Chuyên đề tốt nghiệp - 1 - Đại học kinh tế quốc dân
LỜI MỞ ĐẦU
Ngân hàng là một trong các tổ chức tài chính quan trọng nhất trong nền
kinh tế. Hoạt động của hệ thống ngân hàng thương mại như là huyết mạch của
nền kinh tế. Trong nền kinh tế phát triển như hiện nay, sức cạnh tranh gay gắt
cũng như một môi trường kinh doanh biến động liên tục làm cho bất kỳ các
ngân hàng nào khi kinh doanh luôn phải đối mặt với nhiều rủi ro, đặc biệt là
rủi ro tín dụng - hoạt động tín dụng của ngân hàng là hoạt động quan trọng
nhất, nó mang lại lợi nhuận lớn nhất cho ngân hàng song cũng hàm chứa rủi
ro cao nhất. Do đó, các ngân hàng thương mại phải có các biện pháp để hạn
chế rủi ro tín dụng có thể xảy ra và nâng cao chất lượng của hoạt động tín
dụng. Một trong các biện pháp mà các ngân hàng rất coi trọng vấn đề là bảo
đảm tiền vay. Cũng như để các ngân hàng thu được lợi nhuận và bảo đảm an
toàn hơn trong cho vay thì ngân hàng cần phải có các giải pháp để nâng cao
hiệu quả của hoạt động bảo đảm tiền vay.
Từ những kiến thức thu thập được trong thời gian học tập và nghiên cứu
tại trường đại học cũng như những trải nghiệm thực tế bước đầu trong thời
gian thực tập tại chi nhánh NH No&PT NT Cầu Giấy, em nhận thức được tầm
quan trọng của bảo đảm tiền vay đối với hoạt động của các ngân hàng thương
mại. Chính vì vậy nên em đã chọn đề tài: “Nâng cao chất lượng bảo đảm tiền
vay tại Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Cầu
Giấy” làm chuyên đề tốt nghiệp của mình.
Kết cấu của chuyên đề gồm những nội dung chính sau:
Chương 1: Lý luận chung về bảo đảm tiền vay của NHTM
Chương 2: Thực trạng chất lượng bảo đảm tiền vay tại chi nhánh ngân
hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Cầu Giầy
Đỗ Thị Sâm Lớp Ngân hàng 45B
Chuyên đề tốt nghiệp - 2 - Đại học kinh tế quốc dân
Chương 3: Giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng bảo đảm
tiền vay tại chi nhánh.
Em xin chân thành cảm ơn thày giáo hướng dẫn PGS.TS Lê Đức Lữ và
các cán bộ tín dụng của phòng tín dụng chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn Cầu Giầy đã tận tình giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề
này.
Hà Nội ngày 2 tháng 5 năm 2007
Sinh viên
Đỗ Thị Sâm
Đỗ Thị Sâm Lớp Ngân hàng 45B
Chuyên đề tốt nghiệp - 3 - Đại học kinh tế quốc dân
CHƯƠNG I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO ĐẢM TIỀN VAY CỦA NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI
1.1. Tổng quan về hoạt động cho vay của NHTM:
1.1.1. Khái niệm:
Ngân hàng là một trong các tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền
kinh tế. Hoạt động của hệ thống ngân hàng thương mại như là huyết mạch của
nền kinh tế và hoạt động tín dụng là hoạt động quan trọng nhất của bất kỳ một
ngân hàng thương mại. Một trong những hoạt động tín dụng chủ yếu, truyền
thống của các ngân hàng thương mại là cho vay. Đây là hoạt động mang lại
thu nhập chính cho NHTM nhưng lại tiềm ẩn nhiều rủi ro nhất.
Hoạt động cho vay được hiểu là việc nhường quyền sử dụng vốn cho
người khác trong một thời gian nhất định với những điều kiện nhất định.
Theo quyết định số 1627/2001/QĐ - NHNN ngày 31/12/2001, hoạt động
cho vay được định nghĩa như sau: “Cho vay là một hình thức cấp tín dụng,
theo đó Tổ chức tín dụng giao cho khách hàng một khoản tiền để sử dụng vào
mục đích và thời gian nhất định theo thoả thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả
gốc và lãi”.
Thu nhập của hoạt động cho vay là từ lãi suất cho vay. Lãi suất cho vay
được hiểu là giá cả của việc sử dụng vốn, được xác định trên cơ sở chi phí
huy động vốn cũng như các chi phí khác của NHTM.
Khoản mục cho vay là khoản mục sử dụng vốn chủ yếu, chiếm quá nửa
giá trị tổng tài sản và tạo ra từ 1/2 đến 2/3 thu nhập của ngân hàng thương
mại. Do đó, có thể nói cho vay là hoạt động quan trọng, quyết định sự tồn tại
và phát triển của NHTM.Kinh tế càng phát triển, lượng cho vay của NHTM
càng tăng nhanh và loại hình cho vay cũng trở nên đa dạng hơn.
Đỗ Thị Sâm Lớp Ngân hàng 45B
Chuyên đề tốt nghiệp - 4 - Đại học kinh tế quốc dân
1.1.2. Đặc điểm của cho vay:
Cho vay của NHTM là một hoạt động phức tạp, thường xuyên chịu sự
tác động của môi trường kinh tế. Nhưng về bản chất, hoạt động cho vay của
NHTM có ba đặc điểm chính sau:
Thứ nhất, cho vay là sự cung cấp một lượng giá trị dựa trên cơ sở lòng
tin. Điều đó có nghĩa là NHTM tin tưởng người đi vay sử dụng vốn vay có
hiệu quả sau một thời gian nhất định và do đó có khả năng trả được nợ.
Thứ hai, cho vay là sự chuyển nhượng tạm thời quyền sử dụng vốn trong
một thời hạn xác định. Để đảm bảo thu hồi nợ đúng hạn, ngân hàng thương
mại thường xác định rõ thời hạn cho vay.Việc xác định thời hạn cho vay được
dựa vào quá trình luân chuyển vốn của người đi vay và tính chất vốn của
NHTM.
Về quá trình luân chuyển vốn của người vay: Thời hạn cho vay phải phù
hợp với chu kỳ luân chuyển vốn của người vay thì lúc đó người vay mới có
điều kiện để trả nợ. Nếu thời hạn cho vay nhỏ hơn chu kỳ luân chuyển vốn thì
khi đến hạn, khách hàng chưa có nguồn thu để trả nợ. Ngược lại, nếu thời hạn
cho vay dài hơn chu kỳ luân chuyển vốn sẽ tạo điều kiện cho khách hàng sử
dụng vốn sai mục đích và không có nguồn để trả nợ.
Về tính chất vốn của NHTM: nếu vốn của NHTM ổn định (vốn trung -
dài hạn chiếm tỷ trọng lớn hoặc khả năng huy động vốn tốt) thì thời hạn cho
vay có thể dài hơn, ngược lại thì thời hạn cho vay phải ngắn hơn để đảm bảo
khả năng thanh toán của NHTM.
Thứ ba, cho vay là sự chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị trên
nguyên tắc phải hoàn trả cả gốc và lãi. Vì vốn cho vay của NHTM là vốn huy
động của những người tạm thời có vốn nhàn rỗi nên sau một thời gian nhất
định NHTM phải trả lại cho họ. Mặt khác, NHTM phải có nguồn để trả lãi
Đỗ Thị Sâm Lớp Ngân hàng 45B
Chuyên đề tốt nghiệp - 5 - Đại học kinh tế quốc dân
cho người gửi tiền cũng như bù đắp chi phí hoạt động nên người vay vốn
ngoài việc phải trả nợ gốc còn phải trả cho NHTM một khoản lãi.
1.1.3. Phân loại cho vay:
Có thể dựa vào nhiều tiêu thức khác nhau để phân loại hoạt động cho vay
của NHTM. Sau đây là một số cách phân loại chủ yếu:
1.1.3.1. Theo phương thức cho vay:
- Cho vay thấu chi: là nghiệp vụ cho vay theo đó, ngân hàng cho phép
người vay được chi vượt trên số dư tiền gửi thanh toán của mình đến một giới
hạn nhất định và trong một thời hạn xác định. Giới hạn này được gọi là hạn
mức thấu chi. Thấu chi dựa trên cơ sở thu chi không phù hợp về thời gian và
quy mô. Căn cứ vào ngân quỹ mà ta có thể xác định thời gian và số lượng
thiếu để cho vay song không chính xác. Đây là hình thức ngắn hạn, linh hoạt,
thủ tục đơn giản, phần lớn không có đảm bảo. Hình thức này có thể cấp cho
doanh nghiệp và cá nhân trong vài ngày hoặc vài tháng trong năm nhưng chỉ
sử dụng cho khách hàng có độ tin cậy cao, thu nhập đều đặn và kỳ thu nhập
ngắn.
- Cho vay trực tiếp từng lần: Cho vay trực tiếp từng lần được sử dụng
tương đối phổ biến khi ngân hàng cho vay khách hàng không có nhu cầu vay
thường xuyên, không có điều kiện để được cấp hạn mức thấu chi. Khách hàng
khi mở rộng sản xuất kinh doanh, nếu số vốn chủ sở hữu và tín dụng thương
mại không đủ tài trợ thì khách hàng sẽ vay thêm ngân hàng. Như vậy vốn từ
ngân hàng chỉ tham gia vào một số giai đoạn nhất định của chu kỳ sản xuất
kinh doanh. Khách hàng làm đơn và trình ngân hàng phương án sử dụng vốn
vay. Ngân hàng sẽ phân tích khách hàng sau đó đưa ra quyết định cho vay.
Nghiệp vụ cho vay từng lần tương đối đơn giản. Ngân hàng có thể kiểm
soát từng món vay tách biệt và đảm bảo khả năng tương đối an toàn do tiền
Đỗ Thị Sâm Lớp Ngân hàng 45B
Chuyên đề tốt nghiệp - 6 - Đại học kinh tế quốc dân
vay dựa vào tài sản đảm bảo, ngân hàng luôn kiểm tra mục đích và hiệu quả
sử dụng vốn vay của khách hàng.
- Cho vay theo hạn mức: Ngân hàng thỏa thuận cấp cho khách hàng hạn
mức tín dụng. Đó là số dư tối đa tại thời điểm tính. Hạn mức tín dụng được
cấp trên cơ sở kế hoạch sản xuất kinh doanh, nhu cầu vốn và nhu cầu vay vốn
của khách hàng. Hạn mức tín dụng có thể tính cho cả kỳ hoặc cuối kỳ. Khách
hàng có thể thực hiện vay trả nhiều lần, song dư nợ không được vượt quá hạn
mức tín dụng. Mỗi lần vay khách hàng chỉ cần trình bày phương án sử dụng
vốn vay, nộp các chứng từ chứng minh đã mua hàng hoặc dịch vụ và nêu yêu
cầu vay. Ngân hàng sẽ kiểm tra tính hợp pháp và hợp lệ của chứng từ và ngân
hàng sẽ phát tiền vay.
Hình thức này áp dụng cho khách hàng có quan hệ vay mượn thường
xuyên, vốn vay thường tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh. Do vậy,
hình thức này thuận lợi cho khách hàng, đáp ứng kịp thời nhu cầu của khách
hàng. Nhưng lại gây khó khăn cho ngân hàng vì các lần vay không tách biệt
thành các kỳ hạn nợ cụ thể nên ngân hàng khó kiểm soát hiệu quả sử dụng của
từng lần vay.
- Cho vay luân chuyển: Đây là hình thức cho vay dựa trên luân chuyển
hàng hóa. Ngân hàng sẽ cho vay để mua hàng và sẽ thu nợ khi khách hàng
bán được hàng hóa. Cho vay luân chuyển dựa trên luân chuyển hàng hóa nên
cả ngân hàng và doanh nghiệp đều phải nghiên cứu kế hoạch lưu chuyển hàng
hóa để dự đoán dòng ngân quỹ trong thời gian tới.
Đầu năm hoặc quý, người vay phải làm đơn xin vay luân chuyển.
Khách hàng và ngân hàng thỏa thuận với nhau về phương thức vay, hạn mức
tín dụng, các nguồn cung cấp hàng hóa và khả năng tiêu thụ. Khách hàng phải
cam kết hoàn trả khoản vay và sử dụng mọi khoản thu bán hàng để trả vào tài
Đỗ Thị Sâm Lớp Ngân hàng 45B
Chuyên đề tốt nghiệp - 7 - Đại học kinh tế quốc dân
khoản tiền vay trước khi trích vào tài khoản tiền gửi thanh toán của khách
hàng. Cho vay luân chuyển thường áp dụng đối với các doanh nghiệp thương
nghiệp hoặc doanh nghiệp sản xuất có chu kỳ tiêu thụ ngắn ngày, có quan hệ
vay trả thường xuyên với ngân hàng.
- Cho vay trả góp: là hình thức cho vay theo đó khách hàng được phép
trả gốc làm nhiều lần trong thời hạn cho vay. Cho vay trả góp thường được áp
dụng đối với các khoản vay trung - dài hạn, tài trợ cho tài sản cố định và hàng
hoá lâu bền. Hình thức này thường được áp dụng đối với người tiêu dùng
thông qua hạn mức nhất định. Ngân hàng sẽ thanh toán cho người bán lẻ về số
hàng hóa mà khách hàng đã mua trả góp, sau đó khách hàng sẽ trả tiền trực
tiếp cho ngân hàng theo từng lần đã thỏa thuận. Hình thức này gặp rủi ro cao
vì tài sản thế chấp lại chính là hàng hóa mua trả góp. Khả năng trả nợ phụ
thuộc vào thu nhập đều đặn của người vay. Do vậy, lãi suất cho vay trả góp
thường cao nhất trong các loại cho vay của ngân hàng.
- Cho vay gián tiếp: Nhằm đa dạng hóa các hình thức cho vay, ngân hàng
phát triển hình thức cho vay gián tiếp. Đây là hình thức cho vay thông qua tổ
chức trung gian như là tổ, đội, hội, nhóm… Ngân hàng có thể chuyển một vài
khâu của hoạt động cho vay sang các tổ chức trung gian như phát tiền vay hay
thu nợ…Khi người vay không có hoặc không có đủ tài sản đảm bảo thì các tổ
chức trung gian này đứng ra bảo đảm cho các thành viên vay, hoặc các thành
viên trong nhóm bảo lãnh cho một thành viên vay vốn.
Cho vay gián tiếp thường được áp dụng với thị trường có nhiều món
vay nhỏ, người vay phân tán, cách xa ngân hàng. Như thế nó tiết kiệm chi phí
cho người vay. Hơn nữa nó còn làm giảm rủi ro cho ngân hàng do ngân hàng
quản lý được vốn vay thông qua các tổ chức trung gian. Tuy nhiên, trong một
số trường hợp tổ chức trung gian đã lợi dụng vị thế của mình tăng lãi suất cho
vay hoặc giữ số tiền cho riêng mình.
Đỗ Thị Sâm Lớp Ngân hàng 45B
Chuyên đề tốt nghiệp - 8 - Đại học kinh tế quốc dân
Ngoài ra còn có nhiều cách phân loại khác nhau tuỳ theo từng mục đích
nghiên cứu
1.1.3.2. Theo thời hạn cho vay:
Thời hạn cho vay là khoảng thời gian được tính từ khi khách hàng bắt
đầu nhận vốn vay cho đến thời điểm trả hết nợ gốc và lãi vay đã được thoả
thuận trong hợp đồng tín dụng giữa tổ chức tín dụng và khách hàng.
Căn cứ vào thời hạn cho vay thì cho vay có thể được chia thành ba loại:
- Cho vay ngắn hạn: từ 12 tháng trở xuống. Tín dụng ngắn hạn nhằm tài
trợ cho tài sản lưu động hoặc theo nhu cầu sử dụng vốn ngắn hạn của Nhà
nước, doanh nghiệp, hộ sản xuất. Các hình thức cho vay ngắn hạn được áp
dụng là cho vay từng lần hay cho vay theo hạn mức, cho vay trực tiếp hoặc
cho vay gián tiếp, cho vay có bảo đảm hoặc cho vay không cần bảo đảm, cho
vay thấu chi hoặc luân chuyển. Khách hàng sẽ làm đơn và trình bày với ngân
hàng kế hoạch sử dụng vốn vay. Từ đó ngân hàng thực hiện phân tích tín
dụng, tính toán hiệu quả sử dụng vốn, xem xét rủi ro, các nguồn trả nợ.
- Cho vay trung hạn: từ 1 năm đến 5 năm, tài trợ cho tài sản cố định như
phương tiện vận tải, trang thiết bị chóng hao mòn. Bên cạnh đầu tư tài sản cố
định, cho vay trung hạn còn là nguồn hình thành vốn lưu động thường xuyên
của các doanh nghiệp đặc biệt là những doanh nghiệp mới thành lập.
- Cho vay dài hạn: trên 5 năm, tài trợ cho công trình xây dựng như nhà,
sân bay, cầu, đường, máy móc thiết bị có giá trị lớn và có thời gian sử dụng
dài. Cho vay dài hạn thường gắn với kế hoạch đầu tư của doanh nghiệp, của
từng ngành, từng địa phương và trong một số trường hợp được nhà nước chỉ
định nguồn vốn có lãi suất ưu đãi.
Đỗ Thị Sâm Lớp Ngân hàng 45B
Chuyên đề tốt nghiệp - 9 - Đại học kinh tế quốc dân
1.1.3.3. Theo tài sản bảo đảm:
- Cho vay có tài sản bảo đảm: Tài sản đảm bảo là hình thức hạn chế tổn
thất cho ngân hàng khi khách hàng gặp rủi ro. Ngân hàng yêu cầu khách hàng
phải có tài sản đảm bảo thế chấp khi muốn ngân hàng cấp tín dụng. Trên cơ
sở đó, ngân hàng sẽ kiểm tra, đánh giá, thẩm định tài sản và sẽ quyết định cho
vay
- Cho vay không có tài sản bảo đảm: hình thức này thường áp dụng đối
với khách hàng quen thuộc, có uy tín, có tình hình tài chính vững mạnh, ít xảy
ra tình trạng nợ nần hoặc món vay tương đối nhỏ so với vốn của người vay.
Đôi khi ngân hàng cho vay theo chỉ thị của Chính phủ thì không cần tài sản
đảm bảo bởi có sự bảo lãnh của Chính phủ. Đối với các công ty lớn, hoặc
những khoản vay ngắn hạn mà ngân hàng có khả năng giám sát tốt thì cũng có
thể không cần tài sản đảm bảo.
1.1.3.4. Theo mục đích sử dụng vốn:
- Cho vay sản xuất và lưu thông hàng hoá: là hình thức cho vay đối với
các doanh nghiệp, các chủ thể kinh doanh để tiến hành sản xuất và lưu thông
hàng hoá.
- Cho vay tiêu dùng: là hình thức cho vay đối với các cá nhân để đáp ứng
nhu cầu tiêu dùng như: mua sắm nhà cửa, xe cộ, các loại hàng hoá lâu bền…
1.2. Vai trò, nguyên tắc và đặc trưng của bảo đảm tiền vay
1.2.1. Khái niệm bảo đảm tiền vay:
Hoạt động của hệ thống NHTM trong nền kinh tế có vai trò quan trọng.
Song hoạt động của các NHTM luôn tồn tại cùng với các rủi ro. Bên cạnh đó,
trong hoạt động kinh doanh của các NHTM thì hoạt động tín dụng là nguồn
thu chủ yếu của các ngân hàng nhưng cũng đem lại cho ngân hàng nhiều rủi
ro nhất. Vì vậy trong hoạt động tín dụng các ngân hàng phải có biện pháp để
giảm bớt rủi ro cho mình. Đó là những biện pháp phòng ngừa rủi ro tín dụng,
Đỗ Thị Sâm Lớp Ngân hàng 45B
Chuyên đề tốt nghiệp - 10 - Đại học kinh tế quốc dân
là cơ sở pháp lý cũng như cơ sở kinh tế cho việc thu hồi các khoản tiền vay.
Biện pháp phổ biến mà các ngân hàng thường dùng là áp dụng cho vay có
đảm bảo bằng tài sản.
Cho vay có bảo đảm bằng tài sản là việc cho vay vốn của tổ chức tín
dụng mà theo đó nghĩa vụ trả nợ cho khách hàng vay được cam kết bảo đảm
thực hiện bằng tài sản cầm cố, thế chấp, tài sản hình thành từ vốn vay của
khách hàng vay hoặc bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba.
Tài sản bảo đảm tiền vay là tài sản của khách hàng vay, tài sản hình thành
từ vốn vay và tài sản của bên bảo lãnh dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ
trả nợ đối với ngân hàng cho vay.
Theo nghị định của chính phủ số 178/1999 NĐ-CP ngày 29 tháng 12
năm 1999 về bảo đảm tiền vay của các tổ chức tín dụng thì: “Bảo đảm tiền
vay là việc ngân hàng áp dụng các biện pháp nhằm phòng ngừa rủi ro, tạo cơ
sở kinh tế và pháp lý để thu hồi các khoản nợ đã cho khách hàng vay”
Như vậy, Bảo đảm tiền vay là việc dùng tài sản hoặc uy tín của một cá
nhân hay tổ chức để đảm bảo cho một khoản vay. Khi bên đi vay không thực
hiện đúng nghĩa vụ trả nợ của mình thì ngân hàng sẽ coi bảo đảm tiền vay là
nguồn thu nợ đã cho vay.
1.2.2. Vai trò bảo đảm tiền vay:
Rủi ro tín dụng là tình trạng người đi vay không có khả năng hoàn trả
được lãi hoặc gốc hoặc cả hai. Khi rủi ro tín dụng xảy ra đó là những yếu tố
không bình thường trong quan hệ tín dụng, gây hậu quả xấu đến hoạt động
của ngân hàng như thiệt hại về tài sản, ảnh hưởng đến thu nhập của ngân
hàng, làm ngân hàng phá sản và tác động tiêu cực đến nền kinh tế. Thường thì
rủi ro tín dụng được thể hiện dưới hai hình thức: rủi ro mất vốn và rủi ro đọng
vốn: rủi ro mất vốn là việc ngân hàng cho vay nhưng không thể thu hồi được
nợ hoặc chỉ thu hồi được một phần, còn rủi ro đọng vốn là khách hàng chậm
Đỗ Thị Sâm Lớp Ngân hàng 45B
Chuyên đề tốt nghiệp - 11 - Đại học kinh tế quốc dân
trễ trong việc trả nợ khi khoản vay đến hạn. Cho nên rủi ro tín dụng là mối đe
doạ của các NHTM. Vì vậy trong hoạt động kinh doanh của mình các NHTM
luôn chú trọng đến công tác phòng ngừa rủi ro. Việc hoàn thiện cũng như áp
dụng linh hoạt các hình thức bảo đảm tiền vay sẽ là một trong những biện
pháp phòng ngừa rủi ro hiệu quả nhất vì:
Thứ nhất, Bảo đảm tiền vay giúp ngân hàng có đủ cơ sở pháp lý để có
nguồn thu nợ thứ hai khi nguồn thu nợ thứ nhất không thực hiện được. Khi
xem xét cấp tín dụng, ngân hàng đã xác định nguồn trả nợ thứ nhất như: cho
vay tiêu dùng nguồn trả là thu nhập của khách hàng, cho vay vốn lưu động
nguồn trả là doanh thu… Nhưng trong hoạt động kinh doanh có thể gặp phải
bất kỳ việc gì kể cả những việc bất khả kháng và từ phía khách hàng làm cho
nguồn trả nợ thứ nhất không thể thực hiện được, nếu như không có nguồn trả
nợ thứ hai thì các ngân hàng sẽ gặp phải rủi ro tín dụng. Vì vậy để bảo vệ lợi
ích của chính của chính mình, các ngân hàng thường yêu cầu khách hàng phải
có những bảo đảm cần thiết.
Thứ hai, Bảo đảm tiền vay gắn kết trách nhiệm vật chất của người đi vay
trong quá trình sử dụng vốn vay tránh tình trạng khách hàng sử dụng vốn vay
sai mục đích hoặc thiếu hiệu quả gây nên tổn thất và rủi ro cho ngân hàng.
Bảo đảm tiền vay còn ràng buộc trách nhiệm vật chất, buộc khách hàng phải
thận trọng trong việc sử dụng vốn vay làm sao để đảm bảo tính hiệu quả và
hợp pháp, trả nợ cho ngân hàng đúng hạn để thu hồi tài sản đảm bảo thuộc sở
hữu của mình và nâng cao uy tín với ngân hàng tạo điều kiện thiết lập quan hệ
tín dụng lâu dài. Ngoài ra bảo đảm tiền vay còn ràng buộc trách nhiệm trả nợ
khi họ cố tình lơ đi nghĩa vụ trả nợ của mình.
Thứ ba, Bảo đảm tiền vay là một trong những điều kiện để các tổ chức cá
nhận được cấp tín dụng, là bước khởi đầu trong quan hệ tạo lập tín dụng với
NHTM vì đây là điều kiện để cấp tín dụng. Ví dụ như một khách hàng giao
Đỗ Thị Sâm Lớp Ngân hàng 45B
Chuyên đề tốt nghiệp - 12 - Đại học kinh tế quốc dân
dịch lần đầu với ngân hàng, có phương án kinh doanh khả thi song khả năng
tài chính chưa tốt và uy tín với ngân hàng sẽ khó cho ngân hàng trong việc
đưa ra các quyết định cấp tín dụng. Nhưng nếu có tài sản đảm bảo hoặc có
bảo lãnh của bên thứ ba sẽ giúp ngân hàng dễ dàng hơn trong quyết định của
mình, tạo điều kiện để ngân hàng mở rộng thị trường, nâng cao năng lực cạnh
tranh.
Ngoài ra, nhằm phòng tránh có sự sai sót về thẩm định khách hàng vay
vốn hoặc khách hàng cố ý gian lận thì bảo đảm cho khoản vay cũng là biện
pháp phòng chống gian lận hiệu quả.
Nói chung bảo đảm tiền vay có vai trò quan trọng đối với NHTM, khách
hàng vay vốn và toàn bộ nền kinh tế, giúp tạo lập quan hệ giữa ngân hàng và
khách hàng, giúp ngân hàng phòng chống rủi ro, đảm bảo an toàn vốn trong
kinh doanh. Song nếu quá chú trọng đến bảo đảm tiền vay hoặc đặt vai trò của
bảo đảm tiền vay không đúng chỗ, coi bảo đảm tiền vay là cơ sở quyết định
cho vay mà không quan tâm đến các yếu tố khác sẽ dẫn đến giảm chất lượng
tín dụng. Bảo đảm tiền vay là biện pháp phòng vệ khi gặp sự cố trọng hoạt
động tín dung chứ không phải là nguyên tắc cấp tín dụng, phải biết vận dụng
linh hoạt các biện pháp bảo đảm tiền vay để giảm bớt rủi ro, tạo điều kiện cho
hoạt động tín dụng phát triển, nâng cao uy tín của ngân hàng.
1.2.3. Nguyên tắc bảo đảm tiền vay:
Theo điều 4 của nghị định của Chính phủ số 178/1999 NĐ/CP quy định
nguyên tắc của bảo đảm tiền vay là:
Tổ chức tín dụng có quyền lựa chọn, quyết định việc cho vay có bảo
đảm bằng tài sản, cho vay không có bảo đảm theo quy định của Nghị
định này và chịu trách nhiệm về quyết định của mình. Trường hợp tổ
chức tín dụng nhà nước cho vay không có bảo đảm bằng tài sản theo
Đỗ Thị Sâm Lớp Ngân hàng 45B
Chuyên đề tốt nghiệp - 13 - Đại học kinh tế quốc dân
chỉ định của Chính phủ, thì tổn thất do nguyên nhân khách quan của
các khoản vay được Chính phủ xử lý.
Khách hàng vay được tổ chức tín dụng lựa chọn cho vay không có
bảo đảm bằng tài sản, nếu trong quá trình sử dụng vốn vay, tổ chức
tín dụng phát hiện khách hàng vay vi phạm cam kết trong hợp đồng
tín dụng, thì tổ chức tín dụng có quyền áp dụng các biện pháp bảo
đảm bằng tài sản hoặc thu hồi nợ trước hạn.
Tổ chức tín dụng có quyền xử lý tài sản bảo đảm tiền vay theo quy
định của Nghị định này và quy định của pháp luật có liên quan để thu
hồi nợ khi khách hàng vay hoặc bên bảo lãnh không thực hiện hoặc
thực hiện không đúng nghĩa vụ trả nợ đã cam kết.
Sau khi xử lý tài sản bảo đảm tiền vay, nếu khách hàng vay hoặc bên
bảo lãnh vẫn chưa thực hiện đúng nghĩa vụ trả nợ, thì khách hàng vay
hoặc bên bảo lãnh có trách nhiệm tiếp tục thực hiện đúng nghĩa vụ trả
nợ đã cam kết.
1.2.4. Các đặc trưng bảo đảm tiền vay:
Nói chung bất kỳ tài sản hoặc quyền về tài sản được phép giao dịch mà
có khả năng tạo ra lưu chuyển tiền tệ đều có thể dùng làm bảo đảm. Tuy nhiên
nhìn từ góc độ NHTM thì bảo đảm tiền vay phải thể hiện được 3 đặc trưng
sau:
- Giá trị của bảo đảm phải lớn hơn nghĩa vụ bảo đảm:
Bảo đảm không chỉ là nguồn thu nợ của ngân hàng mà có ý nghĩa thúc
dục người đi vay phải trả nợ đúng hạn, ràng buộc trách nhiện vật chất. Nhưng
nếu giá trị của tài sản nhỏ hơn nghĩa vụ được bảo đảm thì người đi vay dễ có
động cơ không trả nợ.
Đỗ Thị Sâm Lớp Ngân hàng 45B
Chuyên đề tốt nghiệp - 14 - Đại học kinh tế quốc dân
Nghĩa vụ được bảo đảm bao gồm vốn gốc, lãi (kể cả lãi quá hạn) và các
chi phí khách trừ trường hợp các bên có thoả thuận lãi và các loại phí không
thuộc phạm vi bảo đảm được thực hiện nghĩa vụ.
- Tài sản phải có sẵn thị trường tiêu thụ:
Nghĩa là tài sản bảo đảm phải có tính thanh khoản, dễ trao đổi mua bán
trên thị trường. Tính thanh khoản của tài sản có quan hệ đến lợi ích của ngân
hàng thương mại. Nếu tính thanh khoản cao, tài sản dễ chuyển nhượng thì
mức độ bảo đảm cao, còn nếu tính thanh khoản trung bình có thể chấp nhận
được nhưng phải tính đến chi phí do kéo dài thời gian xử lý. Ngược lại, tài
sản có tính thanh khoản thấp ngân hàng thường không chấp nhận vì nguy cơ
rủi ro cao.
- Có đầy đủ cơ sở pháp lý để NHTM có quyền ưu tiên về xử lý tài sản
bảo đảm:
Tài sản phải thuộc sở hữu hợp pháp của người đi vay, người bảo lãnh và
được pháp luật cho phép giao dịch để tạo điều kiện cho ngân hàng dễ dàng
thực hiện hành vi chuyển giao, phát mại khi khách hàng không thực hiện
được nghĩa vụ của mình theo hợp đồng.
Tài sản phải được pháp luật thừa nhận và không thuộc diện cấm giao
dịch. Điều này đảm bảo cơ sở pháp lý trong việc chuyển giao tài sản từ người
đi vay sang người cho vay, đồng thời tránh những rắc rối phát sinh khi xảy ra
sự cố, bảo đảm để ngân hàng có quyền ưu tiên về xử lý tài sản nhằm thu hồi
nọ khi người đi vay không thực hiện được nghĩa vụ của mình.
Tóm lại, Bảo đảm tiền vay vừa là nguồn thu nợ vừa có ý nghĩa tác động
đến việc sử dụng vốn vay và thực hiện nghĩa vụ trả nợ của khách hàng. Một
khoản bảo đảm tiền vay có hiệu lực khi và chỉ khi nó có đầy đủ các đặc trưng
trên.
Đỗ Thị Sâm Lớp Ngân hàng 45B
Chuyên đề tốt nghiệp - 15 - Đại học kinh tế quốc dân
1.3. Các hình thức bảo đảm tiền vay:
Trong nền kinh tế thị trường khi mà hoạt động của các doanh nghiệp, cá
nhân ngày càng đa dạng và phong phú thì để thực hiện mục tiêu mở rộng tín
dụng, hạn chế rủi ro đòi hỏi các NHTM phải áp dụng nhiều hình thức bảo
đảm tiền vay, chấp nhận nhiều loại tài sản bảo đảm và vận dụng các hình thức
đó một cách linh hoạt, thích ứng với từng khách hàng. Sau đây là các hình
thức bảo đảm tiền vay
1.3.1. Bảo đảm tiền vay bằng tài sản:
1.3.1.1. Thế chấp bằng tài sản của khách hàng vay vốn:
Thế chấp là việc bên đi vay dùng tài sản thuộc sở hữu của mình hoặc giá
trị quyền sử dụng đất hợp pháp để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ đối với bên
cho vay và không chuyển giao tài sản đó cho bên nhận thế chấp. Với hình
thức này người nhận tài trợ phải chuyển các giấy tờ chứng nhận sở hữu (hoặc
sử dụng) các tài sản đảm bảo sang ngân hàng nắm giữ trong thời gian cam
kết.
Không phải bất cứ một tài sản nào cũng có thể đem thế chấp mà nó phải
thoả mãn một số điều kiện theo quy định của pháp luật. Nhiều tài sản của
khách hàng trở thành đảm bảo cho các khoản tài trợ của ngân hàng song vẫn
phải tham gia vào hoạt động. Những tài sản này ngân hàng không thể cầm cố.
Ví dụ như máy móc, trang thiết bị, nhà đất đang trong quá trình sử dụng, hàng
hoá đang trong quá trình luân chuyển. Các tài sản này thường cồng kềnh,
phân tán. Hơn nữa việc bán hoặc chuyển nhượng cũng không đơn giản. Trừ
các ngân hàng, các công ty tài chính có thể nắm giữ nhiều chứng khoán, tài
sản chủ yếu của doanh nghiệp là hàng hoá cố định. Vì vậy, đảm bảo bằng thế
chấp rất phổ biến, đặc biệt là đối với doanh nghiệp và người tiêu dùng. Do giá
trị của tài sản loại này thường lớn. vì vậy doanh nghiệp có thể vay ngân hàng
với quy mô lớn.
Đỗ Thị Sâm Lớp Ngân hàng 45B
Chuyên đề tốt nghiệp - 16 - Đại học kinh tế quốc dân
Đảm bảo bằng thế chấp cho phép người nhận tài trợ sử dụng tài sản đảm
bảo phục vụ cho hoạt động kinh doanh. Đó là một thuận lợi. Tuy nhiên trong
quá trình sử dụng sẽ làm biến dạng tài sản, hơn nữa, do khả năng kiểm soát tài
sản đảm bảo của ngân hàng bị hạn chế káhch hàng có thể lợi dụng phân tán,
làm giảm giá trị của tài sản gây thiệt hại cho ngân hàng. Chính vì thế mà khi
nhận thế chấp ngân hàng cần phải xem xét kỹ càng cũng như có những thoả
thuận hợp lý với bên đi vay để bảo đảm được chất lượng bảo đảm tiền vay đối
với tài sản thế chấp.
1.3.1.2. Cầm cố bằng tài sản của khách hàng vay vốn:
Cầm cố là hình thức theo đó người nhận tài trợ của ngân hàng phải
chuyển quyền kiểm soát tài sản đảm bảo sang cho ngân hàng trong thời gian
cam kết.
Cầm cố thích hợp với những tài sản ngân hàng có thể kiểm soát và bảo
quản tương đối chắc chắn, đồng thời việc ngân hàng nắm giữ không ảnh
hưởng đến quá trình hoạt động của người nhận tài trợ, ví dụ như các chứng
khoán, các hợp đồng, sổ tiết kiệm, ngoại tệ mạnh, kim loại quí. Các tài sản
này gọn nhẹ, dễ quản lý, không chịu ảnh hưởng của các yếu tố môi trường tự
nhiên. Đối với hàng hoá, ngân hàng thường chấp nhận loại ít chịu tác động
cuả môi trường( tính chất lý hoá và công dụng) trong thời gian cầm cố. Ngân
hàng yêu cầu cầm cố khi thấy việc khách hàng nắm giữ tài sản đảm bảo là
không an toàn cho ngân hàng. Thường là các hàng hoá dễ bán, dễ chuyển
nhượng. Ngoài ra ngân hàng còn có thể chấp nhận cầm cố các quyền tài sản
phát sinh như: quyền tài sản phát sinh, quyền sở hữu công nghiệp, quyền đòi
nợ, quyền được nhận số tiền bảo hiểm, quyền đối với phần vốn góp trong
doanh nghiệp, các quyền tài sản khác phát sinh từ hợp đồng hoặc từ các căn
cứ pháp lý khác.
Đỗ Thị Sâm Lớp Ngân hàng 45B
Chuyên đề tốt nghiệp - 17 - Đại học kinh tế quốc dân
Các tài sản có thể cầm cố được thường phong phú hơn hơn các tài sản
đem thế chấp và thường an toàn hơn vì ngân hàng được nắm giữ tài sản của
khách hàng và những tài sản đó lại có khả năng chuyển đổi thành tiền cao.
1.3.1.3. Bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay:
Bảo đảm tiền vay bằng tài sản hình thành từ vốn vay là việc khách hàng
vay dùng tài sản hình thành từ vốn vay (giá trị tài sản đó một phần hay toàn
bộ khoản vay của tổ chức tín dụng) để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho
chính khoản vay đó.
Việc bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay thường được áp dụng
trong trường hợp ngân hàng cho vay trung và dài hạn, tài trợ cho tài sản cố
định hoặc hàng lâu bền hay cho vay tiêu dùng. Khách hàng sẽ thế chấp bằng
hàng hoá mua trả góp. Điều này mang lại cho ngân hàng rủi ro khá cao vì
nguyên tắc cơ bản của bảo đảm tiền vay là muốn bảo đảm cho khoản vay
trong khi đó tài sản bảo đảm lại được hình thành chính từ vốn vay ngân hàng.
Điều này có thể làm giảm chất lượng bảo đảm tiền vay. Vì vậy khi cho vay có
bảo đảm hình thành từ vốn vay thì ngân hàng luôn xem xét kỹ lưỡng khách
hàng và các yêu cầu của khách hàng vay. Khách hàng được ngân hàng cho
vay dưới hình thức bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay là phải có độ
tín nhiệm cao, có khả năng tài chính, có dự án đầu tư phát triển sản xuất,
phương án kinh doanh khả thi và không trái quy định của pháp luật.
1.3.1.4. Bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba:
Bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba (gọi là bên bảo lãnh) là việc bên
bảo lãnh cam kết với ngân hàng cho vay về việc sử dụng tài sản thuộc quyền
sở hữu của mình để thực hiện nghĩa vụ trả nợ thay cho khách hàng vay, nếu
đến hạn trả nợ mà khách hàng vay không thực hiện đúng nghĩa vụ trả nợ.
Bên nhận bảo lãnh là người chủ nợ, người hưởng thụ bảo lãnh. Trong
quan hệ tín dụng đó là các ngân hàng cho vay.
Đỗ Thị Sâm Lớp Ngân hàng 45B
Chuyên đề tốt nghiệp - 18 - Đại học kinh tế quốc dân
Bên được bảo lãnh là khách hàng vay (con nợ), người có nghĩa vụ phải
thanh toán nợ cho ngân hàng cho vay.
Bên bảo lãnh chỉ được phép bảo đảm bằng tài sản thuộc sở hữu của chính
mình hoặc bằng giá trị quyền sử dụng đất, còn lại đối với doanh nghiệp Nhà
nước thì tài sản phải thuộc quyền quản lý, sử dụng của doanh nghiệp đó để
thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh. Việc bảo lãnh bằng tài sản có thể kèm theo biện
pháp cầm cố, thế chấp. Đây là hình thức bảo đảm kép, nhằm để phòng khi
ngưòi bảo lãnh không thực hiện được nghĩa vụ thì ngân hàng có thể xử lý tài
sản kèm theo bảo lãnh. Để đảm bảo an toàn ngân hàng không chỉ thẩm định
khách hàng mà còn cần phải thẩm định cả bên bảo lãnh một cách chặt chẽ.
Trong quá trình bảo lãnh, người bảo lãnh phải có trách nhiệm trả nợ thay
cho bên được bảo lãnh nếu như đến hạn thanh toán mà họ không trả được nợ
cho ngân hàng và bên bảo lãnh cũng phải đôn đốc ngưòi đi vay thanh toán nợ
cho ngân hàng. Mặt khác, ngưòi bảo lãnh cũng yêu cầu ngân hàng kiểm tra
việc sử dụng vốn vay của khách hàng khi cần thiết. Khi bên bảo lãnh đã trả
nợ thay cho bên được bảo lãnh thì họ là chủ nợ trực tiếp, lúc này quan hệ giữa
ngân hàng và bên bảo lãnh được chấm dứt.
1.3.2. Bảo đảm tiền vay khi cho vay không có bảo đảm bằng tài sản:
1.3.2.1. Tổ chức tín dụng chủ động lựa chọn khách hàng vay để cho vay
không có bảo đảm bằng tài sản.
Các ngân hàng được phép lựa chọn khách hàng vay để cho vay không có
bảo đảm bằng tài sản khi cho vay vốn ngắn hạn, trung hạn và dài hạn để thực
hiện các dự án đầu tư, phát triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và đời sống đối
với khách hàng vay phải có điều kiện sau:
- Sử dụng vốn vay có hiệu quả và trả nợ gốc, lãi vốn vay đúng hạn
trong quan hệ vay vốn với ngân hàng cho vay hoặc ngân hàng khác.
Đỗ Thị Sâm Lớp Ngân hàng 45B
Chuyên đề tốt nghiệp - 19 - Đại học kinh tế quốc dân
- Có dự án đầu tư, phương án sản xuất kinh doanh,dịch vụ khả thi, có
hiệu quả; hoặc có dự án đầu tư, phương án phục vụ đời sống khả thi,
phù hợp với quy định của pháp luật.
- Có khả năng tài chính để thực hiện nghĩa vụ trả nợ.
- Cam kết thực hiện biện pháp bảo đảm bằng tài sản theo yêu cầu của
ngan hàng nếu sử dụng vốn vay không đúng cam kết trong hợp đồng
tín dụng; cam kết trả nợ trước hạn nếu không thực hiện được các biện
pháp bảo đảm bằng tài sản.
1.3.2.2. Tổ chức tín dụng cho vay theo đảm bảo bằng chỉ thị của Chính
phủ
Tổ chức tín dụng cho vay theo hình thức đảm bảo bằng chỉ thị của Chính
phủ đối với khách hàng vay để thực hiện các dự án đầu tư thuộc các chương
trình kinh tế trọng điểm, đặc biệt của Nhà nước, các chương trình kinh tế - xã
hội và đối với một số khách hàng thuộc đối tượng được hưởng các chính sách
tín dụng ưu đãi về điều kiện vay vốn theo quy định tại các văn bản quy phạm
pháp luật của Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ.
Trách nhiệm của khách hàng vay theo hình thức bảo đảm bằng chỉ định
của Chính phủ là: phải thực hiện đúng cam kết trong hợp đồng tín dụng, thực
hiện đúng các quy định của Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ khi sử
dụng vốn vay đối với những khoản vay theo chỉ định; phải chịu trách nhiệm
trước pháp luật về những tổn thất trong việc sử dụng vốn vay do các nguyên
nhân chủ quan do mình gây ra.
Trách nhiệm của các tổ chức tín dụng được cho vay theo hình thức bảo
đảm bằng chỉ định của Chính phủ là: thực hiện đúng các quy định của Chính
phủ, Thủ tướng Chính phủ đối với khoản cho vay được chỉ định và tuân thủ
các quy định của pháp luật trong quá trình xem xét cho vay, kiểm tra sử dụng
vốn vay và thu hồi nợ; Phải tổ chức theo dõi riêng các khoản cho vay theo chỉ
Đỗ Thị Sâm Lớp Ngân hàng 45B
Chuyên đề tốt nghiệp - 20 - Đại học kinh tế quốc dân
định và báo cáo tình hình sử dụng vốn vay, khả năng thu hồi nợ, kiến nghị xử
lý những tổn thất trong các trường hợp không thu hồi được nợ.
1.3.2.3. Tổ chức tín dụng cho cá nhân, hộ gia đình nghèo vay vốn có bảo
lãnh bằng tín chấp của tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội.
Bảo lãnh bằng tín cháp của tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội là biện
pháp bảo đảm tiền vay trong trường hợp cho vay không có bảo đảm bằng tài
sản, theo đó tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội tại cơ sở bằng uy tín của mình
bảo lãnh cho cá nhân, hộ gia đình nghèo vay một khoản tiền nhỏ tại tổ chức
tín dụng để sản xuất kinh doanh, làm dịch vụ.
Tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội tại cơ sở của: Hội Nông dân Việt
Nam, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam,
Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Cựu chiến binh Việt Nam được
thực hiện bảo lãnh bằng uy tín của mình cho cá nhân, hộ gia đình nghèo vay
vốn tại các tổ chức tín dụng.
Người được bảo lãnh là các cá nhân, hộ gia đình nghèo là thành viên của
một trong các tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội như ở trên khi họ vay một
khoản tiền nhỏ tại tổ chức tín dụng để sản xuất kinh doanh, làm dịch vụ.
Mức vay tối đa của mỗi cá nhân, hộ gia đình nghèo được tổ chức đoàn
thể chính trị - xã hội bảo lãnh bằng uy tín của mình do Chủ tịch Hội đồng
quản trị tổ chức tín dụng cho vay quy định trong từng thời kỳ.
Việc bảo lãnh bằng tín chấp của tổ chức đoàn thể chính trị- xã hội tại cơ
sở phải được lập thành văn bản, trong đó ghi rõ các nội dung: số tiền vay,
mục đích vay, nghĩa vụ của người vay, tổ chức tín dụng cho vay và tổ chức
bảo lãnh.
Tổ chức tín dụng cho vay có bảo lãnh bằng tín chấp của tổ chức đoàn thể
chính trị- xã hội có quyền và nghĩa vụ: yêu cầu tổ chức bảo lãnh phối hợp với
Đỗ Thị Sâm Lớp Ngân hàng 45B
Chuyên đề tốt nghiệp - 21 - Đại học kinh tế quốc dân
tổ chức tín dụngtrong việc kiểm tra sử dụng vốn và đôn đốc trả nợ, phối hợp
với tổ chức bảo lãnh thực hiện cho vay và thu hồi nợ.
Bên cạnh đó, tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội bảo lãnh có quyền và
nghĩa vụ: giúp đỡ, hướng dẫn,tạo điều kiện cho cá nhân, hộ gia đinh nghèo
vay vốn và sử dụng vốn vay đúng mục đích, có hiệu qủa, đôn đốc việc trả nợ
đầy đủ, đúng hạncho tổ chức tín dụng, từ chối việc bảo lãnh nếu xét thấy cá
nhân, hộ gia đình nghèo không có khả năng sủ dụng vốn vay để sản xuất kinh
doanh, làm dịch vụ và trả nợ cho tổ chức tín dụng. Và cá nhân, hộ gia đình
nghèo được bảo lãnh vay vốn có nghĩa vụ: sử dụng vốn đúng như mục đích đã
camkết, tạo điều kiện thuận lợi cho tổ chức tín dụgn và tổ chức đoàn thể kinh
tế - xã hội kiểm tra việc sử dụng vốn vay, trả nợ đầy đủ đúng hạn cho tổ chức
tín dụng.
1.4. Quản lý tài sản bảo đảm:
Quản lý tài sản bảo đảm là quá trình theo dõi, kiểm tra, đánh giá nhằm
bảo đảm tài sản vẫn đang trong tình trạng bình thường hoặc kịp thời phát hiện
các sự cố liên quan làm giảm giá trị của tài sản bảo đảm so với dự kiến đã nêu
trong hợp đồng bảo đảm. Tuỳ theo tính chất và đặc điểm của tài sản bảo đảm
mà cán bộ tín dụng cần chủ động đề xuất và thực hiện kiểm tra tài sản bảo
đảm ít nhất 6 tháng/lần theo các nội dung:
- Đánh giá tình trạng tài sản hiện tại; Những thay đổi về số lượng và
chất lượng so với hiện trạng khi nhận tài sản bảo đảm.
- Tình hình sử dụng và bảo quản tài sản bảo đảm.
- Các trường hợp vi phạm cam kết của khách hàng vay theo quy định
tại hợp đồng bảo đảm.
Đỗ Thị Sâm Lớp Ngân hàng 45B
Chuyên đề tốt nghiệp - 22 - Đại học kinh tế quốc dân
1.5. Xử lý tài sản bảo đảm:
Trong trường hợp bên bảo đảm không thực hiện hoặc thực hiện không
đúng nghĩa vụ trả nợ thì tài sản dùng để bảo đảm nghĩa vụ trả nợ tại ngân
hàng được xử lý để thu hồi nợ.
Tài sản bảo đảm tiền vay được xử lý theo phương thức đã thoả thuận
trong hợp đồng bảo đảm tiền vay giữa ngân hàng và bên bảo đảm.
Các ngân hàng cho vay có quyền chuyển giao quyền thu hồi nợ hoặc uỷ
quyền cho bên thứ ba xử lý tài sản bảo đảm tiền vay. Bên thứ ba phải là tổ
chức có tư cách pháp nhân và được quyền thu hồi nợ hoặc xử lý tài sản bảo
đảm theo quy định của pháp luật.
Việc xử lý tài sản bảo đảm tiền vay phải tuân thủ nguyên tắc công khai,
thủ tục đơn giản, thuận tiện, nhanh chóng, bảo đảm quyền, lợi ích của ngân
hàng cho vay và khách hàng đồng thời tiết kiệm được chi phí.
Tổ chức tín dụng có quyền xử lý tài sản bảo đảm tiền vay để thuhồi nợ
trong trường hợp sau:
- Sau thời hạn 60 ngày kể từ khi đến hạn trả nợ, mà tài sản bảo đảm
tiền vay chưa được xử lý theo thoả thuận.
- Khách hàng vay phải thực hiện nghĩa vụ trả nợ trước hạn theo quy
định của pháp luật, nhưng không thực hiện hoặc thực hiện không
đúng nghĩa vụ trả nợ.
- Khách hàng vay là tổ chức kinh tế bị giải thể trước khi đến hạn trả nợ,
thì nghĩa vụ trả nợ tuy chưa đến hạn cũng coi như là đến hạn, nếu
khách hàng vay không trả nợ và không xử lý tài sản bảo đảm tiền vay
để trả nợ, thì tổ chức tín dụng có quyền xử lý tài sản để thu hồi nợ.
- Trường hợp doanh nghiệp không thực hiện được các biện pháp đối
với tài sản bảo đảm khi chia, tách, hợp nhất, sáp nhập, chuyển đổi,cổ
phần hoá thì tổ chức tín dụng có quyền xử lý tài sản bảo đảm để thu
Đỗ Thị Sâm Lớp Ngân hàng 45B
Chuyên đề tốt nghiệp - 23 - Đại học kinh tế quốc dân
hồi nợ trước khi thực hiện chia, tách, hợp nhất, sáp nhập, chuyển
đổi,cổ phần hoá.
Các phương thức xử lý tài sản bảo đảm tiền vay để thu hồi nợ:
- Bán tài sản bảo đảm tiền vay.
- Trực tiếp nhận các khoản tiền, tài sản từ bên thứ ba trong trường hợp
bên thứ ba có nghĩa vụ trả tiền hoặc tài sản cho khách hàng vay, bên bảo lãnh.
- Nhận chính tài sản bảo đảm tiền vay để thay thế cho việc thực hiện
nghĩa vụ được bảo đảm.
1.6. Chất lượng bảo đảm tiền vay:
1.6.1. Quan niệm về chất lượng bảo đảm tiền vay:
Hoạt động tín dụng là hoạt động có khả năng sinh lợi nhiều nhất cho hầu
hết các ngân hàng nhưng nó cũng lại chịu rủi ro cao nhất. Do đó, để hạn chế
rủi ro trong hoạt động tín dụng, các ngân hàng thường áp dụng các hình thức
bảo đảm tiền vay để ngăn ngừa được các rủi ro có thể xảy ra. Nên việc thực
hiện các biện pháp bảo đảm tiền vay ngân hàng mong muốn có chất lượng
cao.
Chất lượng của bảo đảm tiền vay không chỉ phản ánh về tài sản đảm bảo
mà còn phải thể hiện ở thành quả thu được khi các khoản cho vay được bảo
đảm bằng hình thức thích hợp.
Như vậy, chất lượng bảo đảm tiền vay được hiểu là hiệu quả của việc
thực hiện các biện pháp bảo đảm tiền vay để bảo đảm rằng các khoản cho vay
của ngân hàng sẽ được trả đúng hạn và có lãi. Trong trường hợp khách hàng
vay gặp khó khăn trong việc hoàn trả nợ thì ngân hàng chỉ có thể thu hồi được
vốn thông qua việc xử lý các tài sản đảm bảo.
Do đó có thể nói bảo đảm tiền vay là một yếu tố ảnh hưởng rất lớn đến
hoạt động của ngân hàng, không những đảm bảo khả năng hoàn trả vốn vay
mà còn mang lại lợi nhuận cho ngân hàng và giúp ngân hàng hạn chế được
Đỗ Thị Sâm Lớp Ngân hàng 45B
Chuyên đề tốt nghiệp - 24 - Đại học kinh tế quốc dân
các rủi ro có thể xảy ra. Hiệu quả của hoạt động bảo đảm tiền vay có ảnh
hưởng rất lớn đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng nên nếu thực hiện
không tốt rất có thể sẽ có nguy cơ tiềm ẩn rủi ro xảy ra cho ngân hàng trong
việc thu hồi nợ vay, dẫn đến khả năng mất vốn và có thể ảnh hưởng đến khả
năng thanh toán của ngân hàng đối với khách hàng. Từ lý do này có thể dẫn
đến giảm uy tín của ngân hàng, tác động đến tâm lý của khách hàng gây ra
tình trạng rút tiền hàng loạt dẫn ngân hàng đến chỗ phá sản từ đó ảnh hưởng
đến nền kình tế. Chính vì vậy đòi hỏi ngân hàng phải không ngừng nâng cao
chất lượng hoạt động bảo đảm tiền vay của mình.
1.6.2.Các chỉ tiêu biểu hiện chất lượng bảo đảm tiền vay:
1.6.2.1. Các chỉ tiêu định lượng:
*Chỉ tiêu về dư nợ có tài sản bảo đảm so với tổng dư nợ:
Dư nợ có tài sản bảo đảm
Chỉ tiêu này được tính =
Tổng dư nợ
Chỉ tiêu này cho biết bao nhiêu phần trăm dư nợ của ngân hàng được bảo
đảm bằng tài sản. Nhìn chung, tỷ lệ này càng cao thì chất lượng bảo đảm tiền
vay càng tốt. Nhưng cũng cần xem xét về chất lượng tài sản bảo đảm và chỉ
tiêu này cao cũng chưa có nghĩa là việc cho vay của ngân hàng tốt.
*Chỉ tiêu về dư nợ không có tài sản bảo đảm so với tổng dư nợ:
Dư nợ không có tài sản bảo đảm
Chỉ tiêu này được tính =
Tổng dư nợ
Chỉ tiêu này cho biết bao nhiêu phần trăm dư nợ của ngân hàng không
được bảo đảm bằng tài sản. Ngược lại với chỉ tiêu về dư nợ có bảo đảm bằng
tài sản so với tổng dư nợ. Có thể nói là tỷ lệ dư nợ không có tài sản đảm bảo
so với tổng dư nợ càng thấp thì chất lượng bảo đảm tiền vay của chi nhánh
Đỗ Thị Sâm Lớp Ngân hàng 45B
Chuyên đề tốt nghiệp - 25 - Đại học kinh tế quốc dân
càng tốt. Song cũng phải cần xem xét khách hàng, món vay và chỉ tiêu này
cao cũng không có nghĩa là chất lượng bảo đảm tiền vay đã tốt. Ví dụ như
ngân hàng có nhiều khách hàng có tình hình kinh doanh tốt, quan hệ lâu dài
với ngân hàng hoặc ngân hàng cho vay theo bảo đảm bằng chỉ định của Chính
phủ thì chỉ tiêu trên sẽ cao nhưng không thể nói là chất lượng bảo đảm tiền
vay thấp.
*Chỉ tiêu tỷ lệ dư nợ không tài sản bảo đảm với dư nợ có bảo đảm bằng
tài sản:
Dư nợ không có tài sản bảo đảm
Chỉ tiêu này được tính =
Dư nợ có tài sản bảo đảm
Chỉ tiêu này cho thấy tỷ trọng cho vay không đảm bảo bằng tài sản so
với cho vay bảo đảm bằng tài sản. Chỉ tiêu này sẽ phản ánh rõ hơn chính sách
cho vay của ngân hàng. Mỗi ngân hàng có chính sách cho vay khác nhau, nếu
như có ngân hàng chấp nhận nhiều hình thức cho vay không có tài sản bảo
đảm thì tỷ lệ dư nợ không có tài sản bảo đảm so với dư nợ có tài sản bảo đảm
sẽ cao ngược lại với ngân hàng phụ thuộc vào tài sản bảo đảm khi đưa ra các
quyết định cho vay. Nhìn chung như các chỉ tiêu đã đề cập ở trên tỷ lệ dư nợ
cho vay không có tài sản bảo đảm so với dư nợ cho vay có tài sản bảo đảm
càng thấp càng tốt. Song cũng không phải lúc nào cũng vậycòn tuỳ vào khách
hàng, phương án sản xuất kinh doanh của khách hàng, chính sách tín dụng
của ngân hàng…..
* Chỉ tiêu về nợ quá hạn
Nợ quá hạn là khoản nợ mà khách hàng sau khi vay đã đến thời hạn trả
nợ theo thoả thuận trên hợp đồng tín dụng nhưng không hoàn trả được cho
ngân hàng. Các chỉ tiêu về nợ quá hạn phản ánh mức độ an toàn của hoạt
động tín dụng ngân hàng. Chỉ tiêu về nợ quá hạn là tỷ lệ phần trăm (%) giữa
Đỗ Thị Sâm Lớp Ngân hàng 45B