Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

Một số giải pháp để đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường EU

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (192.36 KB, 30 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Qua hơn 10 năm thực hiện chuyển đổi cơ chế kinh tế, đặc biệt từ thập kỷ
90, cùng với đà tăng trưởng kinh tế, Việt nam đã đạt được những thành tựu đáng
kể trong hoạt động thương mại quốc tế: thị trường xuất khẩu được mở rộng, đã
có những chuyển biến chuyển tích cực trong cơ cấu hàng xuất khẩu, thay thế
nhập khẩu có chọn lọc những mặt hàng trong nước sản xuất có hiệu quả mà
Đảng và nhà nước ta đã lựa chọn là hoàn toàn đúng.
Dệt may là một ngành công nghiệp nhẹ có vị trí quan trọng trong cơ cấu
sản xuất của nền kinh tế quốc dân nói chung và của ngành công nghiệp nói
riêng. Ngành đảm bảo hàng hoá tiêu dùng trong nước, thu hút nhiều lao động,
đòi hỏi 1 lượng vốn đầu tư ban đầu không lớn, ít gặp rủi ro, phát huy hiệu quả
nhanh, nên rất phù hợp với bước đi ban đầu của các nước đang phát triển như
nước ta hiện nay.
Nhận thức được sự cần thiết đó cũng như triển vọng phát triển của ngành
Dệt may Việt Nam và được sự hướng dẫn tận tình của thầy cô giáo em đã chọn
đề tài : "Một số giải pháp để đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu hàng dệt may Việt
Nam sang thị trường EU" để viết đề án môn học.
Nội dung đề tài gồm 3 chương:
Chương I: Lý luận chung về xuất khẩu
Chương II: Thực trạng xuất khẩu hàng dệt may Việt nam vào thị trường
EU
Chương III: Các giải pháp nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may
Việt nam sang thị trường EU
Do trình độ nhận thức còn có hạn nên không thể tránh khỏi những sai sót,
rất mong nhận được sự góp ý của các thầy cô giáo, cùng các bạn.

1
CHƯƠNG I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ XUẤT KHẨU
I. KHÁI NIỆM VÀ VAI TRÒ CỦA HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU
1. Khái niệm và đặc điểm của hoạt động xuất khẩu


1.1. Khái niệm
Xuất khẩu là việc bán, cung cấp hàng hoá dịch vụ cho bên nước ngoài
trên cơ sở dùng tiền tệ làm phương tiện thanh toán.
- Hoạt động xuất khẩu với xuất phát điểm từ hoạt động mua bán, trao đổi
hàng hoá ( gồm cả hàng hoá hữu hình và hàng hàng hoá vô hình ) trong nước.
Khi sản xuất phát triển, việc trao đổi hàng hoá giữa các quốc gia có lợi thì hoạt
động mở rộng ra ngoài phạm vi biên giới quốc gia hoặc giữa thị trường với khu
chế xuất ở trong nước.
- Mục đích của hoạt động xuất khẩu là khai thác được lợi thế của từng
quốc gia trong phân công lao động quốc tế. Cho đến nay hoạt động xuất khẩu đã
diễn ra trên phạm vi toàn cầu, phát triển mạnh mẽ cả về chiều rộng lẫn chiều
sâu trong tất cả các ngành nghề, lĩnh vực của nền kinh tế nhằm đem lại lợi ích
cho các quốc gia.
1.2. Đặc điểm của hoạt động xuất khẩu
- Xuất khẩu hàng hoá thể hiện sự kết hợp chặt chẽ và tối ưu khoa học
quản lý kinh tế với các nghệ thuật kinh doanh, giữa nghệ thuật kinh doanh với
các yếu tố khác của từng quốc gia như : yếu tố pháp luật, kinh tế, văn hoá.
- Hoạt động xuất khẩu hàng hoá diễn ra giữa hai hay nhiều quốc gia.
- Hoạt động xuất khẩu hàng hoá nhằm khai thác lợi thế so sánh của các
quốc gia.
- Hoạt động xuất khẩu hàng hoá góp phần cải thiện đời sống nhân dân, gia
tăng tiến bộ xã hội và góp phần thúc đẩy các quốc gia tiến tới xã hội công bằng
văn minh.

2
- Hoạt động xuất khẩu hàng hoá có thể đươc tiến hành bởi tư nhân hoăc
doanh nghiệp nhà nước nhằm đáp ứng các nhu cầu và mục đích của họ.
2. Vai trò của hoạt động xuất khẩu
Xuất khẩu là hoạt động rất cơ bản của nền kinh tế quốc dân, là phương
tiện thúc đẩy sự phát triển kinh tế. Nó đóng vai trò đặc biệt quan trọng đối với

nhà nước nói chung cũng như đối với sự phát triển của doanh nghiệp nói riêng.
2.1. Vai trò của hoạt động xuất khẩu đối với nền kinh tế mỗi quốc gia
- Xuất khẩu tạo nguồn vốn ( ngoại tệ ) chủ yếu cho nhập khẩu phục vụ
công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Công nghiệp hoá là con đường đúng
đắn và tất yếu để khắc phục tình trạng nghèo nàn lạc hậu. Nhưng nó lại đòi hỏi
phải có được lượng vốn lớn để đầu tư, nhập khẩu máy móc thiết bị. Các nguồn
vốn có thể do đầu tư nước ngoài trực tiếp hoặc vay nợ, viện trợ, huy động vốn
trong công ty, thu từ hoạt động xuất khẩu. Trong đó, xuất khẩu là nguồn vốn
quan trọng tạo tiền đề cho nhập khẩu, nó quyết định đến quy mô, tốc độ tăng
trưởng nền kinh tế.
- Đối với sự nghiệp công nghiệp hoá, xuất khẩu có nhiệm vụ tìm kiếm nơi
tiêu thụ sản phẩm của công nghiệp.
- Nâng cao hiệu qủa kinh doanh, thúc đẩy công nghiệp hoá - hiện đại hoá
đất nước. Trong nền kinh tế thị trường, kinh nghiệm của nhiều nước và của nước
ta trong những năm qua đã chỉ rõ : xuất khẩu là thực hiện chức năng làm động
lực chính trong việc nâng cao hiệu quả kinh doanh, thúc đẩy quá trình công
nghiệp hoá. Một khi đã tham gia vào trao đổi hàng hoá trên thị trường thế giới
có nghĩa là chấp nhận cạnh tranh khó khăn hơn và điều đó đòi hỏi xuất khẩu
phải tính toán kỹ lỗ lãi, giảm chi phí sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm.
- Chuyển hoá giá trị sử dụng làm thay đổi cơ cấu vật chất của tổng sản
phẩm xã hội và thu nhập quốc dân được sản xuất trong nước và thích ứng với
nhu cầu tiêu dùng và tích luỹ.
- Góp phần giải quyết những vấn đề kinh tế xã hội quan trọng của đất
nước : vốn, việc làm, sử dụng tài nguyên có hiệu quả.

3
- Xuất khẩu thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển sản xuất
- Có hai cách nhìn nhận về tác động của xuất khẩu đối với dịch chuyển cơ
cấu kinh tế và phát triển sản xuất. Một là, chỉ xuất khẩu những sản phẩm thừa so
với nhu cầu tiêu dùng trong nước. Trong trường hợp nền kinh tế còn lạc hậu,

chậm phát triển, sản xuất về cơ bản chưa đáp ứng đủ tiêu dùng, nếu chỉ thụ động
chờ vào sự thừa ra của sản xuất thì xuất khẩu chỉ bó hẹp trong phạm vi nhỏ, tăng
trưởng chậm, không phát huy được lợi thế của mỗi quốc gia, các ngành sản xuất
kinh doanh không có cơ hội phát triển. Hai là, xuất khẩu những sản phẩm mà
trong nước có lợi thế so sánh với các quốc gia khác, nó sẽ thúc đẩy mở rộng và
phát triển sản xuất trong nước. Đối với các quốc gia có nền kinh tế lạc hậu nó sẽ
tạo một nguồn ngoại tệ lớn góp phần đầu tư, nhập khẩu máy móc thiết bị, giải
quyết vấn đề dư thừa lao động, nạn thất nghiệp tràn lan, góp phần ổn định nền
kinh tế chính trị xã hội. Nó có thể dẫn tới tình trạng thiếu thốn trong tiêu dùng
nội địa trong ngắn hạn, nhưng trong dài hạn đây là giải pháp hữu ích.
2.2. Vai trò của hoạt động xuất khẩu với các doanh nghiệp.
Mở rộng và vươn ra thị trường nước ngoài là một xu hướng tất yếu khách
quan của mỗi quốc gia và của các doanh nghiệp, việc xuất khẩu hàng hoá và
dịch vụ đem lại cho doanh nghiệp những lợi ích sau :
- Sản xuất hàng xuất khẩu giúp doanh nghiệp thu hút nhiều lao động, tạo
thu nhập ổn định, thu ngoại tệ phục vụ cho nhập khẩu tư liệu sản xuất, máy móc
thiết bị, vật phẩm tiêu dùng cho doanh nghiệp.
- Xuất khẩu buộc các doanh nghiệp luôn luôn phải tăng cường đổi mới và
hoàn thiện công tác quản lý về hoạt động xuất khẩu, hoạt động bán hàng, dịch
vụ sau bán hàng, thiết lập các kênh phân phối.
- Doanh nghiệp khi tiến hành các hoạt động xuất khẩu có cơ hội mở rộng
quan hệ buôn bán kinh doanh với nhiều đối tác nước ngoài trên cơ sở đôi bên
cùng có lợi, đồng thời doanh nghiệp cũng nhanh chóng nhận được các thông tin
phản hồi từ các khách hàng bên ngoài để có thể điều chỉnh chiến lược sản phẩm
cho phù hợp.

4
- Qua hoạt động xuất khẩu, các doanh nghiệp trong nước có cơ hội tham
gia vào các cạnh tranh trên thị trường quốc tế về giá cả và chất lượng. Đòi hỏi
các doanh nghiệp phải hình thành cơ cấu sản xuất nâng cao chất lượng, hạ giá

thành sản phẩm cho phù hợp.
- Hiện nay, khi mà nạn hàng lậu, hàng giả tràn vào khó kiểm soát được
gây ảnh hưởng tiêu cực cho tiêu thụ nội địa thì xuất khẩu cũng là một giải pháp
để các doanh nghiệp tồn tại tiếp tục sản xuât, thu lợi nhuận.
3. Các hình thức xuất khẩu chủ yếu
- Hoạt động tái xuất khẩu : là hoạt động xuất khẩu hàng hoá đã nhập về
trong nước thông qua chế biến ( sơ chế và tái chế ). Cũng có thể hàng không về
trong nước, mà nhận từ nước ngoài rồi giao lại ngay cho người mua ở nước thứ
ba.
- Chuyển khẩu : là hoạt động mà ở đây không hề diễn ra hành vi mua và
bán mà chỉ thực hiện các dịch vụ cần thiết cho việc quá cảnh hàng hoá ở một
nước trung gian như : vận tải, bảo quản, lưu kho, lưu bãi...
- Xuất khẩu trực tiếp : là việc các nhà sản xuất kinh doanh bán hàng trực
tiếp cho người mua hàng không thông qua trung gian.
- Xuất khẩu gián tiếp : là xuất khẩu thông qua trung gian thương mại.
- Tạm xuất : là hàng hoá đưa ra khỏi quốc gia, rồi lại đưa về nước như :
hàng đi triển lãm giới thiệu sản phẩm
- Xuất khẩu tại chỗ : là hoạt động cung cấp hàng hoá, dịch vụ cho đối
tượng là người nước ngoài đang ở nước sở tại như các khu ngoại giao đoàn,
khách du lịch quốc tế... Trong trường hợp này hàng hoá và dịch vụ có thể chưa
vượt ra ngoài biên giới quốc gia nhưng ý nghĩa kinh tế của nó tương tự như hoạt
động xuất khẩu. Hoạt động xuất khẩu tại chỗ có thể đạt được hiệu quả cao do
giảm được chi phí bao bì đóng gói, chi phí bảo quản, chi phí vận tải, thời gian
thu hồi vốn nhanh.

5
II. SỰ CẦN THIẾT PHẢI TĂNG CƯỜNG XUẤT KHẨU HÀNG
DỆT MAY CỦA VIỆT NAM NÓI CHUNG VÀ THỊ TRƯỜNG EU NÓI
RIÊNG
1. Sự cần thiết tăng cường xuất khẩu hàng dệt may

Xuất phát từ ưu thế của ngành dệt may:
Khi nền kinh tế Việt nam đang trên đà phát triển nhờ có chiến lược :
Hướng vào xuất khẩu, chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu sang dạng chế biến
sâu, mở ra những mặt hàng mới và có giá trị thặng dư cao. Đặc biệt ngành dệt
may xuất khẩu đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế Việt nam. Giải quyết
việc làm cho người lao động, cung cấp hàng hoá trong nước, tạo điều kiện mở
rộng thương mại quốc tế và là ngành nghề có lợi nhuận cao.
Trong những năm gần đây, ngành dệt may Việt nam đã có những bước
phát triển đáng khích lệ, từng bước khẳng định được vị trí quan trọng của mình
trong nền kinh tế và trên thương trường quốc tế, đồng thời là ngành sản xuất và
xuất khẩu quan trọng chiếm tỉ trọng cao trong tổng kim ngạch xuất khẩu của
nước ta.
Hàng dệt may là một nhóm hàng xuất khẩu chủ lực trong cơ cấu hàng
xuất khẩu của nước ta. Với vị trí hiện nay của ngành hàng này đối với nền kinh
tế quốc dân cũng như đối với hoạt động kinh doanh quốc tế . Sự tăng cường xuất
khẩu hàng dệt may là rất cần thiết, phù hợp với xu thế phát triển chung của thế
giới và yêu cầu của hoạt động xuất khẩu trong nước. Điều đó được thể hiện qua
những vấn đề sau:
1.1. Vị trí của ngành dệt may trong nền kinh tế quốc dân và trong hoạt
động xuất khẩu của cả nước
Ngành dệt - may là 1 ngành công nghiệp nhẹ giữ vị trí quan trọng trong
cơ cấu kinh tế đất nước. Ngành góp phần quan trọng đảm bảo nhu cầu tiêu dùng
của nhân dân giải quyết 1 khối lượng lớn công ăn việc làm, đồng thời có nhiều
khả năng mở rộng hoạt động kinh doanh quốc tế. Hiện nay ngành dệt may là

6
ngành sản xuất hàng xuất khẩu quan trọng, chiếm tỉ lệ cao trong tổng kim ngạch
xuất khẩu cả nước.
1.2. Xu hướng chuyển dịch các ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao
động trong đó có ngành dệt may từ các nước phát triển sang các nước đang

phát triển.
Ngành dệt may là ngành đòi hỏi 1 lượng vốn đầu tư tương đối ít ( so với
các ngành công nghiệp khác) , phát huy hiệu quả tương đối nhanh, giải quyết lao
động xã hội, phù hợp với bước đi ban đầu của các nước đang phát triển. Nhiều
nước công nghiệp phát triển ngày nay đã đi lên từ ngành dệt may. Các nước
NICS cũng là một điển hình của việc phát triển ngành hàng này.
1.3.Lợi thế của ngành dệt may nước ta
- Lợi thế đáng kể nhất của ngành dệt may nước ta là giá nhân công rẻ,
trình độ tay nghề của người lao động lại ở vào mức khá so với các nước khác.
Điều này rất quan trọng vì nước ta hiện nay có một lực lượng lao động nhàn rỗi
khá lớn ( nhất là lao động nữ ) rất phù hợp với ngành công nghiệp sử dụng nhiều
lao động này.
- Thêm vào đó, trong sản xuất hàng dệt may, chúng ta đảm bảo cung ứng
được một phần nguyên phụ liệu do sản xuất trong nước, không phụ thuộc hoàn
toàn vào nhập khẩu.
- Mặt khác, ngành dệt may đòi hỏi một lượng vốn đầu tư ban đầu cho
từng công đoạn lớn. Trong điều kiện thiếu vốn như nước ta hiện nay, có thể coi
đây là một lợi thế của ngành.
1.4.Thị trường và sức cạnh tranh của sản phẩm.
Tuy kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may lớn nhưng chủ yếu là phần kim
ngạch may gia công xuất khẩu ( hàng năm chiếm trên 80% so với kim ngạch
xuất khẩu của toàn ngành) nên lợi nhuận thực tế thu được từ xuất khẩu không
cao trong khi tiềm năng để phát triển ngành này ở nước ta còn to lớn. Đây là
một lý do quan trọng để đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu hàng may trong thời
gian tới.

7
- Chất lượng hàng hoá và khả năng cạnh tranh của sản phẩm dệt may Việt
Nam trên thị trường thế giới còn thấp. Điều đó cho thấy cần có các biện pháp
đầu tư thích đáng để nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh và

uy tính của khách hàng dệt may trên thị trường.
2. Tiềm năng của thị trường EU
- EU là thị trường thống nhất và rộng lớn:
Từ 1968 EU đã là 1 thị trường thống nhất về hải quan, có định mức thuế
hải quan chung cho tất cả các nước thành viên . Năm 1992 đã có hiệp ước về sự
thống nhất chính trị, kinh tế, tiền tệ, xã hội giữa các nước thành viên EU . Cho
đến nay EU đã là 1 thị trường rộng lớn bao gồm 15 quốc gia và 386 triệu người
tiêu dùng. Thị trường EU thống nhất cho phép tự do lưu thông hàng hoá và vốn
giữa các thành viên. Các số liệu thống kê cho biết nhập khẩu hàng hoá từ các
nước đang phát triển vào EU đang gia tăng và có nhiều hàng nhập là hàng chế
tạo nói chung và hàng dệt may nói riêng. 6 tháng đầu năm 2000 theo số liệu E/L
cung cấp của phòng quản lý xuất nhập khẩu, ta giao trên 6.000.000 chiếc ( so
với cùng kỳ năm 1999 là 5.300.000 chiếc) tăng khoảng 13%. So với hạn ngạch
chính thức năm 2000 là 15.766.000 chiếc đạt 38,1%.
- EU là một trung tâm kinh tế hùng mạnh, có vai trò rất lớn trong nền kinh
tế thế giới. Kinh tế của Liên minh Châu âu không chỉ lớn về qui mô (năm1999
GDP đạt 8,774 tỉ USD chiếm 20% GDP toàn cầu, Mỹ chiếm 20,4% , Nhật
chiếm 2,2%) vững mạnh về cơ cấu, tăng trưởng ổn định, EU không chỉ có nguồn
nhân lực trình độ cao và lành nghề còn có thị trường nội địa với sức mua lớn
( hơn 386 triệu người tiêu dùng, năm 1999 GDP bình quân đầu người đạt
23,354 USD , vào loại cao nhất thế giới ).
Từ đó ta thấy, quan hệ thương mại Việt nam - EU được mở rộng, Việt
nam có điều kiện đẩy mạnh XNK, trao đổi hàng hoá với nước ngoài, đặt biệt là
hàng dệt may và với thị trường tiềm năng EU hàng dệt may có nhiều cơ hội phát
triển cao hơn cả về số lượng và chất lượng.

8
- EU có kinh tế ngoại thương phát triển lớn thứ 2 trên thế giới sau Mỹ,
hàng năm EU nhập một khối lượng lớn hàng hoá từ khắp thế giới, trong đó hàng
dệt may chiếm tỷ lệ cao. Trong khi đó khoa học công nghệ phát triển mạnh mẽ

chưa từng có với nội dung nổi bật các ngành như : điện tử , tin học, tự động hoá,
vật liệu mới , công nghệ sinh học. Cuộc cách mạng này làm quá trình chuyển
dịch cơ cấu kinh tế ở hầu hết các nước trong EU diễn ra nhanh hơn theo hướng
chuyển mạnh sang các ngành có hàm lượng kỹ thuật và ngành dịch vụ, còn các
tỷ trọng nông nghiệp và khai thác khoáng giảm dần và đặc biệt là các ngành cần
nhiều nhân công đang có xu hướng chuyển dịch ra khỏi Châu âu.
Tình hình ngành công nghiệp dệt may ở Châu âu: năm 2000 , sản xuất
hàng dệt may đã giảm 5% về giá trị thực tế so với năm 1999 ( năm 1999 giảm
1,5% so với năm 1998 ), đây là mức giảm lớn nhất kể từ năm 1993, giảm mạnh
nhất là tại Đức ( giảm 8% ) sản xuất tại Italia và Pháp cũng giảm sút. Tại tất cả
các nước sản xuất chính, tình hình ngành dệt may đều xấu đi đáng kể. Theo dự
báo, trong năm 2001 sản xuất hàng dệt may tại EU sẽ giảm khoảng 2%. Trong
điều kiện cạnh tranh tăng lên trên thị trường thế giới, việc tiếp tục chuyển cơ sở
sản xuất dệt may sang các nước khác đối với EU được coi là cần thiết. Việc di
chuyển này chủ yếu liên quan đến ngành may mặc- công đoạn có chi phí cho
lao động khá cao và ngành dệt may. Quá trình chuyển dịch cơ cấu này được đẩy
mạnh đáng kể tại Đức, Pháp và Italia . Nắm bắt được cơ hội đó, ngành dệt may
Việt nam không bỏ lỡ thời cơ đẩy mạnh và tăng tốc xuất khẩu hàng dệt may
sang thị trường EU

9
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU HÀNG DỆT MAY VIỆT NAM VÀO
THỊ TRƯỜNG EU
I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HÀNG DỆT MAY VIỆT NAM
Dệt may là ngành sản xuất và cung ứng các chủng loại sản phẩm đáp ứng
trước tiên nhu cầu bức thiết của con người - mặc, ngoài ra các sản phẩm dệt may
còn đáp ứng các yêu cầu khác của con người trong sinh hoạt và sản xuất.
Là ngành công nghiệp đáp ứng một trong các nhu cầu cơ bản của con
người nên từ rất lâu trên thế giới ngành công nghiệp dệt may đã hình thành và

phát triển cùng với sự hình thành và phát triển của chủ nghĩa tư bản. Thực tế các
cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật, tiến trình công nghiệp hoá của các nước từ
Anh, Pháp, Ý là các nước phát triển đến các nước Nics như Hàn Quốc, Hồng
Kông, Đài Loan ... đã chứng minh vị trí tiên phong và quan trọng của ngành dệt
may nói riêng và của ngành công nghiệp nhẹ nói chung. Ngành dệt may với các
đặc điểm cơ bản là sử dụng nhiều lao động với kỹ năng không cao, vốn đầu tư
ban đầu cho một cơ sở sản xuất không cao, tốc độ quay vòng vốn nhanh, có điều
kiện mở rộng thương mại quốc tế rõ ràng chiếm ưu thế trong thời kỳ đầu công
nghiệp hoá, đặc biệt là ở những quốc gia có nguồn lao động dồi dào. Tuy nhiên,
khi nền công nghiệp tại một nước đạt tới một trình độ nhất định thì lợi thế của
ngành dệt may giảm dần và ngành có xu thế chuyển dịch sang các nước có trình
độ công nghiệp thấp hơn, nhường chỗ cho các ngành khác, có lợi thế và hiệu
quả hơn.
Trong quá trình phát triển của mình, ngành dệt may thế giới đã trải qua
hai giai đoạn chuyển dịch. Lần chuyển dịch thứ nhất, diễn ra từ năm 1969 tới
năm 1980. Giai đoạn này, ngành chuyển từ các nước công nghiệp phát triển sang
các nước công nghiệp mới với bốn cường quốc dệt may là Hàn Quốc, Hồng
Kông, Đài Loan, Singapore. Riêng 4 nước này đã chiếm 1/3 sản lượng dệt may
của thế giới và hơn 40% tổng kim ngạch xuất khẩu của thế giới. Giai đoạn hai,

10
từ năm 1985 đến nay, chuyển dịch từ các nước Nics sang các nước có nguồn lao
động dồi dào và rẻ hơn như Ấn Độ, Trung Quốc, Việt Nam, Inđônêxia ... Hiện
nay, hơn 60% khối lượng hàng dệt may xuất khẩu trên thế giới có xuất xứ từ các
nước đang phát triển, trong đó Châu Á chiếm tới 32%. Nguyên nhân gây ra sự
dịch chuyển làn sóng như vậy là do sự chênh lệch về trình độ phát triển công
nghiệp. Sau khi chuyển hướng kinh tế, từ nền công nghiệp dệt may- da giầy
sang công nghiệp công nghệ cao, nhằm thu hồi vốn tối đa và kéo dài vòng đời
sản phẩm, những nước này đã chuyển giao máy móc thiết bị, công nghệ cho các
nước láng giềng. Trong những năm đầu thập kỷ 90, các nước Châu Á đã tận

dụng lợi thế của người đi sau, không ngừng nâng cao chất lượng và số lượng để
đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của thế giới về sản phẩm dệt may ( chỉ riêng
Trung Quốc, với sự nhanh nhạy và ưu thế về lao động đã chiếm gần 13% lượng
xuất khẩu của thế giới).
Tuy nhiên, sự dịch chuyển kiểu làn sóng như trên không loại bỏ ngành
công nghiệp dệt may tại các quốc gia phát triển mà trái lại đưa ngành công
nghiệp lên một tầm cao mới, vượt trội hơn trước. Các nước công nghiệp phát
triển vẫn luôn dẫn đầu về khối lượng và đặc biệt là chất lượng hàng dệt may trên
thế giới. Sản lưong dệt may của các nước này có chất lượng cao, mẫu mã, kiểu
dáng đẹp, mới lạ và thay đổi liên tục, phù hợp với thị hiếu của người tiêu dùng.
Các trung tâm thời trang lớn thường tập trung ở một vài địa điểm như Milan,
Roma ( Ý ), Paris ( Pháp ), NewYork ( Mỹ )… Song, tương đương với chất
lượng cao là giá cả chóng mặt mà không phải bất kỳ ai cũng có thể chi trả được.
Do vậy, hàng nhập khẩu vẫn có cơ hội lớn để thâm nhập thị trường này, đáp ứng
nhu cầu của một bộ phận số đông dân cư.
Việt Nam là một quốc gia đang ở vào giai đoạn đầu của quá trình công
nghiệp hoá nên cũng không ra khỏi xu hướng chung của thề giới. Trong giai
đoạn hiện nay, công nghiệp dệt may nói riêng, công nghiệp nhẹ nói chung là
những ngành mũi nhọn góp phần bảo đảm đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất
khẩu tạo nguồn tích luỹ. Tuy nằm trong tình trạng chung của một nền công

11
nghiệp nhỏ bé nhưng xét trong mối tương quan với tổng thể nền kinh tế quốc
dân thì ngành dệt may vẫn có ưu thế nổi trội, chiếm tỷ trọng cao trong tổng kim
ngạch xuất khẩu của cả nước ( từ 8-15% kim ngạch xuất khẩu của cả nước).
Trong giai đoạn hiện nay, ngành dệt may đã phần nào hoàn thành nhiệm vụ giải
quyết công ăn việc làm cho người lao động (hiện nay ngành thu hút khoảng
300.000 lao động chính và nhiều lao động phụ khác). Ngành dệt may cũng góp
phần tạo ra nguồn vốn ngoại tệ để đảm bảo nhu cầu nhập khẩu, thực hiện công
nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước. Trong những năm qua, ngành dệt may Việt

nam không ngừng lớn mạnh, tốc độ tăng trưởng trung bình hàng năm là trên 9
%, kim ngạch xuất khẩu liên tục tăng từ 133,9 triệu USD năm 1991 đến 1600
triệu USD năm 1999 và 1900 triệu USD năm 2000 (số liệu chi tiết từng năm
được thể hiện ở biểu 1). Từ năm 1989 đến nay, hàng dệt may luôn ở trong nhóm
các mặt hàng: dầu thô, dệt may, da giày, gạo, thuỷ sản, cà phê, than đá, lạc
nhân...
Bảng 1 : Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may
Đơn vị tính: Triệu USD
Năm 1990 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000
Dệt
may
223,2 133,9 202 238,8 475,6 850 1150 1349 1450 1600 1900
Tổng
kim
ngạch
2398 2086 2580 2985 3893 5449 7256 9268 9361 11320 13200
Nguồn: Bộ Kế hoạch - Đầu tư ( 2001 )
Mặt hàng dệt may trong nhiều năm luôn chiếm một vị trí quan trọng trong
đóng góp cho xuất khẩu và nâng cao sản lượng của toàn bộ nền công nghiệp
Việt Nam. Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may bắt đầu tăng vọt từ năm 1993, là
năm bắt đầu thực hiện Hiệp định may mặc giữa Việt Nam với EC ( European
Community). Hiệp định này đã đánh dấu sự tiến bộ vượt bậc cả về số lượng lẫn
chất lượng và thị trường của sản phẩm dệt may Việt Nam trên thị trường thế
giới. Nếu như năm 1993, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam mới đạt

12

×