Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

Những rủi ro từ cạnh tranh trong thị trường Viễn thông Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (328.83 KB, 31 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Thị trường Viễn thông Việt Nam được đánh giá là thị trường có tốc độ phát
triển nhanh trên thế giới. Do đó, viễn thông đã trở thành một thị trường hấp dẫn với
các nhà đầu tư trong và ngoài nước, và hơn nữa khi Việt Nam chính thức gia nhập
WTO. Cũng chính vì sự hấp dẫn này mà kéo theo nhiều người muốn gia nhập thị
trường, từ đó tạo nên tính cạnh tranh gay gắt trên thị trường. Thị trường viễn thông
sẽ không còn dễ chơi như thưở ban đầu mà trở nên cạnh tranh gay gắt giữa các
doanh nghiệp để tranh giành thị phần. Trong cuộc đua quyết liệt này, doanh nghiệp
viễn thông sẽ khó tránh khỏi những rủi ro do thị trường cạnh tranh mang lại. Vì vậy
quản trị rủi ro là công tác cần thiết mà các doanh nghiệp cần thực hiện tốt để phòng
ngừa những rủi ro tránh những tổn thất mà mình phải gánh chịu. Trước vấn đề này
nhóm chúng tôi chọn đề tài “ Những rủi ro từ cạnh tranh trong thị trường Viễn
thông Việt Nam”.
Mục đích nghiên cứu: trong đề tài này, chúng em sẽ nhận diện một số rủi ro
trong môi trường cạnh tranh của thị trường viễn thông và đề ra một số giải pháp
trong quản trị rủi ro.
Phạm vi nghiên cứu: Thị trường Viễn thông Việt Nam, và đặc biệt là thị
trường di động. Vì do khó khăn trong cập nhật số liệu, nên nhóm chúng tôi chỉ có
thể đưa ra những con số thống kê, tính toán trong trong năm 2008.
Phương pháp nghiên cứu: vì lý do về thời gian, nên nhóm chúng tôi chỉ nghiên
cứu trên thông tin thứ cấp.
Kết cấu đề tài:
I- Rủi ro và quản trị rủi ro
II- Thị trường Viễn thông Việt Nam
III- Những rủi ro từ môi trường cạnh tranh
IV- Giải pháp
I- RỦI RO VÀ QUẢN TRỊ RỦI RO:
1.Rủi ro:
a- Định nghĩa:
Theo trường phái truyền thống, rủi ro được xem là sự không may mắn, sự tổn
thất mất mát, nguy hiểm. Nó được xem là điều không lành, điều không tốt, bất ngờ


xảy đến. Đó là sự tổn thất về tài sản hay là sự giảm sút lợi nhuận thực tế so với lợi
nhuận dự kiến. Rủi ro còn được hiểu là những bất trắc ngoài ý muốn xảy ra trong
quá trình kinh doanh, sản xuất của doanh nghiệp, tác động xấu đến sự tồn tại và
phát triển của một doanh nghiệp.Tóm lại, theo quan điểm này thì rủi ro là những
thiệt hại, mất mát, nguy hiểm hoặc các yếu tố liên quan đến nguy hiểm, khó khăn
hoặc điều không chắc chắn có thể xảy ra cho con người.
Theo trường phái hiện đại, rủi ro là sự bất trắc có thể đo lường được, vừa
mang tính tích cực, vừa mang tính tiêu cực. Rủi ro có thể mang đến những tổn thất
mất mát cho con người nhưng cũng có thể mang lại những lợi ích, những cơ hội.
Nếu tích cực nghiên cứu rủi ro, người ta có thể tìm ra những biện pháp phòng ngừa,
hạn chế những rủi ro tiêu cực, đón nhận những cơ hội mang lại kết quả tốt đẹp cho
tương lai.
Tóm lại rủi ro (Risk) đối với doanh nghiệp là gì? Một cách khái quát, rủi ro là
bất cứ sự không chắc chắn nào có thể là nguy cơ đối với khả năng thực hiện thành
công mục tiêu kinh doanh của doanh nghiệp.
b- Nguyên nhân rủi ro:
Thứ nhất nguyên nhân từ môi trường tự nhiên, như bão, lũ lụt, hạn hán, động
đất, núi lửa, sóng thần, nước biển dâng, trái đất “nóng” lên,... Các rủi ro này thường
có hai đặc điểm chung: khả năng dự báo, dự đoán thấp, xảy ra bất ngờ, thứ hai là
gây thiệt hại trên quy mô lớn; không chỉ cho một vùng miền, một ngành hàng, một
cộng đồng mà cho cả một nền kinh tế, một số quốc gia hoặc cả thế giới. Nói dự
đoán, dự báo là khó nhưng các hiện tượng thiên nhiên này cũng hoạt động theo quy
luật, do đó, các doanh nghiệp cũng có thể chủ động phòng tránh hoặc lựa chọn giải
pháp thích hợp.
Thứ hai là các rủi ro từ môi trường xã hội, từ cấu trúc xã hội, dân số, dân cư.
Đó là sự thay đổi các chuẩn mực giá trị, hành vi con người, các thang giá trị trong
xã hội, các đặc xã hội... Một xã hội bao cấp về kinh tế, bao biện trong quản lý một
xã hội “ít trọng thương”, loay hoay trong việc định thang giá trị “nhất sĩ nhì nông,
hết gạo chạy rông, nhất nông nhì sĩ”, hai xếp hạng đơn giản theo kiểu "sĩ, nông,
công, thương”, một xã hội với cộng đồng dân cư đông nhưng không mạnh, chất

lượng dân số thấp, sức mua kém, tỉ lệ dân số trẻ thấp,... đều có thể là nguồn gốc rủi
ro cho các hoạt động thương mại, đầu tư của doanh nghiệp. Ngược lại, một xã hội
biết khuyến khích nuôi dưỡng các giá trị sáng tạo, các cảm hứng đầu tư, chắc chắn
sẽ là lá chắn bảo vệ tốt cho các doanh nghiệp.
Thứ ba là các rủi ro đến từ nơi có môi trường thấp kém về văn hóa, tha hóa về
đạo đức... Một xã hội nơi có dân trí thấp, các chuẩn mực văn hóa thiếu, đạo đức
không được đề cao, làm sao có thể thực thi pháp luật tốt được? Một khi pháp luật
không được thực thi hiệu quả thì ngàn vạn rủi ro có thể xảy ra. Ở đó, sẽ có sự lộng
quyền của chính trị, sự lộng hành của các loại tội phạm như trộm cắp, cướp bóc,
bạo loạn, lừa đảo kinh tế ngầm, bội ước hợp đồng, hàng giả, hàng nhái, kích động
tôn giáo, sắc tộc, hận thù... Các giá trị "chân, thiện, mỹ”, như là chuẩn mực của văn
hóa, đạo đức một khi đã bị chà đạp thì làm sao kinh doanh chân chính, đầu tư bền
vững có chỗ đứng lâu dài được ? Hệ quả sẽ là các loại kinh doanh chụp giật, lừa
đảo, dối trá... sẽ thống trị.
Thứ tư là các rủi ro từ môi trường chính trị, nơi thiếu các thiết chế để bảo vệ
quyền tự do, dân chủ, quyền sở hữu tài sản của người dân nói chung, doanh nghiệp
nói riêng. Môi trường chính trị bao gồm sự ổn định về chính trị, an ninh, an toàn
cho doanh nghiệp, người dân. Một quốc gia thường xuyên thay đổi chính sách,
thường xuyên có đảo chính, chiến tranh, bạo loạn, xung đột sắc tộc, tôn giáo, bãi
công. đình công, thường xuyên có sự can thiệp thiếu chuẩn mực vào thị trường,
chính sách bị các nhóm lợi ích mờ ám chi phối, phân biệt đối xử, tham ô, hối lộ
trầm trọng... đều gây nguy cơ rủi ro cho các doanh nghiệp khiến họ thiếu niềm tin
kinh doanh, mất động lực đầu tư hoặc tệ hại hơn, kinh doanh theo kiểu băng đảng
maphia, băng hoại nhà nước, gây hại cho cả nền kinh tế, xã hội.
Thứ năm là các rủi ro từ môi trường kinh tế. Một nền kinh tế khoẻ là một nền
kinh tế có sức đề kháng cao, có khả năng giải quyết khủng hoảng một cách tốt nhất
theo hướng minh bạch, chi phí thấp, tính bền vững cao. Một môi trường kinh tế, nơi
thường xuyên có khủng hoảng, lạm phát triền miên, giá cả thất thường, cung cầu bất
ổn, tỷ giá thay đổi chóng mặt, hàng hóa dịch vụ khan hiếm (thật và giả), độc quyền
không kiểm soát được, cạnh tranh công bằng chỉ nằm trên giấy... cùng với việc

thiếu năng lực kỹ trị hoặc sự công tâm của công quyền đều được coi là những rủi ro
lớn cho các doanh nghiệp. Ngoài ra, xét từ một góc độ khác, các thách thức đến từ
một nền kinh tế có sức cạnh tranh cao, sự thay đổi mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật.
của công nghệ thông tin cũng sẽ là những rủi ro cho những doanh nghiệp thiếu khả
năng thích ứng với đổi mới.
Thứ sáu là các rủi ro có nguyên nhân từ môi trường pháp lý thiếu minh bạch
trong cả ba lĩnh vực lập pháp, hành pháp và tư pháp. Đây cũng là hiểm họa của kinh
doanh lành mạnh. Một hệ thống văn bản pháp luật được ban hành với sự tham gia
có hiệu quả của cộng đồng doanh nghiệp, theo các tiêu chí bền vững, thống nhất,
thân thiện, công bằng, dễ áp dụng; một hệ thống hành pháp hoạt động theo phương
châm hỗ trợ, thúc đẩy và phục vụ kinh doanh; một hệ thống tư pháp đáng tin cậy,
tôn trọng công lý, bảo đảm pháp luật thực thi hiệu quả cùng với một xã hội thượng
tôn đạo đức, pháp luật sẽ là một môi trường lý tưởng để khuyến khích đầu tư và
phát triển doanh nghiệp. Ngược lại, nơi pháp luật bất nhất, mâu thuẫn, chồng chéo,
thay đổi đột ngột, mờ ám, thực thi pháp luật thiếu minh bạch, công khai, hiệu quả,
việc áp dụng pháp luật thiếu công bằng, khách quan, các quyền sở hữu tài sản,
quyền bảo vệ hợp đồng hoặc luôn bị xâm hại hoặc chi phí quá cao... đều là nguồn
gốc rủi ro, gây thiệt hại nặng nề cho doanh nghiệp.
Thứ bảy là các rủi ro đến từ các đối tác của doanh nghiệp. Họ có thể là các
nhà đầu tư, góp vốn liên doanh, liên kết, là bạn hàng của doanh nghiệp. Họ đến từ
đâu? Họ có đáng tin cậy về đạo đức, kỹ năng, kinh nghiệm, tài chính, pháp luật,
quản trị doanh nghiệp không? Thiết lập quan hệ với họ, dù chỉ một lần, như lời ông
bà khuyên "phải dò cho đến ngọn nguồn, lạch sông". Hiểu và tin nhau đã rồi mới
nói đến việc thương thuyết, ký kết, thực hiện hợp đồng trong đó, mỗi công đoạn đều
rình rập những rủi ro mà doanh nghiệp cần phải tính đến như: mâu thuẫn trong các
điều khoản, chọn luật, thanh toán và thuế, chuyển quyền sở hữu và rủi ro, các biện
pháp khắc phục và xử lý vi phạm, giới hạn trách nhiệm, chấm dứt hợp đồng trước
thời hạn và giải quyết tranh chấp hợp đồng...
Thứ tám là các rủi ro đến ngay từ chính trong nội bộ doanh nghiệp như thái
độ của doanh nghiệp đối với rủi ro, sai lầm trong chiến lược kinh doanh, quản lý

doanh nghiệp, sự yếu kém của cán bộ quản lý và nhân viên, thiếu đạo đức và văn
hóa kinh doanh, thiếu động cơ làm việc, thiếu đoàn kết nội bộ ... Tôn Tử nói: biết
mình biết người, trăm trận trăm thắng". Ba rủi ro có thể đến: thứ nhất là chỉ biết
mình mà không biết người, thứ hai là chỉ biết người mà không biết mình và cuối
cùng, không biết cả mình lẫn người. Để "biết mình", điều quan trọng nhất là thường
xuyên tự kiểm tra và kiểm tra đối chứng hệ thống quản trị doanh nghiệp của mình
có hiệu quả không, có minh bạch không. Quản trị doanh nghiệp là toàn bộ các điều
lệ, quy tắc, quy chế, thông lệ quản lý và điều hành doanh nghiệp. Quản trị doanh
nghiệp tốt sẽ giúp các chiến lược, quyết định của doanh nghiệp được ban hành sáng
suốt nhất, thực thi hiệu quả nhất, loại trừ được rủi ro tốt nhất. Quản trị doanh nghiệp
tốt bảo đảm phát huy hết nguồn lực (nhân lực/ vật lực) trong doanh nghiệp đồng
thời sớm phát hiện được "bệnh" của chính mình.
Nhận dạng phân loại rủi ro của doanh nghiệp như trên đây cũng chỉ là tương
đối. Thực tế có sự ảnh hưởng dây chuyền giữa các nguyên nhân gây rủi ro. Và như
lời người xưa nói “Có chí làm quan, có gan làm giàu”. Gan ở đây không phải là liều
lĩnh, liều mạng mà là gan biết "sống chung" với rủi ro, biết chấp nhận, biết phòng
tránh và hạn chế tác hại của nó có hiệu quả.
2.Quản trị rủi ro:
a- Định nghĩa:
Quản lý rủi ro là một quá trình xem xét đánh giá toàn diện các hoạt động của
doanh nghiệp để nhận biết những nguy cơ tiềm ẩn có thể tác động xấu đến các mặt
hoạt động của doanh nghiệp, trên cơ sở đó sẽ đưa ra các giải pháp ứng phó, phòng
ngừa phù hợp tương ứng với từng nguy cơ. Chúng ta cũng có thể hiểu quản lý rủi ro
là một quá trình được tổ chức một cách chính thức và được thực hiện liên tục để xác
định (identify), kiểm soát (control) và báo cáo (report) các rủi ro có thể ảnh hưởng
đến việc đạt được những mục tiêu kinh doanh của doanh nghiệp.
Quá trình quản trị rủi ro
b- Yêu cầu đối với hoạt động quản lý rủi ro:
Để đảm bảo hoạt động Quản lý rủi ro thực hiện được mục tiêu đã định, việc tổ
chức thực hiện phải đảm bảo các yêu cầu sau:

+Nâng cao nhận thức về rủi ro cũng như khả năng ứng phó với rủi ro một
cách phù hợp trong toàn doanh nghiệp;
+Chính thức hóa quá trình quản lý rủi ro;
+Xây dụng qui trình quản lý rủi ro thống nhất trong doanh nghiệp;
+Minh bạch hóa các rủi ro;
+Đưa quản lý rủi ro thành một phần chính thức trong hệ thống kiểm soát
nội bộ chung;
Thực tế cho thấy, hoạt động quản lý rủi ro được tổ chức tốt và vận hành hiệu
quả sẽ góp phần tăng thêm giá trị cho doanh nghiệp, cụ thể là:
+Giúp cải thiện hiệu quả hoạt động và tạo lợi thế cạnh tranh;
+Góp phần phân bổ và sử dụng hiệu quả những nguồn lực trong
doanh nghiệp;
+Giảm thiểu những sai sót trong mọi mặt hoạt động của doanh
nghiệp…
c- Chính sách quản lý rủi ro và triển khai thực hiện:
Để thiết lập hệ thống quản lý rủi ro, doanh nghiệp cần bắt đầu từ việc xây
dựng Chính sách quản lý rủi ro. Chính sách này sẽ xác định rõ phương pháp tiếp
cận đối với rủi ro và quản lý rủi ro. Bên cạnh đó, chính sách quản lý rủi ro cũng qui
định rõ trách nhiệm đối với quản lý rủi ro xuyên suốt doanh nghiệp, đối với: Ban
Giám đốc; Các đơn vị trực thuộc; phòng ban; Bộ phận quản lý rủi ro (nếu có); Bộ
phận Kiểm toán nội bộ - kiểm soát nội bộ. Việc triển khai hoạt động quản lý rủi ro
cần gắn liền với Chiến lược kinh doanh, Kế hoạch ngân sách hàng năm và các chu
trình nghiệp vụ trong doanh nghiệp.
Trong quá trình triển khai hoạt động quản lý rủi ro, doanh nghiệp cần đặc biệt
quan tâm đến việc chuẩn bị bố trí và sử dụng hợp lý các nguồn lực. Các nguồn lực
cần thiết cho hoạt động quản lý rủi ro phải được thiết lập tại từng cấp quản lý và
trong từng đơn vị. Kinh nghiệm từ thực tế cho thấy, để hệ thống quản lý rủi ro thực
sự hoạt động, cần đảm bảo các yêu cầu sau: · Cam kết của Ban lãnh đạo cấp cao đối
với hoạt động quản lý rủi ro; · Phân công trách nhiệm rõ ràng trong doanh nghiệp
đối với hoạt động quản lý rủi ro; · Cần đảm bảo phân bổ hợp lý các nguồn lực cho

họat động đào tạo và nâng cao nhận thức về rủi ro; · Đặc biệt là việc thực thi, tuân
thủ chính sách quản lý rủi ro. Tại nhiều doanh nghiệp, việc thực hiện các biện pháp
phòng ngừa rủi ro được đưa vào hệ thống tiêu chí đánh giá chất lượng thực hiện
công việc của nhân viên (KPIs).
d- Quy trình quản lý rủi ro:
Về cơ bản, quy trình quản lý rủi ro thường bao gồm các bước công việc cơ bản
như: xác nhận mục tiêu của doanh nghiệp, xác định rủi ro, mô tả và phân loại rủi ro,
đánh giá và xếp hạng rủi ro, xây dựng kế hoạch ứng phó, lập báo cáo cập nhật tình
hình thực thi, giám sát quá trình thực hiện, rà soát và cải tiến quy trình quản lý rủi
ro. Chi tiết về một số bước chính trong quy trình quản lý rủi ro như sau:
*Xác nhận mục tiêu của doanh nghiệp
Hoạt động quản lý rủi ro được tổ chức và triển khai nhằm hướng tới
việc đảm bảo thực hiện thành công các mục tiêu của doanh nghiệp. Vì vậy, khi bắt
đầu quá trình quản lý rủi ro, công việc đầu tiên Ban lãnh đạo doanh nghiệp cần thực
hiện là xác nhận các mục tiêu hoạt động của doanh nghiệp. Đây sẽ là cơ sở đảm bảo
hoạt động quản lý rủi ro được tổ chức đúng hướng.
*Xác định rủi ro
Có rất nhiều phương thức để xác định rủi ro. Mỗi phương thức đều có
ưu và nhược điểm riêng. Tuy nhiên, thông thường người ta sử dụng các phương
thức sau để xác định rủi ro: · Tổ chức Hội thảo đánh giá rủi ro; · Tổ chức họp "Tấn
công trí não"; · Thông qua Phiếu điều tra; · Thông qua hoạt động Kiểm toán và
kiểm tra; · Dựa trên mức chuẩn của ngành; · Thông qua Phân tích các tình huống…
Trên thực tế, phương thức xác định rủi ro được sử dụng nhiều nhất là tổ chức Hội
thảo đánh giá rủi ro. Tham dự Hội thảo bao gồm Ban Giám đốc và lãnh đạo của tất
cả các phòng ban trong doanh nghiệp, Các thành viên tại hội thảo sẽ cùng trao đổi
để đưa ra một danh sách các rủi ro doanh nghiệp cần lưu tâm. Trong nhiều trường
hợp, kết quả của quá trình xác định rủi ro là một danh sách dài các rủi ro tiềm ẩn.
Tuy nhiên, điều này cũng không đáng phải quá lo lắng vì với việc thực hiện các
bước tiếp theo của quy trình quản lý rủi ro sẽ giúp nhận diện rõ ràng những rủi ro
nào là mối nguy cơ thật sự lớn đối với doanh nghiệp.

*Mô tả và phân loại rủi ro
Sau khi xác định được các rủi ro tiềm ẩn, việc tiếp theo cần làm đó là
mô tả một cách ngắn gọn nhưng cụ thể về nguồn gốc, căn nguyên và hệ quả, tác
động của từng rủi ro đối với doanh nghiệp. Tiếp theo, chúng ta sẽ thực hiện việc
phân loại rủi ro. Có nhiều loại rủi ro khác nhau tiềm ẩn đối với doanh nghiệp.
Chúng có thể có nguồn gốc ngay bên trong doanh nghiệp hoặc từ bên ngoài. Dựa
trên bản chất của các rủi ro, người ta có nhiều cách phân loại rủi ro. Tuy nhiên, phổ
biến nhất là việc phân loại rủi ro thành 04 nhóm như sau: Rủi ro tài chính: Lãi suất,
tỷ giá hối đoái, nguồn tín dụng, dòng tiền và khả năng thanh toán…; Rủi ro chiến
lược: Cạnh tranh, thay đổi của khách hàng, thay đổi của ngành, rủi ro đối với hoạt
động nghiên cứu và phát triển, sở hữu trí tuệ…; Rủi ro hoạt động: Bộ máy lãnh đạo,
rủi ro về văn hóa doanh nghiệp, vi phạm quy chế quản lý, kiểm soát tài chính, hệ
thống thông tin…; Rủi ro nguy hiểm: Rủi ro về môi trường, nhà cung cấp, thiên tai,
rủi ro đối với tài sản, các hợp đồng, sản phẩm và dịch vụ… Việc phân loại rủi ro
như trên giúp doanh nghiệp quản lý rủi ro một cách có hệ thống và có cái nhìn tổng
thể, toàn diện hơn về rủi ro trong mọi mặt hoạt động.
*Đánh giá và xếp hạng rủi ro
Nguồn lực của doanh nghiệp là có hạn trong khi số lượng các rủi ro là
rất lớn. Vì vậy, bước tiếp theo sau khi lập được bản danh sách các rủi ro tiềm ẩn,
chúng ta sẽ tổ chức đánh giá và xếp hạng các rủi ro theo mức độ cần ưu tiên ứng
phó. Để thực hiện việc xếp hạng rủi ro, doanh nghiệp sẽ phân tích, đánh giá từng rủi
ro theo 2 tiêu chí: khả năng xảy ra của rủi ro và mức độ ảnh hưởng của rủi ro đến
doanh nghiệp nếu xảy ra. Để làm căn cứ xếp hạng rủi ro, thông thường người ta sẽ
thực hiện việc cho điểm đối với từng rủi ro theo cả 2 tiêu chí. Dựa trên kết quả cho
điểm rủi ro, các rủi ro sẽ được xếp hạng theo thứ tự ưu tiên giảm dần. Rủi ro mà
doanh nghiệp cần ưu tiên ứng phó, phòng ngừa là những rủi ro mà khả năng xảy ra
cao và mức độ ảnh hưởng lớn như minh họa trong bảng sau: Thông thường thì chỉ
10-20 rủi ro có thứ hạng cao nhất sẽ được doanh nghiệp ưu tiên lên kế hoạch và tổ
chức ứng phó. Số lượng cụ thể tùy theo mức độ sử dụng các nguồn lực và quy mô,
tiềm lực của doanh nghiệp.

* Xây dựng kế hoạch ứng phó
Xây dựng kế hoạch ứng phó là giai đoạn quan trọng trong quá trình
quản lý rủi ro. Tại giai đoạn này doanh nghiệp phải đưa ra các biện pháp phòng
ngừa, kiểm soát cụ thể cần thực hiện để phòng ngừa và giảm thiểu thiệt hại nếu rủi
ro xảy ra. Điều quan trọng ở đây là doanh nghiệp đưa ra được các biện pháp khả thi,
hữu hiệu và ít tốn kém. Có 3 nội dung phải được xác định cụ thể đối với từng rủi ro
khi xây dựng kế hoạch ứng phó, đó là: 1. Những biện pháp phải thực thi để phòng
chống, ngăn ngừa rủi ro xảy ra; 2. Thời hạn cụ thể phải thực hiện xong các biện
pháp đã đưa ra; và 3. Ai là sẽ người chịu trách nhiệm chính quản lý rủi ro đó.
* Tổ chức giám sát việc thực hiện các biện pháp
Trong quá trình thực thi các biện pháp ứng phó, doanh nghiệp cần xây
dựng hệ thống báo cáo thường xuyên nhằm đảm bảo kiểm soát chặt chẽ quá trình
thực hiện. Doanh nghiệp cũng cần đảm bảo mọi thiếu sót trong việc thực hiện các
biện pháp kiểm soát rủi ro phải được thông tin kịp thời đến cấp quản lý có trách
nhiệm. Thường xuyên tổ chức kiểm tra và đánh giá việc tuân thủ chính sách quản lý
rủi ro và các tiêu chuẩn liên quan. Môi trường mà doanh nghiệp đang hoạt động là
không ngừng vận động, do vậy doanh nghiệp cần quan tâm xem xét điều chỉnh các
biện pháp đang thực hiện cho phù hợp với những chuyển biến của môi trường. Định
kỳ, doanh nghiệp cần xem xét lại mức độ phù hợp của danh sách các rủi ro cùng với
biện pháp ứng phó tương ứng. Tóm lại, để thiết lập được một hệ thống quản lý rủi
ro hoạt động hiệu quả, bên cạnh việc xây dựng chính sách quản lý rủi ro của doanh
nghiệp, bản thân lãnh đạo doanh nghiệp phải cam kết ủng hộ việc triển khai, đảm
bảo không tồn tại khái niệm "vùng cấm" trong doanh nghiệp, những khu vực không
được tiếp cận đánh giá, kiểm soát.
Đồng thời, lãnh đạo doanh nghiệp cũng phải thật sự coi trọng công tác thông tin,
tuyên truyền và đào tạo để xây dựng văn hóa quản lý rủi ro đến mọi đối tượng trong
doanh nghiệp. Đã đến lúc các nhà quản trị doanh nghiệp Việt Nam cần nhìn nhận
một cách nghiêm túc về vai trò của hoạt động quản lý rủi ro, cân nhắc thiết lập và
duy trì một hệ thống quản lý rủi ro trong doanh nghiệp của mình. Kinh nghiệm thực
tế cho thấy, một khi rủi ro được dự báo trước, doanh nghiệp hoàn toàn có thể xây

dựng và triển khai những kế hoạch ứng phó hiệu quả và phát triển bền vững.
II- THỊ TRƯỜNG VIỄN THÔNG VIỆT NAM:
1. Thị trường Viễn thông Việt Nam:
Thị trường viễn thông Việt Nam hiện là khu vực phát triển nhanh thứ hai trên thị
trường viễn thông Châu Á, với khoảng 14 triệu thuê bao trong các dịch vụ viễn thông và
hơn 10 triệu người sử dụng Internet. Nếu xét trong khu vực thì ngành viễn thông Việt Nam
đang dẫn đầu ở khu vực Đông Nam Á.
Theo số liệu từ Bộ Thông tin và Truyền thông, năm 2008, tốc độ phát triển thuê bao
điện thoại của Việt Nam tăng mạnh, Năm 2008, ngành Viễn thông Việt Nam đã chứng
kiến những con số khá ấn tượng, tổng số thuê bao điện thoại trên toàn mạng là 82,25 triệu
máy tăng 100% so với năm 2007, thuê bao di động chiếm 85.5%, mật độ điện thoại là 97,5
máy/100 dân. Toàn quốc có trên 20,67 triệu người sử dụng Internet đạt mật độ 24,20%.
Tổng số thuê bao băng rộng đạt 2 triệu. Doanh thu Bưu chính – Viễn thông năm 2008 đạt
92.445 tỷ đồng, tăng gần 38% so với năm 2007.
Biểu đồ tổng doanh thu ngành viễn thông
Nguồn MIC
a- Thị trường di động:
Thị trường di động là thị trường có tốc độ phát triển nhanh nhất trong ngành viễn thông ở
Việt Nam. Được đánh giá là thị trường phát triển nhanh nhất và nóng nhất trong khu vực
và thế giới. Với sự phát triển không ngừng của hạ tầng, công nghệ, đặc biết là số lượng
doanh nghiệp tham gia ngành ngày càng nhiều. Các doanh nghiệp đua nha cạnh tranh về
giá, khuyến mãi và dịch vụ gia tăng nhằm thu hút khách hàng.
Doanh thu thị trường mạng di động
Nguồn MIC
Có được thông tin đáng tin cậy về số lượng thuê bao di động bời 6 nhà cung
cấp dịch vụ di động ở Việt Nam là một thách thức. Thực tế thì bộ văn hóa và thông
tin(MIC) đã cam kết thực hiện một cuộc điều tra để xem xét liệu các Sim điện thoại
có đang ở tình trạng hoạt động hay không. Để minh chứng cho sự rối rắm này, cả
Vietel và Mobifone đều dẫn ra những nhà cung cấp dịch vụ hàng đầu. Theo một
nghiên cứu tham khảo , Vietel mạng điện thoại được sở hữu bởi quân đội Việt nam

đang dẫn đẩu thị trường với 29% thị phần,x ếp trên Mobifone và Vinafone với thị
phần lần lượt là 28% và 25%. Cả Vinafone và Mobifone được sở hữu bởi VNPT.
Cùng với nhau, 3 nhà cung cấp dịch vụ di động GSM thống trị 82% thị trường tính
đến cuối 2008. Số lượng thuê bao CDMA đạt đến 6 triệu tính đến cuối năm 2007,
vượt lên hẳn so với mức 2 triệu cuối năm 2006. .

×