Tải bản đầy đủ (.pdf) (117 trang)

Củng cố và phát triển năng lực viết phần mở bài của học sinh lớp 12 trong bài văn nghị luận

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (712.2 KB, 117 trang )


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM




NGUYỄN THỊ THU THUỶ



CỦNG CỐ VÀ PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC
VIẾT PHẦN MỞ BÀI CỦA HỌC SINH LỚP 12
TRONG BÀI VĂN NGHỊ LUẬN



Chuyên ngành: Lý luận và phƣơng pháp dạy học Văn – Tiếng Việt
Mã số: 60.14.01.11



TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC


Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: GS.TS Lê A






Thái Nguyên - 2014

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi. Các nội dung nêu trong luận
văn là kết quả làm việc của tôi và chưa được công bố trong bất cứ một công trình nào khác.
Luận văn đã được chỉnh sửa theo ý kiến của hội Đồng bảo vệ.

Thái Nguyên, ngày 4 tháng 6 năm 2014
Tác giả luận văn



Nguyễn Thị Thu Thuỷ



















Số hóa bởi Trung tâm Học liệu


LỜI CẢM ƠN

Trước tiên em xin bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc đến Thầy giáo,
GS. TS. LÊ A - người Thầy hướng dẫn luận văn của em. Thầy đã tạo mọi điều kiện động
viên và giúp đỡ em trong suốt quá trình thực hiện và hoàn thành luận văn này.
Em cũng xin chân thành cảm ơn Khoa Ngữ văn; Khoa Sau Đại học - Trường Đại
học Sư phạm Thái Nguyên đã tạo điều kiện cho em có một môi trường học tập và nghiên
cứu thuận lợi để em hoàn thành tốt luận văn của mình.
Em xin chân thành cảm ơn các Giáo sư, Phó Giáo sư, Tiến sĩ đã tham gia giảng
dạy tận tình lớp Cao học Lý luận và Phương pháp dạy học Văn - Tiếng Việt K20 - ĐHSP
Thái Nguyên.
Xin chân thành cảm ơn các bạn đồng nghiệp, các em học sinh lớp thực nghiệm và tất
cả các bạn bè, người thân đã ủng hộ và tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong quá trình thực hiện
luận văn. Trong điều kiện hạn hẹp về thời gian và khả năng có hạn, luận văn này không
tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của Quý
thầy, cô và các bạn đồng nghiệp.
Trân trọng cảm ơn !
Thái Nguyên, ngày 4 tháng 6 năm 2014
Tác giả luận văn




Nguyễn Thị Thu Thuỷ



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu


DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT

THCS : Trung học cơ sở
SGK : Sách giáo khoa
SGV : Sách giáo viên
HS : Học sinh
GV : Giáo viên
NL : Nghị luận
NXB : Nhà xuất bản
G.S : Giáo Sư
T.S : Tiến sĩ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan ii
Lời cảm ơn iii
Danh mục các ký hiệu, chữ viết tắt iv
Mục lục v

MỞ ĐẦU 1
1. Lí do chọn đề tài 1
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4
3. Lịch sử nghiên cứu 4
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 7
5. Phương pháp nghiên cứu 7
6. Giả thuyết khoa học 8
7. Đóng góp của luận văn 8
8. Cấu trúc của luận văn 8
NỘI DUNG 9
Chương 1. MỞ BÀI VÀ NĂNG LỰC VIẾT PHẦN MỞ BÀI VĂN BẢN NGHỊ
LUẬN 9
1.1. Phần mở bài trong văn bản nghị luận 9
1.1.1. Đặc trưng của phần mở bài 9
1.1.2. Chức năng của phần mở bài 10
1.1.3. Yêu cầu của phần mở bài 13
1.1.4. Các phương pháp mở bài trong bài văn nghị luận 17
1.2. Năng lực viết phần mở bài trong văn bản nghị luận 21
1.2.1. Về khái niệm năng lực 21
1.2.2. Năng lực viết phần mở bài nghị luận 22
1.2.3. Tinh thần thái độ khi viết phần mở bài trong văn bản nghị luận 28
Chương 2. TỔ CHỨC CỦNG CỐ VÀ PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC MỞ BÀI
TRONG VĂN BẢN NGHỊ LUẬN CỦA HỌC SINH 30

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

2.1. Thực trạng dạy học phần mở bài trong văn bản nghị luận 30
2.1.1. Tài liệu dạy học 30
2.1.2. Năng lực viết phần mở bài của học sinh 32
2.1.3. Việc tổ chức dạy học của giáo viên 34

2.2. Tổ chức dạy học lý thuyết phần mở bài 35
2.2.1. Những tri thức học sinh cần chiếm lĩnh 35
2.2.2. Các phương pháp dạy học 36
2.3. Rèn luyện viết phần mở bài qua các bài tập 41
2.3.1. Giới thiệu chung về hệ thống bài tập 41
2.3.2. Miêu tả các bài tập 43
2.3.3. Hướng dẫn sử dụng hệ thống bài tập vào thực tiễn 68
Chương 3. THIẾT KẾ VÀ DẠY THỰC NGHIỆM 71
3.1. Mục đích và yêu cầu thực nghiệm 71
3.1.1. Mục đích thực nghiệm 71
3.1.2. Yêu cầu thực nghiệm 71
3.2. Đối tượng và địa bàn thực nghiệm 72
3.2.1. Đối tượng thực nghiệm 72
3.2.2. Địa bàn thực nghiệm 72
3.3. Nội dung và cách thức tiến hành thực nghiệm 72
3.3.1. Nội dung thực nghiệm 72
3.3.2. Cách thức tiến hành thực nghiệm 73
3.4. Phân tích và đánh giá kết quả thực nghiệm 91
3.4.1. Tiêu chí đánh giá thực nghiệm 91
3.4.2. Kết quả thực nghiệm và đối chứng 91
3.5. Kết luận chung về dạy học thực nghiệm 92
KẾT LUẬN 93
TÀI LIỆU THAM KHẢO 96
PHỤ LỤC



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

MỞ ĐẦU


1. Lí do chọn đề tài
Văn nghị luận là một trong những kiểu văn bản quan trọng và phổ biến trong đời sống
xã hội cũng như trong trường học, đặc biệt là ở trường Trung học phổ thông. Viết văn nghị
luận nhằm rèn luyện tư duy, năng lực biểu đạt những quan điểm, những tư tưởng sâu sắc
trong đời sống xã hội. Tuy nhiên viết văn nghị luận lại không phải là chuyện dễ dàng. Để
viết cho hay, cho đúng, cho có sức thuyết phục thì lại càng khó. Chính vì vậy có rất nhiều
em yêu thích văn chương nhưng khi bắt tay vào làm bài văn lại rất lúng túng, không biết bắt
đầu từ đâu và làm cho các em ngày càng xa lánh văn chương. Đối với học sinh, một trong
những vấn đề bối rối khi viết văn nghị luận là phần mở bài.
1.1. Phần mở đầu định hƣớng triển khai cho toàn bộ bài viết
Macxim Gorki đã từng kết luận: "Khó hơn cả là phần mở đầu, cụ thể là câu đầu, cũng
như trong âm nhạc, nó chi phối giọng điệu của tác phẩm và người ta thường tìm nó rất lâu".
[8, 45] Làm việc gì cũng vậy, sự khởi đầu luôn khiến chúng ta phải cân nhắc kĩ lưỡng trước
khi bắt tay thực hiện công việc ấy đến kết quả cuối cùng. Muốn có một bài văn nghị luận hay
hoàn toàn không nằm ngoài quỹ đạo của quá trình làm việc thông thường như đã nêu ở trên.
Sự khởi đầu của việc làm văn nghị luận là viết phần mở bài, còn được gọi dưới cái tên
như đặt vấn đề hay nêu vấn đề. Không phải không có lí khi có ý kiến cho rằng: "Văn hay chỉ
cần đọc mở bài". Tất nhiên nếu chỉ đọc mở bài thì không thể đánh giá được toàn bộ bài văn.
Nhưng quả thật, mở bài có tầm quan trọng thực sự đối với người viết. Người ta thường nói:
"vạn sự khởi đầu nan", khi viết bài văn có được một mở bài hay, tự nhiên dòng văn như
được khơi chảy, tuôn trào. Mở bài lúng túng, trục trặc… sẽ khiến bài viết thiếu sinh khí, văn
phong không liền mạch, ý tứ sẽ trở nên rời rạc…
Nhưng quả thực, viết phần mở bài là việc làm khó khăn và gian nan nhất. Vì phần mở
bài là căn cứ để đánh giá bài làm có thu hút, sáng tạo và độc đáo hay không. Nằm ở vị trí đầu
tiên trong bố cục ba phần (mở bài, thân bài, kết bài) của một bài văn nói chung cũng như
nghị luận nói riêng, phần mở bài thường tạo ấn tượng ban đầu về bài viết và giúp người đọc
cảm nhận trọn vẹn âm hưởng của toàn bài. Một mở bài gọn gàng, mạch lạc sẽ thu hút được
sự quan tâm của đông đảo người đọc. Bên cạnh đó, nó còn tạo thêm hứng thú cho người
viết. Ngược lại, người đọc mất cảm tình khi tiếp xúc với một bài văn có phần mở bài mang


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

biểu hiện của nhận thức hạn chế và lối tư duy thiếu mạch lạc của người viết. Từ tâm lí tiếp
nhận không tốt, người đọc có thể mặc nhiên quy kết rằng nội dung bài văn này kém chất
lượng. Như vậy, phần mở bài là một trong những bộ phận quan trọng cấu thành bài văn nghị
luận. Phần mở bài định hướng triển khai cho toàn bộ bài viết.
1.2. Phần mở đầu có tính khái quát cao, không dễ viết nên học sinh gặp rất nhiều
lúng túng và khó khăn khi viết phần này
Phần mở bài chứa đựng vấn đề cần giải quyết một cách khái quát và thông báo cho
người đọc phương thức giải quyết hoặc giới hạn của vấn đề. Vậy khái quát là gì? Theo Từ
điển Từ Hán Việt khái quát là "nêu lên tính chất chung từ những cái lẻ tẻ ( sau khi loại trừ
những tính chất riêng biệt". [7, 216] Như vậy, tính khái quát được hiểu là những gì mang
bản chất chung nhất, nổi bật, bao quát nhất của vấn đề. Tính khái quát trong phần mở đầu
của một bài văn nghị luận thể hiện ở việc người viết phải đưa ra những lời dẫn, lời nhận xét,
đánh giá chung nhất, tổng quát nhất về vấn đề nghị luận, chứ không phải đi sâu vào những
chi tiết, sự kiện riêng lẻ như ở phần thân bài. Ví dụ: đứng trước một đề nghị luận văn học,
nếu phần mở đầu đi từ giới thiệu vài nét về tác giả, ta nên tập trung vào những điểm khái
quát nhất của nhà văn, nhà thơ ấy như: phong cách nghệ thuật, nét độc đáo khác biệt hơn là
giới thiệu một cách máy móc về năm sinh, năm mất, tên thật, quê quán; giới thiệu vài nét về
tác phẩm nên tập trung vào hoàn cảnh sáng tác, vị trí của tác phẩm trong sự nghiệp của tác
giả và trên văn đàn văn học dân tộc. Để đưa ra được những nhận xét, đánh giá mang tính
khái quát cao đòi hỏi người viết phải có năng lực khái quát hoá - được xác định là một quá
trình tư duy mà ở đó con người dùng trí óc để liên kết nhiều đối tượng khác nhau nhưng có
chung thuộc tính, mối quan hệ nhất định vào một nhóm. Người viết phải có năng lực chọn
lọc, tổng hợp những thông tin, sự kiện, đưa ra những đánh giá mang tính khái quát nhất, bao
quát được hết vấn đề cần trình bày. Đây là một việc làm khó khăn, không phải ai cũng có thể
thực hiện được. Trên thực tế, năng lực khái quát hoá của học sinh còn kém. Đứng trước một
vấn đề nghị luận, các em gặp rất nhiều lúng túng và khó khăn khi viết phần mở đầu. Mở bài
không phải là phần nêu tóm tắt toàn bộ nội dung sẽ trình bày trong văn bản, nhưng đa số các

em biết gì đều đưa hết vào phần mở bài khiến cho phần thân bài không có "đất" viết, hoặc bị
lặp lại. Như vậy là phần mở đầu với yêu cầu có tính khái quát cao không được đảm bảo, lời
chào đầu tiên trong một buổi gặp gỡ vì thế cũng kém đi sức thuyết phục và hấp dẫn.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

1.3. Giáo viên chƣa thật quan tâm và chƣa có phƣơng hƣớng hữu hiệu để luyện tập
cho học sinh kĩ năng viết phần này
Thực tế dạy học cho thấy, tuy thể loại văn nghị luận khá quen thuộc với giáo viên và
học sinh nhưng trong quá trình giảng dạy nhiều giáo viên chưa chú trọng, việc dạy học còn
bộc lộ nhiều hạn chế. Hạn chế dễ nhận thấy là trong giờ dạy học lý thuyết về phần mở bài,
một bộ phận giáo viên vẫn còn nhiều lúng túng. Biểu hiện rõ nhất của thái độ trên là cách tổ
chức hoạt động hình thành kiến thức, nhất là kiến thức về vị trí, vai trò của phần mở bài;
chức năng của phần mở bài; yêu cầu về nội dung và hình thức của phần mở bài… Sự lý giải
kiến thức, khái quát thành các bước thực hiện của giáo viên chưa thoả đáng. Giáo viên chưa
tạo được hứng thú cho học sinh trong quá trình học tập.
Mặt khác, việc rèn luyện kỹ năng viết phần mở bài cho các em chưa được quan tâm,
chú trọng. Các giờ thực hành được giáo viên tổ chức theo tinh thần ôn tập kiến thức và học
sinh làm các bài tập có trong sách giáo khoa. Giáo viên chưa mạnh dạn lựa chọn những bài
tập bên ngoài sách để rèn luyện kỹ năng viết phần mở bài cho học sinh. Chính điều đó dẫn
tới kỹ năng viết phần mở bài của các em chưa tốt. Hơn nữa, một số giáo viên còn coi nhẹ các
giờ lập dàn ý, trả bài khiến cho học sinh không có thói quen sửa chữa những lỗi còn hay mắc
phải trong khi viết. Viết văn là quá trình luôn cần uốn nắn, chỉ dẫn để nâng cao kỹ năng bởi
"văn ôn võ luyện". Do cách nhìn nhận chủ quan, phần đông giáo viên tự bằng lòng với tư
tưởng rằng các em đã được học ở lớp dưới những kiến thức về mở bài, giáo viên coi phần
mở bài đơn giản chỉ là sự gợi mở vấn đề, nên không chú trọng đến việc cung cấp lý thuyết
và hướng dẫn thực hành cho học sinh. Chính thế đã dẫn đến tình trạng có nhiều mở bài
không đạt yêu cầu. Vậy làm thế nào để nâng cao chất lượng viết phần mở bài cho học sinh
phổ thông? Đó là những câu hỏi của rất nhiều giáo viên dạy bộ môn Văn đang đặt ra và
mong muốn tìm hướng giải quyết.

Xuất phát từ những lý do trên, chúng tôi lựa chọn và nghiên cứu đề tài: "Củng cố
và phát triển năng lực viết phần mở bài của học sinh lớp 12 trong bài văn nghị luận".
Qua luận văn chúng tôi mong muốn giúp cho học sinh lớp 12 có thêm kỹ năng làm văn
nghị luận bên cạnh nhiều kỹ năng khác trong việc tổ chức bài nghị luận vốn là rất khó
đối với các em.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

2. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
2.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Quá trình dạy học phần mở bài trong văn nghị luận ở Trung học phổ thông
2.2. Phạm vi nghiên cứu
Quá trình rèn luyện kĩ năng viết phần mở bài trong bài văn nghị luận lớp 12
3. Lịch sử nghiên cứu
3.1. Tình hình nghiên cứu phần mở bài trong văn bản nói chung và văn nghị luận
nói riêng
Làm văn là môn học ứng dụng, thực hành có tính chất tổng hợp nhất, đặc biệt với văn
nghị luận, trong đó văn bản nghị luận văn học không chỉ là loại văn bản thông thường mà nó
còn có tính nghệ thuật. Nghệ thuật thuyết phục người đọc của văn nghị luận không chỉ nhờ
lập luận chặt chẽ mà còn khéo léo trong dẫn dắt của người viết. Chính vì vậy, việc xây dựng
cơ sở lí luận cho việc dạy văn nghị luận vô cùng bức thiết. Từ trước đến nay đã có nhiều
quan điểm khác nhau của các tác giả về phần mở bài trong văn bản nói chung và văn nghị
luận nói riêng. Tiêu biểu là một vài cuốn sách hướng dẫn giảng dạy Tập làm văn và hướng
dẫn Làm văn như: Phương pháp làm văn nghị luận (Thẩm Thệ Hà); Tài liệu hướng dẫn học
môn Làm văn (Nguyễn Quang Ninh); Giáo trình làm văn (Đình Cao, Lê A); Dàn bài Tập
làm văn 12 (Trần Đình Sử, Phan Huy Dũng); Kĩ năng làm văn nghị luận phổ thông (Nguyễn
Quốc Siêu); 150 bài tập rèn luyện kĩ năng dựng đoạn văn (Nguyễn Quang Ninh); Văn bồi
dưỡng học sinh giỏi Trung học phổ thông (Nguyễn Đăng Mạnh); Muốn viết được bài văn
hay (Nguyễn Đăng Mạnh chủ biên). Nhìn chung đa số các cuốn sách đều đã đề cập đến
phần mở bài, tuy nhiên kết quả nghiên cứu chưa được sâu sắc và trọn vẹn như khi bàn về

phần thân bài.
Cuốn sách tiêu biểu thứ nhất viết về phần mở bài là Tài liệu hướng dẫn học bộ môn
làm văn (Nguyễn Quang Ninh). Tác giả xác định vị trí, yêu cầu của phần đặt vấn đề:
" Trong phần đặt vấn đề phải làm sao nêu được vấn đề một cách ngắn gọn nhất, hấp dẫn
và gây hứng thú cho người đọc, người nghe. Hơn nữa, qua phần đặt vấn đề ngắn gọn
phải nêu lên hướng giải quyết, phạm vi giải quyết vấn đề, tầm quan trọng, ý nghĩa của
vấn đề để chuẩn bị tư tưởng cho người đọc theo dõi phần nội dung. Đó chưa kể một bài
có phần đặt vấn đề tốt sẽ gây ấn tượng đẹp ban đầu cho người đọc, người chấm" [32, 20].
Bên cạnh đó, tác giả còn nêu các bước tiến hành đặt vấn đề, gồm ba bước:

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

- Xác định vấn đề
- Xác định phần dẫn dắt, chuyển tiếp vấn đề
- Nêu tầm quan trọng, ý nghĩa của vấn đề, phương hướng giải quyết vấn đề.
Cuốn sách tiếp theo dành sự quan tâm tới phần mở bài là Kĩ năng làm văn nghị luận phổ
thông của Nguyễn Quốc Siêu giới thiệu kĩ năng viết phần mở bài với các cách sau: Từ một sự
kiện tương đồng của vấn đề, từ việc trình bày bối cảnh mà xác định luận đề, qua cách vấn thiết
mà nêu vấn đề, dẫn danh ngôn đã nêu luận đề, qua đối chiếu phải trái đã nêu vấn đề.
Một cuốn sách khác đã đóng góp không nhỏ trong việc hình thành kĩ năng viết phần
mở bài là 150 bài tập rèn kĩ năng dựng đoạn văn (Nguyễn Quang Ninh) qua việc đưa ra hệ
thống bài tập luyện dựng đoạn theo chức năng:
- Mở bài trực tiếp có hai cách: mở thẳng vấn đề và mở trực tiếp có thêm phần dẫn dắt
(thời gian, không gian và hoàn cảnh sáng tác của tác phẩm).
- Mở bài gián tiếp: mở bằng câu chuyện, mở bằng cách nêu câu hỏi, mở bằng cách nêu
sự kiện, con số.
Cuốn sách Văn bồi dưỡng học sinh giỏi Trung học phổ thông, Nguyễn Đăng Mạnh đã
bàn luận khá kĩ về việc viết phần mở bài hay: "Trước hết muốn mở bài hay cần hiểu rõ mục
đích và nhiệm vụ của mở bài. Mục đích của mở bài là giới thiệu với bạn đọc về vấn đề mà
mình sẽ viết, sẽ bàn bạc, trao đổi hay miêu tả, kể lại. Viết mở bài thực chất là trả lời câu hỏi:

ở bài viết này, mình định viết về điều gì ?"…"Các cách mở bài khác nhau chủ yếu ở phần
dẫn dắt. Phần nêu vấn đề và giới hạn vấn đề thường không thay đổi vì mở bài theo kiểu gì
thì ai cũng phải nêu được phần này. Như thế cũng có nghĩa là, muốn viết được các mở bài
khác nhau thì người viết chỉ cần xác định rõ ba phần của đoạn mở bài, giữ lại hai phần sau
và thay đổi phần đầu là có thể có một mở bài khác. Nói gọn lại cứ thay đổi phần dẫn dắt ta
sẽ có một mở bài mới." [28, 87]
Những tài liệu trên cơ bản đã hình thành những lí thuyết chung về phần mở bài. Tuy
nhiên, cách tìm hiểu về phần mở bài như vậy vẫn chưa thật toàn diện, chưa thật sâu sắc. Nội
dung của những cuốn sách này chủ yếu vẫn thiên về lí thuyết trừu tượng chứ chưa thực sự
chú trọng hình thành các thao tác cụ thể cho học sinh.


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

3.2. Tình hình nghiên cứu việc rèn luyện kỹ năng mở bài của học sinh trong bài văn
nghị luận
Với nhu cầu đổi mới việc dạy và học văn trên tất cả các bình diện, môn Làm văn cũng
có nhiều điểm chuyển biến. Các nhà nghiên cứu đã đi tìm và xác lập những cơ sở lý luận và
hình thành kỹ năng làm văn nghị luận cho học sinh. Song do đề tài nghiên cứu, các công
trình nghiên cứu về làm văn nói chung ít quan tâm đến vấn đề củng cố và phát triển năng lực
viết phần mở bài trong bài văn nghị luận cho các em. Tuy nhiên cũng có thể kể ra đây một
số tài liệu ít nhiều đề cập đến vấn đề này. Đầu tiên phải kể đến sự đóng góp của Ngữ văn 12
(Sách học sinh và sách giáo viên). Bộ sách này đã giới thiệu cho học sinh và giáo viên vai trò
và mục đích của việc viết mở bài, các thành phần của phần mở bài, những lưu ý khi viết
phần mở bài, các cách mở bài…
Ngoài ra có thể kể đến các bài tập bổ sung trong các sách tham khảo cho giáo viên và
học sinh như: Bài tập Ngữ văn 12, Nguyễn Minh Hùng (chủ biên), nhà xuất bản Đại học Sư
phạm; Thiết kế dạy học Ngữ văn 12, Hoàng Hữu Bội, nhà xuất bản Giáo dục 2008; Các
dạng đề và hướng dẫn làm bài nghị luận xã hội môn Ngữ văn 10, 11, 12, Lê A, Nguyễn Thị
Ngân Hoa (đồng chủ biên), nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam, 2009; Thực hành Làm văn

12, Phan Huy Dũng, Trần Đình Sử, Lê Quang Hưng, nhà xuất bản Giáo dục, 2001; Cách
làm bài tập làm văn nghị luận (dùng cho học sinh thi tốt nghiệp PTTH và tuyển sinh Đại
học, cao đẳng), Phan Huy Đông, nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội, 2003; Hướng dẫn
học và làm bài Ngữ văn 12, PGS. TS Phan Mậu Cảnh (chủ biên), Lê Bảo, Lê Đình Mai, nhà
xuất bản Giáo dục; Những bài văn theo chuẩn kiến thức kỹ năng Ngữ văn12, Th.s Phạm
Ngọc Thấm, Phạm Thị Hồng Hoa, Đại học Quốc gia Hà Nội…
Rõ ràng, kỹ năng viết phần mở bài trong văn bản nghị luận đã được đề cập ở rất nhiều
tài liệu dạy học trong nhà trường. Tuy vậy, vẫn chưa có tài liệu nào bàn bạc riêng về việc rèn
luyện kỹ năng mở bài, và hệ thống bài tập rèn luyện kỹ năng mở bài trong văn bản nghị luận
một cách trọn vẹn. Cho nên có thể khẳng định rằng:
- Việc rèn luyện kỹ năng mở bài của học sinh trong bài văn nghị luận là việc làm cần
thiết, đã được nhiều tác giả chú ý, đề cập đến.
- Song, kỹ năng này hầu hết ở các tài liệu chưa có một hệ thống bài tập rèn luyện hoàn
chỉnh, chi tiết ở cấp vi mô để hình thành kỹ năng cho các em.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

- Kỹ năng viết phần mở bài của học sinh có liên quan nhiều đến vấn đề của lý thuyết
làm văn nghị luận, nhưng vấn đề lý thuyết ấy cũng chưa được giải quyết toàn diện, sâu sắc,
việc hình thành các thao tác cụ thể cho học sinh chưa được chú trọng.
Vì vậy, chúng tôi chọn đề tài này trên cơ sở kế thừa và sáng tạo tất cả những quan điểm
đi trước, nhằm đóng góp một phần nhỏ trong việc xây dựng lý thuyết Làm văn và hướng
dẫn học sinh làm một số bài tập vận dụng những lý thuyết đã đưa ra.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích nghiên cứu
Chọn đề tài "Củng cố và phát triển năng lực viết phần mở bài trong bài văn nghị
luận cho học sinh lớp 12", trước hết chúng tôi muốn giúp học sinh hiểu rõ mục đích và
nhiệm vụ của phần mở bài để từ đó rèn luyện kĩ năng mở bài nhằm nâng cao chất lượng của
bài làm văn đồng thời tạo cho các em hứng thú viết văn.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Nghiên cứu cơ sở lí luận và thực tiễn viết phần mở bài trong bài văn nghị luận của
học sinh lớp 12.
- Đề ra những biện pháp nhằm nâng cao chất lượng viết phần mở bài trong bài văn
nghị luận cho học sinh.
- Thực nghiệm để kiểm tra khả năng thực thi và hiệu quả của các giải pháp đề xuất
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Phƣơng pháp nghiên cứu lí thuyết
Sử dụng phương pháp nghiên cứu lý thuyết trên cơ sở tập hợp, phân loại và phân tích
tài liệu; tổng hợp và tiếp thu các thành tựu nghiên cứu. Phương pháp này chủ yếu được sử
dụng trong việc phân tích những cơ sở lý luận và thực tiễn của việc rèn kỹ năng viết phần
mở bài cho học sinh trong bài làm văn nghị luận mà luận văn đưa ra.
5.2. Phƣơng pháp nghiên cứu thực tiễn
Điều tra khảo sát thực tiễn dạy và học viết phần mở bài trong bài làm văn nghị luận ở
trường THPT. Khảo sát hệ thống bài tập rèn kỹ năng viết phần mở bài của SGK lớp 12 để
nắm bắt được tình hình dạy học làm văn nghị luận trong nhà trường đặc biệt là vấn đề rèn kỹ
năng viết phần mở bài trong làm văn nghị luận. Từ đó có cơ sở để nghiên cứu đề tài một
cách tích cực.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

5.3. Phƣơng pháp thống kê
Sử dụng để tổng hợp, xử lý số liệu trong quá trình khảo sát thực tế và tiến hành
thực nghiệm.
5.4. Phƣơng pháp thực nghiệm dạy học
Phương pháp này được thực hiện trên những phương diện đó là:
- Thiết kế nội dung dạy học theo hướng nghiên cứu của đề tài và tổ chức dạy học
ở nhà trường THPT cho học sinh lớp 12 trên địa bàn huyện Hoa Lư, huyện Kim Sơn,
tỉnh Ninh Bình.
- Rút ra nhận xét, kết luận về kết quả quá trình thực nghiệm nói riêng cũng như quá
trình nghiên cứu nói chung. Kết quả thực nghiệm là căn cứ để khẳng định mức độ thành

công của đề tài.
- Nêu ý kiến đề xuất của bản thân.
Phương pháp thực nghiệm mang tính khách quan khoa học, sẽ giúp mọi người thấy
vững tin hơn khi áp dụng đề tài vào thực tiễn giảng dạy.
6. Giả thuyết khoa học
Nếu việc luyện cho học sinh cách viết phần mở bài trong văn nghị luận được tiến hành
thường xuyên và có cơ sở khoa học thì chắc chắn việc rèn kĩ năng đó sẽ góp phần nâng cao
chất lượng học phần Làm văn, đặc biệt là viết đoạn văn nói chung và phần mở bài nói riêng
trong chương trình Ngữ văn THPT, phát huy cao độ tính tích cực, chủ động và sáng tạo của
học sinh trong việc viết bài văn nghị luận hoàn chỉnh đảm bảo đúng yêu cầu mà vẫn hay, thu
hút và lôi cuốn người đọc, người nghe.
7. Đóng góp của luận văn
- Luận văn góp phần thực hiện nhiệm vụ của môn học: hình thành và rèn luyện năng
lực tạo lập văn bản, năng lực giao tiếp cho học sinh.
- Trên cơ sở phân tích cở sở lý thuyết và thực tiễn, luận văn góp phần hoàn thiện hệ
thống bài tập rèn kỹ năng viết phần mở bài trong văn nghị luận.
- Luận văn có thể là tài liệu tham khảo bổ ích cho giáo viên và học sinh khi dạy và học
bài về rèn luyện kỹ năng mở bài trong văn bản nghị luận.
8. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Mở bài và năng lực viết phần mở bài văn bản nghị luận
Chương 2: Tổ chức củng cố và phát triển năng lực mở bài trong văn bản nghị luận của
học sinh
Chương 3: Thiết kế và dạy thực nghiệm

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

NỘI DUNG
Chƣơng 1
MỞ BÀI VÀ NĂNG LỰC VIẾT PHẦN MỞ BÀI VĂN BẢN NGHỊ LUẬN


1.1. Phần mở bài trong văn bản nghị luận
1.1.1. Đặc trƣng của phần mở bài
Phần mở bài trong văn nghị luận có đặc trưng đó là thống nhất với toàn bài về nội dung
và hình thức. Mặt khác, phần mở bài lại có tính hoàn chỉnh và độc lập tương đối với các
phần khác trong bài, cho phép nó tồn tại như một đoạn văn riêng, như một tiểu hệ thống nằm
trong hệ thống văn bản.
Phần mở bài có một số đặc trưng cơ bản như sau:
1.1.1.1. Nội dung
Về nội dung, phần mở bài phải tạo được tình huống có vấn đề tức là phải đề xuất được
vấn đề mà đề bài yêu cầu giải quyết. Phần mở bài nêu ra luận đề cho toàn bài, như vậy, vấn đề
đặt ra trong phần này ở dạng tổng quát, khái quát cần triển khai, giải quyết. Do đó, người viết
cần nắm vững yêu cầu của đề, từ đó, khái quát thành luận đề lớn cần giải quyết ở thân bài.
Phần mở bài gồm những nội dung:
+ Dẫn dắt vấn đề: Nêu một vài vấn đề liên quan đến vấn đề cần bàn, chuẩn bị tư
tưởng dẫn người đọc vào vấn đề.
+ Nêu vấn đề: Nêu vấn đề một cách ngắn gọn, nêu đúng vấn đề đặt ra trong đề bài và
phải nêu một cách khái quát.
+ Nêu nhận định về tầm quan trọng của vấn đề, ý nghĩa của vấn đề đối với trước đó
và đương thời (phần này không nhất thiết phải có, tuỳ thuộc vào từng vấn đề cụ thể).
1.1.1.2. Hình thức
Về hình thức, phần mở bài luôn có sự tương ứng với đoạn kết bài về độ dài. Trong
trường hợp vấn đề quá phức tạp không thể nêu vấn đề trong một đoạn văn thì có thể viết
thành hai đoạn văn, khi đó, độ dài của phần mở bài được nới rộng hơn.
Phần mở bài có những đặc điểm về hình thức như sau:
+ Ngắn gọn: Từ khâu dẫn dắt vấn đề đến khâu nêu tầm quan trọng, ý nghĩa (nếu có)
chỉ ngắn gọn trong 6 – 8 câu. Nhưng vẫn cần đảm bảo được tính trọn vẹn của vấn đề và
tránh lan man không nêu được vấn đề trung tâm.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu


+ Đầy đủ: Khi đọc xong mở bài phải làm cho người đọc hiểu được vấn đề đặt ra ở đây
là gì, trong phạm vi nào và thao tác được vận dụng để giải quyết vấn đề đó như thế nào…
Phần này nhất thiết cần đầy đủ tất cả các nội dung, quan trọng nhất là phải nêu đúng, đủ vấn
đề của bài làm.
+ Độc đáo: phần mở bài cần phải gây được sự chú ý và gợi cho người đọc sự quan tâm,
niềm hứng thú theo dõi sự trình bày ở các phần sau.
+ Giản dị, tự nhiên: Đòi hỏi khi viết phải có giọng điệu tự nhiên, có khả năng tạo ra
cảm giác gần gũi, quen thuộc với người đọc (người nghe) và có sức gợi nghĩ (gợi cảm).
Về ngôn ngữ diễn đạt, trong phần mở bài những câu dẫn vào đề nên viết ngắn gọn,
khéo kéo, lời văn tự nhiên, thoải mái sao cho tạo được ấn tượng, hứng thú cho người nghe,
người đọc. Do đặc thù riêng của phần mở bài nên chú ý khi viết cần tránh lối viết cầu kì, dài
dòng, lan man, xa rời trọng tâm đề bài yêu cầu. Các câu trong phần mở bài thường là câu
tường thuật, nhưng cũng có cả câu phủ định và câu nghi vấn. Tuy nhiên, câu nghi vấn ở đây
là câu hỏi tu từ nhằm kích thích suy nghĩ của người đọc mà không yêu cầu có câu trả lời.
1.1.2. Chức năng của phần mở bài
Có thể nói, trong chỉnh thể một bài văn, phần mở bài đảm nhiệm những chức năng
riêng song vẫn có mối quan hệ chặt chẽ với các phần còn lại (thân bài, kết bài).
1.1.2.1. Chức năng nêu vấn đề
Đây là chức năng quan trọng nhất của mở bài. Xét về quan điểm giao tiếp, phần mở
bài phải đưa người đọc, người nghe vào vấn đề bàn luận (hay tình huống có vấn đề đặt ra ở
đề bài). Vấn đề mà mở bài nêu ra chính là vấn đề mà nội dung bài viết đề cập tới. Vấn đề
này được nêu ra ở dạng khái quát, nêu một cách ngắn gọn và gây được sự chú ý của người
đọc. Mở bài có nhiệm vụ thông báo chính xác, rõ ràng, đầy đủ vấn đề, dẫn dắt sao cho việc
tiếp cận đề tài được tự nhiên nhất.
Vậy muốn nêu được vấn đề trước hết phải xác định được vấn đề. Muốn xác định được
vấn đề thì phải tìm hiểu đề bài. Thông thường đề bài có hai dạng:
Dạng nổi: Là dạng đề mà các yêu cầu về nội dung, hình thức, cách thức, phương
hướng, phạm vi, mức độ nghị luận được nêu ra trực tiếp và rõ ràng trong đề bài. Ở đề bài
này vấn đề bàn luận đã có sẵn.


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

Ví dụ:
Đề bài: Phân tích hình ảnh Thuý Kiều qua đoạn thơ Chị em Thuý Kiều. Qua đó nêu lên
nhận xét của em về nghệ thuật tả người của thi hào Nguyễn Du qua Truyện Kiều.
Phân tích: Ở đề bài trên đích phải đạt, phạm vi, cách thức triển khai đã được nêu
rất rõ ràng.
- Vấn đề nghị luận: nghệ thuật tả người của thi hào Nguyễn Du.
- Phạm vi nghị luận: đoạn thơ Chị em Thuý Kiều.
- Cách thức triển khai: phân tích hình ảnh Thuý Kiều.
Trên đây là dạng đề bài mà vấn đề đã "lộ thiên", tuy nhiên rất nhiều (nếu không muốn
nói là hầu hết) các đề bài thường ẩn vấn đề cần bàn bạc, người viết phải phân tích thì mới
thấy được.
Dạng chìm: Là dạng đề trong đó người ra đề không cho dữ kiện rõ về các yêu cầu của
nội dung cũng như cách thức, phạm vi nghị luận. Bởi thế người viết phải phân tích, tổng
hợp, khái quát nội dung vấn đề từ chính nội dung của đoạn văn, đoạn thơ, hoặc tác phẩm,
câu trích…
Ví dụ:
Đề bài: Trẻ em lang thang cơ nhỡ với cộng đồng xã hội.
Phân tích: Ở đề bài trên vấn đề nghị luận, phạm vi, cách thức nghị luận không được
nêu ra một cách rõ ràng. Đề bài đưa ra một vấn đề "nóng" hiện nay của xã hội nhưng để làm
được buộc chúng ta phải đi vào phân tích sự suy thoái mái ấm gia đình nên đã dẫn đến hiện
tượng trẻ em lang thang cơ nhỡ đáng báo động; kêu gọi cộng đồng quan tâm góp sức để tạo
dựng cho các em những "ngôi nhà tình thương" thực sự.
Học sinh khi đọc đề cần xác định thật rõ ràng những yêu cầu của đề theo hướng: về nội
dung cần xem yêu cầu vấn đề cần nghị luận có giới hạn ở đâu? giai đoạn nào? tác phẩm hay
đoạn nào? đề tài gì? chủ đề gì? Về hình thức: quan tâm đến kiểu bài mà đề yêu cầu: phân
tích, bình luận, bình giảng… hay đi kèm hai kiểu bài hoặc tổng hợp các kiểu?
1.1.2.2. Chức năng nêu hƣớng giải quyết vấn đề

Nêu hướng giải quyết vấn đề là nêu lên cách thức mà người viết sẽ giải quyết vấn đề
đó. So sánh đối chiếu hay phân tích, bình giảng sâu vào một vấn đề trọng tâm nào đó, một

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

hình ảnh nổi bật nhất trong tác phẩm. Nêu phạm vi vấn đề đã được nói ở đề tài, cụ thể là
đoạn văn, đoạn thơ, bài thơ của tác giả cụ thể.
Ví dụ:
Đề bài: Anh (chị) hãy phân tích bài thơ Mùa xuân chín của Hàn Mặc Tử.
Mở bài: "Thời gian vẫn trôi đi và bốn mùa luôn luân chuyển. Con người chỉ xuất
hiện một lần trong đời và cũng chỉ một lần ra đi mãi mãi vào cõi vĩnh hằng. Nhưng
những gì là thơ, là văn, là nghệ thuật đích thực… thì vẫn còn mãi với thời gian.
Trước khi chết có lần vua Phổ cầm tay Môda nói: "Ta tiêu biểu cho trật tự, ngươi
tiêu biểu cho cái đẹp. Biết đâu hậu thế sẽ quên ta và nhắc đến ngươi". Có lẽ mãi mãi
về sau, chúng ta vẫn gặp lại một Mùa thu vàng trong tranh Lêvitan, một mùa thu thôn
quê Việt Nam trong thơ Nguyên Khuyến và một Mùa xuân chín trong thơ Hàn Mặc
Tử, một mùa xuân tràn đầy sức sống, vui tươi mà không ồn ào, thắm đượm sắc màu
mà không sặc sỡ, một mùa xuân duyên dáng rất Việt Nam". [26, 87]
Phần mở bài trên nêu hướng giải quyết vấn đề: nét độc đáo, riêng biệt, rất Việt Nam
của mùa xuân trong thơ Hàn Mặc Tử.
Phạm vi tư liệu: bài thơ Mùa xuân chín của Hàn Mặc Tử
1.1.2.3. Chức năng nêu tầm quan trọng, ý nghĩa của vấn đề
Để chuẩn bị tư tưởng cho người đọc dễ dàng theo dõi phần nội dung. Tức là nêu nhận
định khái quát về tầm quan trọng, ý nghĩa của vấn đề (có thể đối với xưa và nay). Chức năng
này có thể có hoặc không, tuỳ thuộc vào từng yêu cầu cụ thể của từng đề bài.
Ví dụ:
Đề bài: Tự học - hành trình của sự tìm kiếm và sáng tạo.
Mở bài: "Tri thức là biển cả, sự hiểu biết của mỗi người chỉ là một giọt nước. Vậy làm
sao để khi giọt nước nhỏ bé vào biển cả mênh mông ấy chúng ta thấy mình không bị lạc
lõng, bất lực? Không còn cách gì khác, chúng ta phải luôn có ý thức trau dồi tri thức bằng

phương pháp này hay phương pháp khác. Nhưng để có thể lĩnh hội kiến thức một cách có
hiệu quả, toàn diện và sâu sắc thì cũng đồng nghĩa với việc mỗi người phải tự lựa chọn cho
mình một cách tiếp cận phù hợp. Tự học luôn là phương án tối ưu trên con đường chinh
phục nữ hoàng trí tuệ". [3, 80]

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

Ý nghĩa của vấn đề này là nói lên tính tích cực, chủ động và đạt hiệu quả cao của
phương pháp tự học hỏi, nghiên cứu.
1.1.2.4. Chức năng tâm lí
Mở bài ngoài nhiệm vụ thông tin những nội dung sẽ trình bày còn có nhiệm vụ tâm lí.
Đó là vào đề sao cho thu hút được sự chú ý, tăng sức hấp dẫn và lôi cuốn người đọc. Để thực
hiện nhiệm vụ này mở bài thường dùng cách nói hình tượng, đưa ra thông báo thú vị khơi
gợi trí tò mò của người đọc.
Ví dụ:
Đề bài: Về bài thơ Cuộc chia li màu đỏ của Nguyễn Mĩ
Mở bài: "Không hiểu sao, tôi yêu cái "màu đỏ" ấy đến thế. Cái màu đỏ chói chang, rực
rỡ, cái màu đỏ đằm thắm, dịu dàng, cái màu đỏ "như cái màu đỏ ấy" trong Cuộc chia li màu
đỏ của Nguyễn Mĩ - nhà thơ quá cố.
Trong cuộc sống, có biết bao điều ta nâng niu quý trọng, yêu mến. Bạn rất yêu bức
phù điêu tạc chân dung một vị thần công lí, có người khác lại rung động bởi nét nhạc dịu
nhẹ thiết tha của Sôpanh, và người thứ ba lại yêu bức hoạ cánh rừng xào xạc như hiện ra
trước mắt ta trong mùa thu vàng của Lêvitan… nhưng có lẽ riêng tôi, cái mà tôi yêu nhất đó
là những vần thơ có "cái màu đỏ ấy"… Có thể lúc đầu đó chỉ là một tình yêu đầy cảm tính.
Nhưng dần dần, cái cảm tính ấy mất đi và nhường chỗ cho một cái gì đó cao quý lắm. Mà
chính tôi không định nghĩa nổi. Tôi muốn các bạn cùng tôi yêu bài thơ ấy: Cuộc chia li màu
đỏ". [26, 87]
Phần mở bài trên gợi sự chú ý cho người đọc về "cái màu đỏ ấy" trong thơ của Nguyễn
Mĩ, cái màu đỏ làm cho người viết phải yêu quý hơn thảy - một tình yêu cao quý không định
nghĩa nổi.

1.1.3. Yêu cầu của phần mở bài
Qua chức năng của phần mở bài (giới thiệu được vấn đề cần bàn bạc ở phần thân bài)
và đặc trưng của phần mở bài trong đoạn văn (trong tổng thể văn bản) đã xác định được
những yêu cầu của phần mở bài.
1.1.3.1. Phần mở bài phải đúng
Về cơ bản, phần mở bài đạt yêu cầu là một phần mở bài đúng. Nghĩa là, phần mở
bài đó đảm bảo đầy đủ nội dung và đảm nhận chức năng của phần mở bài. Mở bài đạt

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

yêu cầu khi nó giới thiệu được vấn đề đến người đọc. Trong cuốn sách: Muốn viết được
bài văn hay, GS Nguyễn Đăng Mạnh quan niệm rằng: "Mở bài là một đoạn văn hoàn
chỉnh (đoạn mở bài). Đoạn văn ấy cũng có ba phần: mở đầu đoạn, phần giữa đoạn và
phần kết đoạn". [26, 84]
- Mở đầu đoạn: Viết những câu dẫn dắt là những câu liên quan gần gũi với vấn đề
chính sẽ nêu. Tuỳ nội dung vấn đề chính mà người viết lựa chọn câu dẫn dắt có thể là một
câu thơ, một câu danh ngôn, hoặc một câu chuyện kể.
- Phần giữa đoạn: Nêu vấn đề chính sẽ bàn trong thân bài, tức là luận đề. Vấn đề chính
này có thể đã chỉ rõ, có thể người viết tự rút ra, tự khái quát. Đối với phân tích bình giảng thơ
thì thường là nêu ấn tượng bao trùm mang tư tưởng chủ đề mà người đọc cảm nhận được.
- Phần kết đoạn: Nêu phương thức nghị luận và phạm vi tư liệu sẽ trình bày. Phần này
đề bài thường đã xác định sẵn. Người viết chỉ việc giới thiệu hoặc ghi lại đoạn trích, câu trích
ở đầu bài.
Tóm lại, một mở bài đúng nhất thiết phải nêu đúng được vấn đề và phạm vi nghị luận;
mở bài đó phải bảo đảm tính khái quát, không có sai sót về kiến thức. Về hình thức diễn đạt,
phần mở bài phải trình bày có ý tứ rõ ràng, đúng ngữ pháp, ngữ nghĩa.
Tác giả cuốn Muốn viết được bài văn hay đã đưa ra mô hình của một mở bài:
1. Dẫn dắt
Mở bài = 2. Nêu vấn đề (luận đề)
3. Giới hạn phạm vi vấn đề

Ví dụ:
Đề bài: Phân tích vẻ đẹp hình tượng nhân vật Huấn Cao trong tác phẩm Chữ người tử
tù của Nguyễn Tuân.
Mở bài: "Trong văn học sau cách mạng tháng Tám đã có không ít tác phẩm viết về con
người không may rơi vào tay giặc, trong nhà lao, trước cái chết vẫn hiên ngang bất khuất.
Thật thú vị là trước cách mạng tháng Tám, nhà văn Nguyễn Tuân đã xây dựng thành công
một hình tượng tuyệt vời về con người khí phách, tài hoa trong nhà tù chờ ngày lĩnh án
chém, ông Huấn Cao, nhân vật chính của tác phẩm Chữ người tử tù. [43, 62]
Phần mở bài trên người viết đảm bảo đầy đủ nội dung của một phần mở bài:

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

- Phần dẫn dắt vấn đề: nêu lên hình tượng người anh hùng rơi vào tay giặc mà vẫn
hiên ngang.
- Phần nêu vấn đề: hình tượng nhân vật Huấn Cao mang khí phách hiên ngang và
tài hoa.
- Giới hạn vấn đề: tác phẩm Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân.
1.1.3.2. Phần mở bài phải hay
Khi đã đạt yêu cầu là mở bài đúng chúng tôi còn muốn bàn đến một mở bài hay. Một
mở bài hay là một mở bài đưa ra vấn đề bất ngờ, khiến cho người ta có hứng thú tham gia
vào việc giải quyết vấn đề đó.
Muốn mở bài cho hay và thành thạo cần luyện tập bằng cách cùng một đề văn nhưng
suy nghĩ và viết nhiều mở bài khác nhau. Các mở bài khác nhau chủ yếu ở phần dẫn dắt tạo
nên. Như vậy, người viết khi xác định được ba phần của phần mở bài, giữ lại hai phần sau
(phần nêu vấn đề và phần giới hạn) và khéo léo thay đổi phần dẫn dắt vấn đề thì sẽ có mở
bài hay.
"Một mở bài hay cần tránh:
1. Tránh dẫn dắt vòng vo quá xa mãi mới gắn được vào việc nêu vấn đề.
2. Tránh ý dẫn dắt không liên quan gì đến vấn đề sẽ nêu.
3. Tránh nêu vấn đề quá dài dòng, chi tiết, có gì nói hết luôn rồi thân bài lại lặp lại

những điều đã nói ở mở bài.
Một mở bài hay cần phải:
1. Ngắn gọn: Dẫn dắt thường vài ba câu, nêu vấn đề một vài câu và giới hạn vấn đề
một vài câu.
2. Đầy đủ: Đọc xong mở bài, người đọc biết được bài viết bàn về vấn đề gì? trong
phạm vi nội dung tư liệu nào? Thao tác chính vận dụng ở đây là gì?
3. Độc đáo: mở bài phải gây được sự chú ý của người đọc với vấn đề mình sẽ viết.
Muốn thế phải có cách nêu vấn đề khác lạ. Để tạo nên sự khác lạ "độc đáo" cần suy nghĩ
dẫn dắt: giữa câu dẫn dắt và câu nêu vấn đề phải tạo được sự bất ngờ.
4. Tự nhiên: viết văn nói chung cần giản dị, tự nhiên. Mở bài và nhất là câu đầu chi
phối giọng văn của toàn bài. Vì thế vào bài cần độc đáo, khác lạ nhưng phải tự nhiên. Tránh

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

làm văn một cách vụng về, gượng ép gây cho người đọc cảm giác khó chịu bởi sự giả tạo".
[26, 86]
Ví dụ:
Đề bài: Nguyễn Đình Thi đã nhận định về thơ Tố Hữu: "Trọn đời, Tố Hữu là một
chiến sỹ cách mạng làm thơ và là nhà thơ của cách mạng ( … ). Và trong lửa của thơ anh,
có biết bao thương yêu dịu dàng đối với đất nước quê hương và những con người của đất
nước quê hương. Từ cuộc sống hiện đại, thơ anh ngày càng bắt nguồn trở lại vào hồn thơ cổ
điển của dân tộc".
(Báo Văn nghệ, số 50 (2239), ra ngày 14 - 12 - 2002)
Anh (chị) suy nghĩ như thế nào về nhận định trên đây?
Hãy liên hệ với một số bài thơ của Tố Hữu để làm sáng tỏ vấn đề.
Mở bài:
"Xin tạm biệt cuộc đời yêu quý nhất
Còn mấy vần thơ, một nắm tro
Thơ gửi bạn đời, tro bón đất
Sống là cho và chết cũng là cho".

Bài thơ nhỏ ấy đã khép lại một đời thơ Tố Hữu. Hơn nửa thế kỷ cầm bút, tiếng thơ Tố
Hữu đã hoá thân vào hồn thiêng sông núi. Tôi đã nghe những em bé líu lo đọc thơ anh trên
đường đi học về, tôi đã nghe những anh công nhân nhắc đến thơ anh với tất cả "tình thương
mến", tôi cũng đã nghe những con người từng đi qua bão táp chiến tranh nhắc đến thơ anh
trong niềm xúc động sâu xa… Tiếng thơ Tố Hữu là tiếng thơ của hôm qua, hôm nay và của
cả ngay mai. Ngày 9 - 12 - 2002, con người mà cả cuộc đời "sống là cho và chết cũng là
cho" đã ra đi trong niềm tiếc thương của đất nước. Chỉ vài ngày sau khi Tố Hữu mất, trên
báo Văn nghệ, số 50 (2239) Nguyễn Đình Thi đã nhận định về thơ anh:
"Trọn đời, Tố Hữu là một chiến sỹ cách mạng làm thơ và là nhà thơ của cách mạng
( … ). Và trong lửa của thơ anh, có biết bao thương yêu dịu dàng đối với đất nước quê
hương và những con người của đất nước quê hương. Từ cuộc sống hiện đại, thơ anh ngày
càng bắt nguồn trở lại vào hồn thơ cổ điển của dân tộc".
Nhận định đó là nén nhang thành kính viếng người con yêu quý của giống nòi - Tố
Hữu!". [32, 236]

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

Mở bài trên không chỉ đáp ứng đầy đủ những yêu cầu về mặt nội dung và hình thức
của một mở bài, mà còn tạo sự thu hút, hấp dẫn đối với người đọc bởi chính cảm xúc của
người viết. Đó được coi là một mở bài hay.
1.1.4. Các phƣơng pháp mở bài trong bài văn nghị luận
Mở bài có nhiều cách khác nhau nhưng cụ thể quy thành hai cách: Mở bài trực tiếp và
mở bài gián tiếp. Tuỳ thuộc vào nội dung, mục đích khuôn khổ bài viết, phương thức trình
bày và phong cách diễn đạt mà người viết có sự lựa chọn cách viết cho phù hợp.
1.1.4.1. Mở bài trực tiếp (trực khởi)
Mở bài trực tiếp là cách mở bài giới thiệu ngay vào vấn đề cần nghị luận. Ưu điểm
của cách mở bài trực tiếp là: đi thẳng ngay vào bài nên tránh được sự lan man, xa đề hoặc
lạc đề; dễ vận dụng đối với các học sinh có kĩ năng lập luận yếu; tiết kiệm được thời gian
suy nghĩ cho người viết. Tuy nhiên, cách mở bài này ít tạo được không khí lôi cuốn cho
người đọc.

Ví dụ:
Đề bài: Phân tích bài thơ Chiều tối trong tập thơ Nhật kí trong tù của Hồ Chí Minh.
Mở bài: Chiều tối là một bài thơ trong tập thơ Nhật kí trong tù của Hồ Chí Minh. Bài
thơ được sáng tác ngay trên đường bị giải đi từ nhà ngục Tĩnh Tây đến nhà lao Thiên Bảo
vào lúc chiều tàn. Ra đời trong hoàn cảnh ấy, bài thơ đã ghi lại bức tranh thiên nhiên và cảnh
sinh hoạt của con người ở vùng rừng núi một cách sinh động.
Phân tích: - Vấn đề nghị luận : bức tranh thiên nhiên và cảnh sinh hoạt của con người ở
vùng rừng núi.
- Cách thức nghị luận: phân tích
- Phạm vi tư liệu: bài thơ Chiều tối của Hồ Chí Minh
Như vậy, đặt vấn đề trực tiếp dễ làm nhưng không hấp dẫn người đọc. Vì mở bài trực
tiếp thường không có phần dẫn dắt mà chỉ có hai phần cơ bản tạo nên phần mở bài là phần
nêu vấn đề và giới hạn vấn đề. Phần lớn các bài văn viết theo kiểu mở bài gián tiếp.
1.1.4.2. Mở bài gián tiếp (lung khởi)
Mở bài gián tiếp là dẫn dắt vào đề bằng cách nêu các ý có liên quan đến vấn đề cần
nghị luận để kích thích trí tò mò, gợi sự chú ý của người đọc rồi từ đó mới nêu lên vấn đề
chính. Để bài viết có không khí tự nhiên và có chất văn, người ta thường mở bài theo kiểu

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

gián tiếp. Có nhiều cách vào bài theo kiểu gián tiếp này, nhưng tựu chung có bốn cách cơ
bản: Diễn dịch, quy nạp, tương liên, tương phản.
* Mở bài theo kiểu diễn dịch (suy diễn)
Mở bài theo kiểu diễn dịch tức là nêu những ý khái quát hơn vấn đề đặt ra trong đề bài
rồi thu hẹp lại dần, sau cùng bắt vào vấn đề ấy.
Ví dụ:
Đề bài: Bình luận ý kiến sau: "Nói đến nghệ thuật Truyện Kiều là nói đến nghệ thuật
sáng tạo ra một thế giới có thật".
Mở bài: "(1) Nói đến nghệ thuật Truyện Kiều là nói đến nghệ thuật sáng tạo ra một thế
giới có thật. (2) Trong Truyện Kiều, nhiều con người, nhiều cảnh vật, nhiều tâm trạng được

Nguyễn Du thể hiện một cách thành công. (3) Đó là thân hình đồ sộ của Tú Bà; dáng dấp
hào hoa, phong nhã của Kim Trọng; cái lẩm nhẩm gật đầu ám muội của Sở Khanh; cái
cười sảng khoái của Từ Hải; bộ mặt đen sì ngơ ngẩn vì tình của Hồ Tôn Hiến, hay sự tinh tế
của ánh trăng đến những rung cảm sâu thẳm trong lòng người đều được Nguyễn Du thể
hiện chính xác". [37, 160]
Phân tích: Mở bài gồm ba câu trình bày theo kiểu diễn dịch:
- Câu (1): Tác giả nêu nhận định khái quát về nghệ thuật sáng tạo thế giới có thật trong
Truyện Kiều.
- Câu (2): Tác giả thu hẹp nhận định về nghệ thuật sáng tạo thế giới có thật của Nguyễn
Du ở khả năng miêu tả con người, cảnh vật.
- Câu (3): Từ nhận định khả năng miêu tả con người ở câu (2), người viết giới thiệu
một hệ thống nhân vật điển hình trong Truyện Kiều.
* Mở bài theo kiểu quy nạp
Mở bài theo kiểu quy nạp là kiểu lập luận ngược lại với diễn dịch, nghĩa là ta phải lập
luận từ những ý, những sự việc cụ thể riêng lẻ, đặc thù, nhỏ hơn ý, sự việc đặt ra trong luận
đề của đề bài rồi mở rộng dần và tổng hợp khái quát lên để bắt sang vấn đề cần nghị luận.
Ví dụ:
Đề bài: Cảm nhận về bức tranh xuân trong đoạn trích Cảnh ngày xuân (trích Truyện
Kiều) của Nguyễn Du.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

Mở bài: (1) Thời gian vẫn trôi đi và bốn mùa luôn luân chuyển. (2) Con người chỉ xuất
hiện một lần trong đời và cũng chỉ một lần ra đi mãi mãi vào cõi vĩnh hằng. (3) Nhưng
những gì là thơ, là văn, là nghệ thuật đích thực… thì vẫn còn mài mãi với thời gian. (4)
Truyện Kiều của Nguyễn Du là một tác phẩm nghệ thuật như thế, đặc biệt là đoạn thơ viết
về Cảnh ngày xuân - một mùa xuân mới mẻ, tinh khôi và giàu sức sống.
Phân tích: Mở bài gồm bốn câu trình bày theo kiểu quy nạp:
- Câu (1), (2): Nói lên quy luật vĩnh hằng của cuộc đời và con người.
- Câu (3), (4): Tác giả khái quát lên: thơ văn, nghệ thuật đích thực sẽ còn mãi với thời

gian và bắt sang vấn đề nghị luận: Cảnh ngày xuân - một mùa xuân mới mẻ, tinh khôi và
giàu sức sống.
* Mở bài theo kiểu tƣơng liên (tƣơng đồng)
Mở bài theo kiểu tương liên là mở bài bằng cách bắt đầu nêu lên một ý, một sự việc
tương tự có liên quan tới ý của luận đề, có tác dụng gợi ra một sự liên tưởng rồi từ đó mà
chuyển sang luận đề.
Ví dụ:
Đề bài: Phân tích bài thơ Tình ca ban mai của Chế Lan Viên
Mở bài:
" Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ
Sinh ra ở trên đời, không ai lại không có một lần nguyện ước cho riêng mình điều chân
thành như thế. Lạc vào thế giới huyền diệu trăm màu sắc ấy ta như ngợp đi giữa những yêu
thương, giữa niềm khát khao hạnh phúc, giữa biết bao nỗi nhớ ngập tràn. Tình ca ban mai
của Chế Lan Viên là bản nhạc lòng tấu lên giai điệu ngọt ngào giữa muôn vàn thanh điệu
của tình yêu". [28, 194]
Phân tích: Mở bài trên viết theo kiểu tương liên, tác giả chỉ ra sự tương đồng của hai tác
phẩm về mặt nội dung đó là những cung bậc của tình yêu.
* Mở bài theo kiểu tƣơng phản (đối lập)
Mở bài theo kiểu tương phản, đối lập là cách mở bài nêu lên một ý trái ngược với ý
trong đề bài rồi lấy đó làm cớ chuyển sang vấn đề nghị luận hoặc nêu lên các ý kiến đối lập

×