1
Luận văn tốt nghiệp Học viện Tài chính
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số liệu,
kết quả nêu trong luận văn tốt nghiệp là trung thực xuất phát từ tình hình thực
tế của đơn vị thực tập.
Tác giả luận văn tốt nghiệp
SV: Nguyễn Ngọc Dũng Lớp: CQ47/17.02
1
2
Luận văn tốt nghiệp Học viện Tài chính
SV: Nguyễn Ngọc Dũng Lớp: CQ47/17.02
2
3
Luận văn tốt nghiệp Học viện Tài chính
MỤC LỤC
SV: Nguyễn Ngọc Dũng Lớp: CQ47/17.02
3
4
Luận văn tốt nghiệp Học viện Tài chính
BẢNG CHỮ CÁI VIẾT TẮT
STT Viết tắt Nguyên văn
1 CTCK Công ty chứng khoán
2 HNX Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội
3 HOSE Sở giao dịch chứng khoán thành phố Hồ
Chí Minh
4 KDCK Kinh doanh chứng khoán
9 OTC Thị trường chứng khoán phi tập trung
5 SGDCK Sở giao dịch chứng khoán
6 TTCK Thị trường chứng khoán
7 TTCKVN Thị trường chứng khoán Việt Nam
8 TTLKCK Trung tâm lưu kí chứng khoán
10 UBCKNN Ủy ban chứng khoán nhà nước
11 VICS Công ty cổ phần chứng khoán thương
mại và công nghiệp Việt Nam
12 WTO Tổ chức thương mại thế giới
SV: Nguyễn Ngọc Dũng Lớp: CQ47/17.02
4
5
Luận văn tốt nghiệp Học viện Tài chính
DANH MỤC CÁC BẢNG
BẢNG 2.1: DOANH THU HOẠT ĐỘNG MÔI GIỚI CHỨNG KHOÁN CỦA
VICS GIAI ĐOẠN 2009-2012 50
DANH MỤC CÁC HÌNH
SV: Nguyễn Ngọc Dũng Lớp: CQ47/17.02
5
6
Luận văn tốt nghiệp Học viện Tài chính
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Từ khi ra đời cho đến nay, thị trường chứng khoán Việt Nam đã bước
qua biết bao nhiêu thăng trầm sóng gió. Nếu như trong những năm đầu tiên
thành lập, TTCK Việt Nam gần như chỉ thực hiện chức năng duy nhất là nơi
giao dịch của các cổ phiếu của các công ty nhà nước được cổ phần hóa thì đến
nay, TTCK Việt Nam đã trở thành một kênh huy động vốn quan trọng, tạo
điều kiện cho sự phát triển có tính đột phá của các doanh nghiệp Việt Nam
thuộc mọi thành phần kinh tế. Khoảng thời gian cuối năm 2006 đến đầu năm
2007, với sự bùng nổ thực sự của chứng khoán, đồng thời đã kéo theo sự ra
đời của hàng loạt công ty chứng khoán mới. Hiện nay đã có 105 công ty
chứng khoán chính thức là thành viên của HNX và HOSE. Các công ty chứng
khoán bên cạnh vai trò là trung gian, là cầu nối giữa nhà đầu tư với thị trường
thì công ty cũng là doanh nghiệp, sinh tồn nhờ hoạt động và nhu cầu của thị
trường vì vậy nâng cao năng lực cạnh tranh để tồn tại, phát triển và đáp ứng
ngày càng tốt hơn nhu cầu của nhà đầu tư là vấn đề cấp thiết đối với mỗi công
ty chứng khoán.Tuy nhiên do số lượng công ty chứng khoán tăng lên quá
nhanh dẫn đến sự cạnh tranh giữa các công ty ngày một gay gắt hơn, mặt khác
do có nhiều công ty chứng khoán tồn tại nhưng hoạt động không hiệu quả,
nhân lực phân tán, có nhiều chính sách cạnh tranh không lành mạnh và đặc
biệt có một số không nhỏ công ty chứng khoán đã làm ăn thua lỗ dẫn đến
không đủ điều kiện hoạt động theo quy định của uỷ ban chứng khoán nhà
nước. Gần đây nhất chính phủ đã phê duyệt đề án tái cấu trúc các công ty
chứng khoán nhằm nâng cao chất lượng hoạt động, năng lực tài chính, quản
trị doanh nghiệp và khả năng kiểm soát rủi ro của các công ty chứng khoán,
trên cơ sở đó, từng bước thu hẹp số lượng các công ty chứng khoán để tăng
cường khả năng, hiệu quả quản lý, giám sát đối với hoạt động công ty chứng
SV: Nguyễn Ngọc Dũng Lớp: CQ47/17.02
6
7
Luận văn tốt nghiệp Học viện Tài chính
khoán đồng thời chuẩn bị cho quá trình mở cửa thị trường dịch vụ tài chính
theo lộ trình hội nhập đã cam kết. Vì vậy để có thể đứng vững và phát triển
trên thị trường chứng khoán các công ty chứng khoán phải không ngừng nâng
cao chất lượng, cải tiến về mọi mặt các hoạt động kinh doanh của mình.
Là một sinh viên Học Viện Tài Chính, sau thời gian được thực tập tại
công ty cổ phần chứng khoán thương mại và công nghiệp Việt Nam cùng với
việc nhận ra tính thực tiễn của vấn đề nâng cao năng lực cạnh tranh trong điều
kiện kinh tế thị trường, thị trường chứng khoán ngày càng phát triển và hội
nhập nên em đã quyết định lựa chọn đề tài khóa luận tốt nghiệp là: “Giải
pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty cổ phần chứng khoán
thương mại và công nghiệp Việt Nam”
2. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn trước hết là làm rõ những lý luận cơ bản, tổng
quan nhất về năng lực cạnh tranh của công ty chứng khoán, trên cơ sở đó tiếp
tục đi sâu nghiên cứu, phân tích năng lực cạnh tranh của công ty cổ phần
chứng khoán thương mại và công nghiệp Việt Nam và đưa ra những giải pháp
để nâng cao năng lực cạnh tranh đối với công ty cổ phần chứng khoán thương
mại và công nghiệp Việt Nam phù hợp với định hướng phát triển của công ty
trong thời gian tới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu:
- Thực trạng khả năng cạnh tranh của công ty cổ phần chứng khoán
thương mại và công nghiệp Việt Nam
- Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh đối với công ty cổ phần chứng
khoán thương mại và công nghiệp Việt Nam
* Phạm vi nghiên cứu: Tình hình hoạt động và đánh giá năng lực cạnh tranh
của công ty cổ phần chứng khoán thương mại và công nghiệp Việt Nam trong
giai đoạn từ 2009-2012 và định hướng trong thời gian tới.
SV: Nguyễn Ngọc Dũng Lớp: CQ47/17.02
7
8
Luận văn tốt nghiệp Học viện Tài chính
4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp tư duy : Duy vật biện chứng và duy vật lịch sử
- Phương pháp khảo sát thực tiễn, phương pháp thống kê, phương pháp
diễn giải- quy nạp, phương pháp phân tích tổng hợp, phương pháp đối chiếu
so sánh.
5. Kết cấu của đề tài
Ngoài lời mở đầu, mục lục, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, đề
tài luận văn gồm 3 chương
Chương 1: Công ty chứng khoán và nâng cao năng lực cạnh tranh công ty
chứng khoán
Chương 2: Thực trạng hoạt động kinh doanh và năng lực cạnh tranh tại công
ty cổ phần chứng khoán thương mại và công nghiệp Việt Nam
Chương 3: Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh tại công ty cổ phần chứng
khoán thương mại và công nghiệp Việt Nam
Em xin chân thành cảm ơn ban giám đốc và các anh chị nhân viên trong
công ty cổ phần chứng khoán thương mại và công nghiệp Việt Nam đã tạo
điều kiện giúp em thực tập thuận lợi. Em cũng xin chân thành cảm ơn thầy
giáo Hoàng Văn Quỳnh đã giúp đỡ em hoàn thành bài luận văn này. Mặc dù
có nhiều cố gắng trong việc nghiên cứu và thu thập tài liệu, tuy nhiên do hạn
chế về thời gian nghiên cứu và kiến thức nên bài luận văn không tránh khỏi
những thiếu sót. Em rất mong nhận được sự quan tâm giúp đỡ của thầy để bài
luận văn được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
CHƯƠNG 1
CÔNG TY CHỨNG KHOÁN VÀ NÂNG CAO NĂNG LỰC
SV: Nguyễn Ngọc Dũng Lớp: CQ47/17.02
8
9
Luận văn tốt nghiệp Học viện Tài chính
CẠNH TRANH CÔNG TY CHỨNG KHOÁN
1.1 Những vấn đề cơ bản về công ty chứng khoán
1.1.1 Khái niệm, đặc điểm công ty chứng khoán
* Khái niệm công ty chứng khoán
Công ty chứng khoán là tổ chức kinh doanh trong lĩnh vực chứng khoán
thông qua việc thực hiện một hoặc một vài dịch vụ chứng khoán với mục đích
tìm kiếm lợi nhuận
* Đặc điểm hoạt động của công ty chứng khoán
Là một chủ thể kinh doanh, công ty chứng khoán cũng có những đặc
điểm tương đồng với tổ chức và hoạt động của các công ty khác nói chung.
Nhưng đồng thời, do hoạt động trong lĩnh vực chứng khoán nên cũng có
những đặc điểm khác biệt hơn so với các loại hình kinh doanh khác.
- Phần lớn tài sản là tài sản tài chính: Tài sản của các công ty chứng
khoán phần lớn đều là tài sản tài chính. Ngoài một phần rất nhỏ để đầu tư vào
cơ sở vật chất, phần lớn tài sản còn lại của công ty chứng khoán là chứng
khoán. Những chứng khoán này hình thành chủ yếu từ hoạt động tự doanh và
bảo lãnh phát hành. Nét đặc trưng của các loại tài sản tài chính này là giá trị
của chúng thường xuyên biến động trên thị trường. Sự biến động này tất yếu
tạo ra những rủi ro tiềm tàng trong hoạt động của các công ty chứng khoán.
Để giảm thiểu rủi ro này, các chứng khoán trong tài sản của công ty chứng
khoán phải có tính thanh khoản rất cao.
- Sản phẩm dễ bị bắt chước: Sản phẩm của các công ty chứng khoán là
các sản phẩm dịch vụ tài chính. Đặc điểm của loại hình sản phẩm đặc biệt này
là không có hình thái vật chất, mức độ kết tinh chất xám cao, rất khó tạo ra
sản phẩm mới song lại dễ dàng bị bắt chước. Vì vậy để tồn tại và phát triển,
SV: Nguyễn Ngọc Dũng Lớp: CQ47/17.02
9
10
Luận văn tốt nghiệp Học viện Tài chính
các công ty chứng khoán phải không ngừng cải tiến dịch vụ, liên tục tạo ra
các sản phẩm mới cũng như học hỏi đối thủ cạnh tranh để hoàn thiện nghiệp
vụ của mình, nâng cao chất lượng dịch vụ.
- Có khả năng xảy ra xung đột lợi ích: Trong lĩnh vực chứng khoán, lợi
ích cá nhân của các nhân viên kinh doanh hoặc lợi ích của công ty chứng
khoán có thể mâu thuẫn với lợi ích của các khách hàng mà công ty chứng
khoán cam kết phục vụ dẫn tới những xung đột lợi ích. Nếu không được kiểm
soát chặt chẽ công ty chứng khoán cũng như các nhân viên kinh doanh của
công ty có thể lợi dụng những đặc thù trong hoạt động của mình để trục lơi,
gây thiệt hại cho khách hàng. Vì vậy cần áp dụng những nguyên tắc đạo đức
nghề nghiệp để ngăn chặn các xung đột lợi ích này.
- Mức độ chuyên môn hoá cao: Các bộ phận của công ty chứng khoán
như môi giới, tự doanh và bảo lãnh phát hành chứng khoán thường được tổ
chức độc lập, không phụ thuộc lẫn nhau và được chuyên môn hoá ở mức độ
rất cao. Vì vậy mà việc quản lý các hoạt động của công ty có sự phân cấp rõ
rệt, các bộ phận có quyền độc lập trong quyết định.
- Là doanh nghiệp hoạt động có điều kiện: Do tầm quan trọng và sức ảnh
hưởng của các công ty chứng khoán trên thị trường tài chính là rất lớn, nên tất
cả các quốc gia trên thế giới đều phải đặt ra những rào cản đối với các doanh
nghiệp muốn tham gia vào hoạt động trong lĩnh vực này. Thông thường đó là
những yêu
cầu về vốn điều lệ, về đội ngũ cán bộ (kiến thức, trình độ chuyên môn, kinh
nghiệm, mức độ tín nhiệm, tính trung thực và có giấy phép hành nghề) và các
quy định tối thiểu về cơ sở vật chất. Thêm vào đó, trong quá trình hoạt động,
công ty chứng khoán luôn chịu sự giám sát chặt chẽ vởi cơ quan quản lý nhà
nước (ở Việt Nam là Uỷ ban chứng khoán nhà nước).
SV: Nguyễn Ngọc Dũng Lớp: CQ47/17.02
10
11
Luận văn tốt nghiệp Học viện Tài chính
1.1.2 Mô hình tổ chức hoạt động của công ty chứng khoán
Hiện nay trên thế giới tồn tại hai mô hình tổ chức của công ty chứng
khoán là mô hình công ty chứng khoán đa năng và mô hình công ty chứng
khoán chuyên doanh.
∗ Mô hình công ty chứng khoán đa năng:
Theo mô hình công ty đa năng, công ty chứng khoán là một bộ phận cấu
thành của ngân hàng thương mại. Hay nói cách khác, ngân hàng thương mại
kinh doanh trên cả hai lĩnh vực là tiền tệ và chứng khoán.
Mô hình công ty chứng khoán đa năng có ưu điểm là có thể giảm bớt
được rủi ro hoạt động kinh doanh chung, có thế mạnh và kinh nghiệm trong
hoạt dộng kinh doanh chứng khoán, tạo động lực cho sự phát triển của thị
trường. Tuy nhiên, mô hình này cũng có nhược điểm là công ty có thể sẽ lợi
dụng những ưu thế của mình để lũng đoạn thị trường.
HÌNH 1.1: MÔ HÌNH CÔNG TY CHỨNG KHOÁN ĐA NĂNG
* Mô hình công ty chứng khoán chuyên doanh:
SV: Nguyễn Ngọc Dũng Lớp: CQ47/17.02
Ngân hàng
Chứng khoánTiền tệ
Bảo hiểm
11
12
Luận văn tốt nghiệp Học viện Tài chính
Theo mô hình này, hoạt động kinh doanh chứng khoán sẽ do các công ty
chứng khoán độc lập, chuyên môn hoá trong lĩnh vực chứng khoán đảm nhận.
Mô hình này giúp hạn chế rủi ro cho các ngân hàng và các tổ chức tài chính
trên thị trường, tạo điều kiện cho sự phát triển tự do của thị trường. Tuy
nhiên, tiềm lực tài chính có hạn nên khó khăn trong mở rộng hoạt động. Hoạt
động kinh doanh chứng khoán là hoạt động duy nhất mang lại doanh thu cho
công ty và đây cũng chính là nguồn thu duy nhất nên công ty sẽ gặp nhiều
khó khăn hơn so với những công ty theo mô hình đa năng khi thị trường đi
xuống.
HÌNH 1.2: MÔ HÌNH CÔNG TY CHỨNG KHOÁN CHUYÊN DOANH
1.1.3 Nguyên tắc hoạt động kinh doanh của công ty chứng khoán
SV: Nguyễn Ngọc Dũng Lớp: CQ47/17.02
Hội đồng quản trị
Ban kiểm soát
Ban lãnh đạo
Phòng môi giới Phòng bảo lãnh phát
hành
Phòng quản lí tài sản
Phòng tự doanh
Phòng tư vấn
12
13
Luận văn tốt nghiệp Học viện Tài chính
Hoạt động trên thị trường chứng khoán rất là phức tạp, có rất nhiều điều
hạn
chế đối với công ty chứng khoán trong quá trình kinh doanh. Điều đó đòi hỏi
các công ty chứng khoán hoạt động theo những nguyêng tắc nhất định để
khắc phục những sai sót, khiếm khuyết. Để khắc phục điều đó công ty chứng
khoán hoạt động dựa trên hai nguyên tắc cơ bản đó là nhóm nguyên tắc đạo
đức và nhóm nguyên tắc mang tính tài chính.
+ Trước hết nói về nhóm nguyên tắc đạo đức, công ty chứng khoán là
trung gian trong giao dịch của khách hàng và do đó công ty phải đảm bảo
giao dịch trung thực và công bằng vì lợi ích của khách hàng. Đồng thời có
nghĩa vụ bảo mật cho khách hàng về các thông tin liên quan đến khách hàng
như thông tin về tài khoản, khi chưa được sự cho phép của khách hàng hoặc
có chỉ thị của các cơ quan quản lý nhà nước. Công ty chứng khoán khi hoạt
động tư vấn yêu cầu phải có các thông tin về mức độ rủi ro của hoạt động và
khả năng sinh lời của nó. Để đảm bảo cho khách hàng không bị lừa gạt trong
các dịch vụ của công ty. Các công ty chứng khoán không được phép nhận bất
kì một khoản hoa hồng thêm nào khác ngoài các khoản hoa hồng thông
thường. Đồng thời với việc tư vấn đó là công ty chứng khoán không được
dùng các thông tin nội bộ để giao dịch phục vụ cho lợi ích của mình, một số
công ty ngoài các hoạt động như môi giới, tư vấn còn có hoạt động tự doanh
là việc công ty chứng khoán thực hiện các giao dịch cho mình để thu lợi
nhuận từ kinh doanh chứng khoán. Điều đó dẫn đến các bất đồng về quyền lợi
trong giao dịch giữa khách hàng và công ty chứng khoán. Theo nguyên tắc
đạo đức thì các công ty chứng khoán sẽ phải ưu tiên thực hiện lệnh cho khách
hàng trước rồi mới đến lượt mình. Công ty chứng khoán cũng là một nhà kinh
doanh do đó nó không được phép tiến hành các hoạt động gây ra sự hiểu lầm
về giá cả của khách hàng từ đó kiếm lời. Tuy nhiên, hoạt động tự doanh
SV: Nguyễn Ngọc Dũng Lớp: CQ47/17.02
13
14
Luận văn tốt nghiệp Học viện Tài chính
không phải là hoạt động chính của công ty do đó hoạt động phá hoại thị
trường của các công ty sẽ rất ít hoặc không có. Bản thân các công ty chứng
khoán đều muốn mang lại nhiều lợi nhuận nhất cho khách hàng của mình, có
như vậy công ty mới thu hút được sự chú ý của khách hàng. Hiện nay một số
nơi các công ty chứng khoán còn đóng góp thành một quỹ để đề phòng rủi ro
mất khả năng thanh toán của công ty cho khách hàng, góp phần bảo vệ lợi ích
cho nhà đẩu tư. Thông qua đó tạo ra một cảm giác an toàn cho khách hàng, từ
đó thu hút được nhiều nhà đẩu tư mở tài khoản giao dịch tại công ty.
+ Nhóm nguyên tắc mang tính tài chính có tác dụng làm tách biệt các
quan hệ về tài sản giữa công ty với tài sản của khách hàng. Các công ty chứng
khoán để có thể thực hiện được điều trên trước hết cần phải bảo đảm được các
yêu cầu về vốn, cơ cấu vốn và nguyên tắc hạch toán, báo cáo kết quả kinh
doanh theo quy định của uỷ ban chứng khoán nhà nước. Đồng thời phải bảo
đảm các nguồn tài chính trong cam kết kinh doanh với khách hàng. Trong đó
công ty chứng khoán không được dùng tiền của khách hàng gửi trong tài
khoản tại công ty. Ngoại trừ các trường hợp phục vụ kinh doanh của khách
hàng. Các công ty cũng không được phép dùng các chứng khoán cùa khách
hàng để đi thế chấp vay tiền phục vụ cho các hoạt động của công ty, điều đó
rất nguy hiểm cho công ty và khách hàng, và cả tổ chức mà công ty thế chấp
chứng khoán. Nhưng công ty có thể thực hiện các hoạt động trên nếu được sự
đồng ý của khách hàng bằng các văn bản.
1.1.4 Các hoạt động kinh doanh của công ty chứng khoán
1.1.4.1 Hoạt động môi giới chứng khoán
Môi giới chứng khoán là một hoạt động kinh doanh chứng khoán trong
đó một CTCK đại diên cho khách hàng tiến hành giao dịch thông qua cơ chế
giao dịch tại sở giao dịch chứng khoán hay thị trường OTC mà chính khách
SV: Nguyễn Ngọc Dũng Lớp: CQ47/17.02
14
15
Luận văn tốt nghiệp Học viện Tài chính
hàng phải chịu trách nhiệm đối với hậu quả kinh tế của việc giao dịch đó.
Hoạt động môi giới là một trong những hoạt động quan trọng nhất của công ty
chứng khoán. Với chức năng trung gian kết nối người bán và người mua,
cung cấp những thông tin cần thiết cho các nhà đầu tư, hoạt động môi giới đã
mang lại khoản phí không nhỏ cho CTCK. Tuy nhiên nhân viên môi giới
không được xúi dục mua, bán chứng khoán để hưởng hoa hồng mà phải đưa
ra những lời khuyên chân thành hạn chế rủi ro thấp nhất cho khách hàng. Vì
vậy nghề môi giới đòi hỏi những phẩm chất đạo đức và mẫn cán trong công
việc. Ngoài ra, nhân viên môi giới là người tiếp xúc với khách hàng nhiều
nhất và là bộ mặt của công ty. Khách hàng lựa chọn CTCK để tham gia thị
trường một phần là do hoạt động môi giới tại công ty đó như thế nào. Chính
vì vậy một nhà môi giới chuyên nghiệp cần có những yếu tố và kỹ năng như:
Kỹ năng truyền đạt thông tin, kỹ năng tìm kiếm khách hàng, kỹ năng khai
thác thông tin. Các kỹ năng này giúp người môi giới định vị được khách hàng
và truyền đạt được những thông tin cần thiết tới khách hàng.
1.1.4.2. Hoạt động tự doanh chứng khoán
Tự doanh là việc công ty chứng khoán tự tiến hành các giao dịch mua
bán các chứng khoán cho chính mình hoạt động tư doanh của CTCK có thể
được thực hiện trên các thị trường giao dịch tập trung hoặc trên thị trường
OTC. Trên thị trường giao dịch tập trung, lệnh giao dịch của các CTCK được
đưa vào hệ thống và thực hiện tương tự như lệnh giao dịch của khách hàng.
Trên thị trường OTC, các hoạt động này có thể được thực hiện trực tiếp giữa
công ty vơi các đối tác hoặc thông qua một hệ thống mạng thông tin. Trong
hoạt động này, với tư cách là một tổ chức pháp nhân chuyên nghiệp, CTCK
còn đóng vai trò là nhà tạo lập thị trường, nắm giữ một số lượng nhất định
một số loại chứng khoán và thực hiện mua bán với khách hàng nhằm hưởng
SV: Nguyễn Ngọc Dũng Lớp: CQ47/17.02
15
16
Luận văn tốt nghiệp Học viện Tài chính
phí giao dịch và chênh lệch giá. Ngoài ra, CTCK còn được kinh doanh các
nghiệp vụ khác ngoài mua bán chứng khoán thông thường nhằm thu lợi nhuận
cho chính mình khác như cho vay chứng khoán, repo chứng khoán, mua bán
các công cụ chứng khoán phái sinh…
Như vậy, mục đích của hoạt động tự doanh là nhằm thu lợi nhuận cho
chính công ty. Hoạt động này thực hiện song hành với hoạt đông môi giới,
vừa phục vụ lệnh giao dịch cho khách hàng đồng thời cũng phục vụ cho chính
mình, vì vậy trong quá trình hoạt động có thể dẫn đến xung đột lợi ích giữa
thực hiện giao dịch cho khách hàng và cho bản thân công ty. Vì vậy để đảm
bảo sự ổn định và tính minh bạch của thị trường, pháp luật các nước đều yêu
cầu các CTCK phải đáp ứng một số yêu cầu nhất định.
* Điều kiện để thực hiện hoạt động tự doanh
- Điều kiện về vốn: Để thực hiện hoạt động tư doanh, các công ty chứng
khoán phải có đủ một số vốn nhất định theo quy định của pháp luật. Việc quy
định mức vốn trên nhằm mục đích đảm bảo rằng các CTCK thực sự có vốn và
dùng vốn của họ để kinh doanh.
- Điều kiện về con người: Con người cũng là yếu tố quyết định đến sự
thành công của hoạt động tự doanh. Chính vì vậy, nhân viên thực hiện nghiệp
vụ tự doanh của Công ty phải có chuyên môn nhất định, có khả năng tự quyết
cao và đặc biệt là tính nhạy cảm trong công việc.
* Những yêu cầu đối với công ty chứng khoán trong hoạt động tự doanh
- Tách biệt quản lý: Công ty chứng khoán phải tách biệt giữa hoạt động
môi giới và hoạt động tự doanh nhằm tránh các xung đột lợi ích giữa công ty
và khách hàng. Sự tách biệt này bao gồm cả về yếu tố con người, quy trình
nghiệp vụ, vốn và tài sản của khách hàng, của công ty.
SV: Nguyễn Ngọc Dũng Lớp: CQ47/17.02
16
17
Luận văn tốt nghiệp Học viện Tài chính
- Ưu tiên khách hàng: Nghĩa là lệnh giao dịch của khách hàng phải được
xử lý trước lệnh tư doanh của công ty. Nguyên tắc này đảm bảo sự công bằng
cho khách hàng trong quá trình giao dịch chứng khoán. Do CTCK có tính đặc
thủ về khả năng tiếp cận thông tin và chủ động trên thị trường nên các CTCK
có thể sẽ dự đoán trước diễn biến của thị trường và sẽ mua bán tranh của
khách hàng nếu không có nguyên tắc trên.
- Bình ổn thị trường: Do tính đặc thù của TTCK, đặc biệt là các TTCK
mới nổi, bao gồm chủ yếu là các nhà đầu tư cá nhân, nhỏ lẻ thì tính chuyên
nghiệp trong hoạt đồng đầu tư không cao. Điều này rất dễ dẫn đến những biến
động bất thường trên thị trường. Bên cạnh hoạt động cảu các quỹ đầu tư
chứng khoán, các CTCK với khả năng chuyên môn và nguồn vốn lớn của
mình có thể thông qua hoạt động tự doanh góp phần rất lớn trong việc điều
tiết cung cầu, bình ổn giá cả của các loại chứng khoán trên thị trường. Thông
thường, chức năng bình ổn giá cả không phải là một quy định bắt buộc trong
hệ thống pháp luật của các nước, tuy nhiên đây thường là nguyên tắc nghề
nghiệp do các hiệp hội chứng khoán đặt ra trên thị trường và các CTCK phải
tuân thủ theo trong quá trình hoạt động. Bên cạnh đó, các CTCK còn phải
tuân thủ một số quy định khác như các giới hạn về đầu tư, lĩnh vực đầu tư
nhằm đảm bảo một độ an toàn nhất định cho các CTCK trong quá trình hoạt
động, tránh những sự đổ vỡ gây thiệt hại chung cho cả thị trường.
1.1.4.3. Nghiệp vụ bảo lãnh phát hành chứng khoán
Bảo lãnh phát hành là việc CTCK có chức năng bảo lãnh giúp cho tổ
chức phát hành thực hiện các thủ tục trước khi chào bán chứng khoán, tổ chức
việc phân phối chứng khoán và giúp bình ổn giá chứng khoán trong giai đoạn
đầu sau khi phát hành. Hoạt động bảo lãnh phát hành bao gồm:
SV: Nguyễn Ngọc Dũng Lớp: CQ47/17.02
17
18
Luận văn tốt nghiệp Học viện Tài chính
+ Nghiên cứu và tư vấn cho tổ chức phát hành về các thủ tục và phương
pháp phát hành, loại chứng khoán phát hành, cơ cấu giá…
+ Thỏa thuận với các nhà bảo lãnh khác trong việc tiếp thị phân phối
chào bán chứng khoán
+ Quản lý phân phối và thanh toán chứng khoán.
+ Thực hiện các công việc hỗ trợ cho thị trường và dịch vụ sau khi phát
hành.
+ Đại lý phân phối chứng khoán.
Qua hoạt động bảo lãnh phát hành, các Công Ty Chứng Khoán thu về
hoa hồng bảo lãnh. Hoa hồng này có thể là cố định, có thể là tùy ý tùy từng
Công Ty Chứng Khoán.
SV: Nguyễn Ngọc Dũng Lớp: CQ47/17.02
Công Ty Chứng Khoán
Uỷ ban
chứng khoán
Nhà nước
Tổ chức
phát hàn
Nhận yêu cầu bảo lãnh
Nhận yêu cầu bảo lãnh
18
19
Luận văn tốt nghiệp Học viện Tài chính
HÌNH 1.3: QUY TRÌNH NGHIỆP VỤ BẢO LÃNH PHÁT HÀNH
CỦA CTCK
SV: Nguyễn Ngọc Dũng Lớp: CQ47/17.02
Hợp đồng tư vấn quản lý
Đệ trình phương án bán, cam kết Bảo lãnh
Lập nghiệp đoàn bảo lãnh
Nộp HS xin phép phát hành
Thăm dò thị trường
Công bố việc phát hành
Phân phát bản cáo bạch
Phân phát phiếu đăng kí mua chứng khoán
Giấy phép phát hành Chứng
Phân phối cổ phiếu trên cơ sở
Bình ổn thị trường
Thanh toán
Lưu ký chứng khoán
19
20
Luận văn tốt nghiệp Học viện Tài chính
1.1.4.4 Hoạt động tư vấn đầu tư
Tư vấn đầu tư chứng khoán là việc CTCK thông qua hoạt động phân tích
để đưa ra các lời khuyên, phân tích các tình huống và có thể thực hiện một số
công biệc dịch vụ khác liên quan đến phát hành, đầu tư và cơ cấu tài chính
cho khách hàng. Đây là hoạt động khó và phức tạp đòi hỏi CTCK phải có kỹ
năng và am hiểu thị trường cũng như trách nhiệm, tính trung thực cao đối với
những dịch vụ mà mình cung cấp cho khách hàng. Để hiểu rõ về hoạt động tư
vấn chứng khoán, chúng ta có thể phân loại hoạt động này theo một số tiêu
chí sau:
* Theo hình thức của hoạt động tư vấn:
- Tư vấn trực tiếp: khách hàng có thể gặp trực tiếp nhà tư vấn hoặc sử
dụng các phương tiện liên lạc như điện thoại, fax… để hỏi ý kiến.
- Tư vấn gián tiếp: Là cách người tư vấn xuất bản các ấn phẩm hay đưa
thông tin lên các phương tiện truyền thông như Internet để khách hàng nào
cũng có thể tiếp cận được nếu muốn.
* Theo mức độ uỷ quyền của hoạt động tư vấn
- Tư vấn gợi ý: Ở mức độ này, người tư vấn chỉ có quyền nêu ý kiến
của mình về những diễn biến trên thị trường gợi ý cho khách hàng về những
phương pháp, cách thức xử lý nhưng quyền quyết định là của khách hàng.
- Tư vấn uỷ quyền: Bên cạnh việc tư vấn cho khách hàng, nhà tư vấn có
thể quyết định hộ khách hàng theo mức độ uỷ quyền của khách hàng.
* Theo đối tượng của hoạt động tư vấn
SV: Nguyễn Ngọc Dũng Lớp: CQ47/17.02
20
21
Luận văn tốt nghiệp Học viện Tài chính
- Tư vấn cho người phát hành: Hoạt động tư vấn cho người phát hành
tương đối đa dạng, từ việc phân tích tình hình tài chính đến định giá doanh
nghiệp, tư vấn về cơ cấu vốn, cổ phần hoá, hay thâu tóm sáp nhập với công ty
khác, tư vấn về phương án phát hành chứng khoán v.v…
- Tư vấn cho nhà đầu tư: Là hoạt động tư vấn cho nhà đầu tư về thời
gian mua ban, nắm giữ, giá trị của các loại chứng khoán, các diễn biến của thị
trường.
1.1.4.5 Hoạt động quản lí danh mục đầu tư
Trong hoạt động này, các công ty chứng khoán sẽ xây dựng một danh
mục gồm các mã chứng khoán khác nhau, thực hiện theo dõi và tiến hành
điều chỉnh các mã chúng khoán trong danh mục sao cho đáp ứng tốt nhất mục
tiêu của nhà đầu tư.
Với mỗi nhà đầu tư khác nhau lại có những mục tiêu không giống nhau
nhưng nhìn chung luôn phải cân nhắc những vấn đề như rủi ro, lợi suất đầu
tư, thời hạn đầu tư. Có nhà đầu tư đat vấn đề rủi ro cao hơn lợi suât đầu tư nên
họ sẽ đặt ra mục tiêu tối đa hóa lợi suất tương ứng với mức rủi ro có thể chấp
nhận. Có những nhà đầu tư họ coi trọng tỉ suất hơn rủi ro nên họ sẽ đặt nục
tiêu tối thiểu hóa rủi ro ứng với mức lợi suất nhất định. Quản lí danh mục đầu
tư tốt sẽ giúp các nhà đầu tư đạt được những mục tiêu đó.
1.1.4.6 Các hoạt động phụ trợ khác
* Lưu ký chứng khoán
Là việc lưu giữ, bảo quản chứng khoán của khách hàng và giúp khách
hàng thực hiện các quyền của mình đối với chứng khoán thông qua các tài
khoản lưu ký chứng khoán. Đây là quy định bắt buộc trong giao dịch chứng
SV: Nguyễn Ngọc Dũng Lớp: CQ47/17.02
21
22
Luận văn tốt nghiệp Học viện Tài chính
khoán, bởi vì giao dịch chứng khoán trên thị trường tập trung được thực hiện
dưới hình thức giao dịch ghi sổ. Khách hàng phải mở tài khoản lưu ký chứng
khoán tại các CTCK nếu các chứng khoán phát hành dưới hình thức ghi sổ
hoặc ký gửi các chứng khoán nếu chúng được phát hành dưới hình thức
chứng chỉ vật chất.
* Quản lý thu nhập của khách hàng
Xuất phát từ việc lưu ký chứng khoán cho khách hàng, CTCK sẽ theo
dõi tình hình thu lãi, cổ tức của chứng khoán và đứng ra làm dịch vụ thu nhận
và chi trả cổ tức cho khách hàng thông qua tài khoản của khách hàng
* Nghiệp vụ tín dụng
Đây là hoạt động thông dụng tại các thị trường chứng khoán phát triển.
Ở Việt Nam, hoạt động cho vay ký quỹ đã được áp dụng trong nhiều công ty
chứng khoán.
1.1.5 Vai trò của công ty chứng khoán trên thị trường chứng khoán
Khi doanh nghiệp muốn huy động vốn bằng việc phát hành chứng
khoán, nhà đầu tư muốn mua bán chứng khoán thì họ không thể tự tổ chức
mua bán vì họ không có chuyên môn, không thông hiểu các quy tắc nghề
nghiệp và với số đông các nhà đầu tư thì việc mua bán sẽ trở nên lộn xộn. Các
công ty chứng khoán với nghiệp vụ chuyên môn, kinh nghiệm nghề nghiệp và
bộ máy tổ chức thích hợp, họ sẽ là người trung gian mua bán chứng khoán,
bảo lãnh phát hành chứng khoán, tư vấn đầu tư và thực hiện một số dịch vụ
khác cho cả người đầu tư và người phát hành. Vai trò của công ty chứng
khoán được thể hiện thông qua một số nội dung như huy động vốn hình thành
giá cả chứng khoán, thực thi tính hoán tệ, tư vấn đầu tư và tạo ra sản phẩm
mới.
SV: Nguyễn Ngọc Dũng Lớp: CQ47/17.02
22
23
Luận văn tốt nghiệp Học viện Tài chính
1.1.5.1 Vai trò huy động vốn
Công ty chứng khoán là chủ thể hoạt động trên thị trường chứng khoán
– một bộ phận của thị trường vốn. Do đó công ty chứng khoán là một trong
những trung gian tài chính có chức năng huy động vốn thông qua hoạt động
của mình đã góp phần phân phối nguồn vốn từ một bộ phận vốn dư thừa của
nền kinh tế (vốn của các nhà đầu tư, tổ chức tài chính) đến các bộ phận khác
đang thiếu vốn của nền kinh tế (các doanh nghiệp). Công ty chứng khoán
thường đảm nhiệm vai trò này thông qua hoạt động bảo lãnh phát hành và môi
giới chứng khoán.
1.1.5.2 Vai trò hình thành giá cả chứng khoán
Trên thị trường sơ cấp, khi thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh phát hành
chứng khoán cho các tổ chức phát hành, công ty chứng khoán thực hiện vai
trò hình thành giá cả chứng khoán thông qua việc xác định và tư vấn cho tổ
chức phát hành mức giá phát hành hợp lý đối với các chứng khoán trong đợt
phát hành.
Trên thị trường thứ cấp, công ty chứng khoán luôn có vai trò giúp các
nhà đầu tư đánh giá đúng thực tế và chính xác về giá trị các khoản đầu tư của
mình. Từ đó góp phần làm hình thành giá cả chứng khoán trên thị trường.
Theo quy định của nhà nước, công ty chứng khoán còn có vai trò quan
trọng là can thiệp thị trường, điều tiết giá cả chứng khoán. Công ty chứng
khoán bắt buộc phải dành ra một tỷ lệ nhất định của mình để mua chứng
khoán vào khi giá chứng khoán trên thị trường đang giảm và bán ra khi thị
trường chứng khoán cao.
SV: Nguyễn Ngọc Dũng Lớp: CQ47/17.02
23
24
Luận văn tốt nghiệp Học viện Tài chính
1.1.5.3 Vai trò thực thi tính hoán tệ chứng khoán
Các nhà đầu tư luôn muốn có được khả năng chuyển đổi chứng khoán
thành tiền mặt và tiền mặt thành chứng khoán trong môi trường đầu tư ổn
định. Công ty chứng khoán đảm nhận được chức năng chuyển đổi này, giúp
cho nhà đầu tư ít phải chịu thiệt hại nhất khi tiến hành đầu tư.
1.1.5.4 Thực hiện tư vấn đầu tư
Các nhà đầu tư luôn muốn có được khả năng chuyển đổi chứng khoán
thành tiền mặt và tiền mặt thành chứng khoán trong môi trường đầu tư ổn
định. Công ty chứng khoán đảm nhận được chức năng chuyển đổi này, giúp
cho nhà đầu tư ít phải chịu thiệt hại nhất khi tiến hành đầu tư.
1.2 Cạnh tranh và năng lực cạnh tranh của công ty chứng khoán
1.2.1 Khái niệm về cạnh tranh
Thuật ngữ “Cạnh tranh” được sử dụng rất phổ biến hiện nay trong
nhiều lĩnh vực và được sự quan tâm của nhiều đối tượng, từ nhiều góc độ
khác nhau, dẫn đến có rất nhiều khái niệm khác nhau về “cạnh tranh”, cụ thể
như sau:
Tiếp cận ở góc độ đơn giản, mang tính tổng quát thì cạnh tranh là hành
động ganh đua, đấu tranh chống lại các cá nhân hay các nhóm, các loài vì mục
đích giành được sự tồn tại, sống còn, giành được lợi nhuận, địa vị, sự kiêu
hãnh, các phần thưởng hay những thứ khác.
Trong kinh tế chính trị học, cạnh tranh là sự ganh đua về kinh tế giữa
những chủ thể trong nền sản xuất hàng hóa nhằm giành giật những điều kiện
thuận lợi trong sản xuất, tiêu thụ hoặc tiêu dùng hàng hóa để từ đó thu được
nhiều lợi ích nhất cho mình. Cạnh tranh có thể xảy ra giữa những người sản
SV: Nguyễn Ngọc Dũng Lớp: CQ47/17.02
24
25
Luận văn tốt nghiệp Học viện Tài chính
xuất với người tiêu dùng (người sản xuất muốn bán đắt, người tiêu dùng
muốn mua rẻ); giữa người tiêu dùng với nhau để mua được hàng rẻ hơn; giữa
những người sản xuất để có những điều kiện tốt hơn trong sản xuất và tiêu
thụ.
Có quan điểm lại cho rằng: Cạnh tranh là giành lấy thị phần. Bản chất
của cạnh tranh là tìm kiếm lợi nhuận, là khoản lợi nhuận cao hơn mức lợi
nhuận trung bình mà doanh nghiệp đang có. Kết quả quá trình cạnh tranh là
sự bình quân hóa lợi nhuận trong ngành theo chiều hướng cải thiện sâu dẫn
đến hệ quả giá cả có thể giảm đi.
Cạnh tranh không phải là “chiến tranh” cũng không phải là “hòa bình”.
Cạnh tranh không còn là những động thái của tình huống, không phải chỉ là
những hành động mang tính thời điểm mà là cả tiến trình tiếp diễn không
ngừng, khi đó các doanh nghiệp đều phải đua nhau để phục vụ khách hàng tốt
nhất thì điều đó có nghĩa là không có giá trị gia tăng nào có thể giữ nguyên và
tồn tại vĩnh viễn mà có sự biến đổi mới lạ.
Từ những quan điểm trên, có thể hiểu cạnh tranh trong doanh nghiệp qua
khái niệm tổng quát sau: “Cạnh tranh giữa các doanh nghiệp là sự ganh đua
về kinh tế giữa các doanh nghiệp cùng ngành, cùng thị trường trong việc
giành lấy thị phần nhằm mục đích cuối cùng là gia tăng lợi nhuận. Cạnh tranh
là một quá trình diễn ra liên tục nhằm mang đến một chất lượng phục vụ tốt
nhất cho khách hàng và nâng cao thương hiệu của của đơn vị”.
1.2.2 Năng lực cạnh tranh của công ty chứng khoán
1.2.2.1 Khái niệm năng lực cạnh tranh
Năng lực cạnh tranh là năng lực tồn tại trong kinh doanh và đạt được một
số kết quả mong muốn dưới dạng lợi nhuận, giá cả, lợi tức hoặc chất lượng
SV: Nguyễn Ngọc Dũng Lớp: CQ47/17.02
25