyền
áp dụng các biện pháp bảo đảm bằng tài sản hoặc thu hồi nợ trước hạn.
+ Tổ chức tín dụng có quyền xử lý tài sản BĐTV theo thỏa thuận trong hợp
đồng tín dụng và quy định của pháp luật có liên quan để thu hồi nợ khi khách hàng
vay hoặc bên bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ trả nợ
đã cam kết. Trường hợp tiền thu được từ xử lý tài sản bảo đảm còn thừa và khách
hàng vay vẫn còn khoản nợ đến hạn hoặc quá hạn khác thì phải thông báo với khách
hàng vay và sử dụng số tiền này để thanh toán khoản nợ đó.
+ Sau khi xử lý TSBĐ tiền vay, nếu khách hàng vay hoặc bên bảo lãnh vẫn
chưa thực hiện đúng nghĩa vụ trả nợ, thì khách hàng vay hoặc bên bảo lãnh có trách
nhiệm tiếp tục thực hiện đúng nghĩa vụ trả nợ đã cam kết.
Đây là nguyên tắc thực hiện BĐTV chung nhất để các ngân hàng căn cứ vào
đó mà xây dựng nên các nguyên tắc riêng phù hợp với tình hình hoạt động đường
lối phát triển của ngân hàng mình.

1.2.4. Vai trò của bảo đảm tiền vay
•Đối với ngân hàng
Thứ nhất, bảo đảm tiền vay giúp cho các ngân hàng hạn chế được rủi ro tín
dụng, đảm bảo an toàn vốn tạo cơ sở cho sự phát triển hoạt động kinh doanh của
ngân hàng.
NHTM kinh doanh loại hàng hóa đặc biệt đó là tiền tệ. Các NHTM hoạt động
theo nguyên tắc “đi vay để cho vay ” do vậy, khi ngân hàng cho vay quá nhiều mà
không xét đến các rủi ro xảy ra trong đầu tư tín dụng thì có thể sẽ gây ra sự sụp đổ
cho chính bản thân ngân hàng bởi nếu các khoản tiền gửi không được trả khi có yêu
Nguyễn Hải Đăng Lớp: 8A2
12
Chuyên đề tốt nghiệp Học viện Ngân hàng
cầu thì khách hàng sẽ ồ ạt đến rút tiền. Trong hoạt động của các NHTM thì rủi ro tín
dụng chiếm tỷ trọng lớn nhất. Rủi ro tín dụng là khả năng xảy ra những tổn thất
ngoài dự kiến cho ngân hàng do khách hàng vay không trả đúng hạn, không trả,
hoặc không trả đầy đủ vốn và lãi. Nó sẽ gây hậu quả xấu đến hoạt động kinh doanh
của ngân hàng, làm giảm thu nhập, thiệt hại về tài sản, do đó mà tác động đến toàn
bộ nền kinh tế. Có nhiều nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng nhưng chủ yếu là
không đảm bảo an toàn về vốn. Cho nên việc hoàn thiện cũng như áp dụng linh hoạt
các hình thức bảo đảm tiền vay sẽ là một trong những biện pháp rào chắn hữu hiệu
nhất do trước khi vay khách hàng phải trải qua rất nhiều khâu kiểm tra mới được
vay. Các khâu kiểm tra đó nhằm tìm hiểu nguyên nhân có thể gây ra khả năng
không hoàn trả được vốn vay của khách hàng, từ đó đưa ra các biện pháp hạn chế
rủi ro tín dụng.
Thứ hai, bảo đảm tiền vay giúp ngân hàng có nguồn thu nợ thứ hai khi nguồn
thu nợ thứ nhất không thực hiện được trong trường hợp cho vay có bảo đảm bằng
tài sản.
Trong cho vay kinh doanh thì nguồn thu nợ thứ nhất lấy từ doanh thu thực tế
đối với cho vay ngắn hạn, từ khấu hao và lợi nhuận đối với cho vay trung và dài hạn.
Trong cho vay tiêu dùng nguồn thu nợ thứ nhất là từ thu nhập cá nhân như tiền lương,

các khoản thu nhập tài chính (lãi tiền gửi, cổ tức, trái tức), thu nhập khác
Song trong hoạt động kinh doanh có vô số những nguyên nhân dẫn đến nguồn
thu nợ thứ nhất không thể thực hiện được, đòi hỏi phải có nguồn bổ sung nếu không
ngân hàng rất dễ gặp phải rủi ro tín dụng. Vì vậy, bảo đảm tiền vay đã hạn chế tổn
thất cho ngân hàng khi khách hàng vì một lý do nào đó không thanh toán được nợ
thông qua yêu cầu cần có tài sản bảo đảm cho khoản vay.
Thứ ba, bảo đảm tiền vay giúp cho ngân hàng tạo lập và mở rộng việc tạo lập
tín dụng đối với khách hàng.
BĐTV một trong những điều kiện cấp tín dụng. Trong nhiều trường hợp khi
khách hàng có phương án sản xuất kinh doanh hiệu quả, khả thi nhưng lại chưa có
đủ năng lực tài chính và uy tín đối với các ngân hàng thương mại thì việc họ có tài
sản bảo đảm hay được bảo lãnh của bên thứ ba thì ngân hàng sẽ dễ dàng hơn trong
Nguyễn Hải Đăng Lớp: 8A2
13
Chuyên đề tốt nghiệp Học viện Ngân hàng
việc đánh giá khả năng cho vay. Bảo đảm tiền vay khi đó sẽ là công cụ để ngân
hàng mở rộng thị phần, đưa sản phẩm dịch vụ tiếp cận gần hơn nữa với khách hàng.
•Đối với khách hàng
Thứ nhất, BĐTV gắn liền với trách nhiệm của người đi vay trong quá trình sử
dụng vốn vay.
Nếu khách hàng sử dụng vốn vay sai mục đích hoặc làm ăn thiếu hiệu quả dẫn
tới không có khả năng trả nợ thì ngân hàng sẽ có quyền trong việc xử lý TSBĐ thu
hồi lại nợ. Chính điều đó đã ràng buộc trách nhiệm của khách hàng, không có bảo
đảm khách hàng có thể sẽ cố tình lơ là nghĩa vụ trả nợ. Các khoản vay thường được
xác định theo một tỷ lệ nhất định so với giá trị của tài sản bảo đảm nên BĐTV là
động lực thúc đẩy khách hàng thực hiện nghĩa vụ trả nợ bởi nếu không họ sẽ bị thiệt
hại mất tài sản và tốn kém chi phí nhiều hơn giá trị của khoản nợ. Mặt khác, bảo
đảm trong cho vay còn là rào cản đối với những người đi vay có chủ ý lừa đảo.
Thứ hai, đây là điều kiện thuận lợi cho khách hàng vay vốn.
BĐTV thể hiện mối quan hệ, trách nhiệm ràng buộc lẫn nhau giữa ngân hàng

và khách hàng để từ đó mà sự tín nhiệm giữa khách hàng với ngân hàng được tăng
lên. Người đi vay khi có được sự tín nhiệm sẽ dễ dàng hơn trong việc thực hiện các
giao dịch với ngân hàng. Khi có tài sản bảo đảm thì đó chính là điều
kiện thuận lợi cho khách hàng nào không có đủ năng lực tài chính hay uy tín
cao đối với ngân hàng mà vẫn có thể vay vốn sản xuất kinh doanh hay tiêu dùng,
giúp khách hàng mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh, tăng cường sức cạnh
tranh, hoặc đáp ứng và thoả mãn nhu cầu tiêu dùng của dân cư.
Thứ ba, bảo đảm tiền vay giúp bảo về quyền lợi và lợi ích hợp pháp của người
gửi tiền.
Ngân hàng cho vay chủ yếu dựa trên nguồn huy động tiền gửi. Chính vì vậy,
trách nhiệm của ngân hàng chính là đảm bảo an toàn cho các khoản cho vay này bởi
nếu không có các biện pháp BĐTV thu hồi lại nợ thì ngân hàng sẽ không có đủ
nguồn vốn để trả cho người gửi tiền. Điều đó có thể gây ra tình trạng rút tiền hàng
loạt, dẫn đến nguy cơ phá sản ngân hàng, làm lung lay cả một hệ thống ngân hàng.
Do vậy, an toàn là một vấn đề cần xem xét trước tiên đối với mọi khoản vay và
Nguyễn Hải Đăng Lớp: 8A2
14
Chuyên đề tốt nghiệp Học viện Ngân hàng
BĐTV không chỉ là biện pháp phòng ngừa rủi ro hiệu quả mà nó còn gián tiếp bảo
về lợi ích cho người gửi tiền, nâng cao uy tín cho ngân hàng.
•Đối với nền kinh tế
Thứ nhất, BĐTV đã đem lại hiệu quả kinh tế xã hội, góp phần tạo ra môi
trường kinh doanh tiền tệ ổn định, phát triển lành mạnh trên cơ sở có sự ràng buộc
trách nhiệm và chia sẻ rủi ro giữa các bên.
Một nền kinh tế muốn phát triển thì phải có một thị trường tài chính nói chung
và một hệ thống ngân hàng nói riêng hoạt động vững mạnh. Tuy nhiên hoạt động
kinh doanh của NHTM luôn chứa đựng rất nhiều rủi ro tiềm ẩn tác động tới sự phát
triển của nền kinh tế. Bảo đảm tiền vay là một trong những điều kiện thành lập và
thúc đẩy việc tạo lập mối quan hệ giữa khách hàng và ngân hàng trong quan hệ vay
vốn qua đó hạn chế các rủi ro tín dụng đảm bảo phát triển hoạt động kinh doanh của

cả ngân hàng và các thành phần kinh tế khác.
Thứ hai, BĐTV hạn chế tranh chấp bảo vệ quyền lợi và lợi ích hợp pháp của
các bên tham gia quan hệ tín dụng với ngân hàng.
Theo điều 5 Nghị định 178/1999/NĐ-CP ngày 29/12/1999 về bảo đảm tiền
vay của tổ chức tín dụng quy định: “ Nhà nước bảo vệ quyền lợi và lợi ích hợp pháp
của các bên trong việc bảo đảm tiền vay. Không có một tổ chức, cá nhân nào được
can thiệp trái pháp luật vào việc bảo đảm tiền vay và việc xử lý tài sản bảo đảm tiền
vay của các bên.” Do đó, các tranh chấp bị hạn chế tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt
động cho vay vốn của các ngân hàng thương mại cũng như sự phát triển của nền
kinh tế xã hội.
Như vậy, bảo đảm tiền vay đóng vai trò vô cùng quan trọng không những đối
với hoạt động của các ngân hàng thương mại, khách hàng vay vốn mà còn đối với
toàn bộ nền kinh tế. Bảo đảm có ý nghĩa rất lớn trong hạn chế rủi ro tín dụng, đảm
bảo an toàn vốn trong hoạt động kinh doanh. Việc vận dụng linh hoạt các biện pháp
bảo đảm tiền vay là một đòi hỏi tất yếu khách quan đối với các NHTM trong việc
mở rộng hoạt động cho vay an toàn cũng như tạo điều kiện cho hoạt động tín dụng
phát triển và nâng cao uy tín của ngân hàng.
Nguyễn Hải Đăng Lớp: 8A2
15
Chuyên đề tốt nghiệp Học viện Ngân hàng
1.2.5. Các hình thức bảo đảm tiền vay
Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp
ngày càng phong phú và đa dạng. Họ cần vay rất nhiều vốn của ngân hàng để mở
rộng sản xuất kinh doanh nâng cao hiệu quả hoạt động. Chính vì vậy, để mở rộng
cho vay gắn liền với giảm rủi ro, bảo đảm an toàn vốn đòi hỏi các NHTM phải áp
dụng đồng thời nhiều biện pháp bảo đảm tiền vay, chấp nhận nhiều loại tài sản bảo
đảm và vận dụng các hình thức đó một cách linh hoạt, phù hợp với điều kiện của
từng khách hàng. Căn cứ vào năng lực tài chính của khách hàng, tính khả thi, hiệu
quả của món vay và khả năng trả nợ mà ngân hàng có thể lựa chọn áp dụng một
trong hai nhóm các hình thức bảo đảm tiền vay sau:

+ Bảo đảm tiền vay bằng tài sản
+ Bảo đảm tiền vay không bằng tài sản
•Bảo đảm tiền vay bằng tài sản
Theo Nghị định 163/ 2006 / NĐ-CP về giao dịch bảo đảm ban hành ngày
29/12/2006 thì các biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản gồm có:
+ Cầm cố tài sản của khách hàng vay
Theo điều 326 Bộ luật Dân Sự năm 2005 :
“Cầm cố tài sản là việc một bên (bên cầm cố) giao tài sản thuộc quyền sở hữu
của mình cho bên kia (bên nhận cầm cố) để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự
( trả nợ ).”
Theo điều 16 nghị định 163/2006/NĐ-CP ban hành ngày 29/12/2006 thì sau
khi nhận chuyển giao tài sản cầm cố, bên nhận cầm cố trực tiếp giữ tài sản hoặc ủy
quyền cho người thứ ba giữ tài sản; trường hợp ủy quyền cho người thứ ba giữ tài
sản thì bên nhận cầm cố vẫn phải chịu trách nhiệm trước bên cầm cố về việc thực
hiện các nghĩa vụ theo quy định tại Điều 332 Bộ luật Dân sự và nghĩa vụ khác theo
thoả thuận với bên cầm cố.
Tài sản bảo đảm dùng để cầm cố thì rất đa dạng và phong phú có thể là bất
động sản như nhà ở, xưởng sản xuất; hay các động sản như máy móc, thiết bị, vật
tư, hàng hóa, phương tiện vận tải; tài sản hình thành trong tương lai… Lợi tức và
các quyền phát sinh từ tài sản cầm cố cũng thuộc tài sản cầm cố, nếu các bên có
Nguyễn Hải Đăng Lớp: 8A2
16
Chuyên đề tốt nghiệp Học viện Ngân hàng
thoả thuận hoặc pháp luật có quy định; trường hợp tài sản cầm cố được bảo hiểm thì
khoản tiền bảo hiểm cũng thuộc tài sản cầm cố.
Mục đích của cầm cố tài sản là đề cao trách nhiệm của bên có nghĩa vụ đối với
việc thực hiện hợp đồng cho vay, bảo đảm quyền lợi và lợi ích hợp pháp của ngân
hàng đồng thời nó cũng tạo điện điều kiện cho khách hàng vay vốn dễ dàng hơn.
Khi cầm cố tài sản để vay, tài sản cầm cố của khách hàng không được tiếp tục sử
dụng vào hoạt động sản xuất kinh doanh nữa.

Cầm cố thích hợp với những tài sản mà ngân hàng có thể kiểm soát và bảo
quản tương đối chắc chắn, đồng thời việc ngân hàng nắm giữ tài sản không ảnh
hưởng đến quá trình hoạt động của khách hàng vay. Ngân hàng yêu cầu cầm cố khi
xét thấy việc khách hàng nắm giữ TSĐB là không an toàn cho ngân hàng.
Khi cấp vốn vay dựa trên bảo đảm bằng cầm cố, ngân hàng kiểm tra tính hợp
pháp, hợp lệ, an toàn của vật cầm cố như quyền sở hữu của khách hàng, khả năng
chi trả của người cam kết đối với vật cầm cố, giá trị thị trường khi phát mại… Sử
dụng biện pháp bảo đảm tín dụng bằng cầm cố thường an toàn hơn cho ngân hàng
do ngân hàng được phép nắm giữ, quản lý tài sản đó và thường là tài sản mà khách
hàng dễ bán, dễ chuyển nhượng.
+ Thế chấp bằng tài sản của khách hàng vay
Theo điều 342 của Bộ luật dân sự năm 2005:
“Thế chấp tài sản là việc một bên (bên thế chấp) dùng tài sản thuộc sở hữu
của mình để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự đối với bên kia (bên nhận thế
chấp) và không chuyển giao tài sản đó cho bên nhận thế chấp. Các bên có thể thỏa
thuận giao cho bên khác giữ tài sản thế chấp.”
Các loại tài sản thế chấp theo quy định của pháp luật bao gồm nhà ở, công
trình xây dựng và các tài sản gắn liền với đất; quyền sử dụng đất mà pháp luật về
đất đai quy định được thế chấp; tàu biển theo quy định của Bộ luật Hàng hải Việt
Nam, tàu bay theo quy định của luật Hàng không dân dụng Việt Nam trong trường
hợp được thế chấp và các tài sản khác theo quy định của pháp luật. Trong trường
hợp thế chấp toàn bộ bất động sản, động sản có vật phụ thì vật phụ của bất động
sản, động sản đó cũng thuộc tài sản thế chấp. Trong trường hợp thế chấp một phần
Nguyễn Hải Đăng Lớp: 8A2
17
Chuyên đề tốt nghiệp Học viện Ngân hàng
bất động sản, động sản có vật phụ thì vật phụ thuộc tài sản thế chấp trừ trường hợp
các bên có thoả thuận khác. Hoa lợi, lợi tức và các quyền phát sinh từ tài sản thế
chấp cũng thuộc tài sản thế chấp, nếu các bên có thỏa thuận hoặc pháp luật quy
định. Trường hợp tài sản thế chấp được bảo hiểm thì khoản tiền bảo hiểm cũng

thuộc tài sản thế chấp. Tài sản được hình thành trong tương lai, tài sản đang cho
thuê cũng có thể được dùng để thế chấp.
Phần lớn giá trị tài sản thế chấp lớn hơn giá trị tài sản cầm cố và giá trị của
khoản vay nên đảm bảo bằng thế chấp cho phép người nhận tài trợ vẫn được sử
dụng tài sản thế chấp phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Đây là một thuận
lợi tuy nhiên trong quá trình sử dụng sẽ làm biến dạng tài sản làm giảm giá trị đồng
thời ngân hàng cũng bị hạn chế việc kiểm soát tài sản nên dẫn đến nhiều rủi ro cho
ngân hàng. Chính vì vậy, khi tài trợ dựa trên đảm bảo bằng vật thế chấp, ngân hàng
cần phải xem xét kĩ vật thế chấp.
+ Đặt cọc, ký cược
Theo điều 358 của Bộ luật dân sự 2005:
“Đặt cọc là việc một bên giao cho bên kia một khoản tiền hoặc kim khí qúy,
đá quý hoặc các vật có giá trị khác (gọi là tài sản đặt cọc) trong một thời hạn để
bảo đảm giao kết hoặc thực hiện hợp đồng dân sự.”
Việc đặt cọc phải được lập thành văn bản. Trong trường hợp hợp đồng dân sự
được giao kết, thực hiện thì tài sản đặt cọc được trả lại cho bên đặt cọc hoặc được trừ
đi để thực hiện nghĩa vụ trả tiền; nếu bên đặt cọc từ chối việc giao kết, thực hiện hợp
đồng dân sự thì tài sản đặt cọc thuộc về bên nhận đặt cọc; nếu nhận đặt cọc từ chối
việc giao kết, thực hiện hợp đồng dân sự thì phải trả cho bên đặt cọc tài sản đặt cọc
và một khoản tiền tương đương giá trị tài sản đặt cọc, trừ trường hợp có thoả thuận
khác.
Theo điều 359 của Bộ luật dân sự 2005 :
“Ký cược là việc bên thuê tài sản là động sản giao cho bên cho thuê một khoản
tiền hoặc kim khí quí, đá quí hoặc các vật có giá trị khác (gọi là tài sản) ký cược)
trong một thời hạn để bảo đảm việc trả lại tài sản thuê.”
Trong trường hợp tài sản thuê được trả lại thì bên thuê được nhận lại tài sản ký
Nguyễn Hải Đăng Lớp: 8A2
18
Chuyên đề tốt nghiệp Học viện Ngân hàng
cược sau khi trừ tiền thuê; nếu bên thuê không trả lại tài sản thuê thì bên cho thuê

có quyền đòi lại tài sản thuê; nếu tài sản thuê không còn để trả lại thì tài sản ký cược
thuộc về bên cho thuê.
Đây là hình thức thường được áp dụng trong trường hợp ngân hàng cho vay
trả góp, cho vay trung và dài hạn đối với các dự án đầu tư phát triển sản xuất kinh
doanh, dịch vụ, đời sống.
Điều kiện ngân hàng cho vay dưới hình thức bảo đảm bằng đặt cọc, ký cược
tài sản là phải có uy tín, có khả năng tài chính và có các nguồn thu hợp pháp có khả
năng trả nợ đúng hạn, có dự án đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh khả thi, phù
hợp với quy định của pháp luật.
+ Ký quỹ
Theo điều 360 Bộ luật dân sự 2005:
“Ký quỹ là việc bên có nghĩa vụ gửi một khoản tiền hoặc kim khí quí, đá quí
hoặc giấy tờ có giá khác vào tài khoản phong toả tại một ngân hàng để bảo đảm
việc thực hiện nghĩa vụ dân sự”.
+ Bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba
Theo điều 361 của Bộ luật dân sự 2005:
“Bảo lãnh là việc người thứ ba (bên bảo lãnh) cam kết với bên có quyền (bên
nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ (bên được bảo lãnh),
nếu khi đến thời hạn mà bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không
đúng nghĩa vụ. Các bên cũng có thể thoả thuận về việc bên bảo lãnh chỉ phải thực hiện
nghĩa vụ khi bên được bảo lãnh không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình”.
Tài sản mà khách hàng vay, bên bảo lãnh dùng để cầm cố, thế chấp, bảo lãnh
vay vốn tại tổ chức tín dụng phải có đủ các điều kiện sau đây:
+ Tài sản phải thuộc quyền sở hữu hoặc thuộc quyền sử dụng, quản lý của
khách vay, bên bảo lãnh.
+ Đối với giá trị quyền sử đụng đất, phải thuộc quyền sử dụng của khách hàng
vay, bên bảo lãnh và được thế chấp, bảo lãnh theo quy định của pháp luật về đất đai.
+ Đối với tài sản của doanh nghiệp Nhà nước, thì phải là tài sản do Nhà nước
giao cho doanh nghiệp đó quản lý, sử dụng và được dùng để bảo đảm tiền vay theo
Nguyễn Hải Đăng Lớp: 8A2

19
Chuyên đề tốt nghiệp Học viện Ngân hàng
quy định của pháp luật về doanh nghiệp Nhà nước.
+ Đối với tài sản khác, thì phải thuộc quyền sở hữu của khách hàng vay, bên
bảo lãnh. Trường hợp tài sản mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu, thì
khách hàng vay, bên bảo lãnh phải có giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản.
+ Tài sản được phép giao dịch.
+ Tài sản không có tranh chấp.
+ Tài sản mà pháp luật quy định phải mua bảo hiểm thì khách hàng vay, bên
bảo lãnh phải mua bảo hiểm tài sản trong thời hanh bảo đảm tiền vay.
Bên bảo lãnh phải đảm bảo các điều kiện là có năng lực pháp luật dân sự đối
với pháp nhân hay có năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi đối với cá
nhân. Đặc biệt, bên bảo lãnh còn phải có khả năng về vốn và tài sản để có thể trả nợ
thay cho bên được bảo lãnh nếu như đến hạn thanh toán mà họ không trả được nợ
cho ngân hàng. Bên bảo lãnh cũng có quyền yêu cầu ngân hàng kiểm tra việc sử
dụng vốn vay của khách hàng vay khi cần thiết. Quan hệ giữa ngân hàng và bên bảo
lãnh chấm dứt khi bên bảo lãnh đã trả nợ thay cho bên được bảo lãnh và lúc này bên
bảo lãnh sẽ là chủ nợ trực tiếp của khách hàng vay vốn.
•Bảo đảm tiền vay trong trường hợp cho vay không có bảo đảm bằng tài sản:
Ngân hàng không có được quyền ưu tiên trong thanh lý tài sản bảo đảm của
khách hàng để thu hồi nợ do đây là phương thức cho vay vốn của tổ chức tín dụng
mà theo đó nghĩa vụ trả nợ của khách hàng không được cam kết bảo đảm bằng tài sản.
Việc cho vay không có bảo đảm bằng tài sản thường được áp dụng đối với những
khách hàng có uy tín, có phương án sản xuất kinh doanh có hiệu quả hoặc theo
chính sách của chính phủ.
Cho vay không có bảo đảm bằng tài sản bao gồm các hình thức sau:
+ Tổ chức tín dụng chủ động lựa chọn khách hàng vay để cho vay không có
bảo đảm bằng tài sản
Các NHTM chủ động lựa chọn cho vay không có bảo đảm bằng tài sản khi
khách hàng vay vốn ngắn, trung hoặc dài hạn để thực hiện các dự án đầu tư phát

triển, phương án sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, để đảm bảo an toàn cho các khoản
cho vay ngân hàng cũng phải có những điều kiện đối với khách hàng vay vốn như
Nguyễn Hải Đăng Lớp: 8A2
20
Chuyên đề tốt nghiệp Học viện Ngân hàng
phải có uy tín trong việc vay trả nợ đúng hạn hay khách hàng có các dự án đầu tư
hoặc phương án sản xuất kinh doanh khả thi có khả năng trả nợ… Trong trường hợp
này ngân hàng tự quyết định mức cho vay dựa trên mức độ tín nhiệm, tình hình thực
tế sản xuất kinh doanh, khả năng chi trả khoản vay của khách hàng. Ngoài ra, còn
có một số trường hợp ngân hàng không được cho vay không có tài sản bảo đảm
theo quy định của pháp luật.
+ Tổ chức tín dụng cho vay không có bảo đảm theo chỉ định của Chính
phủ.
TCTD cho vay không có bảo đảm đối với khách hàng vay để thực hiện các dự
án đầu tư thuộc chương trình kinh tế trọng điểm của Nhà nước, chương trình kinh tế
xã hội và đối với một số những khách hàng thuộc diện đối tượng được hưởng các
chính sách tín dụng ưu đãi về điều kiện vay vốn theo quy định tại các văn bản luật.
Chính phủ sẽ xử lý tổn thất cho TCTD trong trường hợp khách hàng vay vốn
không trả được nợ do các biến cố bất khả kháng như thiên tai, dịch bệnh… hay do
khách hàng vay vốn là các tổ chức kinh tế bị giải thể, phá sản do Nhà nước thay đổi
cơ chế chính sách dẫn đến hoạt động kinh doanh của khách hàng gặp khó khăn,
không trả được nợ.
Khách hàng vay vốn phải thực hiện đúng các cam kết trong hợp đồng tín dụng
đã kí kết, phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về những tổn thất trong việc sử
dụng vốn vay mà nguyên nhân là từ phía khách hàng.
Ngân hàng phải thực hiện đúng theo các quy định của pháp luật trong việc xét
duyệt khâu cho vay, tổ chức theo dõi riêng các khoản cho vay theo chỉ định của
Chính phủ và báo cáo tình hình sử dụng vốn vay, khả năng thu hồi nợ để kịp thời có
những kiến nghị về biện pháp xử lý khi khách hàng không có khả năng hoàn trả
vốn.

+ Tổ chức tín dụng cho cá nhân, hộ gia đình nghèo vay có bảo lãnh bằng
tín chấp của tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội.
Các tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội như: Hội Nông dân Việt Nam, Hội Liên
hiệp Phụ nữ Việt Nam, Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam, Đoàn Thanh niên Cộng
sản Hồ Chí Minh, Hội Cựu chiến binh Việt Nam dùng uy tín của mình thực hiện bảo
Nguyễn Hải Đăng Lớp: 8A2
21
Chuyên đề tốt nghiệp Học viện Ngân hàng
lãnh vay vốn cho các tổ chức cá nhân, hộ gia đình nghèo để họ có thể sản xuất kinh
doanh ổn định đời sống hay hỗ trợ họ trong lúc khó khăn gặp thiên tai mất mùa…
Mức vay tối đa của mỗi cá nhân, hộ gia đình nghèo được tổ chức đoàn thể
chính trị - xã hội bảo lãnh bằng tín chấp do NHNN Việt Nam quy định trong từng
thời kỳ. Đây là hình thức cho vay mang tính xã hội cao tuy nhiên do chủ yếu là cho
hộ nghèo vay vốn nên tỷ suất sinh lời thấp, khả năng trả nợ khó do đó gây ra rủi ro
lớn cho ngân hàng.
1.3. Chất lượng bảo đảm tiền vay của NHTM
1.3.1. Khái niệm
Sự cạnh tranh gay gắt trong nền kinh tế thị trường đòi hỏi các NHTM đều phải
nâng cao chất lượng hoạt động kinh doanh đặc biệt là hoạt động tín dụng do đây là
hoạt động đem lại khả năng sinh lời nhiều nhất đồng thời cũng chứa đựng rủi ro lớn
nhất. Trong đó, vấn đề nâng cao chất lượng bảo đảm tiền vay luôn luôn được đặt ra
đối với mỗi cán bộ tín dụng trong quá trình cho khách hàng vay vốn. Chất lượng
bảo đảm tiền vay không chỉ phản ánh chất lượng những tài sản mà ngân hàng chấp
nhận làm bảo đảm cho những món vay của khách hàng mà nó còn phản ánh khả
năng thu hồi nợ của các khoản cho vay.
Do vậy, có thể nêu ra khái niệm như sau:
“ Chất lượng bảo đảm tiền vay là hiệu quả của việc thực hiện các biện pháp
bảo đảm tiền vay để đảm bảo các khoản cho vay của Ngân hàng sẽ được trả đúng
hạn và có lãi.”
Trong trường hợp khách hàng vay có bảo đảm bằng tài sản đến hạn thanh toán

mà không trả nợ thì ngân hàng sẽ tiến hành xử lý tài sản bảo đảm để thu hồi vốn.
Do đó có thể nói bảo đảm tiền vay là một yếu tố không những ràng buộc trách
nhiệm trả nợ của khách hàng,bảo đảm khả năng hoàn trả vốn mà còn là nguồn mang
lại lợi nhuận cho ngân hàng vì giúp ngân hàng hạn chế được các rủi ro xảy ra.
1.3.2. Ý nghĩa của chất lượng bảo đảm tiền vay đối với hoạt động kinh
doanh của ngân hàng
Chất lượng bảo đảm tiền vay có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động kinh doanh
của ngân hàng, là cơ sở cho sự tồn tại và phát triển của ngân hàng. Nếu việc thực
Nguyễn Hải Đăng Lớp: 8A2
22
Chuyên đề tốt nghiệp Học viện Ngân hàng
hiện BĐTV không tốt sẽ gây khó khăn cho ngân hàng trong việc thu hồi nợ vay,
dẫn đến khả năng mất vốn làm ảnh hưởng đến khả năng thanh toán của ngân hàng
đối với khách hàng. Từ lý do này có thể dẫn đến rủi ro thanh khoản gây ra tình
trạng rút tiền hàng loạt, nguy cơ phá sản của ngân hàng là rất cao. Hoạt động của
ngân hàng mang tính xã hội nên sự sụp đổ của ngân hàng sẽ tác động lớn đến nền
kinh tế. Do đó vấn đề đặt ra là các ngân hàng cần phải nâng cao chất lượng hoạt
động bảo đảm tiền vay bởi nếu chất lượng BĐTV càng cao thì khả năng thu hồi nợ
của ngân hàng càng được bảo đảm từ đó giảm bớt tổn thất cho ngân hàng khi rủi ro
tín dụng xẩy ra.
Để bảo đảm tiền vay có chất lượng thì đồng thời đi liền với nó là tính hiệu quả
của hàng loạt các khâu như thẩm định dự án, giám sát quá trình sử dụng vốn của
khách hàng vay,theo dõi tình hình sử dụng và bảo quản các tài sản bảo đảm
Chất lượng bảo đảm tiền vay có ý nghĩa rất lớn trong hạn chế rủi ro nhưng quá
chú trọng coi bảo đảm là cơ sở quyết định cho vay còn các yếu tố khác lại không
chú trọng đúng mức sẽ làm giảm chất lượng tín dụng. Chính vì vậy, việc quan tâm
và nâng cao chất lượng bảo đảm tiền vay là một đòi hỏi tất yếu khách quan nhằm
giảm thiểu rủi ro, tạo điều kiện cho hoạt động tín dụng phát triển trên cơ sở an toàn,
ổn định cũng như củng cố, nâng cao uy tín, tăng cường sức mạnh cạnh tranh của
các ngân hàng thương mại.

1.3.3. Các chỉ tiêu phản ánh chất lượng bảo đảm tiền vay
1.3.3.1. Chỉ tiêu về thu nhập từ hoạt động tín dụng
NHTM hoạt động để tìm kiếm lợi nhuận. Muốn thu được lợi nhuận cao thì NH
phải quản lý tốt các khoản mục tài sản nhất là khoản mục cho vay bởi đây là hoạt
động đem lại thu nhập lớn nhất đồng thời kèm theo đó là rủi ro cao. Chất lượng của
hoạt động bảo đảm tiền vay thể hiện hiệu quả của việc sử dụng các biện pháp
BĐTV để thu hồi được cả gốc lẫn lãi cho ngân hàng. Hoạt động BĐTV có chất
lượng thì cũng góp phần tăng khả năng sinh lời cho ngân hàng.Vì vậy, có thể đánh
giá chất lượng của hoạt động này thông qua những chỉ tiêu đánh giá chất lượng của
hoạt động này thông qua những chỉ tiêu đánh giá hiệu quả của một khoản vay.
Thu nhập từ hoạt động =
Thu nhập từ hoạt động cho vay
Nguyễn Hải Đăng Lớp: 8A2
23
Chuyên đề tốt nghiệp Học viện Ngân hàng
Tổng thu nhập
Chỉ tiêu này cho biết thu nhập mà ngân hàng nhận được là bao nhiêu so với
tổng thu nhập. Một ngân hàng có tỷ trọng thu nhập từ hoạt động tín dụng trên tổng
thu nhập mà càng cao đồng nghĩa với chất lượng của hoạt động tín dụng nói chung
và hoạt động BĐTV nói riêng tốt. Tuy nhiên, hiện nay các NHTM đều cố gắng gia
tăng nguồn thu từ hoạt động phi tín dụng như thu từ kinh doanh trên thị trường liên
ngân hàng, những khoản lời thu từ đầu tư trái phiếu, chứng khoán… hơn là thu từ
tín dụng bởi hoạt động này chứa đựng quá nhiều rủi ro.
1.3.3.2. Nhóm chỉ tiêu an toàn
Nợ xấu là những khoản nợ có dấu hiệu hoặc có bằng chứng rõ ràng cho thấy
khách hàng không có khả năng trả nợ đầy đủ và đúng hạn theo cam kết. Theo quy
định tại điều 7 quyết định 493/2005/QĐ-NHNN nợ xấu là những khoản nợ nhóm
3,4,5.
+ Nợ nhóm 3 ( Nợ dưới tiêu chuẩn ) bao gồm : Các khoản nợ được tổ chức tín
dụng đánh giá là không có khả năng thu hồi nợ gốc và lãi khi đến hạn. Các khoản nợ

này được tổ chức tín dụng đánh giá là có khả năng tổn thất một phần nợ gốc và lãi.
+ Nợ nhóm 4 ( Nợ nghi ngờ ) bao gồm : Các khoản nợ được tổ chức tín dụng
đánh giá là khả năng tổn thất cao.
+ Nợ nhóm 5 ( Nợ có khả năng mất vốn ) : Các khoản nợ được tổ chức tín dụng
đánh giá là không còn khả năng thu hồi, mất vốn.
Tỷ lệ nợ xấu
= Tổng dư nợ xấu
Tổng dư nợ cho vay
Nợ quá hạn là khoản nợ mà một phần hoặc toàn bộ nợ gốc và / hoặc lãi đã quá
hạn. Nhóm chỉ tiêu về nợ quá hạn bao gồm một số chỉ tiêu như nợ quá hạn đối với
các hình thức bảo đảm trên tổng dư nợ, nợ quá hạn đối với từng hình thức bảo đảm
trên tổng dư nợ, nợ quá hạn đối với từng hình thức trên tổng dư nợ quá hạn…
Tỷ lệ nợ quá hạn
= Tổng dư nợ quá hạn
Tổng dư nợ cho vay
Các chỉ tiêu về nợ quá hạn và nợ xấu phản ánh mức độ an toàn trong hoạt
động tín dụng. Chỉ tiêu càng cao thì chất lượng BĐTV càng thấp và ngược lại. Tỷ lệ
Nguyễn Hải Đăng Lớp: 8A2
24
Chuyên đề tốt nghiệp Học viện Ngân hàng
nợ xấu, nợ quá hạn cao chứng tỏ ngân hàng đang gặp khó khăn về việc thu hồi nợ
của khách hàng. Tỷ lệ nợ xấu duới 5% được coi là nằm trong giới hạn cho phép nếu
lớn hơn thì ngân hàng cần phải xem xét rà soát lại kĩ càng các khoản mục đầu tư
vốn tín dụng của mình.
Tỷ lệ nợ đã xử lý rủi ro
= Nợ khó đòi đã xử lý
Tổng dư nợ bình quân
Việc khách hàng không trả nợ đúng hạn , công tác thu hồi nợ khó đòi gặp nhiều
khó khăn sẽ khiến cho ngân hàng phải đối mặt với hàng loạt các rủi ro: chi phí gia
tăng để tìm nguồn mới chi trả tiền gửi và cho vay đúng hợp đồng.

1.3.3.3. Nhóm các chỉ tiêu về mức độ đảm bảo của tài sản
•Chỉ tiêu tỷ lệ dư nợ có tài sản bảo đảm trên tổng dư nợ
Tỷ lệ dư nợ có tài sản bảo đảm
trên tổng dư nợ
=
Dư nợ có tài sản bảo đảm
Tổng dư nợ
Đây là chỉ tiêu cho biết bao nhiêu phần trăm dư nợ của ngân hàng được bảo
đảm bằng tài sản. Các ngân hàng hiện nay thường duy trì tỷ lệ này từ 60% đến 80%.
Theo lý thuyết, tỷ lệ này càng cao thì chất lượng bảo đảm tiền vay càng tốt. Tuy
nhiên, ngân hàng cũng cần phải xem xét về chất lượng tài sản bảo đảm. Việc cho
vay của một ngân hàng không chỉ dựa vào tài sản bảo đảm mà còn phải dựa vào
tính khả thi của phương án sản xuất kinh doanh và tình hình hoạt động của khách
hàng. Có như thế thì ngân hàng mới đảm bảo được an toàn các khoản cho vay của
mình.
•Chỉ tiêu tỷ trọng dư nợ cho vay tín chấp so với dư nợ cho vay có TSBĐ
Tỷ trọng dư nợ cho vay tín
chấp so với dư nợ cho vay
= Dư nợ cho vay tín chấp
Dư nợ cho vay có TSBĐ
Chỉ tiêu này cho biết số dư nợ cho vay tín chấp bằng bao nhiêu phần trăm so
với dư nợ cho vay có đảm bảo bằng tài sản trong đó dư nợ cho vay tín chấp là số
tiền mà ngân hàng hiện đang cho vay chỉ dựa trên uy tín của khách vay, không cần
có tài sản bảo đảm còn dư nợ cho vay có tài sản bảo đảm là số tiền mà ngân hàng
hiện đang cho vay có bảo đảm bằng tài sản.
Nguyễn Hải Đăng Lớp: 8A2
25

×