Tải bản đầy đủ (.doc) (85 trang)

Quan hệ lao động trong khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tại các khu công nghiệp tỉnh Bình Dương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (404.38 KB, 85 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Kể từ năm 1987 Luật Đầu tư nước ngoài ở Việt nam có hiệu lực, khởi đầu cho
dòng chảy các luồng vốn từ bên ngoài vào nước ta. Lúc đầu, các nhà đầu tư nước
ngoài chủ yếu tập trung vào lĩnh vực kinh doanh dịch vụ bất động sản, nhà hàng,
khách sạn, văn phòng cho thuê, khu vui chơi giải trí, Những năm về sau, thì họ
chuyển sang lĩnh vực sản xuất, gia công chế biến hàng công nghiệp cho tiêu dùng
và xuất khẩu. Từ đó, đã hình thành những khu vực sản xuất công nghiệp tập trung
trải dài trên nhiều địa phương và các vùng trên cả nước. Cùng với dòng chảy của
các luồng vốn đầu tư, là dòng chảy của lực lượng lao động đổ về các khu sản xuất
công nghiệp tập trung: khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, đặc khu
kinh tế, cụm công nghiệp
Riêng đối với tỉnh Bình Dương, việc tăng nhanh thu hút vốn đầu tư và nguồn
nhân lực vào các khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài trong KCN, thời gian
qua đóng góp một phần lớn trong phát triển kinh tế, duy trì nhịp độ tăng trưởng
kinh tế cao, thúc đẩy nhanh quá trình CNH, HĐH của địa phương, tăng thu ngân
sách, giải quyết hơn 135.000 việc làm, nhất là làm cho đời sống của người lao động
ngày càng phát triển.Vai trò của NLĐ ngày càng được khẳng định, đời sống vật
chất và tinh thần được quan tâm hơn, nhưng những bức xúc giữa họ và chủ DN
cũng xuất hiện. Bộ Luật Lao động 1994 và sửa đổi, bổ sung các năm 2002, 2006 đã
thúc đẩy và tạo nền tảng cơ bản về quyền và nghĩa vụ của các bên khi tham gia vào
QHLĐ cũng như từng bước hướng các quan hệ này vào quỹ đạo chế tài từ luật định.
Bên cạnh những thành tựu đạt được, phát sinh những vấn đề phức tạp về QHLĐ,
đây là vấn đề nhạy cảm trong hệ thống quản lý.
Trong thực tiễn đã bộc lộ nhiều tiêu cực phát sinh, đã làm ảnh hưởng đến phát
triển kinh tế xã hội. Một trong những tiêu cực thấy rõ trong thời gian gần đây là
hiện tượng vi phạm pháp luật, các thắc mắc, khiếu nại, tranh chấp lao động và liên
tiếp xảy ra các cuộc đình lãn công tập thể kéo theo hàng trăm, thậm chí hàng ngàn
lao động trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại các khu công nghiệp
của tỉnh, không những đã làm thiệt hại đáng kể đến sản xuất, đến lợi ích doanh
nghiệp và người lao động, mà còn ảnh hưởng đến môi trường đầu tư. Ở đây, nguyên


nhân sâu xa là, giữa người lao động và người sử dụng lao động chưa thống nhất với
nhau về lợi ích kinh tế, thu nhập, các điều kiện phúc lợi thụ hưởng, đời sống văn
hóa tinh thần, mà cụ thể là thu nhập của người lao động trong khu vực này chưa
tương xứng với năng lực cống hiến, cường độ lao động và thời gian làm việc của
họ, điều này làm cho mối ràng buộc trong quan hệ lao động không bền vững. Trong
sự cố đáng tiếc đó, có một phần của người lao động, của người sử dụng lao động và
có cả sự thiếu sót chưa hoàn thiện của hệ thống pháp luật, chính sách của nhà nước.
Vậy, làm sao bảo vệ được quyền lợi chính đáng, hợp pháp của người lao động
mà không làm ảnh hưởng tới môi trường đầu tư, không làm giảm tính cạnh tranh
của mỗi doanh nghiệp, nhằm ngăn ngừa các cuộc đình công đòi tăng lương, để khắc
phục tình hình trên, vấn đề là chúng ta nhận thức như thế nào về mối quan hệ hài
hòa, hợp lý trong lợi ích kinh tế, đời sống vật chất, văn hóa tinh thần giữa người
NLĐ và người NSDLĐ? Giữa lợi ích của nhà nước, của xã hội đối với các nhà đầu
tư nước ngoài; và vận dụng với những bước đi ở từng thời điểm ra sao phù hợp bối
cảnh cạnh tranh gay gắt của quá trình hội nhập vào nền thương mại tự do của thế
giới? Đó chính là lý do tôi chọn đề tài “Quan hệ lao động trong khu vực có vốn
đầu tư nước ngoài tại các khu công nghiệp tỉnh Bình Dương” làm luận văn tốt
nghiệp thạc sỹ kinh tế, chuyên ngành kinh tế chính trị.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài:
Qua các bài viết về quan hệ lao động của các nhà khoa học trước đây như: "Cải
cách chế độ tiền lương" của Trần Bạch Đằng, đăng trên báo Kinh tế Sài Gòn, số 50
và 51; “Lý luận chung về phân phối xã hội chủ nghĩa" của Lý Bân; (2001), "Tiền
lương tối thiểu trong nền kinh tế thị trường" của Th.s Nguyễn Lan Hương đăng trên
báo Lao động và Xã hội, số 11; "Lao động tiền lương và sự phát triển kinh tế” của
Nguyễn Ái Đoàn, đăng trên tờ Nghiên cứu kinh tế, số 261; “Vài ý kiến về vấn đề
cải cách tiền lương Việt Nam hiện nay” của PGS.TS Trần Văn Thiện, đăng trên thời
2
báo Kinh Tế Việt Nam, số 24/2005; “ Tiếp tục cải cách chế độ tiền lương” của
TS.Lê Hồng Tiến đăng trên thời báo Kinh Tế Việt Nam số 86/2006 và qua thực tế
tình hình của tỉnh Bình Dương chúng ta phân tích và đánh giá mối quan hệ lao

động giữa người lao động và người sử dụng lao động, trong khu vực có vốn đầu tư
nước ngoài ở các khu công nghiệp tỉnh Bình Dương.
3. Nội dung, đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của luận án là QHLĐ trong khu vực kinh tế có vốn đầu tư
nước ngoài trong các KCN Bình Dương. Một số thông tin, số liệu sử dụng trong
luận án được điều tra và tham khảo tại các Sở, Ban ngành liên quan tỉnh Bình
Dương, từ đó đi đến phân tích và đưa ra định hướng về QHLĐ.
3.1. Phân tích các yếu tố tác động đến các lợi ích của NLĐ, chủ doanh nghiệp
và nhà nước ở Tỉnh Bình Dương và mối quan hệ giữa chúng.
3.2. Đưa ra định hướng và đề xuất các giải pháp để xây dựng các mối quan hệ
lao động về các lợi ích và phân phối thu nhập một cách hợp lý, hài hòa ở khu vực có
vốn đầu tư nước ngoài tại các khu công nghiệp tỉnh Bình Dương.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Nội dung của đề tài có liên quan đến một số ngành, một số lĩnh vực, do đó
những phương pháp sau đây sẽ được vận dụng:
• Phương pháp trừu tượng hóa khoa học
• Phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử
• Phương pháp thống kê
• Phương pháp mô tả, đều tra phân tích các số liệu thống kê
• Phương pháp phân tích và so sánh
• Phương pháp tổng hợp
Thông tin và số liệu thứ cấp được thu thập từ sách, báo, tạp chí chuyên ngành,
mạng Internet, các tài liệu từ các hội thảo chuyên đề về QHLĐ, Luật Đầu tư, Luật
Lao động, các nghị định, thông tư và văn bản của Chính phủ, Bộ Ngành liên quan;
3
các số liệu điều tra do Sở Lao động – Thương binh và Xã hội, Liên đoàn Lao động,
Ban Quản lý các KCN, Cục Thống kê tỉnh Bình Dương.
4
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUAN HỆ LAO ĐỘNG

1.1 CÁC KHÁI NIỆM
1.1.1 Quan hệ lao động
1.1.1.1 Khái niệm
Tổng thể các mối quan hệ giữa người với người tạo nên một hệ thống các quan
hệ xã hội bao gồm quan hệ chính trị, quan hệ kinh tế, quan hệ tôn giáo, quan hệ đạo
đức và quan hệ lao động. Quan hệ lao động chính là hệ thống quan hệ xã hội giữa
các bên có địa vị và lợi ích khác nhau trong quá trình lao động, bao gồm các quan
hệ: giữa tư liệu sản xuất với người lao động; giữa người quản lý điều hành với
người thừa hành. Ngoài ra, quan hệ lao động còn được hiểu là mối quan hệ giữa
người làm công ăn lương với người sử dụng lao động thuộc các thành phần kinh tế,
các hình thức sở hữu. Quan hệ lao động được xác lập và tiến hành qua thương
lượng và thỏa thuận theo nguyên tắc tự nguyện bình đẳng, thể hiện bằng các hợp
đồng lao động cá nhân và thỏa ước lao động tập thể, là một phạm trù đa lĩnh vực,
nằm ở nhiều môn khoa học như lịch sử, kinh tế, xã hội, chính trị và luật pháp.
Quan hệ lao động được xác định ở một số điểm chính sau:
- Là quan hệ qua lại giữa người lao động và người sử dụng lao động.
- Chịu sự điều chỉnh về mặt pháp lý và những can thiệp trực tiếp khi cần thiết
của Nhà nước.
- Quan hệ lao động diễn ra trong tất cả các lĩnh vực hoạt động sản xuất – kinh
doanh, và phần lớn diễn ra trong môi trường công nghiệp.
Mặc dù hoạt động của con người rất đa dạng, phong phú, diễn ra trong nhiều
lĩnh vực và dưới mỗi chế độ xã hội khác nhau, bản chất của quan hệ lao động cũng
có khác nhau. Dưới chủ nghĩa tư bản, quan hệ lao động, thường được hiểu là quan
hệ chủ – thợ, chứa đựng quan hệ bóc lột của chủ tư bản đối với lao động làm thuê,
5
còn dưới chủ nghĩa xã hội, quan hệ lao động thường thể hiện qua quan hệ quản lý
giữa người điều hành và người thừa hành, nó không chứa đựng quan hệ bóc lột lao
động làm thuê.
1.1.1.2 Điều kiện xuất hiện quan hệ lao động và sự khác biệt giữa các quan
hệ lao động trong các chế độ xã hội khác nhau

Quan hệ lao động chỉ xuất hiện khi xuất hiện quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Trong điều kiện quan hệ sản xuất phong kiến chủ nghĩa chưa có quan hệ lao động.
Quan hệ giữa chúa phong kiến và nông nô không phải là quan hệ lao động, bởi vì,
chúa phong kiến không thuê mướn người nông dân làm thuê và trả lương cho người
nông dân, mà người nông dân không có đất, muốn tồn tại họ phải lĩnh canh đất đai
của chúa phong kiến để canh tác và nộp địa tô cho chúa phong kiến. Người nông nô
không được tự do hoàn toàn như người công nhân trong chủ nghĩa tư bản, họ và gia
đình họ phải bị gắn chặt với đất đai của chúa phong kiến để tồn tại.
Trong quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, xuất hiện người lao động đi bán sức
lao động (làm thuê) cho các chủ tư bản. Sức lao động đã biến thành hàng hoá, bởi vì
trong chủ nghĩa tư bản đã có hai điều kiện để sức lao động biến thành hàng hoá, đó
là: 1) người lao động được tự do thân thể 2) người lao động không có tư liệu sản
xuất. Trong chủ nghĩa phong kiến người nông nô chưa được tự do hoàn toàn, họ
không thể bỏ mảnh đất của địa chủ này để sang lĩnh canh mảnh đất của địa chủ
khác. Nhưng trong chủ nghĩa tư bản người lao động làm thuê được tự do về thân
thể, họ được quyền tự do lựa chọn đi làm thuê cho chủ tư bản này hay chủ tư bản
khác. Luật pháp tư bản đã thừa nhận và bảo vệ quyền tự do đó, trong khi luật pháp
phong kiến không có điều khoản nào bảo vệ quyền tự do của người nông nô. Đồng
thời, nếu người lao động có tư liệu sản xuất thì họ sẽ tự tổ chức sản xuất ra hàng
hoá đem đi bán, trao đổi trên thị trường chứ họ không đi làm thuê. Nhưng vì không
có tư liệu sản xuất, muốn tồn tại, sống còn họ phải đi làm thuê cho các nhà tư bản
để nhận lương. Thu nhập tiền lương là điều kiện duy nhất để người lao động làm
thuê tồn tại trong chủ nghĩa tư bản.
6
Quan hệ giữa nhà tư bản chủ tư liệu sản xuất và người lao động làm thuê thể
hiện qua phạm trù kinh tế mới xuất hiện trong chủ nghĩa tư bản là “tiền lương tư
bản chủ nghĩa”. Trong quan hệ sản xuất phong kiến không có phạm trù “tiền lương
phong kiến” mà chỉ có phạm trù “địa tô phong kiến”. Bản chất của “tiền lương tư
bản chủ nghĩa” là thể hiện quan hệ bóc lột lao động làm thuê của nhà tư bản đối với
công nhân, còn “địa tô phong kiến” thể hiện bản chất bóc lột của chúa phong kiến

đối với người nông nô.
Nếu xã hội loài người xây dựng thành công mô hình xã hội xã hội chủ nghĩa thì
theo quan điểm của chủ nghĩa Mác, quan hệ lao động trong quá trình sản xuất xã
hội chủ nghĩa không chứa đựng quan hệ bóc lột lao động làm thuê. Bởi vì, trong
điều kiện chủ nghĩa xã hội mọi người lao động đều trở thành người chủ tư liệu sản
xuất xã hội. Đã là người chủ thì quan hệ giữa họ với nhau là bình đẳng. Trong quá
trình sản xuất xã hội chủ nghĩa, không tồn tại quan hệ chủ thợ, mà quan hệ lao động
là quan hệ giữa người điều hành quá trình sản xuất và người trực tiếp thực hiện lao
động sản xuất. Tất cả những người trong quá trình sản xuất của một đơn vị sản xuất
xã hội chủ nghĩa đều là người lao động: người lao động gián tiếp (nhà quản lý, điều
hành) và người lao động trực tiếp (người trực tiếp thực hiện lao động sản xuất). Đây
là sự khác biệt về chất giữa quan hệ lao động trong chủ nghĩa tư bản và quan hệ lao
động trong chủ nghĩa xã hội.
1.1.2 Các hình thức biểu hiện quan hệ lao động
Các quan hệ lao động được thể hiện qua các hình thức thu nhập của các chủ thể
tham gia sản xuất kinh doanh. Trong sản xuất kinh doanh có các chủ thể kinh tế
như: người lao động làm công ăn lương, chủ sở hữu, nhà nước. Vì vậy, quan hệ lao
động thể hiện qua các hình thức thu nhập sau:
1.1.2.1 Tiền lương
Tiền lương là số lượng tiền mà người lao động nhận được sau một thời gian làm
việc nhất định, hoặc sau khi đã hoàn thành một khối lượng công việc nào đó. Trong
đó, một yêu cầu khách quan là tiền lương phải đảm bảo: tái sản xuất sức lao động,
7
đáp ứng những nhu cầu giáo dục, văn hóa và tinh thần của người lao động và nuôi
dưỡng con cái.
Tiền lương được xem xét trên hai mặt: tiền lương danh nghĩa và tiền lương thực
tế.
+ Tiền lương danh nghĩa là tiền công mà người lao động nhận được dưới hình
thức tiền mặt;
+ Tiền lương thực tế thể hiện bằng số lượng sản phẩm và những dịch vụ mà

người lao động có thể mua được từ tiền lương danh nghĩa.
Về hình thức chủ yếu của tiền lương, chúng ta phân biệt có 2 loại: tiền lương
theo thời gian và tiền lương theo sản phẩm.
+ Tiền lương theo thời gian được áp dụng cho những công việc không tính cụ
thể được hao phí lao động (nghiên cứu khoa học, công tác quản lý, ) được thể hiện
qua các bậc, thang lương do nhà nước hoặc do doanh nghiệp quy định và được trả
hàng tháng cho người lao động.
+ Tiền lương theo sản phẩm được xây dựng trên cơ sở định mức sản xuất và
được thể hiện thông qua hình thức khoán từng phần việc, hoặc khoán gọn, bảo đảm
tăng tiền lương ứng với tăng năng suất lao động. Nó thể hiện tính khoa học cao vì
nó phản ảnh đúng số lượng và chất lượng lao động, thể hiện sự hợp lý trong phân
phối lao động, đồng thời lại kích thích tinh thần lao động, khuyến khích người lao
động chăm lo rèn luyện tay nghề, cải tiến kỹ thuật, nâng cao năng suất lao động …
Tiền lương biểu hiện một tập hợp phức tạp các mối quan hệ kinh tế: giữa người
lao động riêng biệt và toàn xã hội; giữa tập thể lao động vì công lao động phụ thuộc
vào kết quả hạch toán kinh tế hoạt động của các doanh nghiệp; giữa người lao động
và tập thể người lao động vì tiền lương của mỗi người được xác định trong khuôn
khổ quỹ tiền lương của doanh nghiệp.
Nguyên tắc quan trọng nhất để phân biệt tiền lương là đại lượng phụ thuộc trực
tiếp không những vào số lượng mà cả mức độ phức tạp của lao động. Kết quả cuối
cùng của hoạt động kinh tế (nâng cao năng suất lao động, tiết kiệm nguyên vật liệu,
8
chất lượng sản phẩm) đều được phản ánh trong sự tăng thêm của quỹ tiền lương,
hay của lợi nhuận.
Tiền lương còn thể hiện quan hệ giữa chủ sở hữu và người lao động, bởi vì, theo
lý thuyết giá trị của chủ nghĩa Mác, giá trị hàng hoá bao gồm giá trị vật hoá ( c ) và
giá trị mới ( v + m ). Trong đó, v là giá trị hàng hoá sức lao động của người lao
động, thể hiện bằng tiền là giá cả sức lao động, được gọi là tiền lương, m là giá trị
thặng dư do người lao động làm thuê tạo ra, biểu hiện thành lợi nhuận, lợi tức, địa
tô… Do đó, với một giá trị hàng hoá nhất định, nếu tiền lương tăng lên thì lợi nhuận

sẽ giảm xuống và ngược lại, nếu lợi nhuận tăng lên thì tiền lương sẽ giảm xuống.
Nói cách khác, với một giá trị hàng hoá nhất định, tiền lương và lợi nhuận có quan
hệ nghịch với nhau. Đây cũng là một mâu thuẫn cần giải quyết. Để giải quyết mâu
thuẫn này, nghĩa là, tiền lương phải tăng lên và lợi nhuận cũng tăng lên, cần phải
tăng tổng khối lượng giá trị, đồng nghĩa với việc sản xuất kinh doanh phải phát
triển.
1.1.2.2 Lợi nhuận (cổ tức), lợi tức
Đây là hình thức thu nhập theo tài sản hay theo vốn, được thể hiện như: Đối với
vốn tự có của các doanh nghiệp tư nhân riêng lẻ cũng như trong vốn cổ phần của
các cổ đông trong các công ty cổ phần, hình thức thu nhập là lợi nhuận, lợi tức cổ
phần hoặc cổ tức; Đối với vốn cho vay, thu nhập thích ứng là hình thức lợi tức cao
hay thấp phụ thuộc vào tỷ suất của nó. Tỷ suất này lên xuống theo quan hệ cung cầu
về tiền cho vay và quan hệ cung cầu hàng hóa, liên quan đến chỉ số biến động của
giá cả trong từng thời kỳ.
1.1.3 Mối quan hệ của các lợi ích trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện
nay
1.1.3.1 Bản chất của mối quan hệ các lợi ích
Bản chất của lợi ích kinh tế có cơ sở khách quan gắn liền với các quan hệ sản
xuất, trước hết là quan hệ sở hữu. Hơn nữa, từ quy luật quan hệ sản xuất phải phù
9
hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, mỗi quan hệ sản xuất cùng với
lợi ích kinh tế tương ứng, tuy là hợp lý hay phi lý, tiến bộ hay không tiến bộ; tiêu
chuẩn xem xét là ở chỗ chúng phù hợp hay không phù hợp với tính chất của lực
lượng sản xuất, thúc đẩy hay cản trở quá trình phát triển.
Như vậy, trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay, thì
lợi ích kinh tế của các thành phần tham gia, kể cả Nhà nước phải hài hòa. Mà hướng
đến của toàn xã hội mong muốn là phải tăng năng suất lao động, phát triển sản xuất,
nâng cao đời sống nhân dân lao động; cũng là tiêu chuẩn để xác định tính hợp lý về
lợi ích kinh tế của các chủ sở hữu trong việc sử dụng cơ cấu kinh tế nhiều thành
phần ở nước ta. Từ tiêu chuẩn này, phải thừa nhận tính hợp lý của mức thu nhập cao

đối với những người lao động đạt năng suất và hiệu quả cao cho xã hội, dù thu nhập
đó cao gấp nhiều lần so người lao động có năng suất và hiệu quả thấp. Phải phê
phán và khắc phục khuynh hướng đòi hỏi và bảo đảm lợi ích theo nhu cầu bình
quân, vì đó là lợi ích không hợp lý, không thúc đẩy mà cản trở sản xuất, trong quá
trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa.
Hiện nay, trong nền kinh tế nhiều thành phần, nhiều hình thức sở hữu, có nhiều
lợi ích kinh tế: lợi ích kinh tế của nhà nước (xã hội), lợi ích kinh tế của tập thể lao
động, lợi ích kinh tế của cá nhân người lao động và của người chủ sở hữu tư nhân,
cá thể.
Các lợi ích kinh tế trên vừa thống nhất vừa mâu thuẫn với nhau. Mối quan hệ
biện chứng giữa các lợi ích được phản ánh qua sự liên kết, đan xen giữa các hình
thức sở hữu trong quá trình tái sản xuất. Trong kinh tế nhà nước có phần của nhà
nước, của tập thể lao động, phần vốn của cá nhân người lao động hoặc các chủ sở
hữu cá thể, tư nhân trong và ngoài nước. Trong kinh tế tập thể, có phần kinh tế của
nhà nước, của tập thể lao động, phần vốn của cá nhân người lao động hoặc của các
chủ sở hữu cá thể, tư nhân. Trong các doanh nghiệp cổ phần, loại hình doanh
nghiệp mà Nhà nước đang có chính sách đẩy mạnh công tác cổ phần hóa, tạo điều
kiện thuận lợi; nhất là trong giai đoạn hiện nay khi nước ta đã hội nhập vào nền
kinh tế thế giới, nhằm tập trung khả năng ve vốn, quản lý, công nghệ… mà các
10
doanh nghiệp trong nước phải đương đầu để tồn tại và phát triển trong môi trường
tự do thương mại toàn cầu cạnh tranh khốc liệt.
Do vậy, trong việc quản lý nền kinh tế nhiều thành phần trong giai đoạn chuyển
đổi, cần phải có chủ trương, chính sách đúng đắn, hợp lý của mối quan hệ lao động
để khơi dậy được sự đồng tình, hưởng ứng của những người tham gia phát triển sản
xuất. Muốn vậy, khi xác định cũng như khi thực hiện mục tiêu, chính sách, biện
pháp sản xuất kinh doanh phải bảo đảm kết hợp hài hòa, đúng đắn các lợi ích kinh
tế của xã hội, tập thể lao động, cá nhân người lao động và các chủ sở hữu cá thể, tư
bản tư nhân trong và ngoài nước. Có như vậy mới tạo được động lực kinh tế, giải
phóng được mọi năng lực sản xuất hiện có của xã hội.

1.1.3.2 Vai trò của lợi ích kinh tế trong công nghiệp hóa và hiện đại hóa
Trong công cuộc công nghiệp hóa và hiện đại hóa, nền kinh tế sẽ tạo nhiều sản
phẩm, của cải cho xã hội, do đó có nhiều động lực kích thích phát triển. Mọi động
lực, suy đến cùng, do động lực kinh tế quyết định. Vì vậy, lợi ích kinh tế có vai trò
hết sức quan trọng đối với mọi quá trình phát triển kinh tế nói chung. Vấn đề này
càng có ý nghĩa đặc biệt trong thời kỳ công nghiệp hóa và hiện đại hóa ở nước ta:
- Lợi ích kinh tế là động lực trực tiếp thúc đẩy mọi người và các chủ thể
kinh tế vì lợi ích kinh tế mà quan tâm đến kết quả sản xuất;
- Đẩy mạnh dân chủ hóa trong kinh tế và thực hiện công bằng xã hội, bảo
đảm cho mọi người yên tâm phấn khởi làm ăn theo pháp luật;
- Khai thác được các nguồn tài nguyên và lao động để tạo ra nhiều sản
phẩm hàng hóa cho xã hội;
- Đảm bảo cho người lao động được hưởng phần thu nhập phù hợp với sự
đóng góp của mình.
Thực tiễn nước ta nhiều năm qua, trong thời gian khá lâu dài, Nhà nước thiên về
lợi ích xã hội, xem nhẹ lợi ích tập thể lao động, cá nhân người lao động và của
người chủ sở hữu cá thể, tư nhân.
11
Tóm lại, lợi ích kinh tế là động lực thúc đẩy sản xuất phát triển, vì sản xuất là
“gốc”, là cơ sở phân phối lợi nhuận. Do đó, phải giải quyết hài hòa các lợi ích, coi
trọng lợi ích cá nhân người lao động; phải có biện pháp đồng bộ về kinh tế, hành
chánh và tư tưởng để xây dựng con người mới hoàn thiện, xã hội công bằng và văn
minh; tránh tình trạng phân hóa quá nhiều giữa các tầng lớp xã hội trong quá trình
xây dựng, đẩy mạnh công cuộc công nghiệp hóa và hiện đại hóa để phát triển nền
kinh tế đất nước trong giai đoạn hội nhập; cũng như hạn chế những vấn đề nóng của
xã hội phát triển như đình, lãng công trong thời gian gần đây xảy ra trong cả nước,
nhất là các tỉnh - thành có tốc độ phát triển nhanh như: Bình Dương, Đồng Nai,
Thành phố Hồ Chí Minh, Vũng Tàu, Long An …
1.2 VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA MỐI QUAN HỆ LAO ĐỘNG TRONG VIỆC
PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI

Phát triển kinh tế - xã hội, bên cạnh tăng thu nhập quốc dân tính theo đầu người
còn bao hàm sự thay đổi cơ cấu kinh tế, thể chế kinh tế và chất lượng cuộc sống
tinh thần và vật chất của người và cộng đồng xã hội.
Để tồn tại và phát triển, con người phải đáp ứng nhu cầu vật chất cho cuộc sống.
Sự tiêu dùng của con người chính là nguồn gốc của động lực phát triển kinh tế – xã
hội, mục đích của sản xuất là tiêu dùng. Khối lượng tiêu dùng và cơ cấu tiêu dùng là
yếu tố quyết định về quy mô và cơ cấu sản xuất, kinh doanh, dịch vụ. Với tư cách
là người sản xuất, con người có vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển, con
người với khả năng trí tuệ và thể lực của mình là yếu tố cơ bản nhất, quyết định
nhất của sự phát triển sản xuất xã hội. Trong bất kỳ giai đoạn lịch sử nào, trình độ
sản xuất nào, lao động của con người luôn đóng vai trò quyết định. Cùng với sự
phát triển tiến bộ kỹ thuật, công nghệ trong sản xuất sẽ dẫn tới sự thay đổi của vị trí
lao động giản đơn và lao động kỹ thuật, lao động trí tuệ ngày càng đóng vai trò then
chốt cho sự phát triển kinh tế – xã hội.
Muốn phát triển kinh tế – xã hội, điều cơ bản phải có sự tăng trưởng kinh tế.
Nhưng không phải bất cứ sự tăng trưởng nào cũng dẫn tới phát triển kinh tế, tuy
12
nhiên thu nhập thực tế tăng lên của mỗi người dân phản ánh tính xã hội của sự tăng
trưởng. Như vậy sự phát triển kinh tế – xã hội đi đôi với tăng thu nhập thực tế của
đại bộ phận dân cư nhờ phân phối kết quả thu nhập của mối quan hệ lao động giữa
người sử dụng lao động và người lao động. Ngày nay, phát triển kinh tế – xã hội
còn thể hiện ở yếu tố tiêu chuẩn về chất lượng sản phẩm cao, phù hợp với nhu cầu
xã hội, nhu cầu con người, bảo vệ môi trường và bảo đảm công bằng xã hội.
1.2.1 Quan hệ lao động là động lực cơ bản để tăng năng suất lao động, phát
triển lực lượng sản xuất
Sự phát triển không ngừng của sản xuất, của kinh tế là cơ sở của mọi sự phát
triển trong đời sống xã hội. Phát triển kinh tế suy đến cùng, là sự tăng năng suất lao
động, là sự phát triển của lực lượng sản xuất (bao gồm tư liệu lao động và người lao
động). Do vậy, muốn phát triển kinh tế – xã hội, mấu chốt của vấn đề là phát triển
lực lượng sản xuất.

Những yếu tố thuộc về lực lượng sản xuất, có ảnh hưởng đến sự phát triển kinh
tế - xã hội trong quan hệ lao động. Khi xét những nhân tố thuộc lực lượng sản xuất
ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế, ngoài những yếu tố như điều kiện tự nhiên, tài
nguyên thiên nhiên, còn có nhân tố con người và công nghệ ngày càng được nhấn
mạnh, trong đó khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Công nghệ nếu
được lựa chọn phù hợp với tiềm năng nguồn lực của đất nước… sẽ là một động lực
mới thúc đẩy nền kinh tế phát triển nhanh, bền vững. Đất nước ta trong quá trình
công nghiệp hoá, hiện đại hoá, muốn ứng dụng công nghệ mới cần phải biết sử
dụng chuyên gia công nghệ dưới hình thức trao đổi khoa học – kỹ thuật, liên doanh
liên kết, chuyển giao công nghệ. Cần có chính sách hợp lý để tận dụng những thành
tựu mới của cách mạng khoa học và công nghệ, tranh thủ thời cơ để vươn lên đuổi
kịp các nước có nền kinh tế phát triển. Trong đó, con người luôn là yếu tố hàng đầu
của sự phát triển kinh tế, đặc biệt trong điều kiện cách mạng khoa học và công nghệ
hiện đại.
13
Ngày nay, với sự phát triển của văn minh và văn hóa, về khách quan con người
vừa được coi là động lực, vừa được coi là mục đích của sự phát triển. Lý do là, trình
độ phát triển, năng suất và kỹ thuật hiện đại đã tạo cho con người nhiều thời gian,
điều kiện học tập và phát triển toàn diện. Kinh tế tri thức đã trở thành một hiện
thực, một xu thế có tính qui luật, mang lại thịnh vượng cho mỗi quốc gia, từng
doanh nghiệp, mỗi con người nếu biết sử dụng và khai thác. Kinh tế tri thức, ra đời
từ các nước công nghiệp tiên tiến, nó có thể sinh sôi và phát huy khả năng ở mọi
nơi, kể cả các nước kinh tế có trình độ thấp, khi biết tạo dựng thành một môi trường
thuận lợi, phù hợp cho sự phát triển. Sự phát triển kinh tế – xã hội của mỗi quốc gia
phụ thuộc vào nhiều nhân tố khác nhau nhưng “nguồn nhân lực được xem là nhân
tố đóng vai trò quyết định” về tốc độ, chất lượng tăng trưởng và phát triển kinh tế –
xã hội nhanh và bền vững.
Trong quá trình đổi mới, Nhà nước ta cũng đã khẳng định, phát triển nguồn
nhân lực là nhiệm vụ trọng tâm, quyết định sự thành công trong công cuộc công
nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước, nguồn nhân lực giữ vai trò quan trọng nhất

trong các nguồn lực phát triển kinh tế – xã hội. Do vậy, chúng ta xây dựng một xã
hội dân chủ, công bằng và tiến bộ, một xã hội xã hội chủ nghĩa tạo cho con người
đầy đủ những điều kiện phát triển toàn diện, phát huy tốt nhất nhân tố con người để
phát triển kinh tế, xã hội.
1.2.2 Quan hệ lao động góp phần thúc đẩy và hoàn thiện quan hệ sản xuất
mới
Các quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất sẽ tạo động lực cho lực lượng sản xuất phát triển, ngược lại, khi không phù
hợp, đây sẽ là nhân tố cản trở, kìm hãm sự phát triển.
Trong quan hệ sản xuất thì cơ chế kinh tế và cơ chế thị trường là yếu tố có ảnh
hưởng lớn. Cơ chế kinh tế sẽ là nhân tố kích thích hay cản trở sự phát triển kinh tế,
thực tiễn lịch sử cho thấy, cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp đều cản trở sự phát
triển kinh tế. Hiện nay cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định
14
hướng xã hội chủ nghĩa là cơ chế thích hợp nhất đối với sự phát triển quan hệ sản
xuất trong nền kinh tế chuyển đổi của đất nước, trong xu thế chủ động hội nhập nền
kinh tế thế giới xây dựng chế độ chủ nghĩa xã hội văn minh và tiến bộ. Cơ chế thị
trường với tác động của quy luật giá trị, cạnh tranh và cung – cầu kích thích tối đa
tính năng động, sáng tạo của các doanh nghiệp, buộc các doanh nghiệp phải đổi mới
kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất, nậng cao năng suất lao động, hiệu quả sản xuất; nhất
là phát triển mối quan hệ sản xuất. Mà trong đó mối quan hệ giữa người lao động và
người sử dụng lao động cùng tồn tại và tiến bộ, góp phần cải thiện mối quan hệ sản
xuất mới đáp ứng được yêu cầu đòi hỏi của quá trình phát triển kinh tế.
1.2.3 Quan hệ lao động là nhân tố quan trọng hình thành con người mới để
xây dựng và làm chủ xã hội giàu có, dân chủ, công bằng, văn minh
Kinh nghiệm của những nước Châu Á – Thái Bình Dương cho chúng ta thấy,
những nước nghèo muốn đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, nâng cao mức sống
chỉ có một con đường là biến xã hội của đất nước thành một xã hội có học vấn cao,
thể hiện qua quá trình phát triển ngành giáo dục của mình, từ đó kéo theo mức chi
ngân sách cho giáo dục và đào tạo cũng như tỷ lệ dân số có trình độ nghề nghiệp và

học vấn cao, đáp ứng được nhu cầu quan hệ lao động trong nền kinh tế thị trường.
Quan hệ lao động là một nhân tố quan trọng hình thành con người mới, vì ngoài
số lượng lao động trong quá trình phát triển kinh tế, thì chất lượng lao động làm cho
lao động có năng suất cao hơn. Chất lượng lao động có thể nâng cao nhờ giáo dục ,
đào tạo và sức khỏe của người lao động. Giáo dục được coi là dạng quan trọng nhất
của sự phát triển tiềm năng của con người. Kết quả giáo dục làm tăng lực lượng lao
động có trình độ tạo khả năng thúc đẩy nhanh quá trình đổi mới công nghệ. Công
nghệ thay đổi càng nhanh, quá trình đổi mới càng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Giống như giáo dục, sức khỏe làm tăng chất lượng của nguồn nhân lực cả hiện tại
và tương lai, người lao động có sức khỏe tốt có thể mang lại những lợi nhuận trực
tiếp bằng việc nâng cao sức bền bỉ, dẻo dai và khả năng tập trung trong khi đang
làm việc. Nhà nước phải có những hoạch định chính sách chăm lo sức khỏe cho
nhân dân, nhằm làm tăng nguồn nhân lực bằng việc kéo dài tuổi lao động. Vì con
15
người là nhân tố cơ bản của tăng trưởng kinh tế bền vững. Đó là con người có sức
khỏe, có trí tuệ, có tay nghề cao, có động lực và nhiệt tình lao động, được tổ chức
chặt chẽ. Vì nếu tăng trưởng kinh tế chỉ chủ yếu dựa vào việc khai thác tài nguyên
thì tăng trưởng kinh tế đó không bền vững, do tài nguyên là có hạn; trái lại, muốn
tăng trưởng bền vững thì phải dựa vào nhân tố con người, tất nhiên tài năng và trí
tuệ con người là bền vững và vô tận. Muốn phát huy nhân tố con người phải có hệ
thống giáo dục, y tế tốt. Nhân tố học vấn của con người không thể thông qua cơ chế
thị trường bởi lẽ thị trường bản thân tự nó không đủ khả năng cung cấp một nền
giáo dục và đào tạo đúng mức. Do vậy. Chính phủ phải đóng vai trò chủ đạo trong
việc đào tạo và sử dụng nhân tài. Lúc bấy giờ, đến lượt nó, tăng trưởng kinh tế tạo
điều kiện cho quan hệ lao động phát triển , làm cho mối quan hệ sản xuất mới được
cải thiện.
1.3 KHÁI QUÁT TÌNH HÌNH THỰC HIỆN MỐI QUAN HỆ LAO ĐỘNG Ở
VIỆT NAM NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY
Thực tế, trong những năm gần đây, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài,
không chỉ bổ sung nguồn vốn và mang đến công nghệ tiên tiến, thiết bị hiện đại,

nguồn vốn đầu tư nước ngoài mà còn góp phần nâng cao khả năng tiếp cận thị
trường quốc tế và kỹ năng quản lý của người Việt. Sự phát triển “theo dây chuyền”
của các ngành công nghệ, thông tin, viễn thông, cảng sông, cảng biển, cầu đường…
vừa tác động gián tiếp đến việc chuyển dịch lao động trong nhiều ngành và nhiều
lĩnh vực khác nhau. Khu vực này đã góp phần quan trọng giải quyết công ăn việc
làm và tạo động lực tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, khi khu vực này càng mở rộng
thì mối quan hệ về lợi ích và phân phối thu nhập giữa người lao động và người sử
dụng lao động có nhiều bất cập, nên xảy ra nhiều cuộc tranh chấp. Đáng tiếc hơn
nhiều cuộc đình công ngày càng xảy ra dồn dập, quy mô lớn và có tính chất gay gắt
và phức tạp hơn. Một bộ phận người lao động có mức thu nhập thấp hơn mức lương
tối thiểu do Nhà nước quy định, trả tiền tăng ca, thưởng chưa tương xứng với sự
đóng góp của người lao động, từ đó là một trong những nguyên nhân chính xảy ra
đình - lãn công, bỏ sang doanh nghiệp khác thậm chí họ chịu cảnh thất nghiệp vài
16
ba tháng để tìm một nơi vừa ý. Gần đây một số doanh nghiệp thuộc khu vực có vốn
đầu tư nước ngoài trong khu công nghiệp không có sự kết hợp quyền lợi giữa người
lao động và người sử dụng lao động một cách hài hòa mà chỉ tính việc thu lợi nhuận
trước mắt, mà quên chăm lo về mặt đời sống vật chất cả về tinh thần, ít nhất là thực
hiện những quy định về lương tối thiểu, các chế độ chính sách về đời sống vật chất
và tinh thần như tham gia bảo hiểm xã hội, khám bệnh định kỳ cho người lao động,
trang bị đầy đủ các dụng cụ bảo hộ lao động, cải thiện môi trường làm việc: xây
dựng văn hóa doanh nghiệp, tạo môi trường làm việc an toàn cho người lao động kể
cả cộng đồng sống xung quanh doanh nghiệp… mà Nhà nước đã quy định.
Trong giai đoạn cuối năm 2005 đầu năm 2006 là thời điểm nóng bỏng nhất của
việc tranh chấp lao động trong cả nước. Chỉ tính từ ngày 28/12/2005 đến ngày
23/3/2006, cả nước xảy ra 201 vụ đình công, 87% là doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài.
Các vụ đình công do mâu thuẫn về quyền lợi giữa người lao động và người sử
dụng lao động tại các khu công nghiệp, khu chế xuất vẫn xảy ra mang tính tự phát
kéo dài. Trong tranh chấp quan hệ lao động, nguyên nhân do việc giải quyết các chế

độ với người lao động. Đến nay tình hình đã ổn định, các doanh nghiệp đã đi vào
sản xuất kinh doanh bình thường. Qua các vụ tranh chấp quan hệ lao động, trong
các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, ta rút ra kết luận sau:
Bất cập tiền lương, là nguyên nhân căn bản làm tăng đình công, tuy các cuộc
đình công đều không tuân thủ theo quy định của pháp luật lao động, nhưng đều xuất
phát từ việc trả lương quá thấp, điều kiện sống và làm việc của người lao động
không đảm bảo. Một trong nguyên nhân sâu xa chính là thu nhập của người lao
động trong khu vực có vốn đầu tư nước ngoài chưa tương xứng với cường độ lao
động và thời gian làm việc của họ. Tính từ đầu năm 1999 đến nay, trong khi giá tiêu
dùng tăng cao trên 4,5 lần, giá công nhân trên thị trường lao động đã thay đổi,
lương tối thiểu trong khu vực Nhà nước đã được điều chỉnh tới 3 lần, nhưng lương
của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài vẫn không thay đổi. Nhằm ngăn ngừa các
cuộc đình lãn công đòi tăng lương đang diễn ra khá phức tạp cuối năm 2005, Chính
17
phủ đã ban hành Nghị định số: 03/2006/NĐ-CP ngày 06 tháng 01 năm 2006, về
điều chỉnh lại mức lương tối thiểu khu vực này. Song khi ban hành các cuộc đình
lãn công vẫn xảy ra, với tốc độ và độ phức tạp vẫn không thay đổi, đó chính là sự
thiếu nghiên cứu tỉ mỉ và chuẩn bị kỹ nên sau khi ban hành đã vấp phải những khó
khăn nhất định. Người sử dụng lao động đã lúng túng về tài chính bởi hợp đồng lao
động năm 2006 đã được ký kết từ cuối năm trước, có nhiều công ty nhất là những
công ty con của các tập đoàn lớn, đã lên kế hoạch tài chính năm 2006, rất khó cho
họ khi thay đổi chính sách lương vì kèm theo đó các hợp đồng sản xuất đã ký với
giá nhân công đã định. Trong khi đó, người lao động cũng rất thiệt thòi khi doanh
nghiệp chưa hoặc không kịp làm hệ thống thang bảng lương, tiền lương trả không
thích hợp giữa lao động mới với lao động lâu năm. Cùng lúc đó các doanh nghiệp
lợi dụng lấy luôn mức lương tối thiểu làm lương cơ bản trả cho công nhân và giảm
các phụ cấp khác, cắt thưởng bù vào lương cơ bản. Ngoài ra sự bất cập trong quan
hệ lao động trong khu vực có vốn đầu tư nước ngoài còn do không thực hiện chế độ
chính sách đã quy định là bảo hiểm xã hội; mặc dù, hàng tháng các doanh nghiệp
vẫn trừ lương, nhưng công nhân bệnh vẫn phải lấy tiền túi ra điều trị. Việc chậm trả

lương cũng là một nguyên nhân; chậm ký kết hợp đồng lao động cho công nhân đã
qua thời gian thử việc; không tổ chức khám sức khoẻ định kỳ hàng năm cho công
nhân hoặc khám cho có lệ như khám ở các phòng khám không đủ tiêu chuẩn rẻ tiền
(thực ra chưa có hướng dẫn cụ thể nào về yêu cầu chất lượng để khám sức khoẻ
định kỳ); không giải quyết phép năm, không quan tâm đến đời sống vật chất và tinh
thần của công nhân: đa số công nhân thường phải ở nhà trọ chật hẹp và và hầu như
không được sinh hoạt văn hóa tinh thần. Trong tình trạng chốn an cư không có, mọi
việc đều có tính chất tạm bợ, lại tăng ca liên tục, thu nhập thấp, tất yếu người lao
động dẫn đến đình lãn công.
18
Chương 2
TÌNH HÌNH QUAN HỆ LAO ĐỘNG TRONG KHU
VỰC KINH TẾ CÓ VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI Ở
CÁC KHU CÔNG NGHIỆP TỈNH BÌNH DƯƠNG
Bình Dương thuộc tỉnh miền Đông Nam bộ, có lợi thế về vị trí kinh tế, chính trị,
văn hóa và xã hội, lại vừa là một trong những tỉnh năng động nhất thuộc vùng kinh
tế trọng điểm phía Nam. Chính vì vậy, cùng với cả nước, việc phát triển các khu
công nghiệp sẽ có tác động thúc đẩy nhanh quá trình CNH, HĐH của địa phương và
vùng. Những năm vừa qua, cùng với cả nước, Bình Dương phát triển nhiều khu
công nghiệp. Đầu tư nước ngoài vào các KCN tỉnh Bình Dương không ngừng nâng
lên cả về số lượng và chất lượng, góp một phần lớn trong việc duy trì nhịp độ tăng
trưởng kinh tế cao, giai đọan 1996 – 2000 bình quân 15,18%, giai đoạn 2001 – 2006
bình quân 14,56%. Tính đến nay, có 792 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
với tổng số vốn đầu tư 4,851,591,000USD, tăng 59% so với năm 2005 (chiếm
71,9% vốn đầu tư trong KCN), có 137.236 lao động đang làm việc tại khu vực này
tăng 20,25% so với năm 2005 (theo Báo cáo năm 2006 của Ban Quản lý các Khu
Công nghiệp Bình Dương). Việc tăng nhanh vốn đầu tư và nguồn nhân lực vào các
khu vực có vốn đầu tư nước ngoài trong khu công nghiệp tỉnh Bình Dương, thời
gian qua đóng góp một phần lớn trong phát triển kinh tế của tỉnh trong việc tăng thu
ngân sách, giải quyết việc làm, nhất là làm cho đời sống của người lao động ngày

càng phát triển.
Có vị trí địa lý phía Nam gần thành phố Hồ Chí Minh – một trung tâm kinh tế,
văn hóa, đầu mối giao lưu lớm của cả nước; đất đai tương đối bằng phẳng, nền địa
chất ổn định, vững chắc, thích hợp cho xây dựng và trồng cây công nghiệp dài
ngày: cao su , cây công – nông nghiệp ngắn ngày: tiêu, điều, cà phê, trái cây …
nguồn nguyên liệu cho phát triển ngành chế biến thực phẩm, vỏ xe…; quỹ đất còn
lớn; có nguồn tài nguyên với nhiều loại khoáng sản phi kim loại dồi dào: đất cao
lanh, đá và cát xây dựng; khí hậu ôn hòa; trên địa bàn tỉnh có các trục lộ giao thông
19
huyết mạch của quốc gia, đó là quốc lộ 1, 13, 14, đường sắt Bắc – Nam, tuyến
đường xuyên Á; hạ tầng kỹ thuật được đầu tư tốt đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế,
đẩy mạnh công cuộc công nghiệp hóa – hiện đại hóa tỉnh nhà.
Trong những năm qua, vận dụng đường lối đổi mới đúng đắn của Đảng, tỉnh
Bình Dương có chính sách thu hút đầu tư thông thoáng, chính quyền Tỉnh tạo môi
trường đầu tư thuận lợi, đến nay Bình Dương có 16 Khu Công Nghiệp đang hoạt
động, 3 Khu Công Nghiệp khác được quy hoạch được Chính phủ chấp thuận chủ
trương (KCN Bàu Bàng, Rạch Bắp, An Tây) chưa kể Khu liên hợp Công nghiệp –
Dịch vụ – Đô thị Bình Dương đang xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật, thu hút nhiều
dự án đầu tư trong và ngoài nước.
Dự báo tình hình thu hút dự án đầu tư và lao động sẽ tiếp tục tăng nhanh trong
thời gian tới. Sự gia tăng nhanh chóng số lượng doanh nghiệp và CNLĐ đã có tác
động tích cực về mặt phát triển kinh tế địa phương , song cũng làm phát sinh một
số vấn đề xã hội bức xúc, trong đó tình trạng tranh chấp lao động dẫn đến đình lãn
công làm ảnh hưởng đến trật tự xã hội, thiệt hại kinh tế của NLĐ, DN và của cả xã
hội. Từ đó, mối quan hệ giữa NSDLĐ và NLĐ được đặt ra, là mối quan tâm của
chính quyền trong việc giải quyết mối quan hệ ngày diễn ra càng phức tạp này, cần
có chính sách vĩ mô hạn chế những mặt tiêu cực của nó trong quá trình phát triển
của nền kinh tế thị trường.
2.1 THỰC TRẠNG VỀ MỐI QUAN HỆ LAO ĐỘNG TRONG KHU VỰC
KINH TẾ CÓ VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI Ở KHU CÔNG NGHIỆP TỈNH

BÌNH DƯƠNG.
2.1.1 Về quan hệ lợi ích kinh tế
2.1.1.1 Lợi nhuận
Hiển nhiên, đầu tư mà không mang đến lợi nhuận thì tất yếu dòng vốn đầu tư
khu vực kinh tế có vốn nước ngoài trong các khu công nghiệp của tỉnh Bình Dương
sẽ chuyển đi nơi khác.
20
Hiện nay, đa số doanh nghiệp nước ngoài trong khu vực này đều làm ăn có hiệu
quả, từ năm 2000 – 2006 theo bảng 2.1.
Bảng 2.1:
Lợi nhuận và doanh thucủa doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại KCN
Bình Dương
Đơn vị tính: triệu đồng.
Năm Lợi nhuận Doanh thu % GDP Tỉnh Thuế TNDN
2001 646.328 11.680.000 19,90 161.582
2002 1.352.117 20.099.000 21,71 271.762
2003 1.411.647 31.639.275 23,01 446.631
2004 2.665.435 43.354.114 24,50 843.317
2005 2.111.692 56.344.028 25,20 1.189.812
2006 6.960.009 70.566.933 24,41 491.140
Nguồn: Báo cáo tổng kết công tác thuế năm 2001 đến 2006 tại Cục Thuế Tỉnh
Bình Dương.
Tuy nhiên, trong thời gian vừa qua ở một số doanh nghiệp vừa và nhỏ gặp khó
khăn dẫn đến phá sản, chủ doanh nghiệp bỏ trốn. Trong năm 2006, có 6 doanh
nghiệp phá sản, gây khó khăn cho 1800 công nhân lao động mất việc làm, tiền
lương và chế độ chính sách không được giải quyết, Ban Quản lý các khu công
nghiệp, Liên đoàn Lao động Tỉnh tham gia cùng các ngành giải quyết tiền lương
cho 290 công nhân ở các Công ty Hambea, IQ Lan …
Khó khăn trên là do hầu như không có doanh nghiệp nào thực hiện quỹ dự
phòng, quỹ dự phòng này hỗ trợ cho người lao động mất việc, ngừng việc hoặc

doanh nghiệp phá sản. Theo quy định hàng năm các công ty được trích lập quỹ dự
phòng về trợ cấp mất việc làm từ 1 – 3% trên quỹ tiền lương làm cơ sở đóng bảo
hiểm xã hội của doanh nghiệp, mức trích cụ thể do DN tự quyết định tùy vào khả
năng tài chánh của DN và được chuyển số dư sang năm sau, không phải hoàn nhập
số dư quỹ dự phòng về trợ cấp mất việc làm.
2.1.1.2 Tiền công
21
Đa số doanh nghiệp đã xác định tiền lương là bộ phận quan trọng trong hoạt
động quản lý nguồn nhân lực. Xây dựng được chế độ tiền lương có tính cạnh tranh
là điều hết sức quan trọng đối với việc thu hút và giữ chân NLĐ gắn bó lâu dài với
DN cũng như lưu giữ nhân tài, tăng thêm sự đồng lòng của nhân viên đối với tổ
chức, từ đó tạo nên cơ sở vững chắc để DN có ưu thế cạnh tranh trên thị trường.
Một chế độ tiền lương hợp lý và có sức hấp dẫn sẽ kích thích tính tích cực của NLĐ
hoạt động có hiệu quả, thúc đẩy NLĐ cố gắng hoàn thành mục tiêu phát triển của
DN.
Qua đó việc thực hiện điều chỉnh mức lương tối thiểu theo nghị định 03/NĐ-CP
ngày 06/01/2006 từ 710.000/người/tháng đến 790.000 đồng/người/tháng tuỳ KCN
thành lập theo địa bàn của Tỉnh thuộc khu vực có vốn đầu tư nước ngoài, riêng mức
lương khởi điểm trả cho NLĐ đã qua đào tạo nghề và thời gian thử việc nêu trên
phải cao hơn ít nhất 7% so với mức lương tối thiểu quy định. Đa số các doanh
nghiệp thực hiện tốt, năm 2006 tiền lương và thu nhập của NLĐ được cải thiện, có
thu nhập bình quân 1,2 triệu đồng/người/tháng (có số ít có mức thu nhập 2 triệu
đồng/người/tháng); lao động quản lý; công nhân có trình độ chuyên môn, kỹ thuật
cao, tiền lương gấp 10-12 lần so với mức bình quân chung.
Gần đây nhất, ngày 16/11/2007, Chính phủ đã ban hành Nghị định số
168/2007/NĐ-CP về việc Quy định mức lương tối thiểu vùng đối với lao động Việt
Nam làm việc cho doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, cơ quan, tổ chức nước
ngoài, tổ chức quốc tế và cá nhân người nước ngoài tại Việt Nam. Trong đó quy
định, mức lương tối thiểu của người lao động thuộc khu vực Thị xã Thủ Dầu Một,
huyện Thuận An, Dĩ An, Bến Cát, Tân Uyên là 900.000đ/người/tháng, khu vực

huyện Phú Giáo, Dầu Tiếng là 800.000 đ/người/tháng – sẽ được áp dụng từ ngày
01/01/2008.
2.1.1.3 Về phúc lợi, khen thưởng
22
Theo quy định của Luật Lao động, chế độ khen thưởng được thỏa thuận trong
hợp đồng lao động; cơ sở để xây dựng quỹ phúc lợi, khen thưởng căn cứ vào kết
quả sản xuất - kinh doanh hàng năm và mức độ hoàn thành công việc của NLĐ.
Do công đoàn không nắm được lợi nhuận doanh nghiệp (thường được xem là bí
mật doanh nghiệp), nên khó khăn cho sự tham gia của công đoàn trong việc phân
chia lợi nhuận cho phúc lợi tập thể: tiền thưởng, nâng cao trình độ văn hóa – chuyên
môn, nhà ở, nâng cao chất lượng cuộc sống vật chất, tinh thần của NLĐ. Tùy theo
nhận thức của mỗi chủ DN vào việc phân chia lợi nhuận để phát triển mối QHLĐ
bền vững, điển hình ở những doanh nghiệp lớn như Công ty Triumph (Sóng Thần
I), Công ty Yazaki (Mỹ Phước I)…, thì họ đã trích 5 -10% lợi nhuận cho phúc lợi
tập thể.
2.1.1.4 Về chi phí đào tạo nâng cao trình độ người lao động
Quy trình tuyển dụng LĐ của các DN trong khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước
ngoài tại các KCN tỉnh Bình Dương như sau: đưa ra yêu cầu về số lượng, chất
lượng lao động cần tuyển cho Ban quản lý các Khu công nghiệp, Sở Lao động –
Thương binh và Xã hội Tỉnh… nếu không đáp ứng, DN thông báo nhu cầu tuyển
dụng trên biển treo trước Công ty, báo đài, mạng Internet, qua Hội chợ việc làm do
Sở – Ban – Ngành của Tỉnh tổ chức. Đa số công nhân sau khi được tuyển dụng, nếu
không đáp ứng được yêu cầu sản xuất kinh doanh thì DN tổ chức đào tạo lại do
chuyên gia nước ngoài phụ trách để phù hợp với công nghệ mới; cũng có DN tự
tuyển dụng công nhân không biết nghề va đào tạo nghề cho công nhân mới.
Khi thay đổi công nghệ, thay đổi chất lượng, số lượng sản phẩm. DN sử dụng
chuyên gia nước ngoài đào tạo tại chỗ cho NLĐ.
Chi phí đào tạo nâng cao trình độ văn hoá – chuyên môn của công nhân, do
không được quy định cụ thể, tuỳ theo tầm nhìn và chiến lược của DN, có hai hướng
đào tạo: Một là đào tạo tại chỗ do chuyên gia nước ngoài phụ trách trên máy móc cụ

thể hoặc gởi đi học tại các tỉnh hoặc thành phố có điều kiện thích hợp. Hai là, gởi đi
đào tạo ở nước ngoài, xu hướng này được Tỉnh khuyến khích song có ít DN quan
23
tâm, chỉ có những DN lớn xây dựng chiến lược này, nhằm vào những đối tượng cán
bộ kỹ thuật, cán bộ quản lý; theo báo cáo của Sở Lao động – Thương binh và Xã
hội Bình Dương, trong năm 2006 có 5 DN gởi 12 cán bộ đi học ở nước ngoài.
Nói chung, DN trong khu vực này chỉ chú trọng sản xuất kinh doanh với lực
lượng lao động đã qua đào tạo, họ bỏ ra chi phí đào tạo lại và thuê mướn chuyên gia
nước ngoài vừa phụ trách kỹ thuật và quản lý sản xuất.
2.12 Những quan hệ lao động khác
2.1.2.1 Hoạt động đoàn thể
Gồm các hoạt động của Công đoàn và Đoàn thanh niên
Hoạt động công đoàn
Hoạt động của công đoàn đem lại những chuyển biến tích cực trong việc thực
hiện Bộ Luật Lao động. Đến nay, đã có 278 đơn vị đã thành lập công đoàn, đạt tỷ lệ
56% so với tổng số doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trong KCN đã đi vào
hoạt động, với tổng số công đoàn viên 47.088, đạt tỷ lệ 45% so với số lao động
đang làm việc tại các KCN. Các doanh nghiệp đã ký hợp đồng lao động và khai
trình 91.036 lao động, đạt 87%, 37.806 lao động (36,13%) được cấp sổ lao động.
Tình hình số doanh nghiệp tham gia thực hiện đóng BHXH, BHYT ngày càng tăng
với 403 đơn vị (85,84%), tổng số lao động tham gia là 81.535 người, chiếm tỷ lệ
59,41% so với tổng số lao động đang làm việc.
Tuy nhiên, hiện nay chỉ có 117 doanh nghiệp , chiếm tỷ lệ 25% so với số doanh
nghiệp đã có tổ chức công đoàn xây dựng được thoả ước lao động tập thể. Đó cũng
là sự tiến bộ đáng mừng, thậm chí năm 2005 có 11% và 2001 là 1,5% DN có tổ
chức công đoàn xây dựng thoả ước lao động tập thể; song tỷ lệ này cho thấy các
doanh nghiệp vẫn chưa nhận thấy sự cần thiết của thoả ước lao động tập thể khi có
tranh chấp lao động xảy ra. Bên cạnh đó, số doanh nghiệp được thông báo thừa
nhận chỉ có 108 doanh nghiệp đăng ký thang bảng lương, đạt 23% số doanh nghiệp
đã hoạt động và 305 doanh nghiệp thông báo đăng ký nội quy lao động doanh

nghiệp (65%).
24
Hoạt động của Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh
Theo tổng kết của Tỉnh Đoàn, trong khu vực này hoạt động của Đoàn Thanh
niên khá khiêm tốn, chỉ xây dựng được 2 chi đoàn với 21 đoàn viên, 6 chi Hội Liên
hiệp Thanh niên với 68 hội viên và chi hội công nhân nhà trọ với 10.539 hội viên, tỉ
lệ tham gia hoạt động đạt 11,24%. Hoạt động chi đoàn, Hội Liên hiệp Thanh niên
trong DN cụ thể là phong trào thi đua tăng năng suất lao động, thực hiện các công
trình của thanh niên, chuyền sản xuất thanh niên, chấp hành nội quy của đơn vị.
Góp phần nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm, tiết kiệm nguyên nhiên vật
liệu làm lợi cho DN. Những hoạt động có tính thiết thực đáp ứng nhu cầu của thanh
niên công nhân và chủ DN ở các đơn vị có tổ chức thanh niên. Do vậy, rất được sự
ủng hộ, hưởng ứng của các bạn trẻ và chủ DN.
Hoạt động đoàn thể (công đoàn và Đoàn thanh niên) mang lại cho NLĐ an tâm
lao động sản xuất phục vụ cho doanh nghiệp, đảm bảo đời sống vật chất và nâng
cao đời sống tinh thần cho NLĐ, tạo điều kiện để người lao động phát huy khả năng
của mình để làm chủ xã hội. Hoạt động này, chủ yếu là công đoàn đang từng bước
trưởng thành, đóng vai trò tích cực trong việc bảo vệ lợi ích chính đáng cho NLĐ,
giáo dục nhận thức chính trị tư tưởng cho NLĐ, làm trung gian hoà giải khi có tranh
chấp lao động xảy ra giữa NSDLĐ và NLĐ, thể hiện qua các mặt cụ thể sau:
2.1.2.2 An toàn vệ sinh lao động
An toàn, vệ sinh lao động nhằm ngăn ngừa tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp.
Các DN có vốn ĐTNN trong KCN với hệ thống công nghệ, dây chuyền máy móc
tiên tiến và cường độ làm việc cao đòi hỏi DN càng phải nhận thức đúng đắn về tầm
quan trọng của những quy định về an toàn, vệ sinh lao động sau đó nâng cao năng
suất và hiệu quả lao động của NLĐ.
Hàng năm, Ban ATVSLĐ-PCCN của Tỉnh đều tổ chức các lớp bồi dưỡng về
ATVSLĐ cho công nhân, phát động phong trào An toàn vệ sinh lao động trong tất
cả các doanh nghiệp đang đầu tư sản xuất kinh doanh trong Tỉnh, tổ chức hội thi An
toàn vệ sinh viên giỏi cho các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài trong KCN. Ngày

25

×