Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Tiểu luận Những cống hiến của chủ tịch Hồ Chí Minh trong sự nghiệp giải phóng dân tộc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (199.05 KB, 16 trang )

DẪN LUẬN
I. Lý do chọn đề tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh - bậc vĩ nhân của dân tộc Việt Nam, là người học trò xuất sắc của C.Mác, Ph.
Ăngghen và V.I. Lênin. Người đã vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện
lịch sử, văn hoá và con người Việt Nam, giải đáp những yêu cầu lý luận và thực tiễn, đưa cách mạng Việt
Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, cống hiến rất lớn vào sự nghiệp cách mạng giải phóng dân
tộc Việt Nam trong thế kỉ 20.
Đề tài này sẽ làm rõ những cống hiến to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhất là về những tư tưởng
đúng đắn, tiến bộ & sáng tạo trong sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc. Từ đó, nâng cao hơn nữa
cho việc học tập, nghiên cứu và giảng dạy tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc
cũng như toàn bộ tư tưởng của Người.
Khai thác, học tập, nghiên cứu, hệ thống hoá tri thức và vận dụng di sản tinh thần phong phú của
Chủ tịch Hồ Chí Minh vào công cuộc đổi mới đất nước ta hiện nay là một trong những nhiệm vụ cần
thiết của mọi công dân Việt Nam, không chỉ của riêng những người làm công tác nghiên cứu, lý luận
mà còn của cả thế hệ trẻ, sinh viên-học sinh hiện nay.
Xuất phát những lý do trên, em xin được lựa chọn đề tài: “Bằng những kiến thức đã học, anh
(chị) hãy làm rõ những cống hiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong sự nghiệp giải phóng dân tộc. Noi
gương Chủ tịch Hồ Chí Minh, anh (chị) xác định trách nhiệm của mình như thế nào đối với nhiệm vụ
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam hiện nay?” làm đề tài tiểu luận môn Tư tưởng Hồ Chí Minh.
II. Mục đích của đề tài
Bài tiểu luận này có mục đích là:
- Tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh & những cống hiến của Người trong cách mạng giải phóng
dân tộc
- Giúp sinh viên có thêm kiến thức về con đường đi đến độc lập tự do của Việt Nam ta
- Giúp sinh viên nắm vững những kiến thức đã học và có thêm nhiều kiến thức mới
III. Ý nghĩa của đề tài
Nâng cao nhận thức về vai trò, cống hiến to lớn của chủ tịch Hồ Chí Minh trong sự nghiệp
cách mạng giải phóng dân tộc, bồi dưỡng, củng cố cho sinh viên lập trường, quan điểm cách
mạng, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
IV. Phương pháp nghiên cứu
Thu thập thông tin từ tài liệu Tư tưởng Hồ Chí Minh, báo chí, truyền hình, các trang mạng xã


hội, báo giấy & báo điện tử… cùng những hiểu biết bản thân để hệ thống thông tin thành
từng chương, từng mục rõ ràng, khoa học. Sau đó đưa ra nhận xét đánh giá, kết luận đề tài
trên phương diện khách quan nhất.
Tiểu luận được dựa trên phương pháp duy vật biện chứng, phương pháp trừu tượng hóa khoa
học, phương pháp thống kê, logic, lịch sử.
Cơ sơ phương pháp luận:
- Bảo đảm sự thống nhất, nguyên tắc tính đảng, và tính khoa học
- Quan điểm thực tiễn và nguyên tắc lý luận gắn liền thực tiễn
- Quan điểm lịch sử cụ thể
- Quan điểm toàn diện và hệ thống
1
- Quan điểm kế thừa và phát triển
Kết hợp nghiên cứu tác phẩm với thực tiễn chỉ đạo cách mạng của chủ tịch Hồ Chí Minh.
Các phương pháp cụ thể:
- Vận dụng các phương pháp liên ngành khoa học xã hội và nhân văn, lý luận chính trị để
nghiên cứu toàn bộ hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh như mỗi tác phẩm riêng của Người.
- Các phương pháp cụ thể thường áp dụng như phân tích, tổng hợp, so sánh, đối chiếu… việc
vận dụng các phương pháp và kết hợp các phương pháp cụ thể phải căn cứ vào nội dung.
2
NỘI DUNG
Chương 1: Bối cảnh lịch sử & những năm tháng đầu tiên giác ngộ cách mạng
Từ nửa sau thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản phương Tây đã xâm chiếm hầu hết các
quốc gia ở Á, phi, Mỹ La tinh, nền độc lập của Việt Nam bị đế quốc Pháp tước đoạt, nước Việt Nam bị
chia cắt thành 3 miền với 3 chế độ cai trị khác nhau. "Độc lập dân tộc và thống nhất đất nước" đã trở
thành ước mơ, khát vọng cháy bỏng của mỗi người dân Việt. Lớp lớp văn thân, sĩ phu và những người
yêu nước đã chiến đấu, hy sinh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc. Tuy nhiên, tất cả các phong trào đấu
tranh, các cuộc khởi nghĩa đều bị thất bại, bị dìm trong máu.
Cùng chung ước mơ, khát vọng của dân tộc, Hồ Chí Minh sớm nhận ra, những hạn chế trong đường lối
đấu tranh giành độc lập của các thế hệ cha ông, ''không hoàn toàn tán thành cách làm của một người
nào''. Vượt qua những lối mòn cứu nước của các bậc tiền bối, Hồ Chí Minh quyết định sang phương

Tây tìm đường cứu nước. Vận mệnh của nước, của dân gắn bó mật thiết với một quyết định mà lịch sử
đã chứng minh là sáng suốt phi thường. Trải qua gần 10 năm bôn ba nhiều châu lục, gắn bó với phong
trào công nhân và phong trào giải phóng dân tộc, đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã tìm
thấy con đường cứu nước và giải phóng dân tộc duy nhất đúng đắn. Từ đó, hoài bão mang lại độc lập
cho dân tộc, tự do cho đồng bào chi phối toàn bộ tư duy lý luận và hoạt động thực tiễn của Hồ Chí
Minh. Khi đã tìm thấy con đường cách mạng và nhận thức được chân lý của thời đại cách mạng nhờ
giác ngộ chủ nghĩa Mác - Lê-nin, với sự cổ vũ của Cách mạng Tháng Mười Nga (1917), Nguyễn Ái
Quốc - Hồ Chí Minh đã dồn tất cả nỗ lực và tinh lực của đời mình để thực hiện đến cùng lý tưởng và
mục tiêu cách mạng: độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Chương 2: Cống hiến về xác định đường lối cách mạng giải phóng dân tộc
đúng đắn và bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin
''Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn, đấy là tất cả
những điều tôi hiểu''. Mục đích cao đẹp này là tất cả ý nghĩa cuộc sống, là lẽ sống thiêng liêng của
người thanh niên Nguyễn Tất Thành khi ra nước ngoài đi tìm đường cứu nước, giành lại độc lập dân
tộc.
Với tinh thần cách mạng triệt để, sáng tạo, Hồ Chí Minh đã đem ánh sáng chủ nghĩa Mác-Lênin soi
sáng phong trào yêu nước, chủ nghĩa yêu nước truyền thống Việt Nam, làm cho chủ nghĩa yêu nước
truyền thống vươn lên tầm thời đại, trở thành chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh. Theo nhận thức của
Người: Nếu không được chủ nghĩa Mác-Lênin soi sáng thì chủ nghĩa yêu nước truyền thống sẽ rơi vào
tình trạng bất cập trước kẻ thù mới và thời đại mới.
3
1. Sáng tạo trong lý luận về tính chủ động và vai trò của cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước
thuộc địa
Nghiên cứu chủ nghĩa Mác – Lênin và kinh nghiệm các cuộc cách mạng trên thế giới, nhất là
Cách mạng Tháng Mười Nga 1917, Nguyễn Ái Quốc đã khẳng định cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc
ở các thuộc địa không hoàn toàn phụ thuộc vào cách mạng vô sản chính quốc, nhân dân các dân tộc ở
các nước thuộc địa có thể đứng lên tự giải phóng chính mình và cuộc cách mạng có thể thắng lợi trước.
Người ví chủ nghĩa tư bản thực dân như con đỉa hai vòi hút máu nhân dân lao động ở cả chính quốc và
thuộc địa. Do vậy giai cấp công nhân và những người lao động ở chính quốc và thuộc địa cần phải
đoàn kết làm cách mạng chặt cả hai đầu của con đỉa thực dân. Khi đứng lên đấu tranh tự giải phóng

mình, các dân tộc thuộc địa ở phương Đông có thể giúp đỡ những người anh em mình ở phương Tây và
cách mạng ở chính quốc
Theo Hồ Chí Minh, khối liên minh các dân tộc thuộc địa là một trong những cái cánh của cách
mạng vô sản. Phát biểu tại Đại hội V Quốc tế cộng sản (tháng 6-1924), Người khẳng định vai trò, vị trí
chiến lược của cách mạng thuộc địa: "Vận mệnh của giai cấp vô sản thế giới và đặc biệt là vận mệnh
của giai cấp vô sản ở các nước đi xâm lược thuộc địa gắn chặt với vận mệnh của giai cấp bị áp bức ở
các thuộc địa nọc độc và sức sống của con rắn độc tư bản chủ nghĩa đang tập trung ở các thuộc địa
hơn là ở chính quốc", nếu xem thường cách mạng ở thuộc địa tức là "muốn đánh chết rắn đằng đuôi".
Vận dụng công thức của C.Mác: sự giải phóng của giai cấp công nhân phải là sự nghiệp của bản thân
giai cấp công nhân, Người đưa ra luận điểm: "Công cuộc giải phóng anh em, (tức nhân dân thuộc địa -
TG) chỉ có thể thực hiện được bằng sự nỗ lực của bản thân anh em".
Do nhận thức được vai trò, vị trí chiến lược của cách mạng thuộc địa, đánh giá đúng sức mạnh
dân tộc, năm 1921, Nguyễn ái Quốc cho rằng cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa có thể giành
thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc. Người viết: "Ngày mà hàng trăm triệu nhân dân châu á
bị tàn sát và áp bức thức tỉnh để gạt bỏ sự bóc lột đê tiện của một bọn thực dân lòng tham không đáy,
họ sẽ hình thành một lực lượng khổng lồ, và trong khi thủ tiêu một trong những điều kiện tồn tại của
chủ nghĩa tư bản là chủ nghĩa đế quốc, họ có thể giúp đỡ những người anh em mình ở phương Tây
trong nhiệm vụ giải phóng hoàn toàn".
Trong tác phẩm Đường kách mệnh, Hồ Chí Minh có sự phân biệt về nhiệm vụ của cách mạng
vô sản và cách mạng giải phóng dân tộc và cho rằng: hai thứ cách mạng đó tuy có khác nhau, nhưng có
quan hệ chặt chẽ với nhau. Người nêu ví dụ: "An Nam dân tộc cách mệnh thành công thì tư bản Pháp
yếu, tư bản Pháp yếu thì công nông Pháp làm giai cấp cách mệnh cũng dễ. Và nếu công nông Pháp làm
cách mệnh thành công, thì dân tộc An Nam sẽ được tự do".
4
Những luận điểm sáng tạo đó của Nguyễn Ái Quốc có tầm quan trọng to lớn, bổ sung, phát triển
lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin về phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa và phụ thuộc, trong đó
có cách mạng Việt Nam.
2. Xác định đúng động lực trong cách mạng giải phóng dân tộc và xác định đúng những lực lượng
thực hiện công cuộc cách mạng đó
2.1 Cách mạng giải phóng dân tộc trong thời đại mới phải do Đảng Cộng sản lãnh đạo

Các nhà yêu nước Việt Nam đã ý thức được tầm quan trọng và vai trò của tổ chức cách mạng.
Phan Châu Trinh cho rằng: ngày nay, muốn độc lập, tự do, phải có đoàn thể. Rất tiếc là ông chưa kịp
thực hiện ý tưởng của mình. Phan Bội Châu đã tổ chức ra Duy tân hội (1904) và Việt Nam Quang phục
hội (1912), dự định sau sẽ cải tổ thành Việt Nam quốc dân đảng theo kiểu Tôn Trung Sơn, chưa kịp
thực hiện thì ông đã bị bắt và giam lỏng tại Huế.
Dù đã thành lập hay chưa thì các tổ chức cách mạng kiểu cũ không thể đưa cách mạng giải
phóng dân tộc đi đến thành công, vì nó thiếu một đường lối chính trị đúng đắn và một phương pháp
cách mạng khoa học, không có cơ sở rộng rãi trong quần chúng. Những nỗ lực đấu tranh cứu nước
nhưng không thành công của Việt Nam quốc dân đảng, tổ chức chính trị tiêu biểu nhất của giai cấp tư
sản Việt Nam, đã chứng minh điều đó.
Hồ Chí Minh khẳng định: Muốn giải phóng dân tộc thành công trước hết phải có đảng cách
mệnh. Người phân tích: "cách mệnh trước phải làm cho dân giác ngộ, phải giảng giải lý luận và chủ
nghĩa cho dân hiểu, phải hiểu phong triều thế giới, phải bày sách lược cho dân Vậy nên sức cách
mệnh phải tập trung, muốn tập trung phải có đảng cách mệnh".
Đầu năm 1930, Người sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam, một chính đảng của giai cấp công
nhân Việt Nam, có tổ chức chặt chẽ, kỷ luật nghiêm minh và liên hệ mật thiết với quần chúng.
2.2 Lực lượng của cách mạng giải phóng dân tộc bao gồm toàn dân tộc
Theo Hồ Chí Minh, cách mạng giải phóng dân tộc "là việc chung cả dân chúng chứ không phải
việc một hai người". Người phân tích: "dân tộc cách mệnh chưa phân giai cấp, nghĩa là sĩ, nông, công,
thương đều nhất trí chống lại cường quyền". Trong lực lượng đó, công nông "là gốc cách mệnh", "là
người chủ cách mệnh"; "còn học trò, nhà buôn nhỏ, điền chủ nhỏ cũng bị tư bản áp bức, song không
cực khổ bằng công nông; 3 hạng ấy chỉ là bầu bạn cách mệnh của công nông thôi”.
Hồ Chí Minh đánh giá rất cao vai trò của nhân dân trong khởi nghĩa vũ trang. Người coi sức
mạnh vĩ đại và năng lực sáng tạo vô tận của quần chúng là then chốt bảo đảm thắng lợi. Trong tác
phẩm Đường Kách mệnh, Người phê phán việc lấy ám sát cá nhân và bạo động non làm phương thức
hành động. Người khẳng định: "Dân khí mạnh thì quân lính nào, súng ống nào cũng không chống lại"
Trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, Người xác định lực lượng cách mạng bao gồm
toàn dân tộc: Đảng phải tập hợp đại bộ phận giai cấp công nhân, tập hợp đại bộ phận nông dân và phải
dựa vào hạng dân cày nghèo, lãnh đạo nông dân làm cách mạng ruộng đất; lôi kéo tiểu tư sản, trí thức,
5

trung nông đi vào phe vô sản giai cấp; đối với phú nông, trung tiểu địa chủ và tư bản Việt Nam mà
chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, chí ít là làm cho họ đứng trung lập. Bộ phận nào đã ra
mặt phản cách mạng (như Đảng Lập hiến) thì phải đánh đổ.
Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và chống đế quốc Mỹ, Hồ Chí Minh lấy nhân
dân làm nguồn sức mạnh. Quan điểm "lấy dân làm gốc" xuyên suốt quá trình chỉ đạo chiến tranh của
Người. Người đặt niềm tin ở truyền thống yêu nước nồng nàn của nhân dân Việt Nam. Người khẳng
định: "Địch chiếm trời, địch chiếm đất, nhưng chúng không làm sao chiếm được lòng nồng nàn yêu
nước của nhân dân ta".
Khi phát động cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp (tháng 12-1946), Người kêu
gọi toàn dân đánh giặc và đánh giặc bằng mọi vũ khí có trong tay: "Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ
người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên
đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm
thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước"
Kêu gọi toàn dân kháng chiến chống đế quốc Mỹ, Hồ Chí Minh khẳng định: Chống Mỹ, cứu
nước là nhiệm vụ thiêng liêng nhất của mọi người Việt Nam yêu nước."Cuộc kháng chiến của ta là
toàn dân, thực sự là cuộc chiến tranh nhân dân". "31 triệu đồng bào ta ở cả hai miền, bất kỳ già trẻ, gái
trai, phải là 31 triệu chiến sĩ anh dũng diệt Mỹ, cứu nước, quyết giành thắng lợi cuối cùng".
Xuất phát từ tương quan lực lượng lấy nhỏ đánh lớn, lấy ít địch nhiều, Hồ Chí Minh không chủ
trương tiến hành kiểu chiến tranh thông thường, chỉ dựa vào lực lượng quân đội và tiến hành một số
trận quyết tử với kẻ thù, mà chủ trương phát động chiến tranh nhân dân.
Kháng chiến toàn dân gắn với kháng chiến toàn diện. Lực lượng toàn dân là điều kiện để đấu
tranh toàn diện với kẻ thù đế quốc, giải phóng dân tộc. Hồ Chí Minh nói:
"Không dùng toàn lực của nhân dân về đủ mọi mặt để ứng phó, không thể nào thắng lợi được”.
Trong chiến tranh, "quân sự là việc chủ chốt", nhưng đồng thời phải kết hợp chặt chẽ với đấu
tranh chính trị. Theo Người, thắng lợi quân sự đem lại thắng lợi chính trị, thắng lợi chính trị sẽ làm cho
thắng lợi quân sự to lớn hơn.
Mục đích cách mạng và chiến tranh chính nghĩa - vì độc lập tự do, làm cho khả năng tiến hành
chiến tranh nhân dân trở thành hiện thực, làm cho toàn dân tự giác tham gia kháng chiến. Tư tưởng
chiến tranh nhân dân của Hồ Chí Minh là ngọn cờ cổ vũ, dẫn dắt cả dân tộc ta đứng lên kháng chiến và
kháng chiến thắng lợi, đánh thắng hai đế quốc to là Pháp và Mỹ trong 30 năm chiến tranh cách mạng

Việt Nam, làm nên thắng lợi vĩ đại có tính thời đại sâu sắc.
Chương 3: Cống hiến về tổ chức thực hiện thắng lợi đường lối cách mạng giải
phóng dân tộc trong thực tiễn cách mạng Việt Nam
1. Xây dựng Đảng Cộng sản - lực lượng tiên phong lãnh đạo cách mạng Việt Nam
6
Trong vòng 7 tháng,từ ngày 17-06-1929 đến ngày 01-01-1930,ở nước ta đã xuất hiện 3 tổ chức
cộng sản:Đông Dương cộng sản Đảng,An Nam cộng sản Đảng và Đông Dương cộng sản liên đoàn.
Sau khi ra đời,3 tổ chức cộng sản đã có sự tranh giánh ảnh hưởng,tranh giành quần chúng và công kích
lẫn nhau.Đây là mâu thuẫn trong quá trình phát triển đi lên của phong trào cộng sản Việt Nam. Với tinh
thần đem sức ta mà giải phóng cho ta, nắm vững luận điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin: Cách mệnh
trước hết phải có Đảng cách mệnh Đảng có vững cách mệnh mới thành công, Nguyễn Ái Quốc đã nỗ
lực chuẩn bị về mọi mặt để thành lập một đảng cộng sản chân chính, đảm nhận vững chắc vị trí lãnh
đạo nhân dân Việt Nam đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp. Đảng Cộng sản Việt Nam ra
đời là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng cách mạng của Nguyễn Ái Quốc với
phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam.
Xây dựng tổ chức Đảng về mọi mặt: lý luận, tư tưởng, tổ chức, con người; rèn luyện cán bộ
đảng viên theo những chuẩn mực của một đảng Mác-Lênin chân chính, trong sạch, vững mạnh, bảo
đảm lãnh đạo nhân dân hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ cách mạng là mối quan tâm lo lắng hàng
đầu của Hồ Chí Minh để Đảng ta thật trong sạch, vững mạnh, xứng đáng là người lãnh đạo, là người
đày tớ thật trung thành của nhân dân.
Trong hệ thống những luận điểm được Hồ Chí Minh nêu lên và yêu cầu nghiêm túc thực hiện
trong công tác xây dựng Đảng có thể nêu bật một số nội dung:
- Tuân thủ và vận dụng những nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt của một đảng Mác - Lênin, Đảng
của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam.
- Về nguyên tắc tập trung dân chủ.
- Về tập thể lãnh đạo và cá nhân phụ trách.
- Về tự phê bình và phê bình.
- Về kỷ luật nghiêm minh và tự giác.
- Về đoàn kết thống nhất trong Đảng.
- Về xây dựng, củng cố tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng và nhân dân.

- Đảng phải tự chỉnh đốn, tự đổi mới; phải dựa vào dân để xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh,
vì lợi ích của nhân dân.
- Về tiêu chuẩn, phẩm chất cán bộ, đạo đức đảng viên và công tác cán bộ của Đảng.
Những luận điểm này vừa mang ý nghĩa định hướng, ý nghĩa về phương pháp luận, vừa là
những chỉ dẫn cụ thể, đồng thời cũng chứa đựng sự mong muốn thiết tha của Người.
Những thắng lợi lịch sử của cách mạng Việt Nam và sự trưởng thành của Đảng Cộng sản Việt
Nam qua việc lãnh đạo nhân dân vượt qua những khó khăn, hoàn thành những nhiệm vụ cách mạng to
lớn đã minh chứng tính đúng đắn và sự vận dụng thành công những luận điểm của Hồ Chí Minh về xây
dựng và rèn luyện Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc
Đại đoàn kết là truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam. Truyền thống này đã được Chủ tịch
Hồ Chí Minh kế thừa và phát triển lên một tầm cao mới. Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, đoàn kết chặt
7
chẽ của Đảng là nhân tố quan trọng hàng đầu để đoàn kết toàn dân và đoàn kết quốc tế. Đại đoàn kết
không phải là một sách luợc nhằm giải quyết những nhiệm vụ trước mắt có tính nhất thời mà là một
chiến lược nhất quán, xuyên suốt toàn bộ quá trình cách mạng nhằm phát huy đến mức cao độ sức
mạnh dân tộc kết hợp với sức mạnh của thời đại vì mục tiêu độc lập dân tộc; dân chủ và chủ nghĩa xã
hội. Thực hiện thành công chiến lược cách mạng này, dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng
Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo nhân dân đấu tranh giành những thắng lợi to lớn cốt lõi tư tưởng Hồ
Chí Minh về đại đoàn kết xây dựng lực lượng cách mạng đã được người đúc kết bằng khẩu hiệu:
''Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết
Thành công, thành công, đại thành công''.
Với trí tuệ và sự sáng tạo của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thành công trong việc xây dựng
và phát triển khối đại đoàn kết dân tộc Việt Nam và góp phần to lớn củng cố đoàn kết quốc tế. Thành
công đó chẳng những đưa đến thắng lợi của cách mạng mà còn đóng góp vào kho tàng lý luận cách
mạng chung.
3. Xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng
Các thế lực đế quốc sử dụng bạo lực để xâm lược và thống trị thuộc địa, đàn áp dã man các
phong trào yêu nước. Chế độ thực dân, tự bản thân nó đã là một hành động bạo lực của kẻ mạnh đối
với kẻ yếu. Chưa đè bẹp ý chí xâm lược của chúng thì chưa thể có thắng lợi hoàn toàn. Vì thế con

đường để giành và giữ độc lập dân tộc chỉ có thể là con đường cách mạng bạo lực. Đánh giá đúng bản
chất cực kỳ phản động của bọn đế quốc và tay sai, Hồ Chí Minh cho rằng: "Trong cuộc đấu tranh gian
khổ chống kẻ thù của giaicấp và của dân tộc, cần dùng bạo lực cách mạng chống lại bạo lực phản cách
mạng, giành lấy chính quyền và bảo vệ chính quyền" .
Quán triệt quan điểm sự nghiệp cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, Hồ Chí Minh cho rằng
bạo lực cách mạng cũng là bạo lực của quần chúng. Hình thức của bạo lực cách mạng bao gồm cả đấu
tranh chính trị và đấu tranh vũ trang, nhưng phải "tùy tình hình cụ thể mà quyết định những hình thức
đấu tranh cách mạng thích hợp, sử dụng đúng và khéo kết hợp các hình thức đấu tranh vũ trang và đấu
tranh chính trị để giành thắng lợi cho cách mạng".
Trong chiến tranh cách mạng, lực lượng vũ trang và đấu tranh vũ trang giữ vị trí quyết định
trong việc tiêu diệt lực lượng quân sự địch, làm thất bại những âm mưu quân sự và chính trị của chúng.
Nhưng đấu tranh vũ trang không tách biệt với đấu tranh chính trị. Theo Hồ Chí Minh, các đoàn thể
cách mạng càng phát triển, quần chúng đấu tranh chính trị càng mạnh thì càng có cơ sở vững chắc để tổ
chức lực lượng vũ trang và tiến hành đấu tranh vũ trang.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người sáng lập - người cha thân yêu của các lực lượng vũ trang nhân
dân Việt Nam. Tư tưởng chỉ đạo việc xây dựng và tác chiến của đội quân cách mạng từ nhân dân mà
ra, vì nhân dân mà chiến đấu đã được Hồ Chí Minh chỉ rõ trong Chỉ thị thành lập Đội Việt Nam tuyên
8
truyền giải phóng quân (12-1944). Đây có thể coi là cương lĩnh quân sự đầu tiên của Đảng, đánh dấu
bước hoàn chỉnh lý luận về xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng trong thời kỳ chuẩn bị Tổng khởi
nghĩa.
Khi tiến hành kháng chiến chống các đế quốc xâm lược, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta nhấn
mạnh tính chất toàn dân, toàn diện, trường kỳ, đánh giặc bằng ba thứ quân trên tất cả các vùng chiến
trường. Trong việc xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định: Quân đội ta
là đội quân chiến đấu, công tác và sản xuất. Những luận điểm đó trong tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh
kế thừa và phát triển truyền thống quân sự của dân tộc lên một tầm cao mới đã là ngọn cờ chỉ đạo quân
dân ta đánh giặc. Quân đội nhân dân Việt Nam đã cùng nhân dân tiến hành Tổng khởi nghĩa thắng lợi,
kháng chiến trường kỳ 30 năm để Tổ quốc hoàn toàn độc lập, thống nhất, dân tộc ta là dân tộc anh
hùng, quân đội ta trở thành quân đội anh hùng, là lực lượng nòng cốt của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc.
Sự nghiệp và tư tưởng quân sự của Chủ tịch Hồ Chí Minh là một cống hiến to lớn của Người với

cách mạng Việt Nam và thế giới.
4. Chớp thời cơ Tổng khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi
Chọn đúng thời cơ là một khoa học và là một nghệ thuật. Trong tất cả các cuộc cách mạng, đặc
biệt là cách mạng giải phóng dân tộc, vấn đề xác định thời cơ, chuẩn bị lực lượng cách mạng để chớp
thời cơ khởi nghĩa, là những yếu tố hết sức quan trọng, quyết định đến sự thành bại. Cuộc Tổng khởi
nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là một minh chứng
sinh động về sự nhạy bén trong nhận định và chỉ đạo chớp thời cơ khởi nghĩa của Hồ Chí Minh và
Đảng ta.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về khởi nghĩa toàn dân, khởi nghĩa dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng là
sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin về khởi nghĩa vũ trang. Tư tưởng đó đi vào
thực tiễn cách mạng Việt Nam đã tạo ra sức mạnh vĩ đại và đó là một trong những nhân tố quyết định
đảm bảo cho thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945.
Khi cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra và lan rộng khắp châu Âu, tình hình thế giới và
trong nước có những chuyển biến mau lẹ, Hồ Chí Minh đã sớm nhìn thấy quy luật vận động cách
mạng, suy đoán về thời cơ cách mạng. Đầu năm 1941, Người về nước trực tiếp chỉ đạo phong trào cách
mạng, chủ trì Hội nghị Trung ương lần thứ tám với tinh thần đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên trên
hết và phải quyết tâm giành cho được độc lập, chủ động tạo ra thời cơ cách mạng, chỉ đạo tích cực xây
dựng lực lượng (củng cố và tăng cường Đảng; xây dựng mặt trận Việt Minh để đoàn kết toàn dân,
thành lập, xây dựng lực lượng vũ trang, xây dựng các căn cứ địa cách mạng ), sẵn sàng đón thời cơ,
khởi nghĩa từng phần, tiến tới tổng khởi nghĩa giành chính quyền.
9
Thành công lớn nhất của nghệ thuật khởi nghĩa trong Cách mạng Tháng Tám là đã chọn đúng
thời cơ, nổ ra đúng lúc. Chọn đúng thời cơ lịch sử để phát động Tổng khởi nghĩa đã làm sức mạnh của
toàn dân ta được nhân lên gấp bội, giành thắng lợi triệt để một cách nhanh, gọn, không đổ máu.
5. Xây dựng chính quyền cách mạng - Nhà nước của dân, do dân, vì dân
Trên cương vị là Chủ tịch đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và giữ cương vị đó từ
2-9-1945 đến lúc vĩnh biệt chúng ta (2-9-1969), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã góp công vô cùng to lớn vào
việc tổ chức, xây dựng, kiện toàn Nhà nước Việt Nam một chính quyền cách mạng, Nhà nước của dân,
do dân và vì dân. Trước đó, khi phát động Tổng khởi nghĩa tháng 8-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
thành lập Uỷ ban khởi nghĩa toàn quốc, tổ chức Đại hội quốc dân Tân Trào, chuẩn bị mọi điều kiện xây

dựng chính quyền của nhân dân sau khi tổng khởi nghĩa thắng lợi.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nhà nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa đã tổ chức, động viên sức mạnh toàn dân tộc, hoàn thành thắng lợi sự nghiệp kháng
chiến chống thực dân Pháp xâm lược, giải phóng hoàn toàn miền Bắc và đưa miền Bắc tiến lên chủ
nghĩa xã hội với những thành quả to lớn, tỏ rõ sức mạnh của chế độ và nhà nước dân chủ nhân dân,
hoàn thành xuất sắc nghĩa vụ của hậu phương lớn miền Bắc với tiền tuyến lớn miền Nam.
Với tầm nhìn văn hóa sâu rộng, với kinh nghiệm chính trị phong phú và đầy sáng tạo, Hồ Chí
Minh đã thành công trong việc lãnh đạo, tổ chức và xây dựng Nhà nước kiểu mới của giai cấp công
nhân và nhân dân lao động Việt Nam. Đó là Nhà nước của dân, do dân và vì dân, phấn đấu vì độc lập
tự do của dân tộc và hạnh phúc của nhân dân. Nhà nước này đã lãnh đạo và quản lý đất nước cùng nhân
dân vượt qua nhiều khó khăn thách thức phức tạp của lịch sử, đánh thắng hai đế quốc to là Pháp và Mỹ,
thống nhất Tổ quốc, đưa đất nước bước vào thời kỳ hòa bình, ổn định để xây dựng và phát triển.
6. Đặt cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam trong xu thế thời đại, mở rộng
quan hệ quốc tế cho cách mạng Việt Nam
Đồng thời với việc giải quyết thành công vấn đề dân tộc và giai cấp trong việc xây dựng khối
đại đoàn kết dân tộc, Hồ Chí Minh cũng đã thành công trong chiến lược đoàn kết quốc tế, kết hợp sức
mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đặt nền móng xây dựng tình đoàn
kết hữu nghị của nhân dân Việt Nam với nhân dân các nước và nhân loại tiến bộ. Người luôn đặt cuộc
đấu tranh của nhân dân Việt Nam trong dòng chảy chung của cuộc đấu tranh của các dân tộc bị áp bức
của giai cấp vô sản và loài người tiến bộ trên toàn thế giới. Khi xác định phương châm của cuộc kháng
chiến chống Pháp là toàn dân, toàn diện, trường kỳ và tự lực cánh sinh, Người vẫn tìm mọi cơ hội tranh
thủ sự giúp đỡ quốc tế giữa vòng vây của kẻ thù. Trong kháng chiến chống Mỹ, chủ trương đoàn kết
tranh thủ mọi sự ủng hộ của ba lực lượng: phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, phong trào giải
phóng dân tộc và phong trào hòa bình thế giới đã tập hợp được mặt trận nhân dân thế giới ủng hộ cuộc
10
đấu tranh của nhân dân Việt Nam Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Chính vì đã biết kết hợp
phong trào cách mạng nước ta với phong trào cách mạng của giai cấp công nhân quốc tế và của các dân
tộc bị áp bức, mà Đảng ta đã vượt qua được mọi khó khăn, đưa giai cấp công nhân và nhân dân ta đến
những thắng lợi vẻ vang ngày nay”
Những quan điểm của Hồ Chí Minh kết hợp hài hòa những điều kiện khách quan (đoàn kết quốc

tế, tranh thủ cơ hội, tranh thủ sự liên minh giúp đỡ của bạn bè bốn phương) với điều kiện chủ quan (sức
mạnh nội lực của dân tộc) để huy động đến mức cao nhất mọi nguồn lực cho việc thực hiện thắng lợi
những nhiệm vụ chiến lược của cách mạng đã để lại cho chúng ta nhiều giá trị và bài học quý báu trong
quá trình tiến hành đổi mới, hội nhập để phát triển trong bối cảnh quốc tế mới ở thế kỷ XXI.
Chương 4: Lãnh đạo thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam
Trước khi giành lại được độc lập, Việt Nam là một nước thuộc địa nửa phong kiến với nền sản
xuất nông nghiệp nhỏ bé và lạc hậu. Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có một sự
vận dụng sáng tạo những lý luận về cách mạng vô sản, về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của chủ
nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện thực tiễn ở Việt Nam.
1. Xác định con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam từ một nước nông nghiệp lạc hậu,
không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa.
Việt Nam xây dựng chủ nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp với những đặc điểm rất riêng của
một xã hội phương Đông, với nền sản xuất nông nghiệp quy mô nhỏ bé, tính chất khép kín trong từng
khu vực, với một nền văn hóa - xã hội chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của nho giáo và đất nước bị chia cắt
làm hai miền, hai chế độ chính trị đối lập nhau.
Từ cơ sở nhận rõ đặc điểm lớn nhất của Việt Nam là từ một nước nông nghiệp lạc hậu quá độ
lên chủ nghĩa xã hội không kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ
rõ ý nghĩa quan trọng và nhiệm vụ lịch sử của thời kỳ quá độ như một bước chuyển quan trọng, một
giai đoạn bản lề để Việt Nam thoát khỏi nền sản xuất nông nghiệp nhỏ bé lạc hậu, để trở thành một
nước có nền kinh tế phát triển, văn hóa, khoa học tiên tiến, từng bước cải thiện và nâng cao đời sống
nhân dân. Người nói về mục đích xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam rất dễ hiểu là làm cho dân
giàu, nước mạnh, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành. Hồ Chí Minh đã xuất
phát từ thực tiễn đất nước có những sáng tạo lớn trong chủ trương xây dựng phát triển kinh tế, phát
triển cả nông nghiệp, công nghiệp với những mục tiêu nhiệm vụ của từng giai đoạn một cách cụ thể,
thiết thực.
2. Tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng ở hai miền Nam - Bắc, thống nhất đất nước và
tiến lên xây dựng xã hội chủ nghĩa.
Sau Hiệp định Giơnevơ 1954, tình hình ở hai miền đã phát triển theo hai hướng khác nhau với
những nhiệm vụ cách mạng cụ thể khác nhau. Tháng 12-1957, tại Hội nghị Trung ương 13, Chủ tịch

11
Hồ Chí Minh đã đề cập đến việc đồng thời tiến hành nhiệm vụ chiến lược cách mạng ở hai miền: Cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cách mạng xã hội chủ nghĩa. Hai nhiệm vụ cách mạng nói trên đều
quan trọng, coi nhẹ một nhiệm vụ nào cũng đều sai lầm. Cách mạng miền Bắc và cách mạng ở miền
Nam thuộc hai chiến lược khác nhau song cùng hướng đến mục tiêu chung là giải phóng miền Nam,
hòa bình, thống nhất đất nước, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước.
Đường lối thực hiện đồng thời hai chiến lược cách mạng ở hai miền Nam Bắc được hình thành và hoàn
thiện từ thực tiễn cách mạng Việt Nam, có tác dụng chỉ đạo thực tiễn đấu tranh đồng thời có ý nghĩa
sâu sắc về mặt lý luận. Việc thực hiện đồng thời hai chiến lược cách mạng ở hai miền Việt Nam là điều
chưa có tiền lệ trong lịch sử đấu tranh của các dân tộc từ địa vị thuộc địa, nô lệ vươn lên độc lập tự do
và chủ nghĩa xã hội. Đây là sáng tạo lớn về mặt lý luận của Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam
về cuộc cách mạng giải phóng dân tộc trước chủ nghĩa thực dân mới, giữa một thế giới phân cực đang
có những biến đổi phức tạp.
Chương 5: Trách nhiệm của thế hệ trẻ đối với nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam hiện nay noi theo gương chủ tịch Hồ Chí Minh
Chủ tịch Hồ Chí Minh là một tấm gương sáng ngời về nhiều mặt đáng để thế hệ trẻ chúng em hiện nay
noi theo & học hỏi để xác định trách nhiệm của mình đối với nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam hiện nay. Cụ thể là:
- Ra sức học tập, tích lũy kinh nghiệm, nắm vứng kiến thức cơ bản, kiến thức chuyên môn để
nâng cao trình độ bản thân chuẩn bị, tự tin vào đời lập nghiệp, đáp ứng yêu cầu và đòi hỏi ngày
càng cao của xã hội
- Có tinh thần lao động chăm chỉ, cần cù, tận tụy hết lòng với trong công việc, luôn chủ động,
năng động học hỏi & sáng tạo để tạo ra những giá trị mới cho xã hội
- Tăng cường nâng cao nhận thức về sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và những
yêu cầu của Đảng đối với tuổi trẻ nước ta, từ đó mà xác định trách nhiệm to lớn và nhiệm vụ
nặng nề của mình trong việc chuẩn bị những hành trang cần thiết trong thời đại mới.
- Tích cực tham gia học tập nâng cao trình độ lý luận chính trị, bồi dưỡng phẩm chất đạo đức cách
mạng và rèn luyện bãn lĩnh chính trị. Thường xuyên, liên tục trao dồi về lý tưởng cách mạng,
rèn luyện đạo đức theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.
- Sống có văn hóa, chấp hành nghiêm chỉnh các chủ trương, chính sách pháp luật của Đảng và

Nhà nước, luôn rèn luyện sức khỏe, tham gia các hoạt động thể dục thể thao, hoạt động xã hội
của các cấp Đoàn, Hội.
- Rèn luyện để có lập trường tư tưởng vững vàng, có niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng và sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội trước các thủ đoạn, tuyên truyền của các thế lực thù địch
trong và ngoài nước.
- Có lòng yêu nước, thương dân, tinh thần độc lập dân tộc và đại đoàn kết toàn dân. Có ý thức tốt
về chủ quyền & sự toàn vẹn lãnh thổ, lãnh hải thiêng liêng của Tổ quốc & sẵn sàng đấu tranh
12
trên nhiều mặt trận khác nhau để bảo vệ Tổ quốc trước bất kì diễn biến, hành động nào phương
hại đến đất nước & dân tộc Việt Nam.
13
KẾT LUẬN
Những cống hiến của chủ tịch Hồ Chí Minh, nhất là tư tưởng
về vấn đề giải
phóng dân tộc
mang nhi

u lu

n đi

m sáng t

o, làm phong phú đường lối
đấu
tranh cách m

ng
của Đ


ng góp
ph

n vô cùng to lớn vào giá trị thực
tiễn
và lý lu

n
Hồ Chí Minh đã định đo

t con đường cách m

ng
giải
phóng dân tộc theo khuynh hướng
chính trị vô s

n.Ng
ư

i đã
vận dụng kết
hợp khai hóa
vấn đề
dân tộc v

i
vấn đề
giai
cấp


gắn
độc
lập
dân tộc với định hướng
chủ
nghĩa xã hội.Vì
vậy
lý lu

n cách m

ng
giải
phóng dân tộc
của
Hồ Chí Minh là một
hệ
thống những lu

n đi
ế
m sáng
tạo
và lý lu

n đó luôn đúng đ

n.Cũng
chính lý lu


n
ấy
đã làm phong phú thêm
chủ
nghĩa Mác-LêNin
về
cách m

ng thuộc địa.
Hồ Chí Minh đã từng bước
tiến
hành cách m

ng
giải
phóng dân tộc một cách
hết
sức độc
đáo,sáng
tạo th

m nhu

n tính nhân văn.Đó là phương pháp khởi nghĩa toàn dân và chi
ế
n tranh
nhân dân.Người đã
vận
dụng

sáng
tạo
và phát tri

n học thuy
ế
t Lênin
về
cách m

ng thuộc địa
thành
hệ
thống lu

n đi

m mới
mẽ
sáng t

o.Chính Hồ Chí Minh đã làm chuy

n hóa tính cách
m

ng từ vi

c
tập

hợp các thanh niên yêu nước, d

n
dắt
họ đi theo
đất
nước.Chúng ta ph

i
biết
khơi
dậy
sức m

nh
của chủ
nghĩa yêu n
ư

c trên
lập
trường giai
cấp
công nhân,cùng nhau xây
dựng mối đoàn
kết
toàn dân,giữa các dân tộc anh em.Góp ph

n xây dựng
đất

nước giàu m

nh dân
chủ
công b

ng xã hội văn minh, sánh vai được với các cường quốc trên
thế gi

i.
-
14
MỤC LỤC
DẪN LUẬN 1
I. Lý do chọn đề tài 1
II. Mục đích của đề tài 1
III. Ý nghĩa của đề tài 1
IV. Phương pháp nghiên cứu 1
NỘI DUNG 3
Chương 1: Bối cảnh lịch sử & những năm tháng đầu tiên giác ngộ cách mạng 3
Chương 2: Cống hiến về xác định đường lối cách mạng giải phóng dân tộc đúng đắn và bổ sung,
phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin 3
1. Sáng tạo trong lý luận về tính chủ động và vai trò của cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước
thuộc địa 4
2. Xác định đúng động lực trong cách mạng giải phóng dân tộc và xác định đúng những lực lượng
thực hiện công cuộc cách mạng đó 5
2.1. Cách mạng giải phóng dân tộc trong thời đại mới phải do Đảng Cộng sản lãnh đạo 5
2.2. Lực lượng của cách mạng giải phóng dân tộc bao gồm toàn dân tộc 5
Chương 3: Cống hiến về tổ chức thực hiện thắng lợi đường lối cách mạng giải phóng dân tộc trong
thực tiễn cách mạng Việt Nam 7

1. Xây dựng Đảng Cộng sản – lực lượng tiên phong lãnh đạo cách mạng Việt Nam 7
2. Xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc 8
3. Xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng 9
4. Chớp thời cơ Tổng khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi 10
5. Xây dựng chính quyền cách mạng – Nhà nước của dân, do dân, vì dân 10
6. Đặt cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam trong xu thế thời đại, mở rộng
quan hệ quốc tế cho cách mạng Việt Nam 11
Chương 4: Lãnh đạo thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam 12
1. Xác định con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam từ một nước nông nghiệp lạc hậu,
không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. 12
2. Tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng ở hai miền Nam - Bắc, thống nhất đất nước và
tiến lên xây dựng xã hội chủ nghĩa 12
Chương 5: Trách nhiệm của thế hệ trẻ đối với nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam hiện
nay noi theo gương chủ tịch Hồ Chí Minh 13
KẾT LUẬN 14
15
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh – Bộ Giáo dục & Đào tạo (2013)
- “Cống hiến to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội”
– PGS.TS Tô Huy Rứa
- “Một vài suy nghĩ về những cống hiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh với sự nghiệp độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” – TS. Đinh Thế Huynh-Ủy viên TW Đảng, TBT báo Nhân
Dân
- Báo điện tử Đảng cộng sản Việt Nam www.dangcongsan.vn
- Kênh thông tin tư liệu www.wattpad.com
- Website tài liệu trực tuyến: www.luanvan.net.vn , www.tailieuhoctap.vn
16

×