Tải bản đầy đủ (.docx) (74 trang)

giải pháp tăng cường giám sát hoạt động các công ty chứng khoán trên thị trường chứng khoán việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (425.19 KB, 74 trang )

MỤC LỤC
2
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của luận văn
Để hình thành và phát triển thị trường chứng khoán có hiệu quả, một yếu
tố không thể thiếu được là các chủ thể kinh doanh trên thị trường chứng
khoán. Mục tiêu của việc hình thành thị trường chứng khoán là thu hút vốn
đầu tư dài hạn cho việc phát triển kinh tế và tạo ra tính thanh khoản cho các
loại chứng khoán. Do vậy, để thúc đẩy thị trường chứng khoán hoạt động một
cách có trật tự, công bằng và hiệu quả cần phải có sự ra đời của các công ty
chứng khoán. Các công ty chứng khoán là tác nhân quan trọng thúc đẩy sự
phát triển của nền kinh tế nói chung và của thị trường chứng khoán nói riêng.
Việc thành lập, đi vào hoạt động và ngày càng phát triển của các công ty
chứng khoán là một tất yếu khách quan. Hoạt động của các công ty chứng
khoán có tác động và ảnh hưởng lớn tới sự phát triển lành mạnh và ổn định thị
trường.
Kinh nghiệm các nước cho thấy, việc hoạt động lành mạnh và có hiệu
quả của các công ty chứng khoán là một trong những yếu tố quan trọng thúc
đẩy sự phát triển của thị trường chứng khoán, đồng thời việc giám sát đánh
giá hoạt động công ty chứng khoán thuộc về trách nhiệm của cơ quan quản lý
nhà nước.
Trong thời gian qua, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước đã thực hiện giám
sát và đánh giá hoạt động các công ty chứng khoán nhưng công tác này còn
mang nặng tính thủ công và việc đánh giá chỉ dừng lại ở các chỉ tiêu mang
tính định lượng. Việc đánh giá này chưa có tính thống nhất và chủ yếu dựa
trên cơ sở báo cáo tài chính của các công ty chứng khoán.
Với điều kiện và tình hình phát triển của thị trường chứng khoán như
hiện nay, việc áp dụng các phương pháp đánh giá có tính chất định lượng
không đáp ứng đầy đủ yêu cầu về quản lý cũng như chưa đáp ứng được đòi
hỏi cấp bách về tính lành mạnh, minh bạch trong báo cáo tài chính của các tổ
chức trung gian trên thị trường.


3
Xuất phát từ các lý do trên, em đã nghiên cứu và lựa chọn thực hiện đề
tài “Giải pháp tăng cường giám sát hoạt động các công ty chứng khoán
trên thị trường chứng khoán Việt Nam”.
2. Mục đích nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu cơ sở lý luận chung về công ty chứng khoán và giám
sát hoạt động của công ty chứng khoán từ phía Nhà nước. Trên cơ sở những
nghiên cứu đó, đề tài phân tích thực trạng hoạt động giám sát của Ủy ban
Chứng khoán Nhà nước đối với các công ty chứng khoán tại Việt Nam hiện
nay nhằm tìm ra những tồn tại và nguyên nhân, qua đó đề xuất một số giải
pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện hoạt động giám sát các công ty chứng
khoán tại Việt Nam.
3. Đối tượng, phạm vi và phương pháp nghiên cứu
Đề tài lấy hoạt động công ty chứng khoán và việc giám sát của Ủy ban
Chứng khoán Nhà nước đối với hoạt động của các công ty chứng khoán tại
Việt Nam trong các năm 2009, 2011 và 6 tháng đầu năm 2012 làm đối tượng
nghiên cứu.
Phạm vi nghiên cứu giới hạn ở một số vấn đề lý luận, thực tiễn có liên
quan trực tiếp đến công ty chứng khoán và việc giám sát của Ủy ban Chứng
khoán đối với hoạt động của các công ty chứng khoán.
Phương pháp nghiên cứu của đề tài là sử dụng các phương pháp nghiên
cứu khoa học để phân tích lý luận, giải quyết thực tiễn như phương pháp đối
chiếu so sánh, phương pháp phân tích hoạt động kinh tế và vận dụng các
phương pháp tổng hợp, kết hợp lý luận với thực tiễn, đồng thời đưa ra hệ
thống các biện pháp nhằm tăng cường giám sát hoạt động các công ty chứng
khoán trên thị trường chứng khoán Việt Nam.
4. Kết cấu của luận văn
4
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được kết cầu gồm 3 chương
như sau:

- Chương 1: Công ty chứng khoán và giám sát hoạt động công ty chứng khoán.
- Chương 2: Thực trạng hoạt động giám sát đối với các công ty chứng khoán ở
Việt Nam trong những năm qua.
- Chương 3: Một số giải pháp tăng cường hoạt động giám sát các công ty chứng
khoán trên thị trường chứng khoán Việt Nam.
5
CHƯƠNG 1: CÔNG TY CHỨNG KHOÁN VÀ GIÁM SÁT HOẠT ĐỘNG
CÔNG TY CHỨNG KHOÁN
1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CÔNG TY CHỨNG KHOÁN
1.1.1. Khái niệm
Công ty chứng khoán là tổ chức có tư cách pháp nhân hoạt động kinh
doanh trong lĩnh vực chứng khoán, bao gồm một, một số hoặc toàn bộ các
hoạt động: môi giới chứng khoán, tự doanh chứng khoán, bảo lãnh phát hành
chứng khoán, tư vấn đầu tư chứng khoán với mục đích tìm kiếm lợi nhuận.
Về cơ bản, để được thành lập và hoạt động, công ty chứng khoán phải đáp
ứng các điều kiện sau:
- Điều kiện về trụ sở: Do đặc trưng của hoạt động kinh doanh chứng
khoán và đảm bảo hiệu quả hoạt động của công ty chứng khoán, công ty
chứng khoán phải đáp ứng các quy định về địa điểm kinh doanh cố định và có
thiết bị giao dịch đủ tiêu chuẩn.
- Điều kiện về vốn: Công ty chứng khoán phải có mức vốn điều lệ tối
thiểu bằng vốn pháp định. Vốn pháp định thường được quy định cụ thể cho
từng loại hình nghiệp vụ và một công ty chứng khoán tham gia thực hiện càng
nhiều nghiệp vụ thì càng yêu cầu có nhiều vốn.
- Điều kiện về nhân sự: Những người quản lý hay nhân viên của công ty
chứng khoán phải có đầy đủ kiến thức, kinh nghiệm cũng như độ tín nhiệm và
tính trung thực. Thông thường, tất cả các nước đều yêu cầu nhân viên của
công ty chứng khoán phải có giấp phép hành nghề.
1.1.2. Mô hình tổ chức
Hiện nay trên thế giới tồn tại hai mô hình tổ chức của công ty chứng

khoán là mô hình công ty chứng khoán đa năng và mô hình công ty chứng
khoán chuyên doanh.
6
* Mô hình công ty chứng khoán đa năng
Theo mô hình công ty đa năng, công ty chứng khoán là một bộ phận cấu
thành của ngân hàng thương mại. Hay nói cách khác, ngân hàng thương mại
kinh doanh trên cả hai lĩnh vực là tiền tệ và chứng khoán, bảo hiểm.
Ngân hàng thương mại là những công ty có số vốn khổng lồ và sẵn sàng
gia nhập những ngành có lợi nhuận cao. Với lợi thế về kinh nghiệm, vốn và
chuyên môn, ngân hàng thương mại sẽ dễ dàng trong kinh doanh, cung ứng
những dịch vụ tài chính đa dạng phong phú liên quan đến tài chính tiền tệ,
kinh doanh chứng khoán và các hoạt động khác trong lĩnh vực tài chính.
Mô hình công ty chứng khoán đa năng có ưu điểm là có thể giảm bớt
được rủi ro hoạt động kinh doanh chung, khả năng chịu đựng các biến động
của TTCK là cao. Mặt khác, ngân hàng tận dụng được các thế mạnh về vốn
để kinh doanh chứng khoán, khách hàng có thể sử dụng được nhiều dịch vụ
đa dạng và lâu năm của ngân hàng. Tuy nhiên, mô hình này cũng bộc lộ một
số hạn chế như không phát triển được thị trường cổ phiếu vì các ngân hàng có
xu hướng bảo thủ và thích hoạt động cho vay hơn là bảo lãnh phát hành cổ
phiếu, trái phiếu. Đồng thời các ngân hàng cũng rất dễ gây lũng đoạn thị
trường, và các biến động trên thị trường chứng khoán, nếu có, sẽ ảnh hưởng
mạnh đến hoạt động kinh doanh tiền tệ của ngân hàng do không tách bạch
giữa hai loại hình kinh doanh này.
7
HÌNH 1.1: MÔ HÌNH CTCK ĐA NĂNG HOÀN TOÀN
Tại Việt Nam, do quy mô các ngân hàng thương mại nói chung là rất nhỏ
bé, và đặc biệt vốn dài hạn rất thấp, hoạt động của các ngân hàng thương mại
Việt Nam chủ yếu trong lĩnh vực thương mại ngắn hạn, trong khi hoạt động
của TTCK thuộc lĩnh vực vốn dài hạn. Khả năng khắc phục những yếu điểm
này của ngân hàng Việt Nam còn rất lâu dài. Do đó, để bảo vệ an toàn cho các

ngân hàng, Nghị định 144/CP về chứng khoán và TTCK quy định các ngân
hàng thương mại muốn kinh doanh chứng khoán phải tách ra một phần vốn tự
có của mình thành lập một công ty chứng khoán chuyên doanh trực thuộc,
hạch toán độc lập với ngân hàng.
* Mô hình công ty chứng khoán chuyên doanh
Theo mô hình này, hoạt động kinh doanh chứng khoán sẽ do các công ty
chứng khoán độc lập, chuyên môn hoá trong lĩnh vực chứng khoán đảm nhận,
các ngân hàng không được tham gia kinh doanh chứng khoán. Mô hình này
giúp hạn chế rủi ro cho các ngân hàng và các tổ chức tài chính trên thị trường,
tạo điều kiện cho TTCK phát triển do tính chuyên môn hóa cao hơn.
8
HÌNH 1.2: MÔ HÌNH CTCK CHUYÊN DOANH
1.1.3. Các nguyên tắc trong hoạt động kinh doanh chứng khoán của
CTCK.
Hoạt động kinh doanh chứng khoán dựa trên hai nhóm nguyên tắc cơ
bản đó là nguyên tắc tài chính và nguyên tắc đạo đức.
1.1.3.1. Nguyên tắc tài chính
Do tính đặc thù trong hoạt động nên hầu hết các nước đều đặt ra những
nguyên tắc, quy định rất chặt chẽ về tài chính đối với các tổ chức kinh doanh
chứng khoán. Thông thường, các tổ chức này phải đảm bảo tuân thủ các tiêu
chí sau:
9
- Mức vốn hoạt động: Vốn của một tổ chức kinh doanh chứng khoán nhiều hay
ít phụ thuộc vào loại tài sản cần tài trợ, loại tài sản này lại được quyết định
bởi loại hình nghiệp vụ thực hiện. Chẳng hạn, bảo lãnh phát hành chứng
khoán là hình thức kinh doanh mà tổ chức kinh doanh cần có tiềm lực tài
chính mạnh, có nhiều vốn, nhất là trường hợp tổ chức kinh doanh chứng
khoán đứng ra bảo lãnh những đợt phát hành lớn. Vì vậy nghiệp vụ bảo lãnh
đòi hỏi vốn phải đủ lớn. Đối với hoạt động tự doanh cũng phải duy trì số
lượng lớn các chứng khoán để thực hiện việc mua vào bán ra, trong khi giá

các chứng khoán luôn biến động. Còn các hoạt động môi giới, tư vấn tài
chính, tư vấn đầu tư chứng khoán,… do đặc điểm của các hoạt động này nên
không cần vốn lớn.
Do kinh doanh chứng khoán là kinh doanh trong lĩnh vực đặc biệt, có
ảnh hưởng đến lợi ích của công chúng đầu tư nên sự tồn tại ổn định, lâu dài
của tổ chức kinh doanh chứng khoán và sức mạnh tài chính của các tổ chức
này trong một môi trường dễ biến động cần phải được đảm bảo. Chính vì vậy
pháp luật nhiều nước vẫn quy định điều kiện về mức vốn đối với các tổ chức
kinh doanh chứng khoán. Vốn pháp định của tổ chức kinh doanh chứng khoán
thường được quy định cụ thể cho từng loại hình kinh doanh. Một tổ chức kinh
doanh chứng khoán càng tham gia vào nhiều loại hình thì càng cần phải có
nhiều vốn. Trên cơ sở các yếu tố khác nhau như quy mô thị trường, giao dịch
dự kiến, khả năng tài chính của các tổ chức tham gia thị trường mỗi quốc gia
khác nhau có các quy định khác nhau về mức vốn pháp định đối với các chủ
thể kinh doanh chứng khoán. Ở Việt Nam, các công ty chứng khoán muốn
tham gia bốn loại hình kinh doanh: môi giới chứng khoán, tư vấn đầu tư
chứng khoán, bảo lãnh phát hành chứng khoán, tư vấn đầu tư chứng khoán
phải có vốn điều lệ tối thiểu là 300 tỷ đồng.
- Cơ cấu vốn: Cũng như các tổ chức kinh doanh khác việc huy động vốn của tổ
chức kinh doanh chứng khoán được thực hiện thông qua việc nhận vốn góp từ
các cổ đông (trường hợp công ty cổ phần) hoặc huy động vốn từ bên ngoài,
10
tùy theo quy mô và tính chất của nó. Tổ chức kinh doanh chứng khoán là
công ty trách nhiệm hữu hạn phải dựa vào vốn của các thành viên, vào các
khoản vay của ngân hàng hoặc thỏa thuận cho thuê khác. Việc huy động các
nguồn vốn và cơ cấu vốn của các chủ thể kinh doanh chứng khoán có một số
đặc điểm sau:
+ Tổ chức kinh doanh chứng khoán phụ thuộc nhiều vào các khoản vay
ngắn hạn.
+ Chứng khoán có thể mua bán, trao đổi trên thị trường thường chiếm

phần lớn trong tổng giá trị tài sản (khoảng 40-60%) và tổng giá trị cổ phiếu
(khoảng 90%).
+ Tỷ lệ tổng nợ trên tổng tài sản ròng phải duy trì ở mức độ nhất định.
Như ở Hàn Quốc, tổng các khoản nợ không được phép quá 5 lần tổng tài sản
ròng, ở Mỹ là không quá 15 lần.
- Quản lý vốn và hạn mức kinh doanh: Bên cạnh việc đáp ứng các tiêu chí về
mức vốn hoạt động, cơ cấu vốn, tổ chức kinh doanh chứng khoán còn phải
tuân thủ các nguyên tắc về việc sử dụng vốn và các hạn mức trong kinh
doanh. Các nguyên tắc này khác nhau tùy theo đặc điểm của từng nghiệp vụ
mà các tổ chức kinh doanh chứng khoán thực hiện. Nhìn chung các nguyên
tắc về sử dụng vốn mà pháp luật đặt ra đối với các tổ chức kinh doanh chứng
khoán thường bao gồm: cơ cấu vốn (tỷ lệ nợ so với vốn chủ sở hữu), mức vốn
khả dụng phải duy trì, trích lập quỹ bù đắp rủi ro, quỹ dự trữ bổ sung vốn điều
lệ,…
Đối với việc quản lý hạn mức kinh doanh, tùy theo từng nước mà có các
quy định khác nhau, thông thường các nước quy định một số hạn mức sau để
hạn chế rủi ro đối với tổ chức kinh doanh chứng khoán cũng như đảm bảo hạn
chế các xung đột lợi ích có thể xảy ra:
+ Hạn chế mức mua sắm tài sản cố định theo một tỷ lệ phần trăm trên
vốn điều lệ.
11
+ Hạn mức đầu tư vào mỗi loại chứng khoán: thường hạn mức đầu tư
vào các loại chứng khoán niêm yết được đặt cao hơn hạn mức đầu tư vào các
loại chứng khoán không niêm yết.
+ Hạn mức đầu tư vào một số những tài sản rủi ro cao như các loại trái
phiếu có định mức tín nhiệm thấp hay cổ phiếu của những công ty đang phát
triển.
+ Hạn mức bảo lãnh phát hành: vì hoạt động bảo lãnh có mức rủi ro
tương đối cao nên quy định hạn mức này nhằm giới hạn tổng mức bảo lãnh
trong cùng thời điểm của một tổ chức kinh doanh chứng khoán.

+ Hạn mức hoặc hạn chế đầu tư vào các quỹ đầu tư do tổ chức kinh
doanh chứng khoán quản lý.
Ngoài ra, còn có thể đặt thêm những hạn mức khác cho các tổ chức kinh
doanh chứng khoán như hạn mức đầu tư vào các công ty trong cùng một tập
đoàn, trong cùng một ngành nghề,…
Trong quản lý vốn của tổ chức kinh doanh chứng khoán ngoài việc xác
định tỷ lệ nợ, các tổ chức kinh doanh chứng khoán còn phải duy trì một mức
vốn khả dụng để đảm bảo khả năng thanh toán cho người đầu tư.
1.1.3.2. Nguyên tắc đạo đức
Các chủ thể kinh doanh chứng khoán phải tuân thủ các nguyên tắc đạo
đức sau:
- Tổ chức kinh doanh chứng khoán phải hoạt động trên nguyên tắc trung thực,
tận tụy, bảo vệ và vì quyền lợi, lợi ích hợp pháp của khách hàng, ưu tiên bảo
vệ lợi ích của khách hàng trước lợi ích của chính mình.
- Tổ chức kinh doanh chứng khoán có nghĩa vụ bảo mật cho khách hàng và chỉ
được tiết lộ thông tin của khách hàng trong trường hợp cơ quan nhà nước có
thẩm quyền yêu cầu.
- Tổ chức kinh doanh chứng khoán phải giữ nguyên tắc giao dịch công bằng,
không được sử dụng bất kì hành động lừa đảo phi pháp nào, có trách nhiệm
thông báo cho khách hàng biết đầy đủ các thông tin khi có những trường hợp
có thể xảy ra xung đột lợi ích.
12
- Tổ chức kinh doanh chứng khoán không được dùng tiền của khách hàng làm
nguồn tài chính để kinh doanh, ngoại trừ trường hợp số tiền đó dùng phục vụ
cho giao dịch của khách hàng.
- Tổ chức kinh doanh chứng khoán phải quản lý tách biệt tài sản của khách
hàng với tài sản của mình và tài sản của khách hàng với nhau.
- Khi thực hiện nghiệp vụ tư vấn, tổ chức kinh doanh chứng khoán phải cung
cấp thông tin đầy đủ cho khách hàng và giải thích rõ ràng về các rủi ro mà
khách hàng có thể phải gánh chịu, đồng thời không được khẳng định về lợi

nhuận của các khoản đầu tư mà họ tư vấn.
- Tổ chức kinh doanh chứng khoán không được phép nhận bất cứ khoản thù lao
nào ngoài các khoản thù lao thông thường cho dịch vụ của mình.
Ngoài các quy định trên pháp luật các nước cũng có các điều khoản
chống thao túng thị trường như hạn chế sự hợp tác giữa các tổ chức kinh
doanh chứng khoán, cấm giao dịch mua bán giả tạo và khớp lệnh với mục
đích tạo ra một trạng thái giao dịch tích cực bề ngoài. Các tổ chức kinh doanh
chứng khoán cũng không được đưa ra những lời đồn đại, gian lận, sử dụng
hoặc dùng các hành vi lừa đảo khác trong giao dịch chứng khoán.
Bên cạnh các quy định về thao túng thị trường, giao dịch nội gián cũng
là vấn đề được quản lý khá chặt chẽ. Theo đó tổ chức kinh doanh chứng
khoán không được phép sử dụng các thông tin nội bộ mà mình có được để
mua bán chứng khoán cho chính mình, gây thiệt hại đến lợi ích của khách
hàng.
1.1.4. Các hoạt động kinh doanh của CTCK
Tùy đặc điểm hệ thống tài chính từng nước, các loại hình kinh doanh
dịch vụ của các công ty chứng khoán cũng có một số nét khác nhau. Các công
ty chứng khoán có thể là những công ty chuyên một loại hình nghiệp vụ hoặc
là những công ty đa dịch vụ hoạt động trên nhiều lĩnh vực kinh doanh chứng
khoán. Tuy nhiên, nhìn chung, hoạt động chính của các công ty chứng khoán
13
là môi giới chứng khoán, tự doanh chứng khoán, bảo lãnh phát hành chứng
khoán và tư vấn đầu tư chứng khoán. Theo thời gian, do đòi hỏi của thị
trường và nhu cầu phát triển của bản thân các công ty chứng khoán, xuất hiện
ngày càng nhiều các nghiệp vụ phát sinh như cho vay ký quỹ, tư vấn tài chính
cá nhân… Đồng thời, các công ty chứng khoán ngày nay còn hoạt động tích
cực trên cả các lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm và ngân hàng.
1.1.4.1. Hoạt động môi giới chứng khoán
Môi giới chứng khoán là một hoạt động kinh doanh chứng khoán trong
đó, công ty chứng khoán đại diện cho khách hàng (người mua/người bán) tiến

hành giao dịch thông qua cơ chế giao dịch tại Sở Giao dịch chứng khoán hay
thị trường OTC mà chính khách hàng phải chịu trách nhiệm đối với kết quả
kinh tế của việc giao dịch đó.
Có thể nói, môi giới là một trong những nghiệp vụ quan trọng của các
công ty chứng khoán. Bên cạnh việc đem lại một phần lớn thu nhập cho các
công ty chứng khoán, hoạt động môi giới còn tạo ra một cơ sở khách hàng
quan trọng cho các công ty chứng khoán khi thực hiện phân phối các loại
chứng khoán mới phát hành trong các đợt bảo lãnh phát hành.
Chức năng của hoạt động này bao gồm:
- Thực hiện giao dịch mua bán chứng khoán cho khách hàng bằng việc
nhận lệnh của khách hàng và thông qua cơ chế giao dịch của Sở giao dịch
chứng khoán để tìm ra mức giá tốt nhất cho khách hàng và khách hàng phải
chịu trách nhiệm hoàn toàn về kết quả đầu tư.
- Cung cấp dịch vụ tiện ích giúp khách hàng thực hiện các quyết định của
mình như tư vấn đầu tư trực tiếp cho khách hàng, giúp khách hàng lựa chọn
loại chứng khoán, thời điểm nên mua/bán; cung cấp các báo cáo giao dịch có
nghiên cứu, phân tích, đánh giá diễn biến giao dịch theo thời gian đưa ra nhận
định mang tính chủ quan về xu hướng giá và khuyến nghị đầu tư; cung cấp
thông tin về các tổ chức niêm yết…
14
Trong hoạt động môi giới, công ty chứng khoán phải tuân thủ nguyên tắc
minh bạch, công khai và tận tụy với khách hàng, vì quyền lợi của khách hàng.
Đồng thời, không được đưa ra ý kiến tư vấn mang tính chất khẳng định về
tiềm năng lợi nhuận hoặc phao tin đồn nhằm thu hút khách hàng vào các mục
đích riêng.
1.1.4.2. Hoạt động tự doanh chứng khoán
Tự doanh chứng khoán là việc công ty chứng khoán tự tiến hành giao
dịch mua bán các chứng khoán cho chính mình.
Hoạt động tự doanh của công ty chứng khoán có thể được thực hiện trên
thị trường giao dịch tập trung (Sở giao dịch chứng khoán) hoặc trên thị trường

OTC, … Trên thị trường giao dịch tập trung lệnh giao dịch của công ty chứng
khoán được đưa vào hệ thống và được thực hiện tương tự như lệnh giao dịch
của khách hàng. Trên thị trường OTC, các hoạt động này có thể được thực
hiện trực tiếp giữa một tổ chức với các đối tác hoặc thông qua một hệ thống
mạng thông tin. Trong hoạt động này, công ty chứng khoán cũng là một nhà
đầu tư trên thị trường chứng khoán như các nhà đầu tư khác. Các rủi ro phát
sinh từ hoạt động tự doanh do công ty chứng khoán tự gánh chịu. Việc thu
được lãi hay chịu lỗ sẽ phụ thuộc vào chênh lệch giữa giá mua - bán chứng
khoán và biến động chung của giá chứng khoán do họ nắm giữ. Khi thực hiện
hoạt động tự doanh, công ty chứng khoán phải tuân thủ nguyên tắc tách bạch
với các hoạt động khác đặc biệt là hoạt động môi giới. Công ty chứng khoán
không được mua, bán chứng khoán tranh với khách hàng. Để đảm bảo hạn
chế rủi ro, công ty chứng khoán cũng phải tuân thủ một số hạn mức nhất định
khi đầu tư vào các loại chứng khoán. Các hạn chế này thường được cụ thể
trong các văn bản quy phạm pháp luật.
Bên cạnh việc mang lại lợi nhuận cho công ty chứng khoán, hoạt động tự
doanh của công ty chứng khoán còn có nghĩa vụ bình ổn thị trường trong một
số trường hợp cần thiết, đặc biệt đối với hình thức tạo lập thị trường. Với khả
năng chuyên môn và nguồn vốn tương đối lớn của mình, công ty chứng khoán
15
có thể thông qua hoạt động tự doanh góp phần rất lớn trong việc điều tiết
cung cầu, bình ổn giá cả của các loại chứng khoán trên thị trường. Thông
thường, chức năng bình ổn giá cả thị trường không phải là quy định bắt buộc
trong hệ thống pháp luật của các nước, tuy nhiên đây thường là nguyên tắc
nghề nghiệp do hiệp hội kinh doanh chứng khoán đặt ra trên thị trường và
trong quá trình hoạt động công ty chứng khoán phải tuân thủ.
1.1.4.3. Hoạt động bảo lãnh phát hành
Bảo lãnh phát hành chứng khoán là việc tổ chức bảo lãnh giúp tổ chức
phát hành (tổ chức được bảo lãnh) huy động vốn trên thị trường. Sự hỗ trợ đó
giúp đơn vị phát hành nắm chắc khả năng huy động vốn và đảm bảo kế hoạch

sử dụng vốn huy động.
Bảo lãnh phát hành là nghiệp vụ quan trọng của công ty chứng khoán, có
thể nói đây là một trong những hoạt động mang lại nguồn thu nhập và cơ sở
khách hàng lớn nhất cho công ty chứng khoán. Thông thường, khi thực hiện
bảo lãnh phát hành, công ty chứng khoán sẽ áp dụng một trong ba hình thức
bảo lãnh sau:
* Bảo lãnh chắc chắn: là hình thức bảo lãnh mà công ty chứng khoán (tổ chức
bảo lãnh phát hành) nhận mua toàn bộ chứng khoán trong đợt phát hành của
tổ chức phát hành, sau đó bán chứng khoán ra công chúng. Giá mua của tổ
chức bảo lãnh là một mức giá đã được ấn định, thường thấp hơn giá thị
trường. Giá bán của tổ chức bảo lãnh là giá thị trường. Đây là hình thức tổ
chức bảo lãnh hoạt động kinh doanh, hoạt động cho chính họ và gánh toàn bộ
rủi ro của đợt phát hành.
* Bảo lãnh cố gắng tối đa: là hình thức bảo lãnh mà tổ chức bảo lãnh hứa sẽ cố
gắng đến mức tối đa để bán hết số chứng khoán cần phát hành cho tổ chức
phát hành. Trường hợp không bán hết, số chứng khoán còn lại được trả về cho
tổ chức phát hành. Tổ chức bảo lãnh được hưởng hoa hồng trên số chứng
khoán đã được bán ra.
16
* Bảo lãnh đảm bảo tất cả hoặc không: là trường hợp áp dụng khi tổ chức phát
hành chứng khoán cần một số vốn nhất định để giải quyết một mục tiêu nhất
định. Nếu huy động được đủ số vốn cần thiết đó thì sẽ thực hiện phát hành,
nếu không đủ sẽ hủy bỏ. Cũng có thể, để cho việc chào bán có hiệu quả, nhẹ
nhàng hơn trong trách nhiệm của tổ chức bảo lãnh, tổ chức phát hành yêu cầu
phải phát hành được một số lượng chứng khoán tối thiểu nào đó trong tổng số
chứng khoán cần phát hành, nếu đạt được số tối thiểu này thì số còn lại sẽ
phát hành tiếp, nếu không đạt được số tối thiểu đó sẽ hủy bỏ toàn bộ.
1.1.4.4. Hoạt động tư vấn đầu tư chứng khoán
Khi chúng ta chuẩn bị tiến hành một hoạt động nào đó, nếu như ta không
có chuyên môn hoặc không thành thạo về lĩnh vực đó thì chúng ta có nhu cầu

sử dụng dịch vụ tư vấn của tổ chức, cá nhân tư vấn chuyên nghiệp. Trong lĩnh
vực chứng khoán và thị trường chứng khoán, cũng có dịch vụ tư vấn đầu tư
chứng khoán. Cũng như các hoạt động tư vấn khác, nội dung của hoạt động tư
vấn đầu tư chứng khoán là trên cơ sở thu thập, xử lý thông tin đưa ra những
lời khuyên, phân tích các tình huống hay cung cấp một số công việc có tính
chất dịch vụ cho khách hàng.
Như vậy, hoạt động tư vấn đầu tư chứng khoán có ảnh hưởng rất lớn tới
quyết định đầu tư của người sử dụng dịch vụ tư vấn, do đó khi hành động nhà
tư vấn cần đặt ra và tuân theo một số nguyên tắc nhất định, cụ thể:
- Tuân thủ pháp luật và đạo đức nghề nghiệp.
- Không đảm bảo chắc chắc về giá trị của chứng khoán.
- Luôn nhắc nhở khách hàng rằng những lời tư vấn của mình chỉ mang
tính tham khảo và có thể không hoàn toàn chính xác và khách hàng cần hiểu
rằng nhà tư vấn sẽ không chịu trách nhiệm về những lời tư vấn đó trong một
số trường hợp.
17
- Không được dụ dỗ, mời gọi khách hàng mua hay bán một loại chứng
khoán nào đó, những lời tư vấn phải được xuất phát từ những cơ sở khách
quan, là sự phân tích tổng hợp một cách logic, khoa học.
- Giữ bí mật các thông tin nhận được từ người sử dụng tư vấn trong quá
trình cung ứng dịch vụ tư vấn trừ trường hợp khách hàng đồng ý hoặc một số
trường hợp đặc biệt.
- Mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp.
1.1.4.5. Các hoạt động khác
Ngoài các hoạt động nêu trên, công ty chứng khoán còn thực hiện các
hoạt động tư vấn tài chính, với khả năng chuyên môn của mình, công ty
chứng khoán hỗ trợ khách hàng trong việc lập và thực hiện các kế hoạch tài
chính quan trọng nhằm tối đa hóa lợi ích của doanh nghiệp, đảm bảo đầy đủ
các nguồn lực tài chính cần thiết cho các hoạt động sản xuất kinh doanh cũng
như tái cấu trúc doanh nghiệp để đạt được hiệu quả hoạt động cao nhất cho

doanh nghiệp.
Mặt khác, để tăng cường tiện ích và chất lượng của các dịch vụ cung cấp
cho khách hàng, công ty chứng khoán còn cung cấp dịch vụ khác như lưu ký,
đăng ký chứng khoán, đại lý chuyển nhượng… hoặc kết hợp với các tổ chức
khác như ngân hàng thương mại, công ty tài chính… để cung cấp dịch vụ cho
khách hàng như ứng trước tiền bán chứng khoán, cho vay cầm cố chứng
khoán… Trên thực tế, tất cả các hoạt động kinh doanh, dịch vụ của công ty
chứng khoán đều có những mối quan hệ hữu cơ với nhau, nghiệp vụ này là
tiền đề cho các nghiệp vụ khác phát triển và đồng thời cũng là kết quả, là sự
kế thừa từ thành công của các nghiệp vụ khác. Tất cả các hoạt động này luôn
gắn kết với nhau tạo ra cho công ty chứng khoán có một ưu thế đặc thù, một
khả năng cạnh tranh vượt trội so với các loại hình công ty khác. Xu thế phát
triển nổi bật hiện nay trên thế giới là đang có sự giao thoa, kết hợp của các
18
dịch vụ tài chính. Theo đó, ranh giới giữa các loại hình tổ chức tài chính
truyền thống ngày càng mờ nhạt, thay vào đó, các tổ chức tài chính khổng lồ
với mọi loại hình sản phẩm dịch vụ từ ngân hàng tới chứng khoán, bảo hiểm,
quản lý tài sản đang xuất hiện ngày càng nhiều, tạo cho khách hàng sự lựa
chọn đa dạng, đồng bộ và tiện lợi.
1.1.5. Vai trò công ty chứng khoán trên TTCK
Về cơ bản, công ty chứng khoán là một định chế tài chính trung gian
quan trọng trên thị trường chứng khoán nói riêng và thị trường tài chính nói
chung. Các công ty chứng khoán là nhân tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển
của thị trường chứng khoán. Thông qua đó, CTCK có vai trò thúc đẩy sự phát
triển của cả nền kinh tế. Thực tiễn cho thấy, nền kinh tế của các nước phát
triển và cả nền kinh tế các nước đang phát triển không thể thiếu vắng sự xuất
hiện và ngày càng lớn mạnh của TTCK và hệ thống các CTCK. Thông qua
các nghiệp vụ hoạt động của công ty chứng khoán, CTCK đã thực sự tạo ra
ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự phát triển của TTCK nói riêng và của cả nền kinh
tế nói chung. Công ty chứng khoán đã trở thành tác nhân quan trọng không

thể thiếu trong quá trình phát triển kinh tế. Vai trò của các CTCK thể hiện qua
những khía cạnh chủ yếu sau:
* Vai trò trung gian huy động vốn
Cùng với ngân hàng, công ty chứng khoán là một trung gian tài chính có
vai trò huy động vốn, làm cầu nối, là kênh dẫn vốn từ một hay một số bộ phận
của nền kinh tế có vốn dư thừa (vốn nhàn rỗi) đến các bộ phận khác của nền
kinh tế có nhu cầu về vốn (thiếu vốn, cần huy động vốn) và tham gia hầu hết
vào quá trình luân chuyển của chứng khoán: từ khâu phát hành trên thị trường
sơ cấp đến khâu giao dịch mua bán trên thị trường thứ cấp.
- Trên thị trường sơ cấp:
19
+ Công ty chứng khoán là cầu nối giữa nhà phát hành và nhà đầu tư,
giúp các tổ chức phát hành huy động vốn một cách nhanh chóng thông qua
nghiệp vụ bảo lãnh phát hành.
+ Một doanh nghiệp khi thực hiện huy động vốn bằng cách phát hành
chứng khoán, thường họ không tự bán chứng khoán của mình mà thông qua
một tổ chức chuyên nghiệp tư vấn và giúp họ phát hành chứng khoán. Đó là
các tổ chức trung gian tài chính như ngân hàng, công ty chứng khoán…
+ CTCK với nghiệp vụ chuyên môn, kinh nghiệm nghề nghiệp và bộ
máy tổ chức thích hợp, họ thực hiện tốt vai trò trung gian môi giới mua bán,
phát hành chứng khoán, tư vấn đầu tư và thực hiện một số dịch vụ khác cho
cả người đầu tư và người phát hành. Với nghiệp vụ này, CTCK thực hiện vai
trò làm cầu nối và là kênh dẫn vốn từ nơi thừa đến nơi thiếu.
- Trên thị trường thứ cấp:
Công ty chứng khoán giúp cho người đầu tư tìm đến với nhau, để thỏa
mãn nhu cầu đầu tư hoặc nhu cầu về vốn, tạo sự luân chuyển vốn giữa các
nhà đầu tư.
Công ty chứng khoán là cầu nối giữa các nhà đầu tư, là trung gian
chuyển các khoản đầu tư thành tiền và ngược lại. Trong môi trường đầu tư ổn
định, các nhà đầu tư luôn chuộng những chứng khoán có tính thanh khoản

cao, vì họ luôn có nhu cầu chuyển đổi số vốn tạm thời nhàn rỗi thành các
khoản đầu tư và ngược lại. Công ty chứng khoán với nghiệp vụ môi giới, tư
vấn đầu tư đảm nhận tốt vai trò chuyển đổi này, giúp cho các nhà đầu tư giảm
thiểu thiệt hại về giá trị khoản đầu tư của mình.
* Vai trò góp phần điều tiết và bình ổn giá trên thị trường
Từ sau cuộc khủng hoảng của thị trường chứng khoán thế giới năm
1929, chính phủ các nước đã ban hành những luật lệ bổ sung cho hoạt động
của thị trường chứng khoán, trong đó đòi hỏi một sự phối hợp giữa Nhà nước
20
với các thành viên tham gia Sở giao dịch chứng khoán nhằm ngăn chặn những
cơn khủng hoảng giá chứng khoán có thể xảy ra trên thị trường, vì nếu thị
trường chứng khoán bị khủng hoảng thì không những nền kinh tế bị ảnh
hưởng mà ngay cả quyền lợi nhà đầu tư, các công ty chứng khoán cùng bị ảnh
hưởng.
Theo quy định của các nước, các công ty chứng khoán có nghiệp vụ tự
doanh phải dành ra một tỷ lệ nhất định giao dịch của mình để mua chứng
khoán vào khi giá giảm và bán chứng khoán dự trữ ra khi giá lên quá cao
nhằm góp phần điều tiết và bình ổn giá trên thị trường.
Tất nhiên, sự can thiệp của các công ty chứng khoán chỉ có hạn, phụ
thuộc vào nguồn vốn tự doanh và quỹ dự trữ chứng khoán. Tuy vậy, nó vẫn
có ý nghĩa nhất định, có tác động đến tâm lý của các nhà đầu tư trên thị
trường. Với vai trò này, các CTCK góp phần tích cực vào sự tồn tại và phát
triển bền vững của thị trường chứng khoán.
* Vai trò cung cấp các dịch vụ cho thị trường chứng khoán:
CTCK với các chức năng và nghiệp vụ của mình cung cấp các dịch vụ
cần thiết góp phần cho thị trường chứng khoán hoạt động ổn định, cụ thể:
- Thực hiện tư vấn đầu tư, góp phần giảm chi phí giao dịch cho nhà đầu
tư: thị trường chứng khoán cũng tương tự như tất cả các thị trường khác, để
tiến hành giao dịch, người mua, người bán phải có cơ hội gặp nhau, thẩm định
chất lượng hàng hóa và thỏa thuận giá cả. Tuy nhiên, TTCK với những đặc

trưng riêng của nó như người mua người bán có thể ở rất xa nhau, hàng hóa là
“vô hình”, vì vậy để cung cầu gặp nhau, thẩm định chất lượng, xác định giá
cả thì phải mất rất nhiều thời gian, công sức, tiền bạc cho một giao dịch để
phục vụ cho việc thu thập, phân tích, xử lý thông tin… Công ty chứng khoán
với lợi thế chuyên môn hóa, trình độ kinh nghiệm nghề nghiệp sẽ thực hiện
21
tốt vai trò trung gian mua bán chứng khoán, giúp các nhà đầu tư giảm được
chi phí trong từng giao dịch.
- Cung cấp cơ chế xác định giá cho các khoản đầu tư: công ty chứng
khoán thông qua Sở giao dịch và thị trường OTC cung cấp một cơ chế xác
định giá nhằm giúp các nhà đầu tư đánh giá đúng thực tế và chính xác các
khoản đầu tư của mình.
+ Trên thị trường sơ cấp: khi thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh phát hành
chứng khoán, các CTCK thực hiện vai trò tạo cơ chế giá chứng khoán thông
qua việc xác định và tư vấn cho các tổ chức phát hành mức giá phát hành hợp
lý.
+ Trên thị trường thứ cấp: tất cả các lệnh mua bán thông qua các CTCK
được tập trung tại thị trường giao dịch và trên cơ sở đó, giá chứng khoán được
xác định theo quy luật cung cầu.
Ngoài ra, CTCK còn cung cấp nhiều dịch vụ khác hỗ trợ giao dịch chứng
khoán. Với các nghiệp vụ đa dạng của mình, công ty chứng khoán giữ vai trò
quan trọng trong việc phát triển của thị trường chứng khoán, là chất “xúc tác”,
không thể thiếu cho hoạt động của TTCK.
* Trợ giúp các doanh nghiệp trong việc tiếp cận với các chuẩn mực hoạt
động hiện đại
Bên cạnh vai trò tạo lập kênh huy động vốn, các công ty chứng khoán
còn giúp các doanh nghiệp có cơ hội tiếp cận và ứng dụng những công nghệ
quản trị kinh doanh hiện đại. Với hệ thống khách hàng và những mối quan hệ
rộng rãi, các công ty chứng khoán còn là cấu nối cho doanh nghiệp với các
nhà đầu tư có nhiều tiềm năng về vốn và công nghệ. Khi tham gia đầu tư vào

doanh nghiệp, nhà đầu tư không chỉ mang vào vốn, kỹ năng quản trị mà còn
cả những mối quan hệ khách hàng, thị trường tiềm năng… Những yếu tố này
sẽ giúp cho các doanh nghiệp nâng cao được khả năng quản trị, tăng cường
22
sức cạnh tranh và phát triển thị trường mới. Bên cạnh đó, khi cung cấp các
dịch vụ tư vấn tài chính, các công ty chứng khoán còn giúp các doanh nghiệp
tăng cường tính minh bạch và công khai về tài chính. Điều này sẽ là một yếu
tố quan trọng để các doanh nghiệp thu hút được các nhà đầu tư tiềm năng bên
ngoài. Hơn nữa, đây sẽ là một điều kiện quan trọng để các doanh nghiệp
chuẩn bị cho quá trình niêm yết chứng khoán trên các Sở giao dịch chứng
khoán.
1.2. GIÁM SÁT HOẠT ĐỘNG ĐỐI VỚI CÔNG TY CHỨNG KHOÁN
1.2.1 Khái niệm về giám sát hoạt động CTCK
Giám sát thị trường chứng khoán: bao gồm những hoạt động nhằm theo
dõi và kiểm tra việc tuân thủ các quy định của pháp luật của các thành viên
tham gia thị trường chứng khoán, phát hiện các hành vi vi phạm của các đối
tượng này với mục đích bảo vệ nhà đầu tư. Các hoạt động giám sát trên thị
trường chứng khoán thường do cơ quan quản lý chứng khoán, các tổ chức như
Sở giao dịch chứng khoán, Hiệp hội giao dịch chứng khoán thực hiện nhằm
đảm bảo thị trường hoạt động công bằng, công khai và minh bạch.
Hệ thống giám sát: bao gồm hệ thống nhân sự trong các cơ quan, tổ chức
thực hiện giám sát, hệ thống pháp lý và hệ thống công nghệ thông tin hỗ trợ
công tác giám sát.
Tuỳ theo từng mô hình giám sát, hệ thống nhân sự giám sát được sắp xếp
theo các cấp giám sát do các đơn vị thực hiện chức năng quản lý và giám sát
thị trường khác nhau thực hiện. Hệ thống pháp lý bao gồm các quy định về
chứng khoán và thị trường chứng khoán, các quy định và tiêu chí giám sát,
quy định về cưỡng chế thực thi trên thị trường chứng khoán. Hệ thống công
nghệ thông tin được xây dựng để lưu trữ, theo dõi, phân tích và xử lý dữ liệu
giao dịch của các đối tượng tham gia thị trường nhằm phát hiện các hành vi

giao dịch bất thường, xác định và ngăn ngừa các hành vi vi phạm.
Một hệ thống giám sát hiệu quả đòi hỏi cơ quan quản lý phải được báo
cáo đầy đủ các thông tin được doanh nghiệp sử dụng làm số liệu kiểm toán và
có các công cụ giám sát thị trường khác như: Điểm mấu chốt của hoạt động
23
giám sát là quản lý được thông tin, đặc biệt thông tin cần thiết để xác định
tính minh bạch về giá chứng khoán. Ở các quốc gia chưa xây dựng hệ thống
để thực hiện các hoạt động giám sát, cơ quan quản lý phải dựa vào việc kiểm
tra các nhân viên môi giới - tự doanh, hoặc khiếu nại của nhà đầu tư. Một hệ
thống đầy đủ các thông tin giao dịch cho phép tạo một cơ sở dữ liệu giám sát
và các công cụ phù hợp để giám sát thị trường.
Như vậy, có thể nói giám sát hoạt động công ty chứng khoán là một bộ
phận hoạt động cấu thành hoạt động giám sát thị trường. Hoạt động giám sát
công ty chứng khoán dựa trên các hoạt động cụ thể, các số liệu, tài liệu báo
cáo để phân tích, đối chiếu với các quy định trong văn bản pháp luật về chứng
khoán và thị trường chứng khoán, sớm phát hiện các dấu hiệu thiếu sót hoặc
vi phạm của công ty chứng khoán. Có hai hình thức giám sát công ty chứng
khoán, giám sát từ xa và kiểm tra tại chỗ.
- Giám sát từ xa là các hoạt động theo dõi, xem xét và nhận định về một
việc làm nào đó của công ty chứng khoán đã được thực hiện đúng hay sai so
với những quy định của pháp luật hiện hành. Giám sát từ xa không chỉ là
công cụ để các cơ quan chức năng quản lý nhà nước thực hiện chức năng
quản lý nhà nước của mình, mà còn là công cụ hữu hiệu để các công ty chứng
khoán sử dụng trong hoạt động của mình nhằm đảm bảo sự tuân thủ pháp luật
cũng như các quy định của chính tổ chức đó.
- Kiểm tra tại chỗ hoạt động công ty chứng khoán là hoạt động kiểm tra
việc làm của công ty chứng khoán theo một trình tự, thủ tục do luật pháp quy
định nhằm kết luận đúng, sai, đánh giá ưu điểm, khuyết điểm, phát huy nhân
tố tích cực, phòng ngừa, xử lý các vi phạm, góp phần hoàn thiện cơ chế quản
lý, tăng cường pháp chế, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ

thể tham gia thị trường chứng khoán, cụ thể:
+ Kiểm tra công ty chứng khoán trong trường hợp không đảm bảo duy
trì được đầy đủ các điều kiện cấp phép.
24
+ Kiểm tra công ty chứng khoán trong trường hợp công ty chứng khoán
có dấu hiệu lạm dụng tài sản của khách hàng.
+ Kiểm tra công ty chứng khoán trong trường hợp việc quản trị điều
hành công ty có dấu hiệu yếu kém và vi phạm điều lệ công ty.
+ Kiểm tra công ty chứng khoán trong trường hợp báo cáo tài chính có
dấu hiệu bất thường, ý kiến kiểm toán ngoại trừ trọng yếu.
+ Các trường hợp khác theo yêu cầu của cơ quan quản lý.
Giữa hoạt động giám sát từ xa và kiểm tra tại chỗ công ty chứng khoán
có mối quan hệ mật thiết với nhau. Thông qua hoạt động giám sát từ xa công
ty chứng khoán các dấu hiệu thiếu sót, vi phạm pháp luật của công ty chứng
khoán được phát hiện. Các dấu hiệu này là một trong những thông tin, tư liệu
để tiến hành thực hiện kiểm tra tại chỗ công ty chứng khoán hoặc chuyển tiếp
tới bước thanh tra xử lý vi phạm công ty chứng khoán. Hoạt động kiểm tra tại
chỗ công ty chứng khoán được tiến hành dựa trên kết quả hoạt động giám sát
từ xa nhằm làm sáng tỏ dấu hiệu thiếu sót, vi phạm pháp luật của công ty
chứng khoán, từ đó đưa ra kết luận, kiến nghị các biện pháp khắc phục hoặc
xử lý vi phạm.
1.2.2. Mục đích giám sát hoạt động CTCK
Việc thực hiện giám sát các hoạt động của CTCK không chỉ có ý nghĩa
đối với TTCK các nước đang phát triển, mà còn rất cần thiết đối với các nước
đã có bề dày phát triển thị trường chứng khoán. Cũng như mục đích giám sát
TTCK của cơ quan quản lý, việc thực hiện giám sát hoạt động CTCK là nhằm
hướng tới các mục đích sau:
- Bảo vệ các nhà đầu tư.
- Bảo đảm sự công bằng, hiệu quả và minh bạch của thị trường.
- Giảm sự rủi ro hệ thống trên thị trường.

Ba mục đích trên có liên quan chặt chẽ và xét trên một số khía cạnh, các
mục đích này sẽ chồng chéo nhau. Nhiều trong số các quy định về giám sát
25
nhằm đảm bảo công bằng, hiệu quả và minh bạch thị trường cũng sẽ bảo vệ
nhà đầu tư và giúp giảm thiểu rủi ro hệ thống. Tương tự như vậy, nhiều biện
pháp giám sát làm giảm rủi ro hệ thống sẽ bảo vệ cho nhà đầu tư.
1.2.2.1. Bảo vệ các nhà đầu tư
Các nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán là những đối tượng rất dễ bị
xâm hại do sự quản lý và hoạt động yếu kém của CTCK và các chủ thể khác
trên thị trường mà khả năng tự phòng vệ của từng nhà đầu tư lại bị hạn chế.
Mặt khác, sự phức tạp của các giao dịch chứng khoán và của các thủ đoạn lừa
đảo trên thị trường lại thường gây khó khăn và tổn thất cho họ khi tham gia
vào thị trường. Chính vì vậy, các nhà đầu tư cần phải được bảo vệ, các hành
vi sai trái trên thị trường cần phải có sự cưỡng chế mạnh mẽ việc tuân thủ đạo
đức nghề nghiệp từ các quy định của pháp luật về chứng khoán.
Việc cung cấp thông tin đầy đủ, chính xác, trung thực từ phía CTCK cho
quyết định của các nhà đầu tư là một trong những phương tiện quan trọng
nhất để bảo vệ nhà đầu tư. Khi được tiếp nhận kênh thông tin quan trọng này,
các nhà đầu tư cần có đủ khả năng đo lường các rủi ro cũng như các khoản lợi
nhuận tiềm năng của các khoản đầu tư mà họ tiến hành. Vì vậy, cần có những
quy định nghiêm ngặt về công bố thông tin từ phía các chủ thể công ty chứng
khoán để bảo vệ lợi ích của các nhà đầu tư.
1.2.2.2. Bảo đảm sự công bằng, hiệu quả và minh bạch của thị trường
Sự công bằng của thị trường có mối liên hệ mật thiết với việc bảo vệ lợi
ích của các nhà đầu tư, đặc biệt để ngăn chặn các hoạt động giao dịch trái
pháp luật của các công ty chứng khoán khi họ thực hiện kinh doanh chứng
khoán cho chính mình (hoạt động tự doanh chứng khoán). Cấu trúc của thị
trường không nên ưu đãi vô lý cho một số người này hơn những người khác
trên thị trường cho dù họ là pháp nhân hay thể nhân, dù là công ty chứng
khoán hay công ty phát hành chứng khoán. Vì vậy, các quy định pháp luật

×