Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

THỜI cơ và THÁCH THỨC từ bối CẢNH TOÀN cầu hóa đối với CON ĐƯỜNG đi lên CHỦ NGHĨA xã hội của VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (114.68 KB, 15 trang )

THỜI CƠ VÀ THÁCH THỨC TỪ BỐI CẢNH TOÀN CẦU HÓA ĐỐI VỚI
CON ĐƯỜNG ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI CỦA VIỆT NAM
Tồn cầu hóa là giai đoạn mới của quốc tế hóa sinh hoạt kinh tế và đời
sống xã hội hiện nay. Với ý nghĩa như trên, toàn cầu hóa kinh tế là sự phát triển
tất yếu của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Đây chính là quy luật mà
Mác đã phát hiện, nhưng tồn cầu hóa lại xuất hiện trong thời đại quá độ từ chủ
nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Tham gia vào tồn cầu hóa, ngồi các nước tư
bản chủ nghĩa phát triển chiếm tỷ trọng lớn nhất về kinh tế, còn một số nước xã
hội chủ nghĩa và những nước ngoại vi của chủ nghĩa tư bản, những nước đang
phát triển.
Mác ln nói về sự vĩ đại và tính tất yếu nhất thời của chủ nghĩa tư bản.
Tồn cầu hóa ngày nay đang khảng định thế giới quan của Mác. Toàn cầu hóa
khơng phải là giai đoạn siêu đế quốc, song là giai đoạn mới của chủ nghĩa tư bản
độc quyền. Tồn cầu hóa với quy mơ và hình thức như ngày nay chúng ta đang
chứng kiến có thể là chương mới, chương cuối cùng của chủ nghĩa đế quốc.
Khi nói đến tồn cầu hóa kinh tế, chúng ta khơng thể tách lực lượng sản
xuất khỏi phương thức sản xuất. tuy nhiên, có thể ở khu vực này hay khu vực
khác của thế giới, mặt lực lượng sản xuất nổi bật lên trong diễn biến tồn cầu.
Tồn cầu hóa trước hết là xu thế khách quan của sự phát triển xã hội. Có
thể nói sự phát triển của chủ nghĩa tư bản biểu hiện trước hết ở chỗ nó tạo ra một
lực lượng sản xuất đồ sộ, hiện đại, xã hội hóa cao, tạo ra hình thức cao của tổ
chức lao động xã hội. Với tồn cầu hóa, chủ nghĩa tư bản đang tạo ra những tiền
đề đầy đủ nhất cho chủ nghĩa xã hội. Tồn cầu hóa khơng chỉ chứng tỏ chủ nghĩa
tư bản là tận cùng của lịch sử, ngược lại, với tồn cầu hóa, những mâu thuẫn nội
tại của chủ nghĩa tư bản không mất đi mà ngày càng sâu sắc hơn. Nhưng tồn
cầu hóa khơng thay thế cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Tồn cầu hóa hiện nay nổi lên một số đặc điểm lớn như sau:
1


Một là, thế kỷ XXI, nhất là nửa đầu thế kỷ XXI, vẫn nằm trong thời đại


quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Đây không chỉ là một luận điểm
lý luận mà còn là một thực tế lịch sử nhân loại, khi tồn tại hai con đường phát
triển của xã hội loài người cả về mặt lý luận và thực tiễn.
Hai là, tương quan lực lượng trên trường quốc tế hiện nay và trong vòng
hai thập niên đầu thế kỷ XXI đang bất lợi cho chủ xã hội, cho các nền kinh tế
đang phát triển, cho trật tự “thế giới dân chủ và bình đẳng”.
Ba là, cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại và q trình tồn cầu
hóa đang diễn ra mạnh mẽ với những mặt thuận lợi và mặt trái của nó, đang bị
chi phối bởi các nước công nghiệp phát triển và các tập đoàn xuyên quốc gia.
Cần quan tâm đi sâu phân tích khía cạnh quan hệ quốc tế của q trình tồn cầu
hóa.
Lịch sử nhân loại trong thế kỷ XIX và thế kỷ XX đã cho thấy rõ những kết
quả chính trị và quan hệ quốc tế của quá trình quốc tế hóa kinh tế mà Mác và
Ăngghen đã nêu trong tuyên ngôn của Đảng Cộng sản (năm 1848) và Lênin đã
nêu trong Chủ nghĩa đế quốc - giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản (năm
1916). Toàn cầu hóa có nhiều tính chất. Xem xét dưới góc độ phương thức sản
xuất, dưới góc độ hình thái kinh tế - xã hội thì tính chất của tồn cầu hóa hiện
nay là tính chất tư bản chủ nghĩa. Ở đại bộ phận các quốc gia trên thế giới hiện
nay, tồn cầu hóa vận động trong khn khổ phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa. Đại bộ phận lực lượng sản xuất hiện đại, nhất là lực lượng sản xuất “trí
tuệ hóa” đang nằm trong tay các chủ thể đại tư bản. Đương nhiên tham gia tồn
cầu hóa khơng chỉ giai cấp tư sản mà cả nhân dân lao động. Song chi phối, lãnh
đạo tồn cầu hóa khơng phải giai cấp công nhân, các tầng lớp trung lưu, các
nước đang phát triển, các nước xã hội chủ nghĩa mà là các nước tư bản lớn (các
cơng ty xun qc gia, các nước tư bản phát triển). Dưới tác động của tồn cầu
hóa và cuộc cách mạng khoa học cơng nghệ đa có khoảng 60.000 cơng ty xun
2


quốc gia cảu các tập đồn tư bản kiểm sốt 3/4 kim ngạch buôn bán thế giới, 4/5

nguồn vốn đầu tư trực tiếp, 9/10 các kết quả nghiên cứu và chuyển giao công
nghệ trên thế giới. Hơn nữa, chỉ 300 trong số hơn sáu vạn cơng ty nói trên đã sở
hữu 50% tài sản của loài người. Trong khi lực lượng sản xuất ngày càng mang
tính xã hội thì quan hệ sản xuất vẫn là tư bản chủ nghĩa với sự sở hữu tư liệu sản
xuất, sở hữu trí tuệ ngày càng tập trung vào tay tư bản độc quyền. Và như vậy,
tồn cầu hóa hiện nay mang tính chất tư bản chủ nghĩa.
Trên đây là mặt khách quan của tồn cầu hóa. Cịn nói về mặt chủ quan,
tồn cầu hóa chính là các chính sách, thiết chế, cam kết, luật lệ, kế hoạch, thủ
đoạn… thì tính chất giai cấp, tính chất tư bản chủ nghĩa càng thể hiện rõ. Những
thể chế của tồn cầu hóa trên thực tế là do các nước tư bản soạn thảo. Kết quả
đấu tranh của giai cấp công nhân, quần chúng nhân dân, của các nước xã hội chủ
nghĩa và các nước đang phát triển là đáng kể, nhưng chưa phải là căn bản. Các
lực lượng tiến bộ chưa thể đặt ra được mục tiêu đấu tranh là làm thay đổi căn bản
tính chất của tồn cầu hóa mà họ chỉ có thẻ đề ra mục tiêu “dân chủ hóa” tồn
cầu hóa.
Tồn cầu hóa hiện nay khơng chỉ đậm tính chất tư bản chủ nghĩa mà về
thực chất cịn là tồn cầu hóa theo đường lối của chủ nghĩa tự do mới. Một câu
hỏi lớn đặt ra: tồn cầu hóa hiện nay về bản chất xã hội là tư bản chủ nghĩa, do
chủ nghĩa tư bản chi phối, vậy vì sao chúng ta hộ nhập vào quá trình ấy? Các
nước xã hội chủ nghĩa cịn lại hội nhập có làm thay đổi tính chất cơ bản của tồn
cầu hóa hay khơng?
Tồn cầu hóa hiện nay, không phải xã hội chủ nghĩa, mà là tư bản chủ
nghĩa, song chúng ta khơng vì thế mà đồng nhất tồn cầu hóa với chủ nghĩa tư
bản hơn nữa cần phân biệt bản chất của chủ nghĩa tư bản với những thành tựu
mà nhân loại tạo ra dưới chủ nghĩa tư bản, nhất là những thành tựu về khoa học
công nghệ.
3


Tồn cầu hóa là q trình chất chứa đầy mâu thuẫn. Tồn cầu hóa chứa

đựng hai mặt tương phản: mặt tích cực và mặt tiêu cực. Như trên đã trình bày,
tồn cầu hóa một mặt tăng cường quyền lực của tư bản, mặt khác nó làm sâu sắc
thêm những mâu thuẫn nội tại của chủ nghĩa tư bản và chuẩn bị những tiền đề
cho chủ nghĩa xã hội. Trên phạm vi thế giới, mấy chục năm qua, tồn cầu hóa
vừa là hệ quả của việc phát triển lực lượng sản xuất, vừa là động lực thúc đẩy lực
lượng sản xuất phát triển. tồn cầu hóa dẫn đến sự phân cơng lao động xã hội
mới trên phạm vi toàn thế giới , thúc đẩy sự thay đổi nhanh chóng cơ cấu sản
xuất, nhanh chóng đổi mới cơng nghệ, tạo động lực cho việc chuyển giao công
nghệ tiên tiến từ vùng này sang vùng khác, nước này sang nước khác. Thông qua
tham gia tồn cầu hóa, các nước đang phát triển có thể tiếp cận công nghệ hiện
đại, tranh thủ nguồn vốn vay, vốn đàu tư trực tiếp từ các nước tư bản giàu có,
cơng nghiệp phát triển và tiếp cận được những thị trường mới để cơng nghiệp
hóa. Đối với các nước đang phát triển đi lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư
bản chủ nghĩa như nước ta, việc hội nhập vào tồn cầu hóa bao hàm trong đó
việc sử dụng chủ nghĩa tư bản quốc tế để xây dựng chủ nghĩa xã hội Lênin đã
nói. Do vậy, nếu khơng tranh thủ được cơ hội do tồn cầu hóa mang lại thì chúng
ta khơng xây dựng chủ nghĩa xã hội được. Đối với chúng ta, vấn đề không phải
là có hội nhập hay khơng hội nhập vào thế giới đang tồn cầu hóa mà vấn đề là
hội nhập như thế nào, trển lập trường nào, nhằm mục đích gì?. Mác đã từng cho
chúng ta một ví dụ sinh động về quan điểm của chủ nghĩa xã hội đối với tồn cầu
hóa do chủ nghĩa tư bản chi phối. Đứng trên lạp trường của chủ nghĩa xã hội,
Mác không tán thành chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch mà tán thành mậu dịch tự do.
Nhưng Mác không tán thành mậu dịch tự do theo cái nghĩa các đại biểu tư sản
giải thích, tán dương. Mác nói với họ: “Chế độ mậu dịch tự do đẩy nhanh cách
mạng xã hội. Và như vậy, thưa quí vị, cũng chỉ với ý nghĩa cách mạng ấy mà tôi
tán thành mậu dịch tự do”1. Ngày nay chúng ta tham gia tồn cầu hóa khơng vì
1

C. Mác và Ph. Ăngghen, Tồn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 1995, t.4, tr. 590


4


tồn cầu hóa san sẻ quyền lực từ nước giàu sang những nước nghèo như có
người nói mà vì chúng ta thấy ở tồn cầu hóa những cơ hội mới, những điều kiện
mới cần thiết cho xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta.
Chúng ta cũng thấy rõ mặt tích cực và tiêu cực của tồn cầu hóa. Nó khơng chỉ
đem lại thời cơ mà còn đem lại cả những thách thức to lớn cho sự nghiệp cách
mạng của nhân dân ta.
Chúng ta thấy rõ rằng, tồn cầu hóa khơng xóa bỏ mâu thuẫn xã hội mà
còn làm cho những mâu thuẫn cơ bản của xã hội tư bản phát triển nhanh hơn,
ngày càng sâu sắc hơn, trong đó có mâu thuẫn giai cấp và mâu thuẫn dân tộc.
Tồn cầu hóa hiện nay khơng những khơng san lấp mà cịn đào sâu thêm
hố ngăn cách giữa bộ phận dân cư giàu và bộ phận dân cư nghèo. Trong các
nước được coi là giàu, và đặc biệt là những nước được coi là đi tiên phong về tự
do thương mại như Mỹ, Anh, sự phân cực lớn các thu nhập và của cải đều khơng
cịn chối cãi. Hầu hết các nước đang phát triển chẳng được lợi lộc gì bởi chính
sách tồn cầu hóa. Tại các nước này, đói nghèo ngày càng gia tăng, nền kinh tế
suy thối, có nguy cơ mất ổn định. Ngun nhân chính của tình trạng này là do
các nước cơng nghiệp phát triển ngày càng có ảnh hưởng lớn đối vớ nền kinh tế
thế giới thơng qua chính sách tồn cầu hóa.
Khoảng cách giàu nghèo trong xã hội và các dân tộc tiếp tục tồn tại trong
điều kiện toàn cầu hóa. Áp bức dân tộc đã tăng lên sau khi Liên Xô và Đông Âu
sụp đổ. Chủ nghĩa tư bản khơng thể tồn tại nếu khơng có hậu phương là hàng
trăm các quốc gia, vùng lãnh thổ đang phát triển và kém phát triển. Trong quan
hệ phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia thì các nước đang phát triển và chậm
phát triển là những nước thật sự bị lệ thuộc.
Nói đến thời cơ là nói đến sự xuất hiên những điều kiện trong nước và
quốc tế thuận lợi tạo khả năng cho việc giải quyết các nhiệm vụ cách mạng trong
đại, chẳng hạn như cơng nghiêp hóa, hiện đại hóa như hiện nay. Thời cơ trước

5


hết được tạo ra từ thắng lợi của cách mạng, từ sự lớn mạnh của nội lực (thời cơ
bên trong). Thời cơ cịn được tạo ra từ bên ngồi từ chuyển biến cảu tình hình
quốc tế (thời cơ bên ngồi).
Thách thức là những vấn đề khó khăn, trở lực lớn phải vượt qua; những kẻ
địch nguy hiểm phải chiến thắng, những mâu thuẫn phức tạo cần giải quyết để
cách mạng tự bảo vệ và tiến lên. Khó khăn, trở lực to lớn có thể phát triển thành
những nguy cơ đe dọa thành quả cách mạng. Có những thách thức từ bên trong
của tình hình kinh tế, xã hội trong nước. Có những thách thức từ bên ngồi, từ
bối cảnh tình hình quốc tế.
Thời cơ và thách thức có quan hệ chặt chẽ với nhau. Trong thời cơ có
thách thức, trong thách thức có các yếu tố của thời cơ. Chủ tich Hồ Chí Minh đã
chỉ rõ rằng cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới. Người
đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên phải thấu hiểu tình hình thế giới; trong bất kỳ hồn
cảnh quốc tế phức tạp nào cũng phải biết nắm chắc mọi thời cơ và thách thức để
đưa cách mạng Việt Nam vững bước đi lên
Sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa của nhân dân ta
đang tiến hành chịu sự tác động của điều kiện quốc tế phức tạp. Nó tạo một số cơ
hội quý báu nhưng cũng tiềm ẩn nhiều nguy cơ không thể xem thường. Đại hội
Lần thứ XI của Đảng đã phân tích sâu sắc tình hình quốc té đương đại và chỉ rõ:
“Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong bối cảnh quốc tế có những biến đổi
to lớn và sâu sắc. Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, kinh tế tri thức và q
trình tồn cầu hóa diễn ra mạnh mẽ, tác động sâu sắc đến sự phát triển của nhiều
nước. Các mâu thuẫn cơ bản trên thế giới biểu hiện dưới những hình thức và
mức độ khác nhau vẫn tồn tại và phát triển. Hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ
và phát triển là xu thế lớn; nhưng đấu tranh dân tộc, đấu tranh giái cấp, chiến
tranh cục bộ, xung đột vũ trang, xung đột sắc tộc, tôn giáo, chạy đua vũ trang,
hoạt động can thiệp, lật đổ, khủng bố, tranh chấp lãnh thổ, biển, đảo, tài nguyên

6


và cạnh tranh quyết liệt về lợi ích kinh tế tiếp tục diễn ra phức tạp. Khu vực
Châu Á - Thái Bình Dương và Đơng Nam Á phát triển năng động, nhưng cũng
tiềm ẩn nhân tố mất ổn định. Tình hình đó tạo thời cơ phát triển, đồng thời đặt ra
những thách thức gay gắt, nhất là những nước đang và kém phát triển”2
Những đặc điểm trên có mối quan hệ biện chứng tác động qua lại lẫn
nhau, chúng không tồn tại nhất thời mà tồn tại tương đối dài trong thời gian tới.
Trong phạm vi bài viết này xin được phân tích làm hơn thời cơ và thách thức đối
với Việt Nam dưới tác động cuộc cách mạng khoa học cơng nghệ.
Trong khi thế giới có những đảo lộn về chính trị, chế độ xã hội, chế độ
kinh tế thì lực lượng sản xuất của lồi người vẫn khơng ngừng phát triển, cách
mạng khoa học công nghệ vẫn diễn ra mạnh mẽ, liên tục. Trong thế kỷ XX, lực
lượng sản xuất ở các nước tư bản phát triển đã chuyển từ giai đoạn cơng nghiệp
cơ khí là chủ đạo sang giai đoạn công nghệ tin học, kinh tế tri thức là chủ đạo.
Cách mạng khoa học công nghệ đã và sẽ trực tiếp hoặc gián tiếp đưa đến những
biến đổi khó lường về kinh tế, xã hội, văn hóa, tư tưởng, lối sống và cả kiến trúc
thượng tầng chính trị. Thực tiễn nửa cuối thế kỷ XX cho thấy, lực lượng sản xuất
khơng ngừng phát triển đã địi hỏi tháo dỡ mọi trở lực, rào cản. Đó là xu thế
mạnh mẽ không thể đảo ngược. Những sai lầm, chủ quan chính trị, quản lý kinh
tế, nhất là sai lầm trong xác định mơ hình đã làm cho chủ nghĩa xã hội hiện thực
trong một thời gian dài khong phát huy được tiềm lực của khoa học công nghệ
hiện đại. Đó là nguyên nhân sâu xa dẫn đến khủng hoảng kinh tế - xã hội ở các
nước xã hội chủ nghĩa.
Thời đại chúng ta mang hai nội dung chính yếu. Nội dung thứ nhất là sự
quá độ của loài người từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Đây là cái nhìn
từ góc độ hình thái kinh tế - xã hội, cái nhìn tổng quát nhất. Nội dung thứ hai là
cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại. Đây là góc độ từ cái nhìn kinh tế kỹ thuật, tức là góc độ sức sản xuất. Dưới góc độ này có thể sử dụng các thuật
2


Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc Lần thứ XI, NxbCTQG, HN 2011, tr. 67

7


ngữ “thời đại hậu công nghiệp” , “thời đại xã hội thông tin”, “thời đại kinh tế tri
thức”,..
Chủ sở hữu đối với khoa học và công nghệ là các tập đoàn tư bản lớn.
Trực tiếp, trước mắt cuộc cách mạng khoa học và công nghệ tăng cường thế lực
cho chủ nghĩa tư bản độc quyền, nhưng mặt khác, trong sâu xa, về lâu dài, cuộc
cách mạng khoa học và công nghệ làm cho những mâu thuẫn nội tại của chủ
nghĩa tư bản phát triển nhanh chóng đặc biệt là mâu thuẫn giữa lực lượng sản
xuất xã hội hóa cao và chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa.
Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại và tồn cầu hóa kinh tế
tạo ra những cơ hội lớn cho sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta.
Cơng nghiệp hóa địi hỏi phải có những tiền đề quốc tế. Trước đây, tiền đề
quốc tế quan trọng nhất là sự giúp đỡ về kinh tế, kỹ thuật của các nước xã hội
chủ nghĩa tiên tiến. Ngày nay, tiền đề quốc tế quan trọng nhất chính là cuộc cách
mạng khoa học- cơng nghệ hiện đại và tồn cầu hóa kinh tế, nói cụ thể hơn là
mặt tích của tồn cầu hóa kinh tế. Sử dụng tiền đề đó thực chất là chủ động tiếp
cận những thành quả kinh tế - kỹ thuật của chủ nghĩa tư bản hiện đại thông qua
con đường hợp tác, giao lưu quốc tế, thơng qua dịng chảy mạnh mẽ của tồn cầu
hóa. Có thể nói, khơng tận dụng được những cơ hội thuận lợi do tồn cầu hóa
kinh tế mang lại - mặc dù tồn cầu hóa do chủ nghĩa tư bản hiện đại chi phối chúng ta khơng có được những điều kiện về kinh tế - kỹ thuật để xây dựng chủ
nghĩa xã hội, bỏ qua chủ nghĩa tư bản. Đương nhiên muốn “mượn những tiền
đề” do chủ nghĩa tư bản hiện đại tạo ra, chúng ta cần phải có chiến lược hội nhập
đúng đắn.
Những thành tựu của công cuộc đổi mới hơn 25 năm qua đã tạo ra thế và
lực của dân tộc để hội nhập kinh tế quốc tế. Hiện nay chúng ta tham gia vào thị

trường khu vực và tồn cầu khơng phải với hai bàn tay trắng mà đã có trong tay
những mặt hàng xuất khẩu chủ lực có lợi thế so sánh, chúng ta có nhiều tiềm
8


năng về tài nguyên, về con người, về vị trí địa - chính trị. Việt Nam hội nhập
quốc tế trong điều kiện đất nước hịa bình, chính trị, xã hội ổn định. Chủ động
hội nhập vào q trình tồn cầu hóa, đất nước đứng trước những cơ hội mới để
phát triển, đó là:
Cơ hội thâm nhập thì trường tồn cầu và khu vực. Ngày nay vấn đề thị
trường xuât nhập khẩu là vấn đề sống còn đối với bất cứ nền kinh tế nào. Đổi
mới, hội nhập là quá trình đột phá, chiếm lĩnh thị trường. Trong trào lưu toàn cầu
hóa, nền kinh tế nước ta đã và đang khai thác thị trường rộng lớn, đa dạng,
không ngừng phát triển chiều rộng và chiều sâu .
Cơ hội thu hút vốn đầu tư nước ngồi. Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa địi
hỏi một lượng vốn rất lớn. Để cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, chúng ta cần phải
có nguồn vốn lớn. Chúng ta cần ra sức tranh thủ cơ hội các nguồn vốn huy động
nước ngoài và vốn đầu tư trong nước để đẩy nhanh q trình cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước.
Cơ hội tiếp nhận và đỏi mới trang thiết bị. Là nước đi sau, Việt Nam có
điều kiện thuận lợi để tiếp nhận cộng nghệ tiên tiến, hiện đại của các nước phát
triển để đẩy nhanh tiến trình cơng nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, xây dựng cơ
sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội. Tham gia vào nền kinh tế tồn cầu, nước ta có
cơ hội được hưởng những thành quả của tiến bộ khoa học và công nghệ mới.
Ngày nay, tốc độ phổ cập tri thức mới, kỹ thuật, công nghệ tiên tiến diễn ra
nhanh chóng thơng qua nhiều hình thức và kênh thơng tin khác nhau, phổ biến
nhất là chuyển giao công nghệ, nhờ đó các nước đang phát triển có thể thực hiện
và rút ngắn q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Mở cửa giao lưu, tạo điều kiện phát huy nội lực. Với dân số như hiện nay
hơn 80 triệu người, chúng ta có nguồn lực khá dồi dào. Người lao động nước ta

thơng minh, sáng tạo. Nhưng nếu đứng ngồi tồn cầu hóa thì việc sử dụng

9


nguồn nhân lực đó sẽ rất lãng phí và khơng hiệu quả. Hội nhập quốc tế là cơ hội
để khai thác, sử dụng tốt nguồn nhân lực của mình.
Thơng qua hội nhập kinh tế, q trình phân cơng lao động mới và xã họi
hóa lao động sẽ diễn ra nhanh chóng, chất lượng nguồn nhân lực sẽ được nâng
cao. Quá trình chuyển giao cơng nghệ từ các nước phát triển tạo cơ hội cho việc
chuyển đổi từ lao động giản đơn sang lao động co kỹ thuật ở nước ta diễn ra
nhanh chóng.
Tham gia vào nền kinh tế thế giới, các nhà quản lý, các doanh nghiệp Việt
Nam có điều kiện tiếp cận thị trường một cách bình đẳng. Mặt khác, các nhà
quản lý và các nhà doanh nghiệp Việt Nam cũng phải bước vào môi trường cạnh
tranh khắc nghiệt ở cả thị trường quốc nội và thị trường bên ngoài. Điều này bắt
buộc các nhà quản lý và các doanh nghiệp Việt Nam phải đổi mới cách tổ chức
sản xuất, đổi mới công nghệ và trang thiết bị, tiếp thu những phương pháp quản
lý tiên tiến, từ bỏ lối làm việc quan liêu, trì trệ, khơng ngừng nâng cao năng lực
cạnh tranh của mình. Tóm lại, tồn cầu hóa thúc đẩy mạnh mẽ quá trình đổi mới
trên tất cả các lĩnh vực: sự lãnh đạo của Đảng; sự quản lý của Nhà nước; môi
trường pháp lý; cơ chế hoạt động của hệ thống chính trị, đổi mới cơng nghệ, đổi
mới cơ chế quản lý kinh tế, đổi mới con người và đổi mới tư duy.
Bên cạnh những thời cơ thuận lợi, sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội
của nước ta đứng trước những thách thức rất lớn từ bối cảnh tình hình thế giới
diễn biễn phức tạp. Đó là những thách thức về tất cả các mặt: chính trị, kinh tế,
văn hóa, tư tưởng, quốc phịng, an ninh. Những thách thức nói trên mang tính
chất thời đại và tính chất đa dạng, phức tạp.
Những thách thức quốc tế không xuất hiện một cách ngẫu nhiên. Xét cho
cùng chúng là sản phẩm của thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã

hội, chúng là sản phẩm của thời kỳ lịch sử đặc biệt trong thời kỳ quá độ đó. Thời
kỳ này đặc trưng bởi hai quá trình, biến cố dường như trái ngược nhau. Biến cố
10


thứ nhất mang tính chất cách mạng: đó là cuộc cách mạng khoa học và công
nghệ hiện đại ở thời đoạn sơi nổi nhất của nó. Biến cố thứ hai mang tính chất
bước lùi tạm thời của lịch sử, đó là chủ nghĩa xã họi lâm vào thoái trào, cục diện
chính trị thế giới đột ngột thay đổi có lợi cho các thế lực phản động.
Giai đoạn hiện nay, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ
nghĩa của nhân dân ta đứng trước những thách thức về nhiều mặt, xuất phát từ
nhiều nguồn. Hàng loạt nhân tố khơng thuận lợi xuất hiện đồng thời, có tác động
lẫn nhau, tương tác với các nhân tố phức tạp bên trong tạo thành một lực cộng
hưởng khiến cho nguy cơ đe dọa thành quả cách mạng tăng cao. Có những thách
thức đã lộ diện hoặc có thể dự đốn, song có những thách thức đột xuất, diễn
biến và hậu quả khó lường. Tựu chung, có thách thức về kinh tế và thách thức về
chính trị.
Những thách thức về kinh tế từ điều kiện quốc tế đương đại đối với sự
nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa của ta gồm nhiều mặt. Chúng là những
thách thức lớn và phức tạp. Có những khó khăn thử thách đơn thuần về kinh tế
như cạnh tranh trên thương trường quốc tế là thách thức của tất cả các nước đang
phát triển. Nhưng có những thách thức kinh tế gắn rất chặt với chính trị. Ví dụ,
việc các thế lực thù địch sử dụng kinh tế làm phương tiện để gây sức ép về chính
trị đối với ta hoặc phân biệt đối xử đối với ta về kinh tế để gây khó khăn cho sự
nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa của ta.
Cách mạng khoa học và công nghệ cùng với sự phát triển kinh tế tri thức
tạo thời cơ và vận hội cho chúng ta đi tắt, đón đầu để cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước . Nhưng những vấn đề đăt ra của việc đi tắt, đón đầu khơng hề đơn
giản. Trước hết là vấn đề yêu cầu ngày càng cao đối với nguồn nhân. Lao động
giản đơn, kỹ thuật thấp, lương thấp và nguyên liệu thô dồi dào là lợi thế so sánh

của nước ta trước đây, ngày nay càng chịu một giá trị thấp đi, chúng ta không thể

11


khắc phục ngay được nhược điểm này. Hơn nữa, việc thu hút vốn đầu tư ngày
càng trở nên gay gắt hơn và khó khăn hơn.
Trong hội nhập tồn cầu, một thách thức, một nguy cơ từ bên ngồi chúng
ta khơng thể dự đốn trước được sự xuất hiện của nó, đó là nguy cơ khủng hoảng
kinh tế trên phạm vi tồn thế giới và khu vực. Tồn cầu hóa về kinh tế, nhất là
tồn cầu hóa trong lĩnh vực tài chính, tiền tệ thúc đẩy các nguồn vốn đầu tư
mạnh, vơ kế hoạch, khơng ai kiểm sốt nổi dẫn đến hình thành “bong bóng” tài
chính, “đầu cơ" tài chính là nguyên nhân gây ra khủng hoảng tài chính; chịu tổn
thất nặng nề nhất là các nước đang phát triển.
Do tác động của tồn cầu hóa, sự phân hóa giàu nghèo giữa các tầng lớp
dân cư, giữa các vùng ngày càng tăng. Mặc dù bản chất chế độ ta khác với các
nước tư bản, mặc dù Đảng ta có chính sách kinh tế - xã hội đúng đắn, thực hiện
xóa đói, giảm nghèo đạt hiệu quả cao, song chúng ta không thể loại bỏ hoàn toàn
được mặt trái của cơ chế thị trường, của tồn cầu hóa, trong đó có vấn đề thất
nghiệp gia tăng, phân hóa giàu nghèo gia tăng, kéo theo những vấn xã hội phức
tạp. Khắc phục ảnh hưởng của tồn cầu hóa đối với các vấn đề xã hội, bảo vệ
môi trường để bảo đảm tăng trưởng GDP nhanh, ổn định và bền vững là một
thách thức không nhỏ đối với nước ta.
Cuối cùng, việc giữ vững độc lập về kinh tế trong quá trình hội nhập vào
tồn cầu hóa là một thách thức mang tính tổng hợp. Việc giữ vững độc lập kinh
tế cịn khó khăn không chỉ do sức cạnh tranh yếu kém, phụ thuộc nước ngồi về
vốn, cơng nghệ, v.v… mà cịn do chúng ta khơng thể khơng nhân nhượng
(đương nhiên có ngun tắc) khi ký các cam kết quốc tế. Thách thức về kinh tế
từ bối cảnh thế giới hiện nay là những thách thức lâu dài và rất phức tạp. Chúng
ta không thể cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước nếu khơng vượt qua được

những thách thức đó.

12


Thách thức về chính trị là những thách thức đối với sự ổn định chính trị
của đất nước, đối với vai trò lãnh đạo của Đảng, với sự vững vàng của chính
quyền nhân dân, đối với an ninh quốc gia, đối với độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội.
Đối với nước ta, mục tiêu xuyên suốt của sự nghiệp cách mạng là độc lập
dân tộc gắn chăt với chủ nghĩa xã hội. Có củng cố được độc lập dân tộc mới xây
dựng được chủ nghĩa xã hội, có xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội mới giữ
được độc lập dân tộc. Những thách thức đối với độc lập dân tộc cũng chính là
thách thức đối với chế độ xã hội chủ nghĩa và ngược lại. Chủ nghĩa đế quốc và
các thế lực thù địch đứng đầu là Mỹ chống chủ nghĩa xã hội với chiêu bài bảo vệ
giá trị dân chủ, nhân quyền, thực chất là thực hiện chiến lược loại bỏ tất cả các
chế độ chính trị khơng phục tùng sự thống trị của chúng, trong đó chúng đặc biệt
coi trọng xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa. Trong tồn cầu hóa, Mỹ và phương
Tây khơng từ bỏ chiến lược diễn biến hịa bình để xóa bỏ các nước xã hội chủ
nghĩa còn lại. Chúng ta cũng phải cảnh giác trước việc chủ nghĩa đế quốc sử
dụng các biện pháp khơng hịa bình, thực hiện vũ trang xâm lược để chống độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Tóm lại, thách thức chính trị là thách thức rất lớn. Nhưng việc đẩy lùi
nguy cơ, vượt qua thách thức về căn bản phụ thuộc vào nhân tố chủ quan của
chúng ta. Ngày nay, thế và lực của nước ta đã lớn mạnh lên nhiều. Cơ sở vật chất
- kỹ thuật của nèn kinh tế được tăng cường. Đất nước còn nhiều tiềm năng lớn về
tài nguyên, lao động. Nhân dân ta có phẩm chất tốt đẹp; tình hình chính trị xã hội
cơ bản ổn định. Đảng ta có đường lối đúng đắn. Với nhân tố chủ quan như vậy,
chúng ta hồn tồn có khả năng tranh thủ mọi cơ hội vượt qua mọi thử thách từ
bối cảnh thế giới đương đại để thực hiện thành công sự nghiệp xây dựng chủ

nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc.

13


Trong điều kiện tồn cầu hóa, tranh thủ mọi thời cơ, vượt qua mọi thách
thức là điều kiện để thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới đất nước, hoàn thành
mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ ở nước ta là xây dựng được về cơ
bản nền kinh tế của chủ nghĩa xã hội với kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư
tưởng, văn hóa, phù hợp, tạo cơ sở để nước ta trở thành một nước xã hội chủ
nghĩa ngày càng phồn vinh và hạnh phúc. Từ nay đến giữa thế kỷ XXI, ra sức
phấn đấu xây dựng nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại, theo định
hướng xã hội chủ nghĩa. Để đạt được mục tiêu trên đây, cần quán triệt và thực
hiện tốt các phương hướng cơ bản: “Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường; phát triển
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; xây dựng nền văn hóa tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng con người, nâng cao đời sống nhân dân,
thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; bảo đảm vững chắc quốc phòng và an
ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội; thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự
chủ, hịa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, chủ động và tích cực hội nhập
quốc tế; xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân
tộc, tăng cường và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất; xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; xây dựng
Đảng trong sạch vững mạnh”3.
Quá trình thực hiện các phương hướng cơ bản đó, phải đặc biệt trú trọng
nắm và giải quyết tốt các mối quan hệ lớn: “Quan hệ giữa đổi mới, ổn định và
phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa kinh tế thị trường và
định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng
hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; giữa tăng trưởng kinh tế
và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; giữa xây dựng và

bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; giữa độc lập tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa
3

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc Lần thứ XI, NxbCTQG, HN 2011, tr. 72

14


Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ; …Khơng phiến diện, cực
đoan, duy ý chí”4.

4

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc Lần thứ XI, NxbCTQG, HN 2011, tr. 72 - 73

15



×