Tải bản đầy đủ (.doc) (72 trang)

tăng cường quản lý chi thường xuyên ngân sách nhà nước cho sự nghiêp y tế trên địa bàn thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (415.84 KB, 72 trang )

Luận văn tốt nghiệp
Học viện Tài Chính
LỜI MỞ ĐẦU
Trong điều kiện hiện nay, nhân tố con người luôn giữ vai trò quyết
định, nó vừa là mục tiêu, vừa là động lực, vừa là chủ thể sáng tạo ra mọi của
cải vật chất và văn hóa quốc gia. Đảng ta đã khẳng định “Sức khỏe không chỉ
là tài sản của mỗi người, mỗi quốc gia mà còn là tài sản của nhân loại”.
Vì vậy việc chăm sóc sức khỏe nhân dân trong chiến lược phát triển
kinh tế xã hội là rất cần thiết và quan trọng.
Thực tế cũng cho thấy cùng với ngân sách nhà nước, các công cụ tài
chính khác nhu BHYT, viện phí đã đem lại nguồn lực đang đáng kể đáp ứng
nhu cầu khám chữa bệnh của nhân dân, song cần phải được hoàn thiện cả về
huy động và sử dụng nhằm đáp ứng nhu cầu khám chữa bệnh ngày càng tăng
của nhân dân.
Sự đổi mới công tác quản lý tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp
công nói chng, các đơn vị sự nghiệp y tế nói riêng là cần thiết nhằm tách chức
năng quản lý nhà nước với chức năng điều hành các đơn vị để hoạt động theo
cơ chế mới, phù hợp,có hiệu quả, xóa bỏ cơ chế cấp phát tài chính theo kiểu
“xin-cho”, ban hành các cơ chế, chính sách thực hiện chế độ tự chủ tài chính
cho các đơn vị sự nghiệp.
Sự ra đời của Nghị định số 43/2006/NĐ-CP ngày 25/4/2006 của Chính
phủ (Trước là Nghị định 10/2002/NĐ-CP ngày 16/01/2002 của Chính phủ)
cùng với Thông tư số 71/2006/TT-BTC của Bộ Tài Chính hướng dẫn về cơ
chế quản lý tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp là bước tiến mới trong quá
trình thực hiện chương trình cải cách tài chính công. Thành Phố Hà Nội cũng
đã triển khai thực hiện cơ chế quản lý tài chính mới tại các đơn vị sự nghiệp
công, trong đó có các đơn vị sự nghiệp y tế.
Trong những năm gần đây, từ khi thực hiện chủ trương xã hội hóa các
hoạt động y tế và thực hiện công tác quản lý tài chính theo Nghị định số
Nguyễn Thị Diệu Lớp CQ45/01.03
Luận văn tốt nghiệp


Học viện Tài Chính
43/2006/NĐ-CP ngày 25/04/2006, các đơn vị sự nghiệp y tế đã có những
chuyển biến tích cực trong công tác quản lý tài chính của mình, kéo theo đó là
chất lượng phục vụ cũng được tăng lên đáp ứng được phần lớn nhu cầu khám
chữa bệnh của người dân.
Tuy nhiên, trong quá trình hoạt động của ngành Y tế Hà Nội còn một
số tồn tại như: trang thiết bị hiện nay chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển
của ngành, nguồn cán bộ có tay nghề chuyên môn cao được đào tạo ở nước
ngoài còn ít. Phần NSNN cho hoạt động y tế trong quá trình phân bổ, quản lý
và sử dụng còn nhiều kẽ hở dẫn tới lãng phí và giảm hiệu quả.
Những tồn tại trên đòi hỏi phải có những biện pháp khắc phục để nâng
cao hiệu quả chi NSNN cho sự nghiệp y tế, phù hợp với xu hướng tự chủ tài
chính như hiện nay.
Nhận thức được tầm quan trọng của chi NSNN cho sự nghiệp y tế trong
điều kiện hiện nay và đứng trước những khó khăn, tồn tại trong quản lý chi
ngân sách nhà nước cho sự nghiệp y tế trên địa bàn Thành Phố Hà Nội, trong
quá trình thực tập ở Sở Tài Chính Hà Nội, tôi đã đi sâu nghiên cứu đề tài
“Tăng cường quản lý chi thường xuyên ngân sách nhà nước cho sự nghiêp
y tế trên địa bàn Thành phố Hà Nội”
Mục đích nghiên cứu của đề tài này là nhằm kết hợp giữa lý luận và
thực tiễn để đánh giá quá trình sử dụng các khoản chi thường xuyên ngân
sách nhà nước cho sự nghiệp y tế, từ đó rút ra những ưu, nhược điểm trong
công tác quản lý nhằm đưa ra các giải pháp nâng cao tính tiết kiệm và hiệu
quả các khoàn chi ngân sách nhà nước cho sự nghiệp y tế phù hợp với cơ chế
tự chủ tài chính hiện nay ở các đơn vị sự nghiệp y tế.
Đối tượng nghiên cứu đề tài này là quá trình quản lý các khoản chi
thường xuyên NSNN cho sự nghiệp y tế trên địa bàn Thành Phố Hà Nội.
Kết cấu đề tài: Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, nội dung chính
được trình bày trong ba chương.
Nguyễn Thị Diệu Lớp CQ45/01.03

Luận văn tốt nghiệp
Học viện Tài Chính
Chương 1: Tổng quan về chi thường xuyên ngân sách nhà nước cho
sự nghiệp y tế.
Chương 2: Thực trạng chi thường xuyên ngân sách nhà nước cho
sự nghiệp y tế, trên địa bàn Thành phố Hà Nội.
Chương 3: Một số giải pháp hoàn thiện công tác quản lý chi thường
xuyên ngân sách nhà nước cho sự nghiệp y tế, trên địa bàn Thành Phố Hà
Nội.
Do thời gian và điều kiện có hạn, sự hiểu biết về tình hình thực tế còn
chưa sâu sắc, nên bài viết của tôi không tránh khỏi sai sót, vì vậy tôi rất mong
sự đóng góp ý kiến của các Thầy Cô giáo và các cán bộ tài chính.
Trong quá trình thực tập và nghiên cứu đề tài, Tôi đã được sự hướng
dẫn tận tình của cô giáo, TS. Hoàng Thị Thúy Nguyệt, cùng sự giúp đỡ nhiệt
tình của các cô, các bác, anh chị trong Sở Tài Chính Hà Nội, đã giúp đỡ Tôi
hoàn thành đề tài này.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Nguyễn Thị Diệu Lớp CQ45/01.03
Luận văn tốt nghiệp
Học viện Tài Chính
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ CHI THƯỜNG XUYÊN NGÂN SÁCH NHÀ
NƯỚC CHO SỰ NGHIỆP Y TẾ
1.1. VAI TRÒ CỦA SỰ NGHIỆP Y TẾ VỚI SỰ NGHIỆP PHÁT TRIỂN
KINH TẾ XÃ HỘI.
Sự nghiệp y tế là sự chăm lo và bảo vệ sức khỏe, hạnh phúc cho nhân
dân trong công cuộc thực hiện chiến lược phát triển con người cũng như chiến
lược phát triển kinh tế xã hội.
Hiện nay quan điểm chỉ đạo của Đảng là quan tâm thích đáng tới sự
nghiệp y tế, đảm bảo cho mọi người dân được chăm sóc sức khỏe cơ bản với

chi phí thấp, góp phần thực hiện công bằng xã hội… tạo niềm tin của nhân
dân với chế độ Xã hội chủ nghĩa.
Bất kỳ quốc gia nào muốn phát triển đi lên phải nhờ nhân tố con người,
đặc biệt trong thời đại ngày nay, thời đại của nền kinh tế tri thức yếu tố con
người và trí tuệ của con người đóng vai trò quyết định tới sự phát triển vượt
trội của mỗi quốc gia.
Bởi vậy, chiến lược phát triển con người sẽ là chiến lược trung tâm của
chiến lược phát triển kinh tế xã hội, vừa thực hiện các mục tiêu phát triển kinh
tế xã hội, vừa đồng thời là đối tượng tác động các mục tiêu đó.
Nhưng để từng bước thực hiện chiến lược phát triển kinh tế xã hội thì
phải con người không những chỉ là đối tượng thực hiện chiến lược mà phải
coi con người là đối tượng được hưởng nhiều nhất từ các lợi ích mà chiến
lược mang lại.
Nền kinh tế nước ta đang từng bước hội nhập với nền kinh tế thế
giới.Trong tiến trình đó, yếu tố con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực
phát triển kinh tế xã hội. Con người được coi là nguồn lực quan trọng nhất,
năng động nhất trong mọi nguồn lực. Do đó, con người cần phải được chăm
Nguyễn Thị Diệu Lớp CQ45/01.03
Luận văn tốt nghiệp
Học viện Tài Chính
lo đầy đủ thông qua việc chăm sóc, bảo vệ sức khỏe cho họ bằng cách nuôi
dưỡng an toàn, phát triển sức lực bởi hệ thống chăm sóc sức khỏe với chất
lượng ngày càng được nâng cao một cách rõ rệt.
Khai thác và phát huy cao độ năng lực lao động, chất xám, tạo môi
trường phát triển lao động, có trọng dụng nhân tài là một mục tiêu lớn của
chiến lược con người, nhưng để đạt được điều đó phải có sức khỏe, sức khỏe
là tiền đề tạo ra trí lực con người. Do đó, sự nghiệp y tế với chức năng chăm
sóc bảo vệ và nâng cao thể lực của nhân dân có một vị trí hết sức quan trọng
trong việc phát triển con người để thực hiện chiến lược phát triển kinh tế xã
hội.

Trong giai đoạn hiện nay, coi y tế là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân
và toàn xã hội, cần có nhiều hình thức đóng góp, đầu tư khác cho lĩnh vực y
tế, nhưng cốt yếu phải có sự đầu tư bằng tiền. Chúng ta không coi nhẹ các
nguồn kinh phí như viện phí, viện trợ, vốn vay…Thông qua chi ngân sách nhà
nước sẽ có tác động quan trọng tới việc tổ chức mạng lưới cũng như cơ cấu
của ngành y tế, từ đó sắp xếp cho phù hợp, hướng dẫn quản lý hoạt động y tế
một cách hiệu quả, nâng cao chất lượng quản lý các hoạt động y tế cũng như
góp phần nâng cao chất lượng quản lý các hoạt động kinh tế nói chung của
đất nước, góp phần thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển.
1.2. NGUỒN TÀI CHÍNH CỦA ĐƠN VỊ SỰ NGHIỆP CÔNG LẬP.
1.2.1.Ngân sách nhà nước cấp.
NSNN được đặc trưng bởi sự vận động của các nguồn tài chính trong
quá trình tạo lập và sử dụng quỹ tiền tệ của nhà nước, để phục vụ cho việc
thực hiện các chức năng nhiệm vụ của nhà nước. NSNN phản ánh các quan hệ
kinh tế giữa nhà nước với các chủ thể trong xã hội phát sinh khi nhà nước
tham gia phân phối các nguồn tài chính theo nguyên tắc không hoàn trả trực
tiếp.
Nguyễn Thị Diệu Lớp CQ45/01.03
Luận văn tốt nghiệp
Học viện Tài Chính
Thuế, phí, lệ phí và các khoản thu khác theo qui đinh của pháp luật là
nguồn được chính phủ thu để hình thành ngân sách, trong đó có ngân sách
cho sự nghiệp y tế. Ngân sách cho sự nghiệp y tế dùng để chi cho các hoạt
động y tế nhất định, gồm chi đầu tư, chi vận hành hệ thống cung cấp dịch vụ y
tế thuộc sở hữu Nhà nước, chi hỗ trợ người nghèo.Ở các nước đang phát triển,
đây là nguồn tài chính y tế quan trọng nhất, đối với hoạt động y tế dự phòng ở
hầu hết các nước, kể cả nước giàu, NSNN là nguồn tài chính y tế duy nhất để
đảm bảo cho hoạt động y tế dự phòng, kể cả lĩnh vực chuyên sâu và hoạt động
thường xuyên.Đối với hoạt động khám chữa bệnh đây không phải là nguồn
duy nhất nhưng vẫn là nguồn tài chính cơ bản, đặc biệt là trong lĩnh vực đầu

tư nâng cấp cơ sở vật chất của hệ thống bệnh viện
1.2.2. Nguồn thu viện phí và bảo hiểm y tế.
Theo quy định của Bộ Tài chính nước ta, nguồn thu viện phí và bảo
hiểm y tế là một phần ngân sách sự nghiêp y tế của Nhà nước giao cho đơn vị
sự nghiệp y tế công lập quản lý và sử dụng để đảm bảo chất lượng khám chữa
bệnh cho nhân dân. Nguồn thu viện phí và bảo hiểm y tế thường đảm bảo
được từ 20-30% nhu cầu chi tối thiểu của các đơn vị sự nghiệp y tế công lập.
Tuy nhiên cho đến nay, ở nước ta, các cơ sở khám, chữa bệnh trong hệ
thống y tế Nhà nước chỉ được phép thu một phần viện phí.Một phần viện phí
là một phần trong tổng chi phí cho việc khám chữa bệnh.Một phần viện phí
chỉ tính tiền thuốc, dịch truyền, máu, hóa chất, xét nghiệm, phim X quang, vật
tư tiêu hao thiết yếu và dịch vụ khám chữa bệnh; không tính khấu hao tài sản
cố định, chi phí hình thành, đào tạo, nghiên cứu khoa học, đầu tư xây dựng cơ
sở vật chất và trang thiết bị lớn.
Hiện nay, giá viện phí do chính quyền cấp tỉnh của từng địa phương
quy đinh dựa trên một khung giá tối đa- tối thiểu đã được Bộ Y tế và Bộ Tài
Chính phê duyệt. Đối với người bệnh ngoại trú, biểu giá thu viện phí được
tính theo lần khám bệnh và các dịch vụ kỹ thuật mà người bệnh trực tiếp sử
dụng. Đối với người bệnh nội trú, biểu giá thu một phần viện phí được tính
Nguyễn Thị Diệu Lớp CQ45/01.03
Luận văn tốt nghiệp
Học viện Tài Chính
theo ngày giường nội trú của từng chuyên khoa theo phân hạng bệnh viện và
cac khoản chi phí thực tế sử dụng trực tiếp cho người bệnh. Đối với khám
chữa bệnh theo yêu cầu thì mức thu được tính trên cơ sở mức đầu tư của đơn
vị sự nghiệp y tế và cũng phải được cấp thẩm quyền phê duyệt.
Đối với người có thẻ bảo hiểm y tế, thì cơ quan bảo hiểm thanh toán
viện phí của bệnh nhân cho đơn vị.Tuy nhiên ở Việt Nam mới chỉ phổ biến
loại hình bảo hiểm y tế bắt buộc áp dụng cho các đối tượng công nhân viên
chức làm công ăn lương trong các cơ quan Nhà Nước và các doanh

nghiệp.Các loại hình bảo hiểm khác chưa được triển khai một cách phổ biến.
Hiện nay, với chủ trương xã hội hóa các hoạt động chăm sóc sức khỏe
của Đảng và Nhà nước, các loại hình bệnh viện và cơ sở y tế bán công ngoài
công lập ra đời với cơ chế tài chính chủ yếu dựa vào nguồn thu viện phí và
bảo hiểm y tế.
1.2.3. Nguồn viện trợ và các nguồn thu khác.
Nguồn viện trợ và các nguồn thu khác cũng được Chính Phủ Việt Nan
quy định là một phần của ngân sách Nhà nước giao cho đơn vị sự nghiệp y tế
quản lý và sử dụng. Tuy nhiên đơn vị thường phải chi tiêu theo định hướng
những nội dung đã định từ phía nhà tài trợ.Nguồn kinh phí này đáp ứng
khoảng 20-30% chi tối thiểu của đơn vị.
1.3. NỘI DUNG VÀ VAI TRÒ CHI THƯỜNG XUYÊN NGÂN SÁCH
NHÀ NƯỚC CHO ĐƠN VỊ SỰ NGHIỆP Y TẾ CÔNG LẬP.
1.3.1. Nội dung của chi thường xuyên ngân sách nhà nước cho đơn vị sự
nghiệp y tế công lập.
Nhóm I: Chi cho con người
Bao gồm các khoản chi về lương, phụ cấp lương (được tính theo chế độ
hiện hành, kể cả nâng bậc lương hàng năm trong từng đơn vị hành chính sự
nghiệp) và các khoản nộp theo lương: bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội. Đây là
Nguyễn Thị Diệu Lớp CQ45/01.03
Luận văn tốt nghiệp
Học viện Tài Chính
khoản bù đắp hao phí sức lao động, đảm bảo duy trì quá trình tái sản xuất sức
lao động cho bác sỹ, y tá, cán bộ công nhân viên của đơn vị sự nghiệp y tế.
Nhóm II: Chi nghiệp vụ chuyên môn
Bao gồm chi mua hàng hóa, vật tư dùng cho công tác điều trị và khám
bệnh; trang thiết bị kỹ thuật, sách, tài liệu chuyên môn y tế…Nhóm này phụ
thuộc vào cơ sở vật chất và quy mô hoạt động của đơn vị sự nghiệp y tế. Có
thể nói đây là nhóm quan trọng nhất, chiếm 50% tống số kinh phí và đòi hỏi
nhiều công sức về quản lý. Đây là nhóm thiết yếu nhất, thực hiện theo yêu cầu

thực tế nên Nhà nước ít khống chế việc sử dụng kinh phí nhóm này.Nhóm chi
nghiệp vụ chuyên môn có liên hệ chặt chẽ với chất lượng săn sóc bệnh nhân
và mục tiêu phát triển đơn vị sự nghiệp y tế công lập.
Vấn đề đặt ra trong việc quản lý nhóm chi này là do những quy định
không quá khắt khe đòi hỏi các nhà quản lý phải biết sử dụng đúng mức và
thích hợp, tránh làm mất cân đối thu chi đặc biệt là thuốc nhưng vẫn giữ được
chất lượng điều trị và nhất là tiết kiệm được kinh phí, tránh lãng phí: chi
thuốc không quá 50% nhóm chi chuyên môn.
Nhóm III: Chi mua sắm, sửa chữa
Hàng năm do nhu cầu hoạt động, do sự xuống cấp tất yêu của tài sản cố
định dùng cho hoạt động chuyên môn cũng như quản lý nên thường phát sinh
nhu cầu kinh phí để mua sắm, trang bị thêm hoặc phục hồi giá trị sử dụng cho
những tài sản cố định đã xuống cấp. Có thể nói đây là nhóm chi mà các đơn vị
sự nghiệp y tế công lập đều quan tâm vì nhóm này có thể làm thay đổi bộ mặt
của đơn vị và thay đổi công nghệ chăm sóc bệnh nhân theo hướng phát triển
từng giai đoạn. Tỷ lệ chi nhóm này nên ở mức trên 20% với bốn mục tiêu
chính:
- Duy trì và phát triển cơ sở vật chất
- Duy trì và phát triển tiện nghi làm việc
- Duy trì và phát triển trang thiết bị
- Duy trì và phát triển kiến thức, kỹ năng nhân viên
Nguyễn Thị Diệu Lớp CQ45/01.03
Luận văn tốt nghiệp
Học viện Tài Chính
Về sửa chữa.
Nhìn chung các đơn vị sự nghiệp công lập của Việt Nam đều xuống cấp
và đòi hỏi phải sửa chữa, nâng cấp, mở rộng đặc biệt là trong tình trạng quá
tải bệnh nhân như hiện nay.Nhưng đây là nhóm được quy định rất chặt chẽ
trong từng phần vụ: sửa chữa nhỏ và sửa chữa lớn.Vấn đề đặt ra là phải sữa
chữa đúng mức, đầy đủ, đáp ứng tiêu chuẩn vệ sinh; đòi hỏi phát huy năng

lực quản lý trong nhóm chi này, nhằm bảo toàn giá trị vốn trong sửa chữa để
có kết quả tốt trong việc sử dụng hiệu quả nguồn vốn bỏ ra.
Về mua sắm tài sản cố định.
Bao gồm tiện nghi làm việc và trang thiết bị phục vụ chuyên môn. Do
tác động của cách mạng khoa học kỹ thuật, trang thiết bị cho khám chữa bệnh
trong đơn vị sự nghiệp y tế càng hiện đại, sử dụng kỹ thuật ngày càng cao.
Nhưng hầu hết các trang thiết bị này được sản xuất ở nước ngoài, giá cả tương
đối cao. Vậy việc mua sắm phải tuân thủ theo các quy định của Nhà nước,
đồng thời đơn vị phải có chiến lược quản lý và sử dụng công nghệ để đạt hiệu
quả.
Nhóm IV: Các khoản chi khác
Bao gồm các khoản chi: tiền điện, tiền nước, thông tin liên lạc, hội
nghị, tiếp khách…Nhóm này mang tính gián tiếp nhằm duy trì sự hoạt động
của bộ máy quản lý của các đơn vị sự nghiệp y tế. Do vậy, các khoản chi này
đòi hỏi phải chi đúng, chi đủ, kịp thời và cần sử dụng tiết kiệm, có hiệu quả.
Tỷ lệ nhóm chi này nên nằm trong khoảng từ 10-15% tổng kinh phí.
Trước đây nhóm chi này, bị khống chế bởi quy định của Nhà nước với
định mức chi nhìn chung rất hạn hẹp và bất hợp lý. Tuy nhiên, trong cơ chế
mới đơn vị chủ động xây dựng tiêu chuẩn, định mức và chế độ chi tiêu nội bộ
căn cứ trên cơ sở định mức kinh tế kỹ thuật và chế độ chi tiêu tài chính hiện
hành của Nhà nước để đảm bảo hoạt động thường xuyên cho phù hợp với
hoạt động đặc thù của bệnh viện, đồng thời tăng cường công tác quản lý, sử
dụng tiết kiệm, có hiệu quả trong phạm vi nguồn tài chính của mình.
Nguyễn Thị Diệu Lớp CQ45/01.03
Luận văn tốt nghiệp
Học viện Tài Chính
Cùng với chủ động đưa ra định mức chi, đơn vị cần xây dựng chính
sách tiết kiệm và quản lý chặt chẽ các khoản chi tiêu.Quản lý tốt nhóm này sẽ
tạo điều kiện tiết kiệm, tăng thêm kinh phí cho các nhóm khác.
1.3.2. Vai trò của chi thường xuyên ngân sách nhà nước đối với sự nghiệp

y tế công lập.
Chi thường xuyên NSNN cho sự nghiệp y tế được coi là các khoản chi
có tính chất tích lũy đặc biệt là một trong những nhân tố quyết định mức tăng
trưởng kinh tế. Bởi vì, trong thời đại ngày nay, khoa học kỹ thuật trở thành
yếu tố trực tiếp sản xuất, hầu hết mọi của cải làm ra đều chứa đựng trong đó
hàm lượng chất xám ngày càng cao.
Có được khoa học, có được chất xám chính là nhờ sự đầu tư cho sự
nghiệp y tế, đầu tư cho công tác chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân, mà
sức khỏe là tiền đề tạo ra trí tuệ là tài sản quý nhất trong mọi tài sản.
Thực tế cho thấy, quá trình phát triển kinh tế xã hội không diễn ra một
cách thụ động mà nó phụ thuộc vào trình độ năng lực chuyên môn của người
lao động trong mỗi quốc gia. Người lao động nắm vững khoa học công nghệ
tiên tiến, có phẩm chất và nhân cách phù hợp với yêu cầu công việc thì mới
có thể đẩy mạnh phát triển kinh tế. Điều đó nói lên rằng y tế không phải là
phạm trù phúc lợi thuần túy mà nó tác động rất lớn tới sự nghiệp kinh tế.
Song lượng hiệu quả công tác chăm sóc sức khỏe phụ thuộc rất nhiều vào
mức độ đầu tư cho khu vực này.
Ngày nay, khi nền kinh tế có chuyển biến tích cực, cùng với sự đầu tư
cho công tác chăm sóc, bảo vệ sức khỏe cho nhân dân ngày càng tăng thì việc
có được những máy móc, trang thiết bị hiện đại, các loại thuốc mới ngày càng
chu đáo hơn, vì thế mà một số căn bệnh trước kia y học phải bó tay thì nay nó
đã trở thành vấn đề hết sức bình thường.Những thành tựu đó thể hiện rằng
những năm vừa qua, chi ngân sách nhà nước cho sự nghiệp y tế công lập đã
đạt được những thành công đáng kể.
Nguyễn Thị Diệu Lớp CQ45/01.03
Luận văn tốt nghiệp
Học viện Tài Chính
Chi thường xuyên NSNN cho sự nghiệp y tế có vai trò quyết định tới
việc thực hiện công bằng trong chăm sóc sức khỏe nhân dân.Với mong muốn
sao cho đông đảo nhân dân được chăm sóc sức khỏe, được khám bệnh ngày

càng thuận lợi hơn và thực hiện công bằng xã hội, công bằng ở đây không có
nghĩa là bình đẳng hay ngang bằng mà công bằng là ai có nhu cầu nhiều hơn
thì được chăm sóc nhiều hơn, ai chịu thiệt thòi nhiều hơn thì quan tâm nhiều
hơn, phải biết quan tâm tới người nghèo, có điều kiện tới đâu ta quan tâm đến
đó, với ý nghĩa này thì chỉ có NSNN mới có thể làm được.
Để đảm bảo được tính nhân đạo và định hướng xã hội chủ nghĩa trong
việc chăm sóc sức khỏe, phải coi NSNN là nguồn chủ đạo, nguồn có tính ổn
định nhất để những người nghèo, người ở vùng khó khăn có điều kiện khám
chữa bệnh cơ bản. Nói như vậy, không có nghĩa là chúng ta coi nhẹ các nguồn
kinh phí như viện phí, viện trợ, bảo hiểm y tế nhưng trong hoàn cảnh của
Việt Nam thì để đảm bảo một nền y tế công bằng, phải lấy NSNN là nguồn
chủ yếu.
Thực tế cho thấy, là không phải cần khi kinh tế phát triển cao rồi mới
giải quyết các vấn đề xã hội mà ngay cả trong từng bước và suốt quá trình
phát triển tăng trưởng kinh tế phải luôn gắn với tiến bộ và công bằng xã hội.
Trong điều kiện kinh tế nước ta hiện nay, mặc dù vẫn có sự điều tiết vĩ mô
của nhà nước nhưng cơ chế thị trường vẫn có quy luật của nó, đó là sự phân
hóa giàu nghèo, khoảng cách này càng lớn thì khả năng chi trả cho nhu cầu
khám chữa bệnh sẽ ngày càng khác nhau, tầng lớp dân nghèo co nguy cơ bị
thiệt thòi, không đủ khả năng để khám chữa bệnh khi ốm đau. Bên cạnh đó,
những người nghèo ở vùng sâu, vùng xa điều kiện kinh tế khó khăn, xa các
trung tâm y tế mà thường xuyên mắc các bệnh hiểm nghèo, họ vẫn có nhu cầu
khám chữa bệnh. Trong bối cảnh như vậy, để chăm sóc bảo vệ sức khỏe nhân
dân, đảm bảo được công bằng với các thành viên trong xã hội cần đặc biệt có
sự chú trọng đầu tư từ ngân sách nhà nước.
Nguyễn Thị Diệu Lớp CQ45/01.03
Luận văn tốt nghiệp
Học viện Tài Chính
Chi thường xuyên NSNN cho sự nghiệp y tế là một trong các công cụ
quản lý vĩ mô của nhà nước, nó vạch ra sự phát triển có kế hoạch của thiết bị

y tế, đảm bảo chiến lược phát triển kinh tế xã hội đúng đường lối, chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước đã đề ra. Những vấn đề có tính cấp bách,
liên ngành, liên vùng có tầm quan trọng đối với sự phát triển kinh tế xã hội
được ưu tiên tập trung giải quyết, cơ cấu tỷ trọng các khoản chi cũng được
điều chỉnh cho đúng với đường lối.
1.4. NỘI DUNG QUẢN LÝ CHI THƯỜNG XUYÊN NGÂN SÁCH NHÀ
NƯỚC CHO ĐƠN VỊ SỰ NGHIỆP Y TẾ CÔNG LẬP.
Quy trình quản lý chi NSNN cho sự nghiệp y tế ở Việt Nam gồm 3
khâu:
• Lập dự toán chi
• Thực hiện dự toán
• Quyết toán
Trong quy trình quản lý đó, công tác thanh tra, kiểm tra, đánh giá phải
được đặc biệt coi trọng.
1.4.1. Lập dự toán chi
Lập dự toán là khâu đầu tiên của một chu trình quản lý ngân sách nhà
nước nói chung và quản lý ngân sách nhà nước trong y tế nói riêng. Đây là
quá tring phân tích, đánh giá các khả năng và các nguồn tài chính trong y tế,
từ đó xác lập các chỉ tiêu thu, chi, dự trữ hàng năm một cách đúng đắn, có căn
cứ khoa học và thực tiễn, đồng thời từ đó xác lập những biện pháp nhằm tổ
chức thực hiện những nhiệm vụ chỉ tiêu đề ra.Việc lập dự toán được thực hiện
một cách chính xác, có căn cứ khoa học, hợp thời gian…sẽ tạo điều kiện
thuận lợi rất lớn cho các khâu tiếp theo, đặc biệt là khâu chấp hành dự toán.
 Căn cứ lập dự toán:
- Phương hướng, chủ trương, nhiệm vụ của ngành Y tế trong năm kế hoạch
tiếp theo.
Nguyễn Thị Diệu Lớp CQ45/01.03
Luận văn tốt nghiệp
Học viện Tài Chính
Căn cứ này giúp cho công tác xây dựng kế hoạch có cái nhìn tổng quát

về những mục tiêu, nhiệm vụ của ngành từ đó có kế hoạch động viên, khai
thác các nguồn thu cũng như phân phối sử dụng chúng một cách đúng đắn,
hợp lý cho kỳ kế hoạch.
- Tình hình thực hiện kế hoạch của các năm trước, đặc biệt là năm báo cáo.
Hoạt động tài chính thường diễn ra theo một quy luật nhất định, trong
từng thời kỳ tương đối dài. Do vậy, các tài liệu phản ánh tình hình thực hiện
kế hoạch của các năm trước, đặc biệt là các năm báo cáo cho phép dự báo, dự
kiến tình hình tài chính của năm kế hoạch theo quy luật vận động của những
năm trước.
- Các chính sách chế độ, tiêu chuẩn, định mức về thu chi tài chính của ngành
Y tế.
Để xây dựng các chỉ tiêu thu chi cho năm kế hoạch được sát, đúng thì
ngoài các căn cứ nêu trên phải đặc biệt tuân thủ các chế độ, tiêu chuẩn, định
mức thu chi tài chính của ngành thông qua hệ thống pháp luật và các văn bản
pháp lý của nhà nước.
- Căn cứ vào số kiểm tra
Việc lập dự toán phải căn cứ vào số kiểm tra được cấp có thẩm quyền
giao. Số kiểm tra là cơ sở, là hành lang pháp lý tạo điều kiện cho đơn vị lập
dự toán một cách chính xác, khách quan và khả thi.
 Phương pháp lập dự toán
Việc lập dự toán được tiến hành theo phương pháp lập từ cơ sở, tổng
hợp từ dưới lên. Theo phương pháp này thì các đơn vị cơ sở (Trạm xá, bệnh
viện…) sẽ căn cứ vào số kiểm tra của các cấp có thẩm quyền giao tiến hành
lập dự toán thu, chi của đơn vị mình trong năm kế hoạch.Sau đó, thủ trưởng
đơn vị có nhiệm vụ xét duyệt và gửi lên cơ quan chủ quản và cuối cùng tổng
hợp thành dự toán thu chi của từng ngày.
1.4.2. Thực hiện dự toán
Nguyễn Thị Diệu Lớp CQ45/01.03
Luận văn tốt nghiệp
Học viện Tài Chính

Thực hiện dự toán là khâu quan trọng trong quá trình quản lý tài chính
đơn vị sự nghiệp y tế công lập. Đây là quá trình sử dụng tổng hòa các biện
pháp kinh tế tài chính và hành chính nhằm biến các chỉ tiêu đã được ghi trong
kế hoạch thành hiện thực. Thực hiện dự toán đúng đắn là tiền đề quan trọng
để thực hiện các chỉ tiêu phát triển bệnh viện. Tổ chức thực hiện dự toán là
nhiệm vụ của tất cả các phòng, ban, các bộ phận trong đơn vị. Do đó đây là
một nội dung đặc biệt quan trọng trong công tác quản lý tài chính của đơn vị
sự nghiệp y tế. Việc thực hiện dự toán diễn ra trong một niên độ ngân sách( ở
nước ta là một năm từ ngày 01/01 đến 31/12 hàng năm).
 Căn cứ thực hiện dự toán
Dự toán thu chi (kế hoạch) của đơn vị sự nghiệp y tế đã được cấp có
thẩm quyền phê duyệt.Đây là căn cứ mang tính chất quyết định nhất trong
chấp hành dự toán của đơn vị. Đặc biệt là trong điều kiện hiện nay, cùng với
việc tăng cường quản lý Nhà nước bằng pháp luật, một hệ thống các văn bản
pháp luật điều chỉnh hoạt động quản lý tài chính ngày càng được hoàn thiện
hơn.Việc chấp hành dự toán thu chi ngày càng được luật hóa, tạo điều kiện
cho đơn vi chủ động thực hiện theo đúng chức năng, nhiệm vụ của mình.
Khả năng nguồn tài chính có thể đáp ứng nhu cầu hoạt động của đơn vị.
Chính sách, chế độ chi tiêu và quản lý tài chính hiện hành của Nhà
nước.
 Yêu cầu của công tác thực hiện dự toán:
Đảm bảo phân phối, cấp phát, sử dụng nguồn kinh phí một cách hợp lý,
tiết kiệm và hiệu quả.
Đảm bảo giải quyết linh hoạt về kinh phí. Do sự hạn hẹp của nguồn
kinh phí và những hạn chế về khả năng dự toán nên giữa thực tế diễn ra trong
quá trình chấp hành và dự toán có thể có những khoảng cách nhất định đòi hỏi
phải có sự linh hoạt trong quản lý.
Nguyễn Thị Diệu Lớp CQ45/01.03
Luận văn tốt nghiệp
Học viện Tài Chính

Nguyên tắc chung là chi theo dự toán nhưng nếu không có dự toán mà
cần chi thì có quyết định kịp thời, đồng thòi có thứ tự ưu tiên việc gì trước,
việc gì sau. Khi thực hiện dự toán đơn vị sự nghiệp y tế cần phải chú ý:
• Khâu vệ sinh phòng dịch bệnh
• Thuốc men đảm bảo khám chữa bệnh
• Trang thiết bị
• Tiền lương và phụ cấp cho cán bộ công nhân viên
• Sữa chữa, nâng cấp cơ sở vật chất của đơn vị
Sau khi được cấp có thẩm quyền phê duyệt dự toán và nhận được thông
báo cấp vốn hạn mức, đơn vị chủ động sử dụng để hoàn thành nhiệm vụ được giao.
Tổ chức thực hiện thu nhận các nguồn tài chính theo kế hoạch và quyền hạn.
Tổ chức thực hiện các khoản chi theo chế độ, tiêu chuẩn và định mức
theo Nhà nước quy định trên cơ sở đánh giá hiệu quả chất lượng công việc
1.4.3. Quyết toán.
Công tác quyết toán là khâu cuối cùng của quá trình sử dụng kinh
phí.Đây là quá trình phản ánh đầy đủ các khoản chi và báo cáo quyết toán
ngân sách theo đúng chế độ báo cáo về biểu mẫu, thời gian, nội dung, và các
khoản chi tiêu. Trên cơ sở các số liệu báo cáo quyết toán có thể đánh giá hiệu
quả phục vụ của chính bệnh viện, đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch đồng
thời rút ra ưu, khuyết điểm của từng bộ phận trong quá trình quản lý để làm
cơ sở cho việc quản lý ở chu kỳ tiếp theo đặc biệt là làm cở sở cho việc lập kế
hoạch của năm sau.
Muốn công tác quyết toán được tốt cần phải.
• Tổ chức bộ máy kế toán theo đúng quy định nhưng đảm bảo tinh giản,
gọn nhẹ, linh hoạt và hiệu quả
• Mở sổ sách theo dõi đầy đủ và đúng quy định
• Ghi chép cập nhập, phản ánh kịp thời và chính xác
• Thường xuyên tổ chức đối chiếu, kiểm tra
Nguyễn Thị Diệu Lớp CQ45/01.03
Luận văn tốt nghiệp

Học viện Tài Chính
• Cuối kỳ, báo cáo theo mẫu biếu thống nhất và xử lý những trường hợp
trái với chế độ để tránh tình trạng sai sót.
• Thực hiện báo cáo quý sau 15 ngày và báo cáo năm sau 45 ngày theo
quy định của Nhà nước
1.4.4. Thanh tra, kiểm tra, đánh giá.
Việc thực hiện kế hoạch không phải bao giờ cũng đúng như dự kiến.
Do vậy, đòi hỏi phải có sự thanh tra, kiểm tra thường xuyên để phát hiện sai
sót, uốn nắn và đưa công tác quản lý tài chính đi vào nền nếp. Việc kiểm tra
giúp cho đơn vị nắm được tình hình quản lý tài chính nhằm đảm bảo hiệu quả
đầu tư.
Cùng với việc thanh tra, kiểm tra, công tác đánh giá rất được coi trọng
trong quá trình quản lý tài chính. Đánh giá để xem việc gì đạt hiệu quả, những
việc gì không đạt gây lãng phí để có biện pháp động viên kịp thời cũng như
rút kinh nghiệm quản lý. Tuy nhiên các tiêu chí đánh giá hiện nay chưa thống
nhất và vẫn còn nhiều tranh luận và càng khó khăn do tính đặc thù của mình,
hoạt động kinh tế của đơn vị sự nghiệp y tế gắn bó hữu cơ với mục tiêu “
công bẳng trong cung cấp dịch vụ y tế cho nhân dân”.Hiện nay người ta
thường dùng ba nội dung để đánh giá hiệu quả hoạt động tài chính của đơn vị,
đó là:
• Chất lượng chuyên môn: Liên quan đến cơ cấu tổ chức, phương pháp
tiến hành hoạt động và tình trạng bệnh nhân khi xuất viện.
• Hạch toán chi phí bện viện: Liên quan đến chi phí kế toán và chi phí
kinh tế.
• Mức độ tiếp cận các dịch vụ y tế của nhân dân trên địa bàn.
Nguyễn Thị Diệu Lớp CQ45/01.03
Luận văn tốt nghiệp
Học viện Tài Chính
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG QUẢN LÝ CHI THƯỜNG XUYÊN NGÂN

SÁCH NHÀ NƯỚC CHO SỰ NGHIỆP Y TẾ TRÊN ĐỊA BÀN
THÀNH PHỐ HÀ NỘI
2.1. KHÁI QUÁT VỀ NGÀNH Y TẾ TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ
NỘI.
2.1.1. Thực trạng ngành Y tế Hà Nội những năm gần đây.
* Hệ thống tổ chức.
Các cơ sở y tế trực thuộc thành phố Hà Nội: Tổng số 89 đơn vị gồm
Tuyến thành phố:
Thành phố Hà Nội hiện có 40 bệnh viện đa khoa, chuyên khoa và y học
cổ truyền, có tổng diện tích 68,91 ha với 7980 giường bệnh.
Tuyến quận, huyện, thị xã:
Hà Nội có 29 trung tâm y tế quận, huyện, thị xã trong đó có 7 trung tâm
y tế có giường bệnh. Tổng diện tích của 7 trung tâm này là 2, 15 ha với tổng
số 115 giường bệnh.
Tuyến xã, phường, thị trấn:
Hiện nay trên khắp địa bàn Hà Nội có 576 trạm y tế xã, phường, thị trấn.
Nguyễn Thị Diệu Lớp CQ45/01.03
Luận văn tốt nghiệp
Học viện Tài Chính
Ngoài ra có 20 đơn vị khác gồm: Các trung tâm chuyên khoa, Trường
cao đẳng y tế Hà Đông, Chi cục Dân số - KHHGĐ Hà Nội, Chi cục an toàn vệ
sinh thực phẩm, ban quản lý dự án.
Về đội ngũ nhân lực và hệ thống đào tạo ngành y tế tại Hà Nội.
Toàn ngành y tế Hà Nội hiện có 12.847 cán bộ, công nhân viên chức.
Phân theo cấp: - Thành phố : 5.409 người chiếm 42,1%
- Quận, huyện : 4.256 người chiếm 33,1%
- Xã, phường : 3.182 người chiếm 24,76%
Phân theo khối: - Khối hành chính : 191 người
- Khối sự nghiệp : 12.847 người
Theo chức danh:

Các bác sĩ có trình độ sau đại học có 1.312 người chiếm 10,01 %, đại
học có 2.259 người chiếm 17,2%, cao đẳng có 177 người chiếm 1,4%. Trung
học chuyên nghiệp có 7.674 người chiếm 58,6%, còn lại là các bằng cấp khác.
Về cơ sở vật chất và trang thiết bị
Trong những năm gần đây, hệ thống y tế trên địa bàn Thành phố Hà
Nội đã có những bước chuyển biến rõ rệt về việc đầu tư trang thiết bị y tế.
Nhờ thực hiện chương trình nâng cấp thiết bị y tế cho Hà Nội và sự quan tâm
của lãnh đạo Thành phố, các bệnh viện đã được đầu tư nâng cấp, mua sắm
trang thiết bị y tế hiện đại để phục vụ công tác khám, chữa bệnh một cách
hiệu quả hơn.
Cơ sở vật chất của các bệnh viện và cơ sở y tế cũng được nâng cấp và
đầu tư. Các bệnh viện như U Bướu, Tim, Thành Nhàn, Xanh Phôn, Thận, đã
được đầu tư nâng cấp hoặc thành lập mới. Các TTYT ở các quận, huyện như
Thanh Trì, Tây Hồ, Từ Liêm… đã được đầu tư xây mới và nâng cấp về cơ sở
hạ tầng. Một số bệnh viện được đầu tư để trở thành các trung tâm chuyên sâu,
kỹ thuật cao bằng nguồn vốn từ ngân sách nhà nước như Xanh Pôn, Thanh
Nhàn, U bướu… Một số bệnh viện tranh thủ được các nguồn đầu tư viện trợ
của các tổ chức quốc tế và các nước, hoặc tự huy động nguồn vốn ngoài ngân
Nguyễn Thị Diệu Lớp CQ45/01.03
Luận văn tốt nghiệp
Học viện Tài Chính
sách để tăng cường hệ thống trang thiết bị y tế như bệnh viện Phụ sản, Lao,
Việt Nam- Cu Ba.
* Những hoạt động chủ yếu của ngành Y tế những năm gần đây.
- Công tác y tế dự phòng.
Thời gian qua, mạng lưới YTDP đã từng bước được hoàn thiện, hệ
thống YTDP tương đối hoàn chỉnh, gồm có Trung tâm y tế dự phòng (bao
gồm TTYTDP Thành phố và các TTYTDP quận, huyện, phường, xã)
Trung tâm YTDP Thành phố có nhiệm vụ vệ sinh, phòng bệnh, giám sát, phát
hiện và phòng chống dịch bệnh chỉ đạo thực hiện với các trung tâm YTDP

cấp dưới.
- Y tế cơ sơ, và các chương trình y tế.
Tiếp tục duy trì hoạt động của y tế các cấp dưới, đảm bảo 100% các
trạm, y tế xã phường có nhân viên y tế hoạt động. Tăng số lượt người khám
bệnh/ đầu người tại các trạm y tế từ 18,9% lên 24,6% trong vòng 3 năm.
Tiếp tục triển khai có hiệu quả các chương trình y tế, mục tiêu hoạt
động của chương trình y tế quốc gia và Thành phố đều vượt kế hoạch đề ra
như: Chương trình tiêm chủng rộng mở rộng đạt 99,85%; giảm tỷ lệ suy dinh
dưỡng của trẻ em dưới 5 tuổi từ 15,5% xuống còn 8,2%.
- Công tác khám chữa bệnh.
Công tác khám chữa bệnh có nhiểu chuyển biến tích cực, chất lượng
chuyên môn từng bước được nâng cao. Con số này ngày càng tăng lên, đầu
tiên thể hiện ở công suất khám chữa bệnh.
- Công tác dược.
Cung ứng đầy đủ thuốc chất lượng tốt cho công tác khám chữa bệnh,
thực hiện tốt các quy chế chuyên môn dược, quản lý, bảo quản, xuất nhập
thuốc theo đúng quy định. Tiếp tục đầu tư nâng cấp cơ sở vật chất mua sắm
trang thiết bị và nhân lực cho khối dược, nhiều đơn vị đã và đang triển khai
ứng dụng tin học trong quản lý dược.
Nguyễn Thị Diệu Lớp CQ45/01.03
Luận văn tốt nghiệp
Học viện Tài Chính
2.2. TÌNH HÌNH CHI THƯỜNG XUYÊN NSNN CHO SỰ NGHIỆP Y
TẾ TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI.
2.2.1. Số chi thường xuyên NSNN cho sự nghiệp y tế.
Chi thường xuyên NSNN cho y tế được định nghĩa là khoản chi từ
NSNN cấp cho sự nghiệp y tế, cân đối từ thuế trực thu và gián thu.
Hàng năm, căn cứ vào dự toán chi đã được chủ tài khoản phê duyệt,
NSNN sẽ cấp cho đơn vị một khoản tiền để chi trả, thanh toán các nhu cầu
thường xuyên. Để kiểm tra, giám sát các hoạt động thu chi, của đơn vị đối với

nguồn kinh phí do nhà nước cấp, các đơn vị phải đăng ký mở tài khoản tại
Kho Bạc Nhà nước Thành Phố để phán ánh các khoản thu chi trong quá trình
hoạt động, sản xuất cung ứng dịch vụ khám chữa bệnh.Tình hình chi ngân
sách nhà nước cho sự nghiệp y tế, được thể hiện qua biểu đồ sau:
Biểu đồ 1:
(Nguồn: Sở Tài Chính Hà Nội)
Nguyễn Thị Diệu Lớp CQ45/01.03
Luận văn tốt nghiệp
Học viện Tài Chính
Biểu đồ 2: Tỷ trọng chi thường xuyên NSNN cho sự nghiệp Y tế.
Chi NSNN cho sự nghiệp y tế, đó là các khoản chi của ngân sách
Thành phố nhằm mục đích thực hiện công tác chăm sóc và bảo vệ sức khỏe
nhân dân trên địa bàn Thành phố. Chính vì vậy mà Thành phố luôn dành cho
sự nghiệp y tế một nguồn kinh phí đáng kể. Năm 2009, tổng chi thường xuyên
của ngân sách Thành phố là 10.826.842 triệu đồng, trong đó chi cho sự
nghiệp y tế là 885. 653 triệu đồng, chiếm 8,18%. Tiếp theo năm 2010 tỷ hi sự
nghiệp y tế giảm xuống là 7,5% trong tổng số chi, nhưng số chi thường xuyên
vẫn tăng là 1.134.478 triệu đồng. Theo dự toán của năm 2011 thì chi ngân
sách nhà nước cho sự nghiệp y tế là 1.150.240 triệu đồng, chiếm 7,1% trong
tổng số chi là 16.115.760 triệu đồng.
Tuy về số thực chi ngân sách cho sự nghiệp y tế tăng, nhưng tỷ trọng so
với các khoản chi sự nghiệp khác thì giảm, điều này phù hợp với cơ chế tự
chủ tài chính mới trong hoạt động y tế.
Khi thực hiện cơ chế tự chủ tài chính thì nguồn thu từ ngân sách nhà
nước không còn là nguồn tài chính duy nhất, nhưng nguồn ngân sách vẫn luôn
là nguồn lực chủ đạo, nhằm đưa các hoạt động theo đúng hướng và mục tiêu
Nguyễn Thị Diệu Lớp CQ45/01.03
Luận văn tốt nghiệp
Học viện Tài Chính
đã đề ra, chính vì vậy mà chi ngân sách Thành phố cho sự nghiệp y tế sẽ phải

tăng, nhưng tỷ trọng so với các ngành khác giảm, để phù hợp và đảm bảo phát
triển toàn diện nền kinh tế.
Không chỉ tăng lên về số lượng, mà chi ngân sách nhà nước cho sự
nghiệp y tế tăng lên cả về chất lượng. Tức là đã giảm được những khoản chi
cho kiến thiết, thị chính gọn nhẹ bộ máy quản lý, tăng chi sự nghiệp cho
phòng bệnh và sự nghiệp khám chữa bệnh. Cộng thêm những kết quả đã đạt
được trong thời gian qua đã thể hiện được hiệu quả trong công tác quản lý chi
ngân sách nhà nước cho sự nghiệp y tế.
Mặc dù, ngân sách nhà nước cấp cho chi thường xuyên thường xuyên
tăng, song mới chỉ đáp ứng được khoảng 45% nhu cầu. Số còn lại các đơn vị
phải bổ sung từ nguồn kinh phí khác mà chủ yếu là thu viện phí và bảo hiểm y
tế.
Ngoài ra ngân sách Thành phố còn chi cho sự nghiệp Y tế trong các
hoạt động khác như:
Kinh phí thực hiện các đề tài nghiên cứu khoa học cấp Nhà nước, cấp
Bộ…
Kinh phí Nhà nước thanh toán cho đơn vị theo chế độ đặt hàng để thực
hiện các nhiệm vụ Nhà nước giao, theo giá khung giá do Nhà nước quy định.
2.2.2. Tình hình chi thường xuyên NSNN cho sự nghiệp Y tế theo các
nhóm mục chi.
Các khoản chi thường xuyên trong ngân sách hàng năm, được phân bổ
chi tiêu theo các nhóm mục chi được thể hiện ở dưới biểu đồ sau:
Nguyễn Thị Diệu Lớp CQ45/01.03
Luận văn tốt nghiệp
Học viện Tài Chính
Biểu đồ 3
Chi cho con người – thuộc nhóm mục chi I chiếm tỷ trọng lớn nhất
trong các khoản chi, từ 80% -90% tổng chi trong kinh phí thường xuyên của
ngân sách nhà nước cấp cho sự nghiệp y tế.
Chi cho nghiệp vụ chuyên môn- thuộc nhóm chi II là khoản chi quan

trọng nhất ảnh hưởng đến chất lượng khám chữa bệnh. Khoản chi này, chiếm
tỷ trọng khoảng 10% .Trong đó chủ yếu chi mua thuốc, vật tư chuyên môn
(chiếm 85%-95%) tổng chi cho sự nghiệp chuyên môn). Ngoài ra là các
khoản chi khác: mua sắm trang thiết bị chuyên môn nhưng không phải là tài
sản cố định, mua bán, in ấn tài liệu chuyên môn, chi cho sự nghiệp nghiên cứu
đề tài.
Nguyễn Thị Diệu Lớp CQ45/01.03
Luận văn tốt nghiệp
Học viện Tài Chính
Chi mua sắm sữa chữa- thuộc nhóm chi thứ III .Các đơn vị sự nghiệp y
tế ưu tiên đầu tư cơ sở vật chất trang thiết bị máy móc y tế hiện đại. Số kinh
phí đầu tư cho nâng cấp, sửa chữa lớn và mua sắm mới TSCĐ, chiếm từ dưới
5% tổng chi NSNN.
Các khoản chi khác- thuộc nhóm chi IV đang có xu hướng tăng nhanh
và chiếm tỷ trọng dưới 5%. Xu hướng chung chi khác phải ngày càng giảm,
nhưng do các đơn vị sự nghiệp có nhiều máy móc hiện đại, kỹ thuật cao đòi
hỏi phải luôn được bảo dưỡng, sửa chữa. Mặt khác do quy mô mở rộng nên
nhu cầu sử dụng điện, nước… của các đơn vị rất lớn và ngày càng tăng. Vì
vậy cần có biện pháp để tiết kiệm hơn nữa các khoản chi này, tránh sử dụng
lãng phí, tùy tiện.
Để có nhận xét đúng đắn nhất, ta đi phân tích sâu từng nhóm mục chi
cụ thể.
* Nhóm chi cho con người
Xét dưới góc độ y tế phục vụ con người thì con người là mục tiêu phục
vụ của ngành y tế, nhưng xét dưới góc độ xây dựng và phát triển thì con
người, những người làm trong ngành y tế, không những là mục tiêu phục vụ
ngành y tế, mà đó còn là chủ thể xây dựng và phát triển y tế.
Chi cho con người là nhóm chi đảm bảo bù đắp hao phí sức lao động, là
điều kiện đầu tiên để duy trì sự sống của con người, từ đó mới có thể thực
hiện được nhiệm vụ chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân. Cơ cấu chi con

người được thể hiện ở bảng dưới đây:
Nguyễn Thị Diệu Lớp CQ45/01.03
Luận văn tốt nghiệp Học viện Tài Chính
Bảng số 01 : Cơ cấu chi cho con người theo các tiểu nhóm chi.
ĐVT

: Triệu đồng
Mục chi
Năm 2009 Năm 2010 Năm 2011( Dự toán)
Số đã thực
hiện
Tỷ trọng
(%)
Số đã
Thựchiện
Tỷ trọng
(%)
Số đã
Thực
hiện
2010/2009
(%)
Số Thực
hiện
Tỷ trọng
(%)
Tổng chi cho con người 765.647 100 986.428 100 128,8 1.002.090 100
1. Tiền lương. 366.362 47,85 543.620 55,11 148,3 590.230 58,9
2. Phụ cấp lương. 31.328 4,08 51.195 5,19 163,4 69.145 6,9
3. Sinh hoạt phí CB đi học. 258.559 33,77 216.225 21,92 83,6 164.342 16,4

Nguyễn Thị Diệu Lớp CQ45/01.03

×