Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Công nghiệp với sự phát triển kinh tế Thái Nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (293.26 KB, 5 trang )

Nguyễn Thị Hằng và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 69(7): 149 - 153
149


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


CÔNG NGHIỆP VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ THÁI NGUYÊN TRONG THỜI KỲ
HỘI NHẬP KINH TẾ TOÀN CẦU

Nguyễn Thị Hằng
1*
, Nguyễn Việt Tiến
2

1
Khoa Công nghệ thông tin – Đại học Thái Nguyên,
2
Trường Đại học Sư Phạm Thái Nguyên – Đại họcThái Nguyên

TÓM TẮT
Trong thực tiễn phát triển kinh tế của mỗi quốc gia, mỗi địa phương, phát triển công nghiệp và dịch
vụ sẽ làm giảm tỷ trọng nông, lâm nghiệp và góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo
hướng tăng tỷ trọng công nghiệp, dịch vụ nông thôn, thúc đẩy chế biến nông lâm sản, làm cho kinh tế
nông thôn phát triển, hướng tới xây dựng nông nghiệp, nông thôn, nông dân trong điều kiện hội nhập
kinh tế quốc tế. Sự phát triển ngành công nghiệp Thái Nguyên sẽ tạo ra bước đột phá, góp phần làm
thay đổi về cơ bản đời sống kinh tế xã hội của tỉnh, đưa Thái Nguyên vững bước đi lên trên con
đường hội nhập.
Từ khoá: Hội nhập kinh tế, phát triển, công nghiệp, toàn cầu, Thái Nguyên.




MỞ ĐẦU
Thái Nguyên là một tỉnh thuộc vùng Trung du
và miền núi phía Bắc, có lợi thế về tài nguyên
để phát triển một nền kinh tế đa dạng, đặc biệt
là công nghiệp. Thực tế cho thấy, sự phát
triển của ngành công nghiệp đã góp phần chủ
yếu vào việc làm thay đổi diện mạo kinh tế và
đời sống xã hội tỉnh Thái Nguyên.
ĐÁNH GIÁ VỀ TIỀM NĂNG PHÁT TRIỂN
CÔNG NGHIỆP THÁI NGUYÊN
Thái Nguyên có vị trí địa lý thuận lợi cho
phát triển công nghiệp, là cửa ngõ phía Bắ c
của thủ đô Hà Nội, là cầu nối các tỉnh đồng
bằng sông Hồng với các tỉnh Việt Bắc nói
chung và Đông Bắc nói riêng. Vị trí địa lý của
Thái Nguyên là một nguồn lực quan trọng cho
sự phát triển công nghiệp. Tuy nhiên, Thái
Nguyên phải đối mặt với sự cạnh tranh của
tam giác tăng trưởng kinh tế Hà Nội - Hải
Phòng - Quảng Ninh.
Bên cạnh đó, Thái Nguyên có tiềm năng tự
nhiên thuận lợi để phát triển công nghiệp, đặc
biệt là khoáng sản. Thái Nguyên nằm trong
vùng sinh khoáng Đông Bắc Việt Nam, thuộc
vành đai sinh khoáng Thái Bình Dương. Lòng
đất có tiềm năng rất lớn về tài nguyên khoáng
sản với 4 nhóm khoáng sản: Nhóm khoáng
sản nhiên liệu, nhóm khoáng sản kim loại,
nhóm khoáng sản phi kim loại, nhóm khoáng

sản vật liệu xây dựng. Qua nghiên cứu thăm



Tel:0987118078
dò, trên địa bàn tỉnh đã phát hiện thấy nhiều
mỏ than, điểm quặng với khoảng 34 loại
khoáng sản phân bố tập trung ở Đại Từ, thành
phố Thái Nguyên, Trại Cau (Đồng Hỷ), Thần
Sa (Võ Nhai). Trong các loại khoáng sản của
Thái Nguyên, có ý nghĩa nhất là than và sắt.
Thái Nguyên là tỉnh có trữ lượng than đá lớn
thứ hai trong cả nước, sau Quảng Ninh. Trữ
lượng khoảng 90 triệu tấn, tập trung chủ yếu
ở Bá Sơn, Khánh Hoà (73,1 triệu tấn), Núi
Hồng (15 triệu tấn), Cao Ngạn (1,9 triệu tấn).
Bên cạnh đó còn có các mỏ Tân Ấp, Phú
Xuân, Thậm Thình, có thể đáp ứng cho nhu
cầu công nghiệp ở địa phương. Thái Nguyên
có tới 41 điểm quặng sắt có trữ lượng và tiềm
năng lớn, là nguồn nguyên liệu chủ yếu cho
tỉnh phát triển ngành công nghiệp luyện kim
đen đầu tiên của Việt Nam. Trên địa bàn tỉnh
có một số mỏ sắt lớn: mỏ sắt Trại Cau (xã
Tân Lợi, huyện Đồng Hỷ) với 5 khu (Chỏm
Vung, Thái Lạc, Núi Quặng, Hàn Chim, Kim
Cương), trữ lượng khoảng 20 triệu tấn, hàm
lượng Fe đạt 58,8 - 61,8%, được đánh giá
chất lượng tốt. Mỏ sắt Tiến Bộ (xã Linh Sơn -
Đồng Hỷ) gồm các mỏ quy mô nhỏ, hàm

lượng Fe đạt 43,29%, trữ lượng 1 - 3 triệu tấn.
Ngoài ra, Thái Nguyên còn có các mỏ sắt nhỏ
hơn như: Quang Trung, Linh Nham, Lạng
Hoa, Đồng Lương, mỏ sắt Núi Me, Toàn
Thắng. Mặt khác, Thái Nguyên còn có nguồn
nước dồi dào, cung cấp bởi hệ thống sông
Cầu, sông Công, có vai trò quan trọng trong
Nguyễn Thị Hằng và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 69(7): 149 - 153
150


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


việc duy trì hoạt động của các ngành công
nghiệp.
Bên cạnh đó, Thái Nguyên có nguồn lực kinh
tế - xã hội tương đối thuận lợi cho phát triển
công nghiệp. Nguồn lao động của tỉnh dồi dào
và không ngừng tăng lên. Đây là động lực
quan trọng cho việc phát triển công nghiệp
của tỉnh. Nguồn lực cơ sở vật chất và kết cấu
hạ tầng của tỉnh khá hoàn thiện, thuận lợi cho
việc mở rộng quy mô, nâng cao hiệu quả hoạt
động ngành công nghiệp, hấp dẫn các nhà đầu
tư nước ngoài. Về thị trường, Thái Nguyên
không chỉ coi trọng thị trường nội địa mà còn
đẩy mạnh mở rộng thị trường ra bên ngoài tỉnh
và ngoài nước. Cho đến nay, Thái Nguyên đã
mở rộng giao lưu với nhiều tỉnh trong nước và

có quan hệ kinh tế với hầu khắp các tỉnh miền
Bắc. Nguồn vốn đầu tư vào tỉnh chưa nhiều
lắm nhưng ngày càng tăng lên. Việc đầu tư
xây dựng, nâng cấp cơ sở hạ tầng, năng lực
kinh doanh của các nhà máy xí nghiệp ngày
càng phát triển. Bên cạnh đó, Thái Nguyên có
nhiều chính sách ưu đãi hấp dẫn, khuyến
khích các nhà đầu tư, các dự án đầu tư vào
ngành công nghiệp của tỉnh.
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN CÔNG
NGHIỆP THÁI NGUYÊN
Thái Nguyên là một trung tâm kinh tế có lịch
sử phát triển tương đối sớm. Năm 1958, khu
công nghiệp gang thép Thái Nguyên được khởi
công xây dựng với sự giúp đỡ về mặt kỹ thuật
và thiết bị của Trung Quốc, có công suất thiết
kế ban đầu là 100.000 tấn thép/năm. Đến
những năm đầu của thập niên 60, ngành công
nghiệp Thái Nguyên đã được hình thành. Thái
Nguyên đã xây dựng được một trung tâm công
nghiệp luyện kim đầu tiên và lớn nhất cả nước
với hàng chục xí nghiệp như các xí nghiệp
Gang thép Lưu Xá (mỗi lò cho 150 tấn
thép/ngày); nhà máy cán thép Gia Sàng (xây
dựng năm 1975, công suất thiết kế 50.000 tấn
thép/năm) Hiện nay, Thái Nguyên được
đánh giá là một trong ba tỉnh của vùng Đông
Bắc có ngành công nghiệp phát triển mạnh
nhất, đồng thời Thái Nguyên cũng được coi là
trung tâm công nghiệp quan trọng của vùng

Đông Bắc và là một trong những trung tâm
công nghiệp lớn của cả nước.
* Giá trị sản xuất công nghiệp:

Giá trị sản xuất công nghiệp trong những
năm qua không ngừng tăng lên. Năm 2001
doanh thu của ngành này 3.042 tỉ đồng, năm
2005 đạt 5.254 tỉ đồng và năm 2007 đạt
7.222 tỉ đồng, trung bình tăng 2.4 lần trong
vòng 7 năm.
* Cơ cấu ngành công nghiệp đa dạng
Thái Nguyên có 6 nhóm ngành công nghiệp
mũi nhọn là công nghiệp khai thác và chế biến
khoáng sản, công nghiệp chế biến nông - lâm
sản, thực phẩm, đồ uống, công nghiệp sản xuất
vật liệu xây dựng, công nghiệp dệt may, da
giầy xuất khẩu, công nghiệp luyện kim, công
nghiệp cơ khí. Trong đó, một số ngành sản
xuất quan trọng không chỉ có ý nghĩa với tỉnh
mà còn có ý nghĩa cả nước như: xi măng,
thép, chè Trong các ngành công nghiệp của
Thái Nguyên, công nghiệp luyện kim có vai
trò quan trọng đặc biệt. Năm 2007, sản lượng
thép đạt 441.000 tấn. Công ty gang thép Thái
Nguyên đã cải tạo xong giai đoạn 1 - nhà máy
cán thép 30 vạn tấn của Italy đã đi vào hoạt
động trên 30% công suất thiết kế nâng sản
lượng thép lên 550 nghìn tấn vào năm 2005,
năm 2007 đạt 644 nghìn tấn. Giai đoạn 2006 -
2010, công ty gang thép tiếp tục cải tạo mở

rộng giai đoạn 2 để đạt tổng công suất 750
nghìn tấn phôi thép. Do đó, toàn bộ sản lượng
thép sẽ đạt 1,1 triệu tấn vào năm 2010. Giai
đoạn 2011 - 2015 sẽ là 1,5 triệu tấn.
Về tổ chức lãnh thổ công nghiệp: So với cả
nước, Thái Nguyên là tỉnh hình thành các khu
công nghiệp tương đối sớm. Ngoài các khu
công nghiệp có tên tuổi và bề dày hoạt động
hiện nay là khu công nghiệp Gang thép, sông
Công Tỉnh đã hình thành thêm các khu, cụm
công nghiệp tại các huyện, thành thị như khu
Nguyễn Thị Hằng và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 69(7): 149 - 153
151


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


công nghiệp Yên Bình, khu công nghiệp sinh
thái Tây Phổ Yên, mở rộng khu công nghiệp
Điềm Thuỵ
ĐÓNG GÓP CỦA NGÀNH CÔNG NGHIỆP
ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ
HỘI THÁI NGUYÊN
* Công nghiệp phát triển góp phần chuyển dịch
cơ cấu kinh tế

Như vậy, trong giai đoạn 2004-2006, cơ cấu
kinh tế tỉnh Thái Nguyên có sự chuyển dịch
tích cực theo hướng giảm tỉ trọng ngành nông

– lâm – ngư nghiệp và tăng dần tỉ trọng công
nghiệp, dịch vụ. Năm 2004, công nghiệp mới
chiếm 38.50%, nhưng đến năm 2008, tỉ trọng
ngành công nghiệp đã tăng lên 39,78%. Với
tốc độ tăng như vậy, Thái Nguyên phấn đấu
đến năm 2010, công nghiệp và xây dựng
chiếm 45%, dịch vụ chiếm 38 – 39%, nông
nghiệp chiếm 16-17%. Trong cơ cấu kinh tế
chung, ngành công nghiệp có tỷ trọng tăng
tương đối đều qua các năm. Điều đó cho thấy
công nghiệp đang dần vươn lên khẳng định
được vị trí và vai trò chủ đạo trong nền kinh
tế. Đây là sự chuyển dịch đúng hướng và cần
thiết trong bối cảnh hiện nay. Điều đó góp
phần không nhỏ để đạt được mục tiêu phấn
đấu đến năm 2020, Thái Nguyên cơ bản trở
thành một tỉnh công nghiệp.
* Đóng góp vào cơ cấu GDP

Hnh 3. Tăng trưởng GDP và tăng trưởng GDP
công nghiệp của Thái nguyên qua 2004-2006
(đơn vị tính: %)
Qua đồ thị có thể thấy, tốc độ tăng trưởng
công nghiệp luôn lớn hơn tốc độ tăng trưởng
GDP của Thái nguyên. Điều này cho thấy vai
trò quan trọng của công nghiệp đối với tăng
trưởng chung của kinh tế Thái nguyên. Điều
đó có nghĩa, tăng trưởng kinh tế chung của
Thái nguyên có sự đóng góp rất nhiều của
công nghiệp. Thực tế cho thấy, hàng năm sản

xuất công nghiệp đã đóng góp từ 57 - 60%
tổng thu ngân sách hàng năm của tỉnh.
* Đóng góp vào ngân sách của tỉnh
Nguồn tạo ngân sách thu của Thái Nguyên
chủ yếu là thu từ thuế và phí (chiếm trên
70%). Nguồn thu này chủ yếu từ hoạt động
sản xuất kinh doanh công nghiệp và dịch vụ.
Thời kì 2004-2006, tỷ trọng đóng góp của
công nghiệp vào nguồn thu ngân sách đạt
khoảng 20%. Trong đó, năm 2004 tỷ trọng
đóng góp của công nghiệp vào thu ngân sách
là 18%, và 20% vào năm 2005, 2006.
Bng 1. Đó ng gó p củ a công nghiệ p và o ngân sá ch
tỉnh Thái Nguyên giai đoạn 2004-2006
(ĐVT: Tỷ đồng, %)


* công nghiệp góp phần giải quyết việc làm,
tăng thu nhập
Công nghiệp có vai trò quyết định đối với sự
phân công lao động xã hội. Thời kì 2004-
2006, công nghiệp đã thu hút được 172.622
nghìn người, chỉ chiếm dưới 10% so với lao
động đang làm việc trong các ngành kinh tế
quốc dân. Tính trung bình hàng năm, ngành
HNH 2: CƠ CẤU KINH TẾ THÁI NGUYÊN
GIAI ĐOẠN 2004 - 2006
38.5
38.64
38.72

26.87
26.54
24.64
34.64
34.82
36.64
0
20
40
60
80
100
120
2004 2005 2006
%
Năm
Dịch vụ
Nông, lâm, nghiệp
Công nghiệp
0
2
4
6
8
10
12
14
2004
2005
2006

Tốc độ tăng
GDP của CN
Tốc độ tăng
GDP
Nguyễn Thị Hằng và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 69(7): 149 - 153
152


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


công nghiệp Thái Nguyên thu hút khoảng hơn
80.000 lao động. Có thể nói trong thời gian
qua, công nghiệp đã đóng góp tích cực vào
việc thu hút lao động và giải quyết việc làm
cho xã hội. Tuy số thu hút lao động vào công
nghiệp còn khiêm tốn, song nó có ý nghĩa
quan trọng vì chủ yếu lao động đang làm việc
trong các doanh nghiệp công nghiệp có trang
bị kỹ thuật cao và công nghệ hiện đại. Điều
đó sẽ giúp nâng cao tay nghề cho họ. Ngoài
ra, nhờ phát triển công nghiệp đã góp phần
gián tiếp vào thu hút thêm lao động vào các
ngành khác, rõ rệt nhất là ngành dịch vụ.
Theo tính toán, lao động công nghiệp tăng
thêm 1% sẽ có khả năng lôi kéo lao động dịch
vụ tăng thêm 0,2%.
MỘT SỐ GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY SỰ PHÁT
TRIỂN CÔNG NGHIỆP THÁI NGUYÊN
Để duy trì và đẩy mạnh sự phát triển hoạt động

công nghiệp, không thể tách rời nguồn vốn.
Đây là một giải pháp hữu hiệu, quan trọng
hàng đầu, quyết định sự phát triển ngành công
nghiệp. Vốn chi phối tất cả các khâu trong
quá trình phát triển công nghiệp: xây dựng cơ
sở hạ tầng, đầu tư sản xuất kinh doanh, mở
rộng quy mô phát triển. Dự kiến tổng số vốn
đầu tư phát triển công nghiệp trên địa bàn
Thái Nguyên giai đoạn 2006 - 2010 là 19.093
tỉ đồng. Nguồn vố này có thể huy động từ
hoạt động thu hút đầu tư, huy động từ nhân
dân, tạo vốn thông qua tín dụng thương mại,
ngân hàng Việc thu hút vốn có liên quan
mật thiết đến cơ chế chính sách, vì có tạo
được cơ thông thoáng thì mới có khả năng lôi
kéo các nhà đầu tư.
Để mở rộng quy mô công nghiệp, cần phát
triển cơ sở hạ tầng. Mặt khác, cần đẩy mạnh
hoạt động của trung tâm thông tin tư vấn và
chuyển giao công nghệ Thái Nguyên. Đẩy
mạnh công tác tuyên truyền giáo dục, nâng
cao ý thức cộng đồng bảo vệ môi trường.
Nâng cao năng lực quản lý môi trường, xã hội
hoá công tác bảo vệ môi trường. Bên cạnh đó,
tỉnh cần có chính sách đào tạo và sử dụng hợp
lý nguồn lao động thông qua việc thành lập
trung tâm dạy nghề ở các huyện.
Ngoài ra, cần có chính sách hợp lý để mở
rộng thị trường và tích cực quảng bá thương
hiệu. Điều đó được thực hiện thông qua việc

đẩy mạnh hoạt động của các trung tâm xúc
tiến thương mại và du lịch Thái Nguyên. Các
doanh nghiệp có sản phẩm đặc trưng, có lợi
thế so sánh, có sản lượng hàng hoá lớn, tham
dự hội chợ triển lãm trong nước để mở rộng
thị trường sẽ được tỉnh có cơ chế hỗ trợ kinh
phí thuê gian hàng triển lãm, xây dựng mạng
lưới đại lý, các nhà phân phối tiêu thụ sản
phẩm rộng khắp trong tỉnh và cả nước. Xây
dựng thương hiệu hàng hoá, xã hội hoá hoạt
động dịch vụ, du lịch
KẾT LUẬN
Mặc dù ngành công nghiệp Thái Nguyên đã
có sự phát triển và gặt hái được nhiều thành
tựu, song sản xuất công nghiệp tăng trưởng
chưa thực sự ổn định, vững chắc, chất lượng
hiệu quả chưa cao, sức cạnh tranh thấp, nhiều
doanh nghiệp công nghệ còn lạc hậu, trình độ
tổ chức quản lý còn yếu kém, khả năng hội
nhập kém. Mặt khác, cơ sở vật chất kỹ thuật
còn thiếu đồng bộ, nhất là các doanh nghiệp
địa phương thiếu sự chủ động và năng động,
chưa phát huy được tiềm năng của địa
phương mình, năng suất lao động chưa cao.
Cơ cấu ngành công nghiệp chậm chuyển dịch,
tỉ trọng ngành công nghiệp đòi hỏi hàm lượng
khoa học kỹ thuật cao còn nhỏ. Tuy nhiên,
nếu khắc phục được một số hạn chế về cơ chế
chính sách, khả năng tổ chức điều hành và
trình độ lao động thì công nghiệp Thái

Nguyên sẽ có bước phát triển vững chắc, thực
sự trở thành ngành kinh tế chủ đạo đưa Thái
Nguyên bứt phá đi lên trong thời kỳ hội nhập.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Bộ Công nghiệp (2005) Quy hoạch tổng thể
phát triển các ngành công nghiệp Việt Nam theo
các vùng lãnh thổ đến năm 2010, Viện nghiên cứu
chiến lược, Hà Nội.
[2]. Bộ KH-ĐT (2000), Quy hoạch tổng thể kinh
tế - xã hội vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ thời kỳ
1997-2010, Viện chiến lược phát triển, Hà Nội.
[3]. Ngô Đình Giao (1994), Chuyển dịch cơ cấu kinh tế,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
[4]. Sở Công thương Thái Nguyên (2008), Quy
hoạch phát triển công nghiệp Thái Nguyên giai
đoạn 2010 – 2020.

Nguyễn Thị Hằng và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 69(7): 149 - 153
153


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


SUMMARY
AN INDUSTRY WITH THE THAI NGUYEN ECONOMIC DEVELOPMENT IN
GLOBAL ECONOMIC INTEGARATION

Nguyen Thi Hang
1

, Nguyen Viet Tien
2

1
Falcuty of Information and Technology – TNU
2
Thai Nguyen University of Education - TNU

In fact the economic development of each country, each region, industrial and service development
will reduce agricultural and forestry density, thence it helps to move the countryside economic
structure toward increasing industrial density, countryside service density and impulses to process
agricultural and forestry product, from that it makes the agricultural economic to be developed, so
toward building agriculture, countryside, farmer in international economic integration conditions.
The Thai Nguyen industrial development will make a broken through step in social economic
development and so it has a part in varying the social economic lift basic of Thai Nguyen, from that it
takes Thai Nguyen province to go up to an integrated way firmly.
Key words: economic integration, development, industry, global, Thai Nguyen.




Tel: 0987118078

×