Tải bản đầy đủ (.doc) (56 trang)

Một số biện pháp thúc đẩy hoạt động xuất khẩu ở Công ty xuất nhập khẩu Hà Tây

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (310.36 KB, 56 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Qua 10 năm đổi mới, nền kinh tế nước ta đã có những chuyển biến và đạt
được những thành tựu quan trọng. Tuy nhiên, đến nay nước ta vẫn là một nước
nông nghiệp lạc hậu, công nghiệp còn nhỏ bé. Muốn đạt được mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh tất yếu phải đẩy tới bước mới công
nghiệp hóa – hiện đại hóa (CNH – HĐH). Công nghiệp hoá là thực chất xây
dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của xã hội chủ nghĩa (XHCN). Đó không chỉ là
tăng nhanh tốc độ và tỷ trọng của sản xuất công nghiệp trong GDP mà còn là
quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế gắn với đổi mới cơ bản về kỹ thuật và công
nghệ, hiện đại hoá các ngành kinh tế quốc dân, tạo cơ sở cho sự tăng trưởng
nhanh, đạt hiệu quả cao và lâu dài của toàn bộ nền kinh tế quốc dân .
Chúng ta đều biết rằng, hoạt động xuất khẩu có vai trò hết sức quan trọng
đối với sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Đối với Việt Nam, xuất khẩu
hàng hoá đang trở thành một vấn đề hết sức cấp thiết cho sự nghiệp công nghiệp
hoá - hiện đại hoá đất nước, cũng như góp phần nâng cao đời sống nhân dân.
Thông qua hoạt động xuất khẩu, Việt Nam có thể tận dụng được các tiềm năng
sẵn có để sản xuất ra các loại hàng hoá phục vụ cho việc trao đổi, buôn bán với
các quốc gia khác để thu ngoại tệ. Với ngoại tệ thu được từ hoạt động xuất khẩu,
chúng ta có thể mua sắm các loại hàng hoá cần thiết từ các nước trên thế giới
nhằm phục vụ cho quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá cũng như thỏa mãn
các nhu cầu sinh hoạt của dân cư. Chính vì vậy, Đại hội Đảng lần thứ VI đã đưa
việc sản xuất hàng xuất khẩu là một trong ba chương trình kinh tế quan trọng
trong thời kỳ đổi mới của nước ta (ba chương trình đó là: sản xuất lương thực,
sản xuất hàng tiêu dùng và sản xuất hàng xuất khẩu ). Từ đó đến nay, vấn đề sản
xuất hàng xuất khẩu cũng như các hoạt động liên quan đến xuất khẩu hàng hoá ở
Việt Nam đang trở thành một vấn đề được nhiều người quan tâm với mục đích
tìm ra các biện pháp hữu hiệu nhất để đưa hoạt động xuất khẩu của Việt Nam
ngày càng có hiệu quả.
1
Bởi vì, thực tiễn hoạt động xuất khẩu ở Việt Nam cho thấy, bên cạnh một
số thành tựu đã đạt được, chúng ta cũng đang gặp không ít những khó khăn


trong hoạt động này.
Qua thời gian học tập tại trường, với sự hiểu biết của mình cùng với sự
giúp đỡ của thầy cô giáo, em đã nghiên cứu đề tài ″ Một số biện pháp thúc đẩy
hoạt động xuất khẩu ở Công ty xuất nhập khẩu Hà Tây".
Nội dung đề tài gồm 3 chương:
Chương I: Cơ sở lý luận về hoạt động Xuất khẩu trong nền kinh tế thị
trường
Chương II: Thực trạng hoạt động Xuất khẩu ở Công ty Xuất Nhập khẩu
Hà Tây
Chương III : Một số biện pháp thúc đẩy hoạt động Xuất khẩu ở Công ty
Xuất Nhập Khẩu Hà Tây
Vì trình độ và thời gian có hạn nên bài viết không tránh khỏi những thiếu
sót và hạn chế nhất định. Em mong nhận được sự góp ý của các thầy cô giáo và
các bạn.
Với cơ sở số liệu minh họa được lấy tại Công ty xuất nhập khẩu Hà Tây,
phương pháp nghiên cứu là dựa trên cơ sở lý luận kết hợp với thực tế, từ đó rút
ra những ý kiến nhận xét và đề xuất các giải pháp.
2
CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU TRONG NỀN
KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
I. XUẤT KHẨU HÀNG HOÁ VÀ VAI TRÒ CỦA HOẠT ĐỘNG
XUẤT KHẨU TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
1. Khái niệm và đặc điểm của xuất khẩu hàng hoá
1.1. Khái niệm
Từ sự ra đời của hoạt động thương mại quốc tế có thể nói: Thương mại
quốc tế là quá trình trao đổi hàng hoá giữa các quốc gia khác nhau trên thế giới
thông qua các quan hệ mua bán quốc tế. Hoạt động thương mại quốc tế là biểu
hiện của một hình thức quan hệ xã hội ở phạm vi quốc tế và phản ánh sự phụ
thuộc lẫn nhau về kinh tế giữa những người sản xuất hàng hoá riêng biệt.

Hoạt động xuất khẩu là m ột mặt quan trọng trong hoạt động thương mại
quốc tế của một quốc gia với phần còn lại của thế giới. Nó là quá trình bán
những hàng hoá của quốc gia đó cho một hay nhiều quốc gia khác trên thế giới
nhằm thu ngoại tệ.
Như vậy, về bản chất hoạt động xuất khẩu và hoạt động buôn bán trong
nước đều là một quá trình trao đổi hàng hoá (bán hàng), đó là quá trình thực hiện
giá trị hàng hoá của người sản xuất hoặc người bán. Tuy nhiên, về hình thức và
phạm vi thì hoạt động xuất khẩu có nhiều điểm khác biệt mà các nhà xuất khẩu
cần nhận thấy để có sự vận dụng hợp lý.
1.2. Đặc điểm
Thứ nhất, khách hàng trong hoạt động xuất khẩu là người nước ngoài. Do
đó, khi muốn phục vụ họ, nhà xuất khẩu không thể áp dụng các biện pháp giống
hoàn toàn như khi chinh phục khách hàng trong nước. Bởi vì, giữa hai loại
khách hàng này có nhiều điểm khác biệt về ngôn ngữ, lối sống, mức sống,
phong tục tập quán. . . Điều này sẽ dẫn đến những khác biệt trong nhu cầu và
cách thức thoả mãn nhu cầu. Vì vậy, nhà xuất khẩu cần phải có sự nghiên cứu
3
sâu hơn để tìm hiểu nhu cầu của khách hàng nước ngoài để đưa ra những hàng
hoá phù hợp.
Thứ hai, thị trường trong kinh doanh xuất khẩu thường phức tạp và khó
tiếp cận hơn thị trường kinh doanh trong nước. Bởi vì thị trường xuất khẩu
vượt ra ngoài phạm vi biên giới quốc gia nên về mặt địa lý thì nó ở cách xa hơn,
phức tạp hơn và có nhiều nhân tố ràng buộc hơn.
Thứ ba, hình thức mua bán trong hoạt động xuất khẩu thường là mua bán
qua hợp đồng xuất khẩu với khối lượng mua lớn mới có hiệu quả.
Thứ tư, các nghiệp vụ liên quan đến hoạt động xuất khẩu như thanh toán,
vận chuyển, ký kết hợp đồng. . . đều phức tạp và chứa đựng nhiều rủi ro.
Nói tóm lại, hoạt động xuất khẩu là sự mở rộng quan hệ buôn bán trong
nước ra nước ngoài, điều này thể hiện sự phức tạp của nó. Hoạt động xuất khẩu
có thể đem lại kết quả cao hơn hoạt động kinh doanh trong nước nhưng cũng

chứa đựng nhiều rủi ro hơn.
2. Vai trò của hoạt động xuất khẩu trong nền kinh tế thị trường
Hoạt động xuất khẩu hàng hoá của một quốc gia được thực hiện bởi các
đơn vị kinh tế của các quốc gia đó mà phần lớn là thông qua các doanh nghiệp
ngoại thương. Do vậy, thực chất của hoạt động xuất khẩu hàng hoá của quốc gia
là hoạt động xuất khẩu hàng hoá của các doanh nghiệp.
Hoạt động xuất khẩu không chỉ có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế
quốc dân mà còn đối với bản thân các doanh nghiệp tham gia.
2.1. Đối với nền kinh tế quốc dân
Là một nội dung chính của hoạt động ngoại thương và là hoạt động đầu
tiên trong hoạt động thương mại quốc tế, xuất khẩu có vai trò đặc biệt quan
trong trong quá trình phát triển kinh tế của từng quốc gia cũng như trên toàn
thế giới. Nó là một trong những nhân tố cơ bản để thúc đẩy sự tăng trưởng và
phát triển kinh tế quốc gia:
Thứ nhất, xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu, phục vụ công
nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước.
4
Ở các nước kém phát triển, một trong những vật cản chính đối với sự
tăng trưởng kinh tế là thiếu tiềm lực về vốn. Vì vậy, nguồn vốn huy động từ
nước ngoài được coi là nguồn chủ yếu cuả họ cho quá trình phát triển. Nhưng
mọi cơ hội đầu tư hoặc vay nợ từ nước ngoài và các quốc tế chỉ tăng lên khi các
chủ đầu tư và người cho vay thấy được khả năng xuất khẩu của nước đó, vì đây
là nguồn chính để đảm bảo nước này có thể trả được nợ.
Thứ hai, thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất
phát triển. Dưới tác động của xuất khẩu, cơ cấu sản xuất và tiêu dùng của thế
giới đã, đang và sẽ thay đổi mạnh mẽ hoạt động xuất khẩu làm chuyển dịch cơ
cấu kinh tế của các quốc gia từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ.
Có hai cách nhìn nhận về tác động của xuất khẩu đối với sản xuất và sự
dịch chuyển cơ cấu kinh tế:
- Coi thị trường là mục tiêu để tổ chức sản xuất và xuất khẩu. Quan điểm

này tác động tích cực đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát
triển. Cụ thể là:
+ Xuất khẩu tạo điều kiện cho các ngành cùng có cơ hội phát triển.
+ Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng thị trường sản phẩm, góp phần ổn định
sản xuất, tạo ra lợi thế nhờ qui mô.
+ Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp đầu vào cho sản
xuất, mở rộng khả năng tiêu dùng của một quốc gia. Hoạt động ngoại thương
cho phép một nước có thể tiêu dùng tất cả các mặt hàng với số lượng lớn hơn
nhiều lần so với khả năng sản xuất của quốc gia đó.
+ Xuất khẩu là phương tiện quan trọng để tạo vốn và thu hút kỹ thuật
công nghệ từ các nước phát triển nhằm hiện đại hoá nền kinh tế nội địa, tạo năng
lực cho sản xuất mới.
+ Xuất khẩu còn có vai trò thúc đẩy chuyên môn hoá, tăng cường hiệu
quả sản xuất của từng quốc gia. Khoa học công nghệ ngày càng phát triển thì
phân công lao động ngày càng sâu sắc. Ngày nay đã có những sản phẩm mà việc
chế tạo từng bộ phận được thực hiện ở các quốc gia khác nhau. Để hoàn thiện
được những sản phẩm này, người ta phải tiến hành xuất khẩu linh kiện từ nước
5
này sang nước khác để lắp ráp sản phẩm hoàn chỉnh. Do đó, từng nước không
nhất thiết phải sản xuất ra tất cả các loại hàng hoá mà mình cần, mà thông qua
xuất khẩu họ có thể tập trung vào sản xuất một vài loại mà họ có lợi thế, sau đó
tiến hành trao đổi lấy những hàng hoá mà mình cần.
- Một cách nhìn nhận khác lại cho rằng, chỉ xuất khẩu những sản phẩm
hàng hoá thừa trong tiêu dùng nội địa. Trong trường hợp nền kinh tế còn lạc hậu
và chậm phát triển, sản xuất về cơ bản chưa đủ tiêu dùng. Nếu chỉ thụ động chờ
sự thừa ra của sản xuất thì xuất khẩu chỉ bó hẹp trong một phạm vi hẹp và tăng
trưởng chậm, do đó các ngành sản xuất không có cơ hội phát triển.
Thứ ba, xuất khẩu có tác động tích cực đối với việc giải quyết công ăn
việc làm, cải thiện đời sống nhân dân.
Đối với việc giải quyết công ăn việc làm: Xuất khẩu thu hút hàng ttriệu

lao động thông qua sản xuất hàng xuất khẩu, tạo thu nhập ổn định cho người lao
động.
Mặt khác, xuất khẩu tạo ra nguồn ngoại tệ để nhập khẩu hàng hoá, đáp
ứng nhu cầu ngày càng phong phú và đa dạng của nhân dân.
Thứ tư, xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các mối quan hệ kinh
tế đối ngoại. Xuất khẩu và các mối quan hệ kinh tế đối ngoại có sự tác động qua
lại, phụ thuộc lẫn nhau. Hoạt động xuất khẩu là một loại hoạt động cơ bản, là
hình thức ban đầu của kinh tế đối ngoại, từ đó thúc đẩy các mối quan hệ khác
như du lịch quốc tế, bảo hiểm quốc tế, tín dụng quốc tế. . . phát triển theo.
Ngược lại sự phát triển của các ngành này lại tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt
động xuất khẩu phát triển.
2. 2. Đối với doanh nghiệp
Hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp có vai trò to lớn đối với bản
thân các doanh nghiệp tham gia vào thương mại quốc tế.
Thứ nhất, thông qua xuất khẩu, các doanh nghiệp trong nước có điều kiện
tham gia vào các cuộc cạnh tranh trên thị trường thế giới về giá cả, chất lượng.
Những yếu tố này đòi hỏi các doanh nghiệp phải hình thành một cơ cấu sản xuất
phù hợp với thị trường.
6
Thứ hai, sản xuất hàng xuất khẩu giúp doanh nghiệp thu hút được nhiều
lao động, tao ra thu nhập ổn định cho họ, tạo nguồn ngoại tệ để nhập khẩu hàng
tiêu dùng. Nó vừa đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của nhân dân, vừa thu
được lợi nhuận. Sản xuất hàng xuất khẩu còn giúp doanh nghiệp phải luôn luôn
đổi mới và hoàn thiện công tác quản lý kinh doanh, đồng thời có vốn để tiếp tục
đầu tư vào sản xuất không chỉ về chiều rộng mà cả về chiều sâu.
Thứ ba, xuất khẩu tạo điều kiện cho doanh nghiệp mở rộng thị trường, mở
rộng quan hệ kinh doanh với các bạn hàng cả trong và ngoài nước, trên cơ sở cả
hai bên đều có lợi. Vì vậy đã giúp doanh nghiệp tăng được doanh số và lợi
nhuận, đồng thời chia xẻ được rủi ro mất mát trong hoạt động kinh doanh, tăng
cường uy tín kinh doanh của công ty.

Thứ tư, xuất khẩu khuyến khích phát triển các mạng lưới kinh doanh của
doanh nghiệp, chẳng hạn như hoạt động đầu tư, nghiên cứu và phát triển, các
hoạt động sản xuất, Marketing cũng như sự phân phối và mở rộng kinh doanh.
Như vậy, hoạt động xuất khẩu có vai trò quan trọng và có tác động tích
cực tới sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp cũng như sự phát triển kinh tế
của một quốc gia.
II. CÁC HÌNH THỨC XUẤT KHẨU CHỦ YẾU CỦA DOANH
NGHIỆP HIỆN NAY
Hoạt động xuất khẩu hàng hoá được thực hiện dưới nhiều hình thức khác
nhau, điều này căn cứ vào đặc điểm sở hữu hàng hoá trước khi xuất khẩu, căn cứ
vào nguồn hàng xuất khẩu...Hiện nay, các doanh nghiệp ngoại thương thường
tiến hành một số hình thức xuất khẩu và được coi là xuất khẩu sau:
1. Xuất khẩu trực tiếp
Hoạt động xuất khẩu trực tiếp là một hình thức xuất khẩu hàng hoá mà
trong đó các doanh nghiệp ngoại thương tự bỏ vốn ra mua các sản phẩm từ các
đơn vị sản xuất trong nước, sau đó bán các sản phẩm này cho các khách hàng
nước ngoài (có thể qua một số công đoạn gia công chế biến).
Theo hình thức xuất khẩu này, các doanh nghiệp ngoại thương muốn có
hàng hoá để xuất khẩu thì phải có vốn thu gom hàng hoá từ các địa phương, các
7
cơ sở sản xuất trong nước. Khi doanh nghiệp bỏ vốn ra để mua hàng thì hàng
hoá thuộc sở hữu của doanh nghiệp.
Xuất khẩu theo hình thức trực tiếp thông thường có hiệu quả kinh doanh
cao hơn các hình thức xuất khẩu khác. Bởi vì doanh nghiệp có thể mua được
những hàng hoá có chất lượng cao, phù hợp với nhu cầu của mình cũng như của
khách hàng với giá cả mua vào thấp hơn. Tuy nhiên, dây là hình thức xuất khẩu
có độ rủi ro lớn, hàng hoá có thể không bán được do những thay đổi bất ngờ của
khách hàng, của thị trường dẫn đến ứ đọng vốn và đôi khi bị thất thoát hàng hoá.
2. Xuất khẩu uỷ thác
Hoạt động xuất khẩu uỷ thác là một hình thức dịch vụ thương mại, theo

đó doanh nghiệp ngoại thương đứng ra với vai trò là trung gian thực hiện việc
xuất khẩu hàng hoá cho các đơn vị có hàng hoá uỷ thác. Trong hình thức này,
hàng hoá trước khi kết thúc quá trình xuất khẩu vẫn thuộc sở hữu của đơn vị uỷ
thác. Doanh nghiệp ngoại thương chỉ có nhiệm vụ làm các thủ tục về xuất khẩu
hàng hoá, kể cả việc vận chuyển hàng hoá và được hưởng một khoản tiền gọi là
phí uỷ thác mà đơn vị uỷ thác trả.
Hình thức xuất khẩu này có ưu điểm là dễ thực hiện, độ rủi ro thấp, doanh
nghiệp ngoại thương không phải là người chịu trách nhiệm cuối cùng về hàng
hoá và cũng không phải tự bỏ vốn ra để mua hàng. Tuy nhiên, phí uỷ thác mà
doanh nghiệp nhận được thường nhỏ nhưng được thanh toán nhanh.
3. Hoạt động gia công xuất khẩu quốc tế
Gia công quốc tế đó là một hoạt động mà một bên - gọi là bên đặt hàng -
giao nguyên vật liệu , có khi cả máy móc , thiết bị và chuyên gia cho bên kia gọi
kà bên nhận gia công . Để xuất ra một mặt hàng mới theo yêu cầu của bên đặt
hàng . Hàng hoá sau khi sản xuất xong được giao cho bên đặt gia công .Bên
nhận gia công được trả tiền công . Khi hoạt động gia công vượt ra khỏi biên giới
quốc gia thì được gội là gia công quốc tế.
Theo hình thức xuất khẩu này, doanh nghiệp ngoại thương đứng ra nhập
nguyên nhiên vật liệu, bán thành phẩm về cho các đơn vị nhận gia công từ các
khách hàng nước ngoài đặt gia công. Sau đó, đơn vị ngoại thương sẽ nhận thành
8
phẩm từ các đơn vị nhận gia công và xuất sản phẩm này sang cho khách hàng
nước ngoài đã đặt gia công. Đơn vị ngoại thương sẽ nhận được khoản tiền thù
lao gia công.
Hoạt động gia công xuất khẩu có đặc điểm là doanh nghiệp ngoại thương
không phải bỏ vốn vào kinh doanh nhưng thu được hiệu quả cũng khá cao, ít rủi
ro và khả năng thanh toán đảm bảo vì đầu ra chắc chắn. Tuy nhiên, nếu doanh
nghiệp muốn thực hiện theo hình thức này, doanh nghiệp phải quan hệ được với
các khách hàng đặt gia công có uy tín. Đây là một hình thức phức tạp, nhất là
trong quá trình thoả thuận với bên khách hàng gia công về số lượng, chất lượng,

nguyên vật liệu và tỷ lệ thu hồi thành phẩm, giám sát quá trình gia công. Do đó,
các cán bộ kinh doanh của doanh nghiệp phải am hiểu tường tận về các nghiệp
vụ và quá trình gia công sản phẩm.
4. Hoạt động xuất khẩu theo hình thức buôn bán đối lưu
Theo hình thức này, mục đích của hoạt động xuất khẩu không phải nhằm
thu về một khoản ngoại tệ mà là thu về một lượng hàng hoá khác tương đương
với trị giá của lô hàng xuất khẩu. Doanh nghiệp ngoại thương có thể sử dụng
hình thức xuất khẩu này để nhập khẩu những loại hàng hoá mà thị trường trong
nước đang rất cần hoặc có thể xuất khẩu sang một nước thứ ba.
5. Hoạt động xuất khẩu theo Nghị định thư
Đây là hình thức xuất khẩu hàng hoá thường là hàng trả nợ được thực
hiện theo Nghị định thư giữa hai Chính phủ của hai nước. Xuất khẩu theo hình
thức này có nhiều ưu điểm như: Khả năng thanh toán chắc chắn (vì Nhà nước
thanh toán cho doanh nghiệp), giá cả hàng hoá dễ chấp nhận, tiết kiệm được chi
phí trong nghiên cứu thị trường, tìm kiếm bạn hàng.
6. Một số loại hình xuất khẩu khác
Theo Nghị định số 33/CP của Chính phủ ngày 14/04/1994 về Quản lý
Nhà nước đối với hoạt động xuất nhập khẩu có quy định các hình thức dưới dây
cũng được coi là xuất khẩu hàng hoá:
6.1. Tạm nhập tái xuất
9
Tạm nhập tái xuất được hiểu là việc mua hàng hoá của một nước để bán
cho một nước khác (nước thứ ba) trên cơ sở hợp đồng mua bán ngoại thương có
làm các thủ tục nhập khẩu rồi lại làm các thủ tục xuất khẩu không qua gia công
chế biến.
Đối với những hàng hoá nhập nhẩu nhằm mục đích sử dụng trong nước
nhưng một thời gian sau, vì một lý do nào đó nó không được sử dụng nữa mà
được xuất ra nước ngoài thì không dược coi là hàng hoá kinh doanh theo hình
thức tạm nhập tái xuất.
Thời gian hàng hoá kinh doanh theo hình thức tạm nhập tái xuất được lưu

chuyển ở Việt Nam là 60 ngày.
6.2. Chuyển khẩu hàng hoá
Chuyển khẩu hàng hoá là việc mua hàng của một nước (nước xuất khẩu)
để bán cho một nước khác (nước nhập khẩu) nhưng không làm thủ tục nhập
khẩu vào Việt Nam cũng như thủ tục xuất khẩu từ Việt Nam.
6.3. Quá cảnh hàng hoá
Hàng hoá của một nước được gửi đi tới một nước thứ ba qua lãnh thổ Việt
Nam, có sự cho phép của Chính phủ Việt Nam. Các doanh nghiệp Việt Nam nếu
có đủ điều kiện như quy định của Nhà nước Việt Nam có thể được xem xét cho
thực hiện dịch vụ này để tăng thêm thu nhập.
III. NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HOẠT ĐỘNG XUẤT
KHẨU CỦA DOANH NGHIỆP NƯỚC TA
Việc xem xét những nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh nói
chung và hoạt động xuất khẩu nói riêng là rất cần thiết, bởi vì những nhân tố này
thường xuyên làm ảnh hưởng đến các kết quả cũng như tiến triển trong tương lai
của hoạt động xuất khâu của doanh nghiệp. Mục đích của việc nghiên cứu này là
nhằm nhận diện các nhân tố ảnh hưởng, chiều hướng tác động của chúng đến
hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp.
1. Nhóm các nhân tố ảnh hưởng trong nước
1.1. Nhóm nhân tố bên ngoài doanh nghiệp
10
Đây là nhóm nhân tố ảnh hưởng nằm bên trong đất nước nhưng không
chịu sự kiểm soát của doanh nghiệp. Các nhân tố đó là:
- Chiến lược, phát triển kinh tế - xã hội chính sách và pháp luật liên quan
đến hoạt động xuất khẩu của Nhà nước. Đây là nhân tố không chỉ tác động đến
hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp ở hiện tại, mà còn cả trong tương lai. Vì
vậy, một mặt doanh nghiệp phải tuân theo và hưởng ứng nó ở hiện tại, mặt khác
doanh nghiệp phải có các kế hoạch xuất khẩu trong tương lai cho phù hợp.
Hiện nay, Việt Nam đang thực hiện chiến lược hướng về xuất khẩu. Đây
là một chiến lược tập trung vào việc tạo ra các sản phẩm xuất khẩu ngày càng

phù hợp hơn với nhu cầu cuả thị trường thế giới dựa trên cơ sở khai thác tốt với
nhu cầu của thị trường quốc gia. Với chiến lược này, Nhà nước có các chính
sách phát triển cụ thể cho từng giai đoạn nhằm khuyến khích mọi cá nhân, tổ
chức kinh tế tham gia hoạt động xuất khẩu trong đó có doanh nghiệp ngoại
thương.
Việc khuyến khích hoạt động xuất khẩu được thể hiện ở các chính sách,
các biện pháp liên quan đến việc tạo nguồn hàng cho xuất khẩu, tạo môi trường
thuận lợi cho xuất khẩu, hỗ trợ tài chính cho các doanh nghiệp tham gia xuất
khẩu.
Tuy nhiên, không phải lúc nào Nhà nước cũng khuyến khích xuất khẩu..
Bởi vì, việc tự do hoàn toàn đối với xuất khẩu nhiều khi mang lại thiệt hại rất
lớn cho quốc gia, chẳng hạn như việc xuất khẩu hàng hoá quý hiếm, các sản
phẩm thuộc về di tích văn hoá, các sản phẩm là vũ khí...
- Tỷ giá hối đoái hiện hành: Tỷ giá hối đoái là giá cả của ngoại tệ tính theo
đồng nội tệ, hay quan hệ so sánh về giá trị giữa đồng nội tệ và đồng ngoại tệ.
Trong hoạt động xuất khẩu, doanh nghiệp phải quan tâm đến yếu tố này vì
nó liên quan đến việc thu đổi ngoại tệ sang nội tệ của doanh nghiệp, do đó ảnh
hưởng trực tiếp đến hiệu quả xuất khẩu của doanh nghiệp.
Nếu tỷ giá hối đoái lớn hơn tỷ suất ngoại tệ xuất khẩu thì doanh nghiệp có
thể thực hiện hoạt động xuất khẩu. Ngược lại, nếu tỷ giá hối đoái mà nhỏ hơn tỷ
suất ngoại tệ xuất khẩu thì doanh nghiệp không nên xuất khẩu.
11
Để có biết được tỷ giá hối đoái, doanh nghiệp phải được cơ chế điều hành
tỷ giá hối đoái hiện hành của nhà nước và theo dõi biến động của nó từng ngày.
- Khả năng sản xuất hàng xuất khẩu của từng nước: Khả năng này đảm
bảo nguồn hàng cho cho doanh nghiệp, biểu hiện ở các mặt hàng có thể được
sản xuất với khối lượng, chất lượng quy cách, mẫu mã, có phù hợp với thị
trường nước ngoài hay không. Điều này quyết định khả năng cạnh tranh của các
mặt hàng khi doanh nghiệp đưa ra chào bán trên thị trường quốc tế.
Nếu một đất nước có trình độ khoa học công nghệ phát triển, có khả năng

tạo ra được nhiều loại mặt hàng đa dạng, chất lượng tiêu chuẩn quốc tế, hình
thức mẫu mã đảm bảo thẩm mỹ cao và giá cả phải chăng thì đây là điều kiện
thuận lợi rất lớn cho doanh nghiệp khi tham gia hoạt động xuất khẩu. Ngược lại,
khả năng sản xuất trong nước yếu kém, với chúng loại mặt hàng đơn điệu, thô
sơ, sẽ hạn chễ rất lớn khả năng cạnh tranh và mở rộng xuất khẩu của các doanh
nghiệp.
Hiện nay, ở nước ta năng lực sản xuất hàng sản xuất hàng xuất khẩu còn
thấp kém, mặt hàng xuất khẩu còn đơn sơ, chất lượng chưa đạt tiêu chuẩn quốc
tế. Đây là một khó khăn cho các doanh nghiệp ngoại thương khi tham gia vào
hoạt động xuất khẩu.
- Mức độ cạnh tranh của các doanh nghiệp xuất khẩu trong nước: Cạnh
tranh một mặt có tác động thúc đẩy sự vươn lên của các doanh nghiệp, mặt khác
nó cũng chèn ép và “ dìm chết” các doanh nghiệp yếu kém. Mức độ cạnh tranh ở
đây biểu hiện số lượng của các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu cùng ngành
hoặc cùng mặt hàng có thể thay thế nhau. Hiện nay, nhà nước có chủ trương
khuyến khích mọi doanh nghiệp, mọi thành phần kinh tế tham gia xuất khẩu đã
dẫn đến sự bùng nổ số lượng doanh nghiệp tham gia hoạt động xuất khẩu, do đó
đôi khi dẫn đến sự cạnh tranh không lành mạnh. Đây là một thách thức cho các
doanh nghiệp ngoại thương hiện nay.
- Trình độ phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật của đất nước:
Đây là nhân tố thuộc về cơ sở hạ tầng cho hoạt động xuất khẩu. Nó bao
gồm phát triển của hệ thống giao thông vận tải, trình độ phát của hệ thống thông
12
tin liên lạc. Các nhân tố này có thể tăng cường hoặc hạn chế năng lực giao dịch,
mở rộng thị trường xuất khẩu của doanh nghiệp, tăng cường hoặc hạn chế các
dịch vụ vận chuyển hàng hoá xuất của doanh nghiệp.
Trên đây là những nhân tố khách quan ảnh hưởng đến hoạt động xuất
khẩu của các doanh nghiệp. Ngoài ra, còn có rất nhiều các nhân tố khác nữa mà
doanh nghiệp cần phải nắm bắt và hiểu biết về nó.
1.2. Nhóm các nhân tố bên trong doanh nghiệp

Đây là nhân tố thuộc về doanh nghiệp mà doanh nghiệp có thể kiểm soát
và điều chỉnh nó theo hướng tích cực nhằm phục vụ cho hoạt động xuất khẩu
của mình. Có thể kể đến các nhân tố sau:
- Trình độ năng lực lãnh đạo và quản trị kinh doanh của ban giám đốc
doanh nghiệp: Đây là nhân tố hết sức quan trọng, quyết định đến sự thành công
trong kinh doanh của doanh nghiệp. Bởi vì trình độ và năng lực quản trị kinh
doanh của ban giám đốc doanh nghiệp cho phép doanh nghiệp có được các
chiến lược kinh doanh đúng đắn, đảm bảo cho doanh nghiệp có thể tận dụng
được các cơ hội của thị trường quốc tế trên cơ sở khả năng vốn có của mình.
- Trình độ và năng lực kinh doanh xuất khẩu của đội ngũ cán bộ kinh
doanh trong doanh nghiệp: Cán bộ kinh doanh là những người trực tiếp thực
hiện các công việc của quá trình xuất hàng hoá. Vì vậy, trình độ và năng lực
trong hoạt động xuất khẩu của họ sẽ quyết định tới hiệu quả công việc, theo đó
quyết định tới hiệu quả kinh doanh của toàn doanh nghiệp.
- Khả năng tài chính của doanh nghiệp: Biểu hiện ở quy mô vốn hiện có
và khả năng huy động vốn của doanh nghiệp. Năng lực tài chính có thể làm hạn
chế hoặc mở rộng các khả năng khác của doanh nghiệp, vì vốn là tiền đề cho
mọi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
- Chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp có tác động không nhỏ tới kết
quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp .Nếu chiến lược kinh doanh không
phù hợp làm cho doanh nghiệp bị thua lỗ dẫn đến phá sản còn phù hợp (đúng
hướng) sẽ phát triển tốt.
1.3. Nhân tố tài nguyên thiên nhiên và địa lý
13
Vị trí địa lý cũng như nguồn tài nguyên thiên nhiên là những cái mà tự
nhiên ban cho, thông qua đó các nước khai thác tiềm năng của nó để phục vụ
xuất khẩu.
Nguồn tài nguyên thiên là một trong những nhân tố quan trọng làm cơ sở
cho quốc gia xây dựng cơ cấu ngành và vùng để xuất khẩu. Nó góp phần ảnh
hưởng đến loại hàng , quy mô hàng xuất khẩu của quốc gia.

Vị trí địa lý có vai trò như là nhân tố tích cực hoặc tiêu cực đối với sự
phát triển kinh tế cũng như xuất khẩu của một quốc gia. Vị trí đị lý thuận lợi là
điều kiện cho phép một quốc gia tranh thủ được phân công lao động quốc tế ,
hoặc thuúc đẩy xuất khẩu dịch vụ như du lịch , vận tải , ngân hàng…
2. Nhóm các nhân tố ảnh hưởng ngoài nước
Đây là các nhân tố nằm ngoài phạm vi kiểm soát của quốc gia, có ảnh
hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp. Có
thể kể đến các nhân tố sau:
- Tình hình phát triển kinh tế của thị trường xuất khẩu: Có ảnh hưởng đến
nhu cầu và khả năng thanh toán của khách hàng xuất khẩu, do đó có ảnh hưởng
đến hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp. Các nhân tố phản ánh sự phát triển
kinh tế của thị trường xuất khẩu là tổng sản phẩm quốc nội (GDP), thu nhập của
dân cư, tình hình lạm phát, tình hình lãi suất.
Tình hình chính trị, hợp tác quốc tế: Nó biểu hiện ở xu thế hợp tác giữa
các quốc gia. Điều này sẽ dẫn đến sự hình thành các khối kinh tế, chính trị của
một nhóm các quốc gia, do đó sẽ ảnh hưởng đến tình hình thị trường xuất khẩu
của doanh nghiệp.
Đặc điểm và sự thay đổi về văn hoá- xã hội của thị trường xuất khẩu: Có
ảnh hưởng rất lớn đến nhu cầu của khách hàng, do đó ảnh hưởng đến các quyết
định mua hàng của khách hàng và ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu của
doanh nghiệp.
- Trình độ phát triển khoa học công nghệ của thị trường xuất khẩu: Sẽ ảnh
hưởng đến nhiều mặt của đời sống kinh tế xã hội của thị trường đó, do vậy sẽ
ảnh hưởng đến nhu cầu và sức mua của khách hàng.
14
Chính sách thương mại của các quốc gia có thị trường xuất của doanh
nghiệp: Có thể làm hạn chế hoặc tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp xuất
khẩu sang thị trường đó. Một quôc gia có chính sách thương mại tự do sẽ giúp
cho hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp sang thị trường quốc gia đó được
thực hiện một cách dễ dàng hơn và thường mang lại hiệu quả kinh tế cao.

Ngược laị, một quốc gia có chính sách thương mại khắt khe thì sẽ tạo ra nhiều
khó khăn cho doanh nghiệp khi thực hiện xuất khẩu sang thị trường này.
Mức độ cạnh tranh quốc tế: Biểu hiện ở sức ép từ phía các doanh nghiệp,
các công ty quốc tế đối với doanh nghiệp khi cùng tham gia vào một thị trường
xuất khẩu nhất định. Sức ép này càng lớn thì càng gây khó khăn cho doanh
nghiệp khi muốn thâm nhập, duy trì, mở rộng thị trường xuất khẩu cho mình.
3. Ảnh hưởng của tình hình kinh tế - xã hội thế giới
Trong điều kiện mà mỗi quốc gia đều dựa vào lợi thế của mình cũng như
thị trường tiêu thụ thế giới để tổ chức sản xuất và xuất khẩu thì tính liên kết và
phụ thuộc giữa các nước ngày càng tăng lên. Chính vì điều này mà mỗi sự biến
động của tình hình kinh tễ- xã hội ở nước ngoài đều có những ảnh hưởng nhất
định đối với hoạt động kinh tế trong nước. Lĩnh vực hoạt động xuất khẩu là lĩnh
vực trực tiếp quan hệ với các chủ thể ở nước ngoài, chịu sự chi phối và tác động
của các nhân tố ở nước ngoài nên nó lại càng rất nhạy cảm. Bất kỳ một sự thay
đổi nào về chính sách xuất khẩu, tình hình lạm phát , thất nghiệp hay tăng
truởng về suy thoái kinh tế...của các nước đều ảnh hưởng tới hoạt động xuất
khẩu của các doanh nghiệp xuất khẩu ở nước ta.
15
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU CỦA CÔNG TY XUẤT
NHẬP KHẨU HÀ TÂY
I. TỔNG QUAN VỀ CÔNG TY
1. Quá trình hình thành và phát triển của Công ty
- Công ty Xuất nhập khẩu Hà Tây được thành lập ngày 01/12/1992 theo
Quyết định số 471-QĐ/UB của UBND tỉnh Hà Tây. Trạm thu mua hàng xuất
khẩu đặt tại các tỉnh, huyện.
- Công ty được cấp giấp phép đăng ký kinh doanh số 104356 ngày 11
tháng 12 năm 1993. Và có giấp phép kinh doanh xuất nhập khẩu số 2.06.1.002
ngày 23 tháng 3 năm 1993 của Bộ Thương mại.
- Ngày 20/11/1991 theo Quyết định số 388/HĐBT của Hội đồng Bộ

trưởng ban hành theo quy chế về việc "Thành lập và giải thể Doanh nghiệp Nhà
nước" - Công ty chuyển giao các đơn vị hạch toán độc lập sang các cơ sở
chuyên ngành quản lý.
- Công ty xuất nhập khẩu Hà Tây là một doanh nghiệp Nhà nước, trực
thuộc UBND tỉnh Hà Tây hạch toán kinh doanh độc lập, có con dấu riêng, được
mở tài khoản tại hai Ngân hàng Công thương Hà Tây và Ngân hàng ngoại
thương Việt nam.
- Tên gọi: Công ty Xuất nhập khẩu Hà Tây
- Tên giao dịch quốc tế : HA TAY IMPORT- EXPORT COMPANY
(UNIMEX HATAY)
- Trụ sở chính: 16A Trần Đăng Ninh - Thị xã Hà Đông - Tỉnh Hà Tây
- Công ty xuất nhập khẩu Hà Tây đặt dưới sự quản lý của nhà nước, cấp
trên trực tiếp. Trong hoạt động sản xuất kinh doanh Công ty chịu trách nhiệm
vật chất về những cam kết của mình với những hợp đồng đã ký với các bên và
ngược lại. Công ty thực hiện hạch toán kinh tế trên cơ sở tuân thủ các chủ
trương chính sách, pháp luật và các quy định quản lý về Nhà nước và địa
16
phương tôn trọng và đảm bảo quyền lợi vật chất, tinh thần, các chính sách đối
với người lao động ở trong đơn vị và làm tròn nghĩa vụ với ngân sách Nhà nước
và Tỉnh.
2. Chức năng, nhiệm vụ chủ yếu của Công ty
* Chức năng hoạt động của Công ty
- Trực tiếp xuất khẩu và nhận ủy thác xuất khẩu các mặt hàng nông, lâm,
thổ, thủy hải sản, thực phẩm chế biến, hàng thủ công mỹ nghệ, hàng tiểu thủ
công nghiệp do Công ty thu mua, gia công chế biến hoặc do liên doanh, liên kết
tạo ra.
- Trực tiếp nhập khẩu và nhận ủy thác nhập khẩu các mặt hàng công cụ
sản xuất, vật tư, nguyên vật liệu, hàng tiêu dùng kể cả chuyển khẩu, tạm nhập tái
xuất.
- Tổ chức sản xuất, liên doanh, liên kết, hợp tác đầu tư với các tổ chức

kinh tế trong nước và nước ngoài để sản xuất chế biến hàng xuất nhập khẩu và
hàng tiêu dùng.
* Nhiệm vụ của Công ty
- Xây dựng và tổ chức thực hiện các kế hoạch dài hạn, ngắn hạn về sản
xuất, kinh doanh xuất nhập khẩu, gia công, lắp ráp theo đúng luật pháp hiện
hành của Nhà nước và hướng dẫn của Sở Thương mại Hà Tây .
- Tổ chức nghiên cứu nâng cao năng suất lao động, đổi mới trang thiết bị,
tổ chức tiếp thị tốt để nâng cao năng lực kinh doanh và cạnh tranh lành mạnh,
đảm bảo kinh doanh có hiệu quả ngày càng cao.
- Chấp hành pháp luật Nhà nước, thực hiện các chế độ, chính sách về
quản lý và sử dụng tiền vốn, vật tư, tài sản, nguồn lực, thực hiện hạch toán kinh
tế, bảo toàn và phát triển vốn, thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước.
- Thực hiện báo cáo theo ngành và chịu sự thanh tra của pháp luật.
- Tổ chức tốt bộ máy doanh nghiệp, quản lý toàn diện, đào tạo và phát
triển đội ngũ cán bộ công nhân viên chức theo pháp luật, chính sách của Nhà
nước và sự phân cấp quản lý của Sở Thương mại để thực hiện nhiệm vụ sản
17
xut, kinh doanh ca Cụng ty. Chm lo i sng, to iu kin thun li cho
ngi lao ng lm vic, thc hin phõn phi cụng bng.
Bo v doanh nghip, bo v mụi trng, gi gỡn trt t an ninh chớnh tr
v an ton xó hi trong phm vi qun lý ca Cụng ty theo quy nh ca phỏp
lut.
3. C cu t chc b mỏy ca Cụng ty
Cụng ty Xut nhp khu H Tõy gm cú 169 cỏn b cụng nhõn viờn c
biờn ch thnh 04 phũng ban v 02 chi nhỏnh.Cỏc phũng qun lý chc nng cú
01 trng phũng v 01 n 02 phú. Mt s cỏn b, nghip v chuyờn mụn.
C CU T CHC B MY CA CễNG TY
S 1



Chỳ thớch : Quan h ch o trc tip
Quan h phi hp
18
Giám đốc
Phó Giám đốc
Phó Giám đốc Phó Giám đốc
Phòng
Nvụ
KD
I
Phòng
Nvụ
KD
II
Phòng
Nvụ
KD
III
Phòng
kế
hoạch
thị
trường
Phòng
kế
toán
tài vụ
Phòng
Tổ
chức

hành
chính
Phòng
Nvụ
Mây
tre
XN

thảm
thêu
Trạm
XK

Đông
Trạm
XK
Ba

Trạm
XK
tre đan
Thường
Tín
Trạm
XK
tre
đan
C.Mỹ
Chi
nhánh

TP
HCM
Chi
nhánh
Lạng
Sơn
Đứng đầu Công ty là Giám đốc Công ty do UBND Tỉnh bổ nhiệm, miễn
nhiệm. Giám đốc quản lý và điều hành Công ty theo chế độ 01 thủ trưởng và
chịu trách nhiệm về mọi hoạt động của Công ty trước pháp luật, trước Sở
Thương mại và tập thể cán bộ công nhân viên chức của Công ty.
Giúp đỡ công việc cho Giám đốc Công ty có 03 Phó Giám đốc Công ty.
Phó Giám đốc Công ty do Giám đốc Công ty lựa chọn và đề nghị Giám đốc Sở
Thương mại bổ nhiệm hoặc miễn nhiệm.
Kế toán trưởng chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Giám đốc Công ty, có trách
nhiệm giúp Giám đốc Công ty tổ chức thực hiện toàn bộ công tác kế toán thống
kê thông tin kinh tế, báo cáo kết quả hoạt động của Công ty theo quy định hiện
hành của Nhà nước.
Công ty được tổ chức theo bộ máy quản lý chức năng và mạng lưới kinh
doanh phù hợp với nhiệm vụ của một Công ty Xuất nhập khẩu.
Nhiệm vụ của các phòng ban chức năng do Giám đốc quy định cụ thể:
* Phòng kinh doanh:
+ Nghiên cứu và nắm bắt tình hình thông tin thị trường trong nước và nhu
cầu mặt hàng,về nguồn hàng,tình hình sản suất,giá cả và các biến động.
+ Xác nhận kế hoạch kinh doanh hàng năm,6 tháng,đề suất các phương án
kinh doanh,liên doanh liên kết tiêu thụ hàng hóa và phối hợp thực hiện các
phương án đó sau khi đã được Công ty phê duyệt.
+ Giúp Giám đốc tỗ chức xây dựng kế hoạch xuất - nhập khẩu,các kế
hoạch thâm nhập thị trường mới,mở rộng thị trường truyền thống.
* Phòng Tổ chức hành chính:
- Giúp Giám đốc trong công tác tổ chức hoạt động hành chính, quản lí tài

sản và nhân sự, tiền lương. Phối hợp với các phòng chức năng để quản lí và điều
hành hoạt động của Công ty theo đúng định hướng và kế hoạch.
+ Xây dựng phương án bố trí sắp xếp cán bộ viên chức toàn công ty và
các đơn vị .
+ Làm công tác khác về tổ chức: quản lý hồ sơ cán bộ ,làm thủ tục về tiếp
nhận , nghỉ hưu thôi việc, thuyên chuyển, khen thưởng và kỷ luật cán bộ.
19
Tham mưu qiúp giám đốc về công tác hành chính quản trị cụ thể:
+ Xây dựng phương án bảo vệ đảm bảo công tác an ninh trật tự cơ quan
+ Làm tốt văn thư,lưu trữ , quản lý dấu công ty , dấu chức danh.
+ Quản lý nhà khách, đảm bảo các yêu cầu vật chất cho công tác điều
hành hàng ngày.
+ Đảm bảo công tác vệ sinh môi trường cơ quan.
* Phòng Kế toán tài vụ :
Thực hiện theo dõi tình hình hoạt động kinh doanh và báo cáo tình hình
tài chính và các nghiệp vụ tài chính kế toán khác. Chịu trách nhiệm quản lý vốn,
tài sản, hàng hoá, giám sát thu chi tại Công ty.
- Phối hợp với phòng kế hoạch tổng hợp xây xây dựng kế hoạch tài chính
toàn công ty và kế hoạch từng đợn vị thành viên .
- Các phương án kinh doanh đã được Giám đốc duyệt trong thời hạn 3
ngày phải đáp ứng vốn để các đơn vị thực hiện hợp đồng ( hồ sơ vay vốn do các
đơn vị chuẩn bị).
Thanh toán tiền hàng với bạn hàng trong nước và nước ngoài.
Giám sát sử dụng vốn của các đơn vị đôn đốc thu hồi vốn, lãi tiền vay.
Lựa chọn phương pháp hạch toán phù hợp và hướng dẫn kế toán các đơn
vị trong công tác hạnh toán.
Chấp hành nghiêm chế độ báo cáo kế toán, thống kê chế độ báo cáo về
thuế, kịp thời, chính xác đúng quy định.
- Kế toán trưởng , từng quý báo cáo ban Giám đốc tình hình quản lý sử
dụng vốn các khoản công nợ trong hạn, đến hạn và nợ quá hạn, đề xuất biện

pháp sử lý. Thời gian báo cáo trong vòng 5 ngày của tháng đầu quý báo cáo tình
hình quý trước.
Tổng hợp kết quả sản xuất kinh doanh của từng đơn vị và đề xuất Giám
đốc khen thưởng.
Kế toán trưởng liên đới chịu trách nhiệm khi để các đơn vị sử dụng vốn
sai mục đích, làm thất thoát vốn.
20
Hệ thống sổ sách, công tác hạch toán kế toán, phân phối lợi nhuận của
Công ty thực hiện theo đúng quy định của Nhà nước và theo pháp lệnh kế toán.
Việc phân tích hoạt động kinh tế tài chính của Công ty được thực hiện theo quy
định hiện hành của Nhà nước và hướng dẫn của cơ quan quản lý chuyên ngành.
* Phòng Kế hoạch thị trường :
- Xây dựng kế hoạch định hướng phát triển sản xuất kinh doanh dài hạn
(5- 10 năm) của toàn công ty.
Tổng hợp kế hoạch định hướng quý năm của các đơn vị trực tiếp kinh
doanh.
Thường xuyên kiểm tra việc thực hiện kế hoạch và phối hợp với phòng kế
toán tài chính giám sát việc sử dụng vốn của các đơn vị thành viên.
Kiểm tra các hợp đồng kinh tế, thẩm định các phương án sản xuất kinh
doanh, đề xuất ý kiến với Giám đốc. Thời gian kiểm tra, thẩm định để trình kế
hoạch không quá 2 ngày, kể từ khi nhận được hợp đồng và phương án các đơn
vị gửi đến.
Chịu trách nhiệm liên đới khi để xẩy ra kinh doanh thua lỗ hoặc thất thoát
vốn do yếu tố chủ quan gây ra.
Phòng Nvụ Mây tre:
- Phòngnghiệp vụ mây tre có nhiệm vụ thu mua, tìm kiếm nguồn hàng các
mặt hàng truyền thống như mây tre , hàng thủ công mỹ nghệ ...
- Tổ chức giới thiệu các mặt hàng ra nước ngoài, mở rộng hợp tác kinh
doanh với các bạn hàng và khách hàng.
- Hợp tác chặt chẽ với các phòng ban khác có liên quan về thu mua tiêu

thụ các sản phẩm mà công ty kinh doanh
* Văn phòng đại diện ở các Tỉnh :
- Giúp Giám đốc làm công tác tiếp thị. Trong một số trường hợp đặc biệt
trưởng văn phòng đại diện được Giám đốc uỷ nhiệm ký một số văn bản của
Công ty. Tổ chức xuất nhập khẩu hàng hóa do tự khai thác được thị trường đảm
bảo có hiệu quả, chấp hành tốt chính sách và các quy định của nhà nước, của địa
phương nơi đặt văn phòng đại diện.
21
II. TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA CÔNG TY
XUẤT NHẬP KHẨU HÀ TÂY
1. Mặt hàng kinh doanh của Công ty
Công ty Xuất nhập khẩu Hà Tây là một Công ty kinh doanh xuất nhập
khẩu tổng hợp bao gồm hàng tiêu dùng, nguyên vật liệu, thiết bị máy móc đáp
ứng nhu cầu khác nhau của sản xuất và đời sống. Bên cạnh đó, Công ty còn thực
hiện các dịch vụ gia công sản xuất, tái sản xuất hàng hóa, nhận ủy thác xuất
nhập khẩu, chuyển khẩu.
Trong kinh doanh xuất nhập khẩu, mặt hàng chủ yếu của Công ty gồm:
∗ Về xuất khẩu: Công ty trực tiếp xuất khẩu các mặt hàng sau:
- Phòng KD I : Thảm cói, Len, Đồ gỗ mỹ nghệ, Dép xốp..
- Phòng KD II: Chè, Ván tre ép, Gỗ trang trí nội thất, ..
- Phòng KD III : Hoa quả, Tơ tằm, Sợi tẩy, Quần áo sợi..
- Xí nghiệp T
3
: Gia vị, May thêu, Thảm cói..
Trạm Chương Mỹ : Mây tre..
- Trạm Thường tín : Hoa quả , đường kính..
- Chi nhánh TPHCM : Da trâu bò thuộc, Mành trúc..
- Phòng Mây tre : Mây tre..
- Phòng kế hoạch: Quần áo len..
- Chi nhánh Lạng sơn: Hoa quả..

∗ Về nhập khẩu: Công ty trực tiếp nhập khẩu các mặt hàng sau:
+ Hàng tiêu dùng: Sợi Acrylic, Bếp nướng, các thiết bị điện, xe gắn máy,
xe hơi, vải, thực phẩm ...
+ Hàng vật tư thiết bị phục vụ sản xuất: phân bón, xăng dầu, hóa chất, hạt
nhựa, phụ tùng ô tô, máy nông ngư nghiệp ...
Từ mặt hàng kinh doanh của Công ty ta biết được chiến lược kinh doanh
của Công ty là đa dạng hóa. Tuy nhiên, những mặt hàng mà Công ty chú trọng
nhất trong xuất khẩu vẫn là hàng nông, lâm, thổ sản. Đây là mặt hàng truyền
22
thống của Công ty, có nguồn cung ứng khá phong phú và dồi dào ở trong nước,
phù hợp với điều kiện sản xuất ở nước ta. Về nhập khẩu, Công ty tập trung
nhiều nhất vào mặt hàng nguyên vật liệu phục vụ sản xuất. Đây là những mặt
hàng mà năng lực sản xuất ở trong nước chưa đáp ứng được nhu cầu, nhất là nhu
cầu ở các tỉnh phía Bắc.
Nhìn chung, những mặt hàng kinh doanh xuất nhập khẩu của Công ty đều
thuộc diện khuyến khích và ưu đãi của Nhà nước. Đây cũng là những mặt hàng
kinh doanh chủ lực của phần lớn các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu
trực tiếp. Đối với Công ty, vấn đề đặt ra là phải tìm được nguồn hàng có chất
lượng cao, đáp ứng tốt nhu cầu khách hàng.
2. Vốn kinh doanh, khả năng huy động và sử dụng vốn của Công ty
Công ty xuất nhập khẩu Hà Tây là một đơn vị Nhà nước.Vì vậy một mặt
Công ty chịu sự quản lý về tổ chức, mặt khác được nhận vốn kinh doanh do Nhà
nước cấp và Công ty còn có thể nhận được một lượng vốn nhất định từ ngân
sách Nhà nước khi cần thiết. Đây có thể nói là nguồn vốn ban đầu đảm bảo cho
Công ty hoạt động. Công ty phải có trách nhiệm bảo toàn và phát triển nguồn
vốn này trong quá trình hoạt động kinh doanh của mình.
Khi mới thành lập, vốn đăng ký kinh doanh một phần là do Nhà nước cấp,
một phần là do Công ty tự trang trải. Công ty có thể khai thác các nguồn vốn
khác như vay Ngân hàng, vay các tổ chức tín dụng khác, vay các cá nhân hoặc
từ lãi để lại của Công ty để mở rộng và phát triển kinh doanh của mình.

Hiện nay, việc huy động vốn của công ty đang gặp phải một số khó khăn
nhất định, vì vậy công ty cần phải có các biện pháp huy động và sử dụng vốn
sao cho đạt hiệu quả cao nhất.
Trong các năm qua, nhờ có sự cố gắng vợt bậc về huy động vốn của các
cán bộ công nhân viên, tổng vốn kinh doanh của Công ty không ngừng được
tăng lên.
23
Bảng 1: Tổng vốn kinh doanh và cơ cấu của nó

Đơn vị: VND
( Nguồn: Báo cáo tài chính Công ty xuất nhập khẩu Hà Tây )
Năm 1998 1999 2000 99/98 2000/99
Vốn % Vốn % Vốn % S.tiền T.T% S.tiền
Vốn CĐ
Vốn LĐ
5.977.748.122
6.040.737.418
49,
7
50,
3
6.817.748.759
18.523.398.891
26,71
73,29
7.140.451.041
19.421.355.309
24,4
75,6
839.990.637

12.482.661.473
114
306
322.703.282
879.957.508
Cộng 12.018.485.540 100 25.341.147.650 100 26.561.806.410 100 13.322.662 210 1.220.659
24
Qua bảng tổng kết vốn của công ty qua các năm ta thấy đều tăng .Năm
1998 vốn kinh doanh của công ty là 12.018.485.000 đồng.Trong thời gian này,
Công ty luôn có xu hướng là tăng tỷ trọng vốn lưu động và giảm tỷ trọng vốn cố
định.
Năm 1999, Công ty đã đạt được một thành công lớn là lượng vốn kinh
doanh huy động được tăng lên một mức tuyệt đối là hơn 13 tỷ đồng, tăng gần
gấp đôi so với năm trước, trong đó chủ yếu là vốn huy động được từ các cán bộ
công nhân viên trong Công ty và các tổ chức tín dụng tăng lên. Tuy nhiên trong
thời gian này tỷ trọng vốn cố định lại có sự tăng lên. Năm 2000 công ty đã tăng
được vốn lên 26.516.806.410 đồng.Tăng lên mức tuyệt đối hơn 1 tỷ đồng ,
tương ứng với 1,04 lần so với năm 1999.
Nguyên nhân trong thời gian này khả năng huy động vốn của công ty bị
chững lại,không huy động được.Tỷ lệ vốn cố định năm 1998 là 5.977.748.122
đồng chiếm 49,7% nhưng đến năm 1999 tỷ lệ vốn cố định giảm là 26,71%
.Nhưng đến năm 2000 vốn cố định của công ty có xu hướng tăng lên cùng với
sự tăng lên của tổng số vốn kinh doanh .
3. Các khách hàng của Công ty
Trên cơ sở sự nỗ lực của mình, qua hơn sáu năm hoạt động đến nay Công
ty xuất nhập khẩu Hà Tây đã có quan hệ với rất nhiều khách hàng, bạn hàng
trong và ngoài nước.
Khách hàng trong nước của Công ty có rất nhiều loại: khách hàng mua lẻ,
khách hàng mua buôn... chủ yếu tập trung ở một số nơi như Hà nội, Hải Dương,
Thành Phố Hồ Chí Minh, Quảng Ninh. . .

Khách hàng nước ngoài của Công ty là Ba lan, Hồng Kông, Nga, Nhật,
Đài Loan. . .
Với bạn hàng nước ngoài, Công ty đã quan hệ với rất nhiều bạn hàng ở
Trung Quốc, Thái Lan...
Mối quan hệ trong kinh doanh của công ty với các khách hàng luôn ổn
định giúp đỡ nhau trong quá trình hoạt động kinh doanh của mình
25

×