TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐẠI HỌC KINH TẾ TP HCM
KHOA NGÂN HÀNG
LỚP K23 ĐÊM 11
MÔN: LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH – TIỀN TỆ
CHUYÊN ĐỀ THUYẾT TRÌNH 5
KHỦNG HOẢNG NỢ CÔNG VÀ NHỮNG TÁC ĐỘNG
ĐẾN TÌNH HÌNH TÀI CHÍNH-TIỀN TỆ
Giảng viên hướng dẫn : TS. Diệp Gia
Luật
Nhóm thực hiện : Nhóm 5
Lớp : Cao học đêm 11
Khóa : K23
TPHCM,11/2013
DANH SÁCH NHÓM
Họ và tên Di động
1. Võ Hữu Đông 01677652070
2. Phạm Xuân Hiếu 01678822410
3. Lê Mộng Linh 01655115215
4. Vũ Thị Kim Hồng 0963344112
5. Lê Thị Thanh Vân 01692145464
6. Nguyễn Huỳnh Trang 01268405674
7. Lê Xuân Trinh 0974039035
8. Nguyễn Văn Khánh 0979999369
9. Phạm Thị Lan Anh 01666380737
10. Nguyễn Thị Như Nhật 0988383842
11. Mai Nguyễn Thanh Thảo 0904783697
12. Nguyễn Thị Thanh Trúc 0979385510
13. Phan Tiến Luân 0909659955
14. Nguyễn Duy Thanh Phương 0982059995
MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG BIỂU, BIỂU ĐỒ VÀ HÌNH
BẢNG BIỂU
Bảng 2.1 Xếp hạng tín nhiệm của Ireland theo Moody’s
Bảng 3.1. Số liệu nợ công của VN giai đoạn 2006-2011
Bảng 3.2 Cơ cấu trong dư nợ Chính phủ từ năm 2010 - 2012
Nhóm thực hiện : Nhóm 5 1
Khóa : K23 1
PHẦN 1: KHÁI QUÁT VỀ NỢ CÔNG VÀ KHỦNG HOẢNG NỢ CÔNG 7
1.1. Nợ công 7
1.1.1. Khái niệm 7
1.1.2. Đặc trưng cơ bản của nợ công 9
1.1.2.1. Nợ công là khoản nợ ràng buộc trách nhiệm trả nợ của Nhà nước 9
1.1.2.2. Nợ công được quản lý theo quy trình chặt chẽ với sự tham gia của cơ quan nhà nước
có thẩm quyền, tuân thủ nguyên tắc của nhà nước về quản lý nợ cộng 9
1.1.2.3. Mục tiêu cao nhất của việc huy động và sử dụng nợ công là phát triển kinh tế xã hội,
vì lợi ích cộng đồng 10
1.1.3. Phân loại nợ công 10
1.1.4. Các hình thức vay nợ và công cụ vay nợ công 11
1.1.5. Các nhân tố ảnh hưởng đến nợ công 12
1.2. Khủng hoảng nợ công 13
1.2.1. Khủng hoảng nợ công là gì ? 13
1.2.2. Đặc điểm của khủng hoảng nợ công 14
1.2.3. Nguyên nhân chủ yếu gây ra tình trạng khủng hoảng nợ công 14
PHẦN 2: KHỦNG HOẢNG NỢ CÔNG TRÊN THẾ GIỚI VÀ TÁC ĐỘNG CỦA
NÓ ĐẾN TÌNH HÌNH TÀI CHÍNH-TIỀN TỆ 16
(ĐIỂN HÌNH LÀ HY LẠP VÀ IRELAND) 16
1.3. Bối cảnh chung xảy ra khủng hoảng nợ công ở châu Âu 16
1.4. Khủng hoảng nợ công ở Hy Lạp 17
1.4.1. Thực trạng khủng hoảng nợ công Hy Lạp 17
1.4.1.1. Tỷ lệ nợ công trên GDP 17
1.4.1.2. Tỷ trọng nợ công của Hy Lạp theo kỳ hạn 17
1.4.1.3. Thâm hụt cán cân vãng lai trong một thời gian dài 18
1.4.1.4. Tình trạng thâm hụt ngân sách 18
1.4.2. Nguyên nhân gây ra cuộc khủng hoảng nợ công Hy Lạp 19
1.4.2.1. Tiết kiệm trong nước thấp dẫn tới phải vay nợ nước ngoài cho chi tiêu công 19
1.4.2.2. Chi tiêu công tăng cao dẫn đến thâm hụt ngân sách 19
1.4.2.3. Nguồn thu giảm sút cũng là một nhân tố dẫn tới tình trạng thâm hụt ngân sách và gia
tăng nợ công 20
1.4.2.4. Sự tiếp cận dễ dãi với nguồn vốn đầu tư nước ngòai và việc sử dụng nguồn vốn
không hiệu quả 21
1.4.2.5. Thiếu tính minh bạch và niềm tin của các nhà đầu tư 21
1.4.3. Tác động của khủng hoảng nợ công Hy Lạp đến tình hình tài chính – tiền tệ 22
1.4.3.1. Giá trái phiếu giảm và lãi suất tăng 22
1.4.3.2. Cắt giảm chi tiêu 22
1.4.3.3. Đầu tư trực tiếp FDI giảm 23
1.4.3.4. Hạ bậc xếp hạng tín dụng 24
1.4.3.5. Thất nghiệp tăng 25
1.4.3.6. Lạm phát tăng 25
1.4.4. Một số giải pháp 26
1.4.4.1. Nhận gói cứu trợ từ EU, IMF và hỗ trợ từ ECB 26
1.4.4.2. Giảm chi tiêu công, tăng thuế 27
1.4.4.3. Phát hành trái phiếu 27
1.4.5. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam 28
1.4.5.1. Mô hình phát triển kinh tế 28
1.4.5.2. Về hoạch định chính sách tài khoá và quản lý nợ công 28
1.4.5.3. Về công tác công bố thông tin và minh bạch chính sách 29
1.5. Khủng hoảng nợ công Ireland 29
1.5.1. Thực trạng khủng hoảng nợ công Ireland 29
1.5.1.1. Tỷ lệ nợ công trên GDP 29
1.5.1.2. Tình trạng thâm hụt ngân sách 30
1.5.1.3. Thâm hụt cán cân vãng lai 31
1.5.2. Nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng nợ công 31
1.5.3. Tác động của nợ công đến tình hình tài chính tiền tệ 32
1.5.3.1. Xếp hạng tín nhiệm bị hạ bậc 32
1.5.3.2. Giá trái phiếu giảm và lãi suất tăng 33
1.5.3.3. Tốc độ tăng trưởng GDP giảm 33
1.5.3.4. Đầu tư trực tiếp FDI giảm nhanh đáng kể 34
1.5.3.5. Cắt giảm chi tiêu 34
1.5.3.6. Lạm phát và thất nghiệp 35
1.5.4. Các chính sách áp dụng và kết quả đạt được 36
1.5.4.1. Các chính sách áp dụng 36
1.5.4.2. Kết quả đạt được 37
1.5.5. Kinh nghiệm cho Việt Nam 38
PHẦN 3: THỰC TRẠNG NỢ CÔNG VIỆT NAM VÀ GIẢI PHÁP 40
1.6. Thực trạng nợ công Việt Nam 40
1.6.1. Tình hình nợ công Việt Nam giai đoạn 2006-2012 40
1.6.2. Cơ cấu nợ công Việt Nam hiện nay 43
1.6.2.1. Cơ cấu nợ công chia theo dư nợ 43
1.6.2.2. Cơ cấu dư nợ công chia theo chủ nợ 46
1.6.3. Thực trạng về quản lý và sử dụng nợ công Việt Nam giai đoạn 2006-2012 48
1.6.3.1. Thực trạng sử dụng nợ công Việt Nam 48
1.6.3.2. Thực trạng về quản lý nợ công Việt Nam 52
1.7. Các giải pháp đề ra để cải thiện tình hình nợ công tại Việt Nam 54
1.7.1. Đối với nền kinh tế 55
1.7.2. Đối với việc huy động và sử dụng nợ công 55
1.7.3. Đối với công tác quản lý nợ công 57
Bảng 3.3 Cơ cấu trong dư nợ Chính phủ bảo lãnh từ năm 2010 – 2012
Bảng 3.4 Hệ số ICOR của Việt Nam giai đoạn 2000 đến 2010
BIỂU ĐỒ, HÌNH
Hình 1.1 Các thành phần của nợ công
Hình 2.1 Thâm hụt ngân sách ở một số nước Châu Âu
Hình 2.2 Lãi suất trái phiếu 10 năm của một số nước trên thế giới
Hình 2.3 Đầu tư trực tiếp nước ngoài của Hi Lạp giai đoạn 2003-2009
Hình 2.4 Tỉ lệ thất nghiệp tại Hi Lạp
Hình 2.5 Tỉ lệ lạm phát tại Hi Lạp
Hình 2.6 Tỉ lệ nợ công trên GDP của Ireland trong những năm 2005 – 2012
Hình 2.7 Lãi suất trái phiếu chính phủ kỳ hạn 10 năm của Ireland
Hình 2.8 Tăng truởng GDP Ireland giai đoạn 2007- 2011
Hình 2.9 Lạm phát ở Ireland trong các năm khủng hoảng
Hình 2.10 Lạm phát ở Ireland trong các năm khủng hoảng
Hình 3.1 Chỉ số nợ công/GDP của Việt Nam giai đoạn 2006-2012
Hình 3.2 Chỉ số nợ công/đầu người của Việt Nam giai đoạn 2006-2012
Hình 3.3 So sánh nợ công/GDP so với một số nước có nợ công cao của thế giới
Hình 3.4 So sánh nợ công/GDP của Việt Nam với một số nước trong khu vực.
Hình 3.5 Cơ cấu dư nợ công Việt Nam năm 2012
Hình 3.6 Cơ cấu trong dư nợ chính phủ 2010-2012
Hình 3.7 Cơ cấu trong dư nợ chính phủ bảo lãnh 2010-2012
Hình 3.8 Cơ cấu nợ công Việt Nam chia theo chủ nợ năm 2012
Hình 3.9 ICOR trung bình của các thành phần kinh tế giai đoạn 2001-2009
Hình 3.10 Thâm hụt ngân sách Việt Nam giai đoạn 2001-2010
LỜI MỞ ĐẦU
Tình hình các cuộc khủng hoảng tài chính diễn ra ngày càng phức tạp gây ra những
hậu quả nặng rất nề đối với cả quốc gia phát triển lẫn các quốc gia đang phát triển.
Bên cạnh khủng hoảng tài chính người ta ngày càng đề cập và nghiên cứu một cách
nghiên túc một loại khủng hoảng mới là “khủng khoảng nợ công”. Tình trạng nợ
công đang gia tăng quá mức dẫn đến sự vỡ nợ công ở một số nước như Hi Lạp,
Ireland đã đánh lên một hồi chuông cảnh báo cho các nước trên toàn thế giới cần phải
nhận định một cách thấu đáo về tình trạng nợ công của quốc gia mình. Chính vì vậy,
nghiên cứu “khủng hoảng nợ công và tác động của nó đến tình hình tài chính – tiền
tệ” là một việc làm hết sức càn thiết và cấp bách hiện nay không chỉ ở Việt Nam mà
cho tất cả các nước trên thế giới.
Bài nghiên cứu sử dụng phương pháp định tính, dựa vào số liệu từ một số nghuồn
tin cậy, từ đó nhóm nghiên cứu đưa ra những phân tích, nhận định về thực trạng và
công tác quản lý nợ công ở một số nước trên thế giới và Việt Nam. Từ đó rút ra một
số kinh nghiệm cho Việt Nam từ cuộc khủng hoảng nợ công ở Hi Lạp và Ireland,
đồng thời đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao công tác sử dụng và quản lý nợ
công nhằm ngăn chặn nợ công tăng cao, dẫn đến nguy cơ vỡ nợ ở Việt Nam.
Đây là đề tài khá rộng và có tính bao quát cao. Do đó, với những hạn chế về hiểu
biết và khó khăn trong việc thu thập số liệu,nhóm nghiên cứu xin trình bày những
thông tin chính trong bài như sau:
Phần 1: Khái quát nợ công và khủng hoảng nợ công.
Phần 2: Khủng hoảng nợ công trên thế giới và tác động của nó đến tình hình tài
chính-tiền tệ (điển hình là Hy Lạp và Ireland).
Phần 3: Thực trạng nợ công ở Việt Nam và một số giải pháp.
Với những hạn chế đã nêu, sẽ còn có nhiều sai sót trong bài phân tích của nhóm,
mong thầy và các bạn cho ý kiến đóng góp để bài nghiên cứu của nhóm được hoàn
thiện hơn.
PHẦN 1: KHÁI QUÁT VỀ NỢ CÔNG VÀ KHỦNG HOẢNG NỢ CÔNG
1.1. Nợ công
1.1.1. Khái niệm
Hiện nay, có thể thấy, trên thế giới xuất hiện rất nhiều định nghĩa khác nhau về
nợ công, tùy thuộc vào mục đích và phạm vi sử dụng của mỗi tổ chức, mỗi quốc gia.
Theo quan điểm của Ngân hàng thế giới (WB): Nợ công là toàn bộ những
khoản nợ của chính phủ và những khoản nợ được chính phủ bảo lãnh. Trong đó:
• Nợ của chính phủ: bao gồm nợ trong nước, nợ nước ngoài của chính phủ
và các đại lý của chính phủ; các tỉnh, thành phố hoặc các tổ chức chính
trị trực thuộc chính phủ và các đại lý của các tổ chức này, các doanh
nghiệp nhà nước.
• Nợ của chính phủ bảo lãnh: gồm những khoản nợ trong nước và nợ nước
ngoài của khu vực tư nhân do chính phủ đứng ra bảo lãnh.
Theo quan điểm của Quỹ tiền tệ Quốc tế (IMF): Nợ công được hiểu là nợ của
khu vực tài chính công và nợ của khu vực phi tài chính công. Trong đó:
• Khu vực tài chính công gồm: Các tổ chức tiền tệ (ngân hàng trung ương,
các tổ chức tín dụng nhà nước) và các tổ chức phi tiền tệ (các tổ chức tín
dụng không cho vay mà chỉ có chức năng hỗ trợ phát triển)
• Khu vực phi tài chính công gồm: chính phủ, tỉnh/thành phố, chính quyền
địa phương, các doanh nghiệp phi tài chính nhà nước.
Theo quan điểm của Luật quản lý nợ công Việt Nam: Nợ công bao gồm:
nợ
chính phủ, nợ được chính phủ bảo lãnh, nợ chính quyền địa phương.
Như vậy, xét theo khái niệm này, cần lưu ý là không tồn tại sự đồng nhất giữa:
“nợ chính phủ” và “nợ công”. Nợ chính phủ trong trường hợp này chỉ là một trong ba
yếu tố cấu thành nên nợ công.
Đối với ba cách định nghĩa trên, tuy mỗi cách mang tính đặc thù riêng và thích
hợp để sử dụng trong những hoàn cảnh cụ thể khác nhau song chúng đều có chung
một số đặc điểm như: là khoản tiền nợ liên quan đến chính phủ và hoạt động của
chính phủ, mục đích là để tài trợ bù đắp cho thâm hụt ngân sách Do đó, để đơn giản
hóa cách thức tiếp vận vấn đề và đảm bảo tính logic khi phân tích, nghiên cứu khủng
hoảng nợ công ở các chương tiếp theo, có thể hiểu khái quát về nợ công thông qua
khái niệm sau:
Nợ công, còn gọi là nợ chính phủ hay nợ quốc gia, là tổng giá trị các khoản tiền
mà chính phủ thuộc mọi cấp từ trung ương đến địa phương đi vay nhằm tài trợ cho
các khoản thâm hụt ngân sách.
Sử dụng các định nghĩa này, ta cần quan tâm tới một số lưu ý sau đây:
• Khái niệm đưa ra đã đồng nhất nợ chính phủ với nợ công và nợ quốc gia.
• Định nghĩa này được áp dụng tại phần lớn các quốc gia trên thế giới, những
nước đi theo hướng kinh tế thị trường thực chất, không tồn tại thành phần
doanh nghiệp đặt dưới sự lãnh đạo kiểm soát trực tiếp của nhà nước.
• Thâm hụt ngân sách nhà nước, hay còn gọi là bội chi ngân sách nhà nước, là
tình trạng khi tổng chi tiêu của ngân sách nhà nước vượt quá các khoản thu
trong cân đối (thu "không mang tính hoàn trả") của ngân sách nhà nước.
Như vậy, một cách chung nhất, có thể hiểu nợ công là hậu quả của vấn đề chi
tiêu công bất hợp lý. Bởi lẽ mỗi quốc gia đều phải cân đối mức thu chi nên khi thu
không đủ chi, nhà nước phải đi vay dẫn đến hình thành nợ công. Cũng theo cách tiếp
cận này, nợ công có thể được tính bằng thâm hụt ngân sách luỹ kế đến một thời điểm
nào đó.
Trên lý thuyết, mỗi vấn đề kinh tế nên có một khái niệm chung thống nhất để
đảm bảo tính chặt chẽ trong phân tích. Tuy nhiên, thực tế chỉ ra rằng có nhiều luồng
tư tưởng và quan điểm khác nhau của các nhà kinh tế về cùng một hiện tượng, sự
việc. Trong trường hợp này, mỗi khu vực, quốc gia có một góc độ đánh giá khác nhau
về tình hình nợ công. Căn cứ vào cơ cấu nợ công của mỗi quốc gia, ta sẽ nhận dạng:
quốc gia này sử dụng định nghĩa nào đối với vấn đề nợ công của mình.
1.1.2. Đặc trưng cơ bản của nợ công.
1.1.2.1. Nợ công là khoản nợ ràng buộc trách nhiệm trả nợ của Nhà nước.
Khác với các khoản nợ thông thường, nợ công được xác định là một khoản nợ
mà Nhà nước (bao gồm các cơ quan nhà nước có thẩm quyền) có trách nhiệm trả
khoản nợ ấy. Trách nhiệm trả nợ của Nhà nước được thể hiện dưới hai góc độ trả nợ
trực tiếp và trả nợ gián tiếp. Trả nợ trực tiếp được hiểu là cơ quan nhà nước có thẩm
quyền sẽ là người vay và do đó, cơ quan nhà nước sẽ chịu trách nhiệm trả nợ khoản
vay. Trả nợ gián tiếp là trường hợp cơ quan nhà nước có thẩm quyền đứng ra bảo
lãnh để một chủ thể trong nước vay nợ, trong trường hợp bên vay không trả được nợ
thì trách nhiệm trả nợ sẽ thuộc về cơ quan đứng ra bảo lãnh (ví dụ: Chính phủ bảo
lãnh để Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam vay vốn nước ngoài).
1.1.2.2. Nợ công được quản lý theo quy trình chặt chẽ với sự tham gia của
cơ quan nhà nước có thẩm quyền, tuân thủ nguyên tắc của nhà
nước về quản lý nợ cộng.
Việc quản lý nợ công đòi hỏi quy trình chặt chẽ nhằm đảm bảo hai mục đích:
Một là, đảm bảo khả năng trả nợ của đơn vị sử dụng vốn vay và cao hơn nữa là đảm
bảo cán cân thanh toán vĩ mô và an ninh tài chính quốc gia; Hai là, đề đạt được những
mục tiêu của quá trình sử dụng vốn. Bên cạnh đó, việc quản lý nợ công một cách chặt
chẽ còn có ý nghĩa quan trọng về mặt chính trị xã hội. Nguyên tắc quản lý nợ công
Việt Nam là Nhà nước quản lý thống nhất, toàn diện nợ công từ việc huy động, phân
bổ, sử dụng vốn vay đến việc trả nợ để đảm bảo hai mục tiêu cơ bản trên.
1.1.2.3. Mục tiêu cao nhất của việc huy động và sử dụng nợ công là phát
triển kinh tế xã hội, vì lợi ích cộng đồng.
Nợ công được huy động và sử dụng không phải để thỏa mãn những lợi ích riêng
của bất kỳ cá nhân, tổ chức nào, mà vì lợi ích chung của cộng đồng. Ở Việt Nam,
xuất phát từ bản chất của Nhà nước là thiết chế để phục vụ lợi ích chung của xã hội,
Nhà nước là của dân, do dân và vì dân nên đương nhiên các khoản nợ công được
quyết định phải dựa trên lợi ích của nhân dân, cụ thể là đề phát triển kinh tế – xã hội
của đất nước và phải coi đó là điều kiện quan trọng nhất.
1.1.3. Phân loại nợ công.
Có nhiều tiêu chí để phân loại nợ công, mỗi tiêu chí có một ý nghĩa khác nhau
trong việc quản lý và sử dụng nợ công.
Theo tiêu chí nguồn gốc địa lý của vốn vay thì nợ công gồm có hai loại:
• Nợ trong nước: là nợ công mà bên cho vay là cá nhân, tổ chức Việt Nam.
• Nợ nước ngoài: là nợ công mà bên cho vay là Chính phủ nước ngoài, vùng lãnh
thổ, tổ chức tài chính quốc tế, tổ chức và cá nhân nước ngoài. Như vậy, theo
pháp luật Việt Nam, nợ nước ngoài không được hiểu là nợ mà bên cho vay là
nước ngoài, mà là toàn bộ các khoản nợ công không phải là nợ trong nước. Việc
phân loại nợ trong nước và nợ nước ngoài có ý nghĩa quan trọng trong quản lý
nợ. Việc phân loại này về mặt thông tin sẽ giúp xác định chính xác hơn tình
hình cán cân thanh toán quốc tế. Và ở một số khía cạnh, việc quản lý nợ nước
ngoài còn nhằm đảm bảo an ninh tiền tệ của Nhà nước Việt Nam, vì các khoản
vay nước ngoài chủ yếu bằng ngoại tệ tự do chuyển đổi hoặc các phương tiện
thanh toán quốc tế khác.
Theo phương thức huy động vốn, thì nợ công có hai loại:
• Nợ công từ thỏa thuận trực tiếp và nợ công từ công cụ nợ.
• Nợ công từ thỏa thuận trực tiếp là khoản nợ công xuất phát từ những thỏa thuận
vay trực tiếp của cơ quan nhà nước có thẩm quyền với cá nhân, tổ chức cho vay.
Phương thức huy động vốn này xuất phát từ những hợp đồng vay, hoặc ở tầm
quốc gia là các hiệp định, thỏa thuận giữa Nhà nước Việt Nam với bên nước
ngoài. Nợ công từ công cụ nợ là khoản nợ công xuất phát từ việc cơ quan nhà
nước có thẩm quyền phát hành các công cụ nợ để vay vốn. Các công cụ nợ này
có thời hạn ngắn hoặc dài, thường có tính vô danh và khả năng chuyển nhượng
trên thị trường tài chính.
Theo tính chất ưu đãi của khoản vay làm phát sinh nợ công thì nợ công có ba
loại.
• Nợ công từ vốn vay ODA.
• Nợ công từ vốn vay ưu đãi.
• Nợ thương mại thông thường.
Theo trách nhiệm đối với chủ nợ thì nợ công được phân loại thành.
• Nợ công phải trả là các khoản nợ mà Chính phủ, chính quyền địa phương có
nghĩa vụ trả nợ.
• Nợ công bảo lãnh là khoản nợ mà Chính phủ có trách nhiệm bảo lãnh cho người
vay nợ, nếu bên vay không trả được nợ thì Chính phủ sẽ có nghĩa vụ trả nợ.
Theo cấp quản lý nợ thì nợ công được phân loại thành.
• Nợ công của trung ương là các khoản nợ của Chính phủ, nợ do Chính phủ bảo
lãnh.
• Nợ công của địa phương là khoản nợ công mà chính quyền địa phương là bên
vay nợ và có nghĩa vụ trực tiếp trả nợ.
Theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước năm 2002 thì những khoản
vay nợ của chính quyền địa phương được coi là nguồn thu ngân sách và được đưa vào
cân đối, nên về bản chất nợ công của địa phương được Chính phủ đảm bảo chi trả
thông qua khả năng bổ sung từ ngân sách trung ương.
1.1.4. Các hình thức vay nợ và công cụ vay nợ công.
Dựa vào đặc điểm và điều kiện cho vay của các khoản vay nợ, các hình thức vay
nợ được chia vào hai nhóm chính là: vay nợ gián tiếp (chủ yếu thông qua phát hành
trái phiếu) và vay nợ trực tiếp từ trong và ngoài nước. Mỗi cách vay nợ có ưu, nhược
điểm riêng, thích hợp sử dụng cho những hoàn cảnh riêng, trong điều kiện xếp hạng
tín dụng và vị thế nhất định của mỗi quốc gia.
• Vay nợ gián tiếp
Chính phủ các nước có thể tiến hành vay nợ gián tiếp từ các tổ chức, cá nhân để
bù đắp thâm hụt ngân sách thông qua việc phát hành các công cụ nợ như: tín phiếu,
trái phiếu, hình thức chứng chỉ Trái phiếu trong trường hợp này được hiểu theo
nghĩa rộng, gồm có: trái phiếu (T-bonds), trái phiếu chính quyền địa phương
(Municipal Bonds), trái phiếu ngoại tệ, công trái xây dựng tổ quốc và trái phiếu công
trình; trong đó, trái phiếu chính phủ phát hành bằng nội tệ được coi là không có rủi ro
tín dụng vì chính phủ có thể tăng thuế thậm chí in thêm tiền để thanh toán cả gốc lẫn
lãi khi đáo hạn. Trái phiếu chính phủ phát hành bằng ngoại tệ (thường là các ngoại tệ
mạnh có cầu lớn) có rủi ro tín dụng cao hơn so với khi phát hành bằng nội tệ vì chính
phủ có thể không có đủ ngoại tệ để thanh toán.
• Vay trực ti
ếp
Ngoài cách phát hành giấy vay nợ như một tài sản đảm bảo cho nghĩa vụ trả nợ
của mình, chính phủ các nước còn một lựa chọn khác để tài trợ cho các khoản thâm
hụt đáng kể thông qua con đường vay tiền trực tiếp từ các ngân hàng thương mại, các
thể chế siêu quốc gia (ví dụ: Quỹ Tiền tệ Quốc tế, Ngân hàng thế giới, Ngân hàng
Phát triển Châu Á…). Các nguồn vay này tồn tại dưới một số hình thức phổ biến như:
vay viện trợ phát triển chính thức, vay có tính chất thương mại hay vay ưu đãi. Thông
thường, các hình thức trực tiếp này được chính phủ của các nước có độ tin cậy tín
dụng thấp áp dụng vì những nước này khó có khả năng vay nợ bằng phát hành trái
phiếu chính phủ.
Trong số các khoản vay trực tiếp đã liệt kê, nguồn vay ODA là nguồn vốn bổ
sung đều đặn nhất và có tầm quan trọng lớn đối với các nước đang phát triển. Nguồn
vay này có thể nhận được dưới các thể thức: viện trợ song phương, viện trợ đa
phương, viện trợ không hoàn lại hay viện trợ của tổ chức phi chính phủ.
1.1.5. Các nhân tố ảnh hưởng đến nợ công.
Một yêu cầu rất quan trọng đối với các chính phủ là đảm bảo tỷ lệ nợ công so
với GDP là ổn định, qua đó tăng hiệu quả quản lý nợ, quản lý thâm hụt ngân sách và
làm tốt các công tác dự báo, lập kế hoạch ngân sách nhà nước, góp phần ổn định nền
kinh tế vĩ mô. Để làm được điều đó, ta cần phải nắm rõ các nhân tố ảnh hưởng đến nợ
công, nhận biết các tác động, ngăn chặn từ đầu, phòng tránh và giải quyết kịp thời các
tác động có khả năng gây bất ổn tới tỉ lệ này.
Thứ nhất, nợ công phụ thuộc chặt chẽ vào cân bằng ngân sách cơ bản. Từ bản
chất nợ công đã phân tích ở trên, có thể nhận thấy mức thâm hụt ngân sách phản ảnh
giá trị tuyệt đối của nợ công chính phủ. Điều đó đồng nghĩa với việc, khi khoảng cách
thâm hụt nhỏ, những khoản vay bù đắp giảm đi, làm cho nợ công được hạn chế.
Thứ hai, lãi suất thực tế có tác động đến các khoản nợ vay của chính phủ, quyết
định xem các khỏan nợ này sẽ đắt hơn (khi lãi suất tăng lên) hay giảm đi (khi lãi suất
giảm đi). Mặt khác, việc lãi suất tăng sẽ làm cho các khoản vay của chính phủ khó
khăn hơn, không đảm bảo được cho vay nợ đúng hạn.
Thứ ba, tốc độ tăng trưởng thực tế ảnh hưởng đến nợ công theo hai cơ chế. Một
là, nền kinh tế phát triển hơn thì chính phủ dễ dàng vay tiền hơn, dẫn đến khả năng nợ
công tăng lên. Hai là, tăng trưởng nhanh thường đi kèm với lạm phát, dẫn đến việc
cấp bù lạm phát cho các khoản nợ đã đến hạn thanh toán.
Thứ tư, lãi suất ngoại tệ có liên quan đến các khoản vay nước ngoài của chính
phủ. Cơ chế tác động của nhân tố này tương tự như lãi suất thực tế, chỉ khác nhau về
đối tượng hưởng lãi.
Thứ năm, tỷ giá cũng có tác động tới việc vay nợ nước ngoài. Sự biến động của
tỷ giá ảnh hưởng đến chi phí của khoản nợ công: có thể tăng lên (khi tỷ giá tăng) hoặc
giảm đi (khi tỷ giá giảm).
1.2. Khủng hoảng nợ công
1.2.1. Khủng hoảng nợ công là gì ?
Cũng giống như tình trạng đa khái niệm của nợ công, tùy thuộc vào từng góc độ
nhìn nhận và đánh giá sự kiện, khủng hoảng nợ công được cắt nghĩa theo các cơ sở
khác nhau. Hiểu một cách khái quát nhất, khủng hoảng nợ xảy ra khi thâm hụt ngân
sách luỹ kế đến một thời điểm nào đó vượt quá khả năng kiểm soát, điều tiết và trả nợ
của chính phủ, dẫn đến suy giảm cáchoạt động kinh tế kéo dài và trầm trọng.
Trải qua thời gian dài vận động phát triển của nền kinh tế thế giới nói chung,
khái niệm về vấn đề khủng hoảng nợ công cũng được thay đổi nhiều lần và riêng rẽ
đối với từng tổ chức, khu vực độc lập.
Theo cách tiếp cận từ các khoản nợ khất lại, Detragiache và Spilimbergo
(2001) xác định rằng cuộc khủng hoảng nợ sẽ xảy ra nếu một trong hai hoặc cả hai
điều kiện sau đây xảy ra.
Có những khoản nợ gốc hoặc lãi chưa hoàn trả hoặc đang trả dở dang song phải
xin khất lại nghĩa vụ trả nợ đối với chủ nợ (ngân hàng, tổ chức sở hữu trái phiếu)
chiếm trên 5% tổng dư nợ.
Có một thỏa thuận gia hạn hoặc tái cơ cấu nợ với chủ nợ được liệt kê trong báo
báo cáo Phát triển Tài chính Toàn cầu (GDF) của Ngân hàng Thế giới(WB).
Nhìn nhận khủng hoảng nợ công tương đương với tình trạng “tiền phá
sản”, Sy (2004) đưa ra lập luận: giống như việc mất khả năng thanh toán những
khoản nợ trong khu vực tài chính doanh nghiệp, khủng hoảng nợ công là biểu hiện
“tiền phá sản” của trái phiếu chính phủ. Theo định nghĩa đó, Sy đã chỉ ra từ năm 1994
đếnnăm 2002, trên thế giới xảy ra 140 sự kiện “tiền phá sản”, làm giảm uy tín và
năng lực của thị trường trái phiếu chính phủ.
Trong thời điểm hiện nay, định nghĩa về nợ công của Tổ chức Standard and
Poor’s, Quỹ Tiền tệ Thế giới (IMF) và Ngân hàng thế giới (WB) là một cách giải
thích được ưa thích trích dẫn và sử dụng nhiều hơn cả.
Theo Quỹ tiền tệ thế giới IMF, một quốc gia được xác nhận lâm vào khủng
hoảng nợ nếu nó được Tổ chức Standard & Poor’s liệt vào danh sách các nước không
có khả năng hoàn trả nợ hoặc phải xin vay từ IMF một khoản lớn (vượt quá 100%
hạn mức tính dụng đề ra) để tài trợ cho khoản nợ nói trên. Ở đây, tiêu chuẩn được
đưa ra để Standard and Poor’s xác định một quốc gia là không có khả năng hoàn trả
nợ là việc chính phủ của quốc gia đó không thể thanh toán đủ gốc hoặc tiền lãi cho
các khoản nợ nước ngoài vào ngày đáo hạn hoặc trong thời gian ân hạn quy định
(bao gồm các khoản phát sinh trong nghiệp vụ thanh toán nợ bằng hối phiếu, nghiệp
vụ SWAPs tài sản nợ…). Như vậy, tình hình vay nợ bất thường với quy mô lớn tại
Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) là một trong những dấu hiệu báo trước cho những bất ổn
trong tình trạng nợ công của một quốc gia, có thể dẫn đến nguy cơ khủng hoảng
nhanh chóng.
Dù các khái niệm nêu trên diễn đạt khủng hoảng nợ công theo các cách khác
nhau, có thể thấy rõ rằng mọi định nghĩa đều bao chứa những nội dung cơ bản tương
đồng. Đó là: Khủng hoảng nợ công xảy ra khi chính phủ một quốc gia không thể trả
được nợ và buộc phải tìm kiếm, cầu viện đến các sự trợ giúp khác .
1.2.2. Đặc điểm của khủng hoảng nợ công
Dựa vào những định nghĩa nêu trên, có thể chỉ ra một số đặt trung quan trọng
mang tính bản chất đối với các cuộc khủng hoảng nợ công trên thế giới.
Một là, khủng hoảng nợ công mang bản chất là khủng hoảng kinh tế, làm suy
giảm các hoạt động kinh tế kéo dài và trầm trọng hơn cả suy thoái trong chu kỳ kinh
tế.
Hai là, khủng hoảng nợ công không phân biệt quốc gia phát triển hay quốc gia
đang phát triển. Điều này có nghĩa là, bên cạnh vấn đề thiếu nợ thường xuyên tái diễn
ở các quốc gia thuộc “thế giới thứ ba ”, khủng hoảng nợ hoàn toàn có khả năng xảy
ra ở những nước phát triển, nơi nền kinh tế tăng trưởng một cách tương đối cao và ổn
định.
Ba là, khủng hoảng nợ công một khi đã diễn ra thường kéo dài trong một thời
gian, kéo theo nhiều hệ lụy không chỉ trên lĩnh vực kinh tế mà còn trong chính trị-
văn hóa-xã hội.
Bốn là, khủng hoảng nợ công gắn liền với mức độ tín nhiệm của chính phủ
quốc gia xảy ra sự kiện. Khi nợ công liên tục tăng cao, nền kinh tế bị hạ bậc tín nhiệm
theo báo cáo của các tổ chức chuyên đánh giá tín nhiệm công ty và quốc gia, niềm tin
của người dân và giới đầu tư bị lung lay; khi đó nền kinh tế dễ trở thành mục tiêu tấn
công của các thế lực đầu cơ quốc tế.
1.2.3. Nguyên nhân chủ yếu gây ra tình trạng khủng hoảng nợ công
Nghiên cứu tình hình nợ công tại một số nước châu Âu có thể giúp rút ra một
số nguyên nhân phổ biến dẫn tới khủng hoảng như sau:
Một là, tất cả các nước rơi vào vòng xoáy nợ công đều có kỷ luật tài khóa lỏng
lẻo. Tình hình thực hiện ngân sách chi cuối năm luôn vượt xa nghị quyết của quốc
hội về chi ngân sách được công bố đầu năm.
Hai là, việc phân bổ nguồn vốn dễ bị ảnh hưởng bởi các mục tiêu chính trị
nhiều hơn mục tiêu kinhtế (ví dụ: chi phí quốc phòng – an ninh, chi trợ cấp xã hội,
chi trả lương hưu cho công chức, chi bù lãi suất ngân hàng cho các dự án công ích,
chi lễ tân nhà nước hay các lễ kỷ niệm…).
Ba là, thời gian thự thiện dự án kéo dài. Hiếm có dự án công nào hoàn thành
đúng tiến độ, hậu quả là tiền lãi phải trả trên nợ vay tăng.
Bốn là, hiệu quả sử dụng vốn thấp (thường thấp hơn các dự án vay vốn thương
mại của khu vực tư).
Năm là, trách nhiệm người đi vay không cao vì những người tham gia quyết
định vay nợ không hẳn là những người sẽ phải lo trả nợ nhất là khi người vay không
có cơ hội tái đắc cử.
Sáu là, chính phủ có khả năng che đậy các vấn đề bất cập của tình hình nợ công
trong một thời gian khá dài ( có thể tới 10năm ) nên việc điều chỉnh chính sách khắc
phục không được kịp thời.
Tiểu luận môn tài chính tiền tệ GVHD: TS. Diệp Gia Luật
PHẦN 2: KHỦNG HOẢNG NỢ CÔNG TRÊN THẾ GIỚI VÀ TÁC ĐỘNG CỦA NÓ
ĐẾN TÌNH HÌNH TÀI CHÍNH-TIỀN TỆ
(ĐIỂN HÌNH LÀ HY LẠP VÀ IRELAND)
1.3. Bối cảnh chung xảy ra khủng hoảng nợ công ở châu Âu
Năm 2008 từ nước Mỹ bóng đen khủng hoảng tài chính lan rộng khắp các châu
lục, tác động tiêu cực tới mọi lĩnh vực và nhiều quốc gia trên thế giới. Cuộc khủng
hoảng này được “châm ngòi” bằng hoạt động cho vay thế chấp dưới chuẩn (sub-prime
mortgage) dễ dãi và thiếu kiểm soát ở Mỹ. Số lượng các khoản vay loại này phát triển
bùng nổ trong thời kỳ hình thành bong bóng trên thị trường địa ốc ở Mỹ. Tuy nhiên,
điều đáng nói là rủi ro của hoạt động vay nợ này không chỉ được giới hạn giữa người
đi vay và các ngân hàng. Tới lúc này, tai nạn xuất hiện theo kiểu hiệu ứng domino, từ
người mua nhà, các ngân hàng thương mại, các ngân hàng đầu tư, tới các nhà đầu tư
mua vào chứng khoán nợ địa ốc… cùng điêu đứng. Sự đổ vỡ dây chuyền trong ngành
tài chính Mỹ ở thời kỳ đỉnh điểm giữa tháng 9/2008 đã lan qua Đại Tây Dương, tới
châu Âu, và gây ra những cơn “dư chấn” ở châu Á. Các quốc gia có vấn đề về nợ
công trong khu vực Châu Âu bao gồm các thành viên Hy Lạp, Ireland, Ý, Tây Ban
Nha và Bồ Đào Nha, và cũng có một số khu vực châu Âu không thuộc Liên minh
châu Âu: Iceland, đất nước trải qua cuộc khủng hoảng tài chính lớn nhất trong năm
2008 khi toàn bộ hệ thống ngân hàng quốc tế của nó sụp đổ.
Cuộc khủng hoảng nợ công ở khu vực châu Âu là do các chính phủ phung phí đi
vay mượn quá nhiều và không thể trả nợ. Chắc chắn đây là nhân tố quan trọng ở Hy
Lạp, chính phủ nước này duy trì thâm hụt ngân sách 5 – 6% GDP sau 2002. Tình
trạng nhân sự cồng kềnh khu vực công và nạn trốn thuế phổ biến ở giới nhà giàu và
doanh nghiệp ở nước này. Bồ Đào Nha ghi nhận thâm hụt ngân sách khiêm tốn hơn
chỉ khoảng 2 – 4 % GDP. Ireland và Tây Ban Nha đều đạt thặng dư ngân sách trong
hầu hết các năm từ lúc áp dụng đồng Euro đến khi xảy ra khủng hoảng. Cuộc khủng
hoảng sau đó đã lan sang Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha và tiếp theo là Ý trong khu vực
đồng Euro. Pháp đang là quốc gia có nhiều nguy cơ tụt hạng tín dụng, Cộng hòa
Sip cũng đã bị đẩy tới bờ vực để nhận gói cứu trợ.Yếu tố chung không phải là thâm
hụt ngân sách lớn mà là thâm hụt tài khoản vãng lai lớn. Các khoản thâm hụt này là
hậu quả trực tiếp của dòng vốn tư nhân khổng lồ chảy vào trong cùng kỳ. Khi vốn ồ ạt
Nhóm 5_CHĐ 11_K 23_UEH Trang 16
Tiểu luận môn tài chính tiền tệ GVHD: TS. Diệp Gia Luật
chảy vào, khu vực tư nhân ôm vào những nghĩa vụ tài chính to lớn. Việc đi vay ròng
của khu vực tư nhân theo định nghĩa thâm hụt tài khoản vãng lai trừ cho cán cân ngân
sách. Giới hạn của qui trình này được xác định bởi trữ lượng, không phải lưu lượng.
Vấn đề của các nước phụ cận Euro họ không thề phá giá đồng tiền để kiếm soát qui
mô thâm hụt vãng lai của mình.Cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu thường bị coi là
nguyên nhân gây ra đổ vỡ tài chính công, do kinh tế suy thoái khiến nguồn thu từ thuế
của chính quyền giảm, trong khi chi tiêu công lại tăng lên vì các gói kích cầu và gánh
nặng phúc lợi xã hội.
Tuy nhiên, thực chất cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu chỉ là giọt nước làm tràn
ly. Nguyên nhân đích thực gây khủng hoảng nợ công là sự quan liêu của chính quyền
đã để cho thâm hụt ngân sách kéo dài quá lâu mà không có giải pháp khắc phục hữu
hiệu.
1.4. Khủng hoảng nợ công ở Hy Lạp
1.4.1. Thực trạng khủng hoảng nợ công Hy Lạp
1.4.1.1. Tỷ lệ nợ công trên GDP
Từ lúc bắt đầu tham gia sử dụng đồng tiền chung châu Âu (Euro) vào giữa năm
2001 cho đến năm 2010, Hy Lạp luôn vượt chỉ tiêu nợ công theo quy định của hiệp
hội các nước thuộc khu vực EURO là 60%/ GDP. Đến năm 2010, báo cáo của OECD
cho thấy nợ công của Hy Lạp đã lên tới con số 330 tỷ Euro, tương đương với 147.8%
GDP. Các chuyên gia kinh tế dự đoán dù Hy Lạp có thực hiện được kế hoạch thắt
lưng buộc bụng kéo dài 3 năm, nợ của Hy Lạp đến năm 2012 vẫn tăng lên mức 172%
GDP.
1.4.1.2. Tỷ trọng nợ công của Hy Lạp theo kỳ hạn
Rủi ro lớn nhất của Hy Lạp là nợ vay nước ngoài chiếm tỷ lệ lớn, có thể lên
đến 80%. Ước tính tỷ lệ trái phiếu do nước ngoài nắm giữ có thể lên tới 80% lượng
trái phiếu chính phủ phát hành. Chủ nợ phần lớn là các ngân hàng châu Âu. Các nước
Ý, Ireland cũng trong tình cảnh thâm hụt ngân sách và nợ công cao, nhưng không bị
đánh giá nghiêm trọng bằng Hy Lạp. Sở dĩ như vậy vì các nước này có nền kinh tế
tương đối lớn, ngân sách lớn, khả năng kiểm soát nợ trong nước cao hơn, các chỉ số về
cơ cấu nợ cũng như các biến số về phát triển kinh tế vĩ mô tốt hơn Hy Lạp.
Nhóm 5_CHĐ 11_K 23_UEH Trang 17
Tiểu luận môn tài chính tiền tệ GVHD: TS. Diệp Gia Luật
Tính theo thời gian với mức vay nợ như trên, Hy Lạp phải đối mặt với khoản
nợ đến hạn phải thanh toán 8,5 tỉ euro (tương đương 11,3 tỉ đô la Mỹ) trái phiếu chính
phủ vào ngày 19-5-2010. Hầu hết các khoản nợ của Hy Lạp là ngắn hạn, trong đó, số
nợ phải trả trong năm 2010 là 16% tổng nợ. Chưa đến một năm, một đợt trả nợ kế tiếp
diễn ra vào tháng 3/2011, với số tiền 8,6 tỷ Euro.
1.4.1.3. Thâm hụt cán cân vãng lai trong một thời gian dài
Ngay từ khi gia nhập vào khu vực đồng tiền chung Euro tình trạng thâm hụt
vẫn không được cái thiện mà có xu hướng ngày càng tăng, đến tháng 8 năm 2011 Hy
Lạp báo cáo thâm hụt tài khoản vãng lai tương đương với 145 triệu EUR, tháng 8 năm
2012 là 2 169 triệu Euro. Sự thâm hụt cán cân vãng lai của Hy Lạp bắt nguồn từ sự
thâm hụt thương mại của nước này.
1.4.1.4. Tình trạng thâm hụt ngân sách
Hình 2.1 Thâm hụt ngân sách ở một số nước châu Âu
Nguồn: OECD
Trong những năm qua, tình trạng thâm hụt ngân sách của Hy Lạp ngày càng gia
tăng, đặc biệt là trong giai đoạn từ 2008-2009. Năm 2009, mức thâm hụt ngân sách là
15.4% GDP vượt ngưỡng an toàn là 5% GDP và vượt mức cho phép của khu vực
đồng tiền chung là 3%/GDP. Để bù đắp thâm hụt ngân sách, Chính phủ Hy Lạp đã
vay nợ dưới nhiều hình thức, do kinh tế lún sâu hơn vào suy thoái, mặc dù đã cam kết
Nhóm 5_CHĐ 11_K 23_UEH Trang 18
Tiểu luận môn tài chính tiền tệ GVHD: TS. Diệp Gia Luật
những chính sách khắc khổ nhằm giảm thâm hụt ngân sách nhưng thâm hụt ngân sách
trong 8 tháng đầu năm 2011 của Hy Lạp đã lên tới 18,1 tỷ euro (24,67 tỷ USD), tăng
mạnh so với 14,813 tỷ euro cùng kỳ năm ngoái.Thâm hụt ngân sách Hy Lạp lại chủ
yếu gây ra bởi trình độ quản lý công yếu kém.
1.4.2. Nguyên nhân gây ra cuộc khủng hoảng nợ công Hy Lạp
Khủng hoảng nợ công của Hy Lạp xuất phát từ nguyên nhân chính là khả năng
quản trị tài chính công yếu kém cùng với những khoản chi tiêu của chính phủ quá lớn,
vượt khả năng kiểm soát. Kết quả là thâm hụt ngân sách của Hy Lạp vượt hơn 13%
GDP và tổng nợ công chiếm tới gần 130% GDP (năm 2010). Có thể nêu những
nguyên nhân chính của nợ công Hy Lạp, đó là:
1.4.2.1. Tiết kiệm trong nước thấp dẫn tới phải vay nợ nước ngoài cho chi
tiêu công
Thập niên 90 tỷ lệ tiết kiệm trong nước bình quân của Hy Lạp chỉ ở mức 11%,
thấp hơn nhiều so với mức 20% của các nước như Bồ Đào Nha, Ý, Tây Ban Nha và
đang có xu hướng sụt giảm nhanh chóng. Do vậy, đầu tư trong nước phụ thuộc khá
nhiều vào các dòng vốn đến từ bên ngoài, lợi tức trái phiếu liên tục giảm nhờ vào việc
gia nhập liên minh châu Âu EU (năm 1981) và làn sóng bán tháo trái phiếu từ dân
chúng cho thấy Hy Lạp đã để vuột khỏi tay một kênh huy động vốn sẵn có buộc chính
phủ Hy Lạp tăng cường vay nợ tài trợ cho chi tiêu công.
1.4.2.2. Chi tiêu công tăng cao dẫn đến thâm hụt ngân sách
Tăng trưởng GDP của Hy Lạp vẫn được ca ngợi với tốc độ tăng trung bình hàng
năm là 4,3% (2001 – 2007) so với mức trung bình của khu vực Eurozone là 3,1%. Tuy
nhiên, trong giai đoạn này, mức chi tiêu chính phủ tăng 87% trong khi mức thu của
chính phủ chỉ tăng 31%, khiến cho ngân sách thâm hụt vượt quá mức cho phép 3%
GDP của EU. Theo đánh giá của các nhà kinh tế, bộ máy công quyền cồng kềnh và
thiếu hiệu quả của Hy Lạp chính là nhân tố chính đằng sau sự thâm hụt của quốc gia
này.
Theo Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD), chi tiêu cho quản lý công
trong tổng số chi tiêu công của Hy Lạp năm 2004 đã cao hơn nhiều so với các nước
thành viên OECD khác trong khi chất lượng và số lượng dịch vụ không được cải thiện
nhiều. Năm 2008, khủng hoảng tài chính toàn nổ ra đã ảnh hưởng khá mạnh đến các
Nhóm 5_CHĐ 11_K 23_UEH Trang 19
Tiểu luận môn tài chính tiền tệ GVHD: TS. Diệp Gia Luật
ngành công nghiệp chủ chốt của Hy Lạp, ngành du lịch và vận tải biển, doanh thu đều
sụt giảm trên 15% trong năm 2009, kinh tế Hy Lạp cũng lâm vào tình trạng khó khăn,
nguồn thu để tài trợ cho ngân sách nhà nước bị co hẹp mạnh. Trong khi đó Hy Lạp lại
phải tăng cường chi tiêu công để kích thích kinh tế. Chi tiêu kích thích kinh tế sau
khủng hoảng năm 2008 cũng làm trầm trọng thêm vấn đề nợ công. Sự già hóa dân số
và hệ thống lương hưu vào loại hào phóng bậc nhất khu vực châu Âu của Hy Lạp
cũng được coi là một trong những gánh nặng cho chi tiêu công. Dự đoán tỷ lệ số
người trên 64 tuổi của Hy Lạp sẽ tăng từ 19% năm 2007 lên 32% năm 2060. Người về
hưu được hưởng một khoản tiền tương đương với 70-80% mức lương chính thức
trước khi về hưu chưa kể những lợi ích từ những cơ chế hỗ trợ khác với đủ 35 năm
cống hiến so với mức 40 năm ở các quốc gia châu Âu khác. Ước tính tổng số tiền chi
trả cho lương hưu khu vực công của Hy Lạp sẽ tăng từ 11,5% GDP (2005) lên 24%
(2050).
1.4.2.3. Nguồn thu giảm sút cũng là một nhân tố dẫn tới tình trạng thâm
hụt ngân sách và gia tăng nợ công
Trốn thuế và hoạt động kinh tế ngầm ở Hy Lạp là nhân tố làm giảm nguồn thu
ngân sách. Theo đánh giá của Ngân hàng thê giới (WB), kinh tế không chính thức ở
Hy Lạp chiếm tới 25 - 30% GDP(so với mức 15,6% GDP của Việt Nam; 13,1% GDP
của Trung Quốc và Singapore; 11,3% GDP của Nhật Bản). Hệ thống thuế với nhiều
mức thuế cao và bộ luật phức tạp cùng với sự điều tiết dư thừa và thiếu hiệu quả của
cơ quan quản lý là nguyên nhân dẫn đến tình trạng trốn thuế và kinh tế ngầm phát
triển ở Hy Lạp.
Theo Tổ chức Minh bạch quốc tế, Hy Lạp là một trong những nước có tỷ lệ tham
nhũng cao nhất trong EU. Không chỉ có công nhân viên chức không chịu nộp thuế, mà
việc nhận tiền hối lộ còn khá phổ biến từ trung ương đến địa phương. Năm 2008, hơn
13% người Hy Lạp đã chi tới 750 triệu EUR tiền phong bì cho các lãnh đạo khu vực
công và khu vực tư, trong đó có bác sĩ là những người đòi nhiều tiền hơn cho các cuộc
phẫu thuật; các nhà quy hoạch thành phố là những người quyết định thời gian giấy
phép xây dựng được cấp và các quan chức ở địa phương cũng liên quan đến những vụ
việc nhận hối lộ. Thủ tướng Hy Lạp George Papandreou thừa nhận “tham nhũng mang
tính hệ thống” (systematic corruption) là vấn đề cơ bản nhất dẫn đến tình trạng nợ
Nhóm 5_CHĐ 11_K 23_UEH Trang 20
Tiểu luận môn tài chính tiền tệ GVHD: TS. Diệp Gia Luật
công Hy Lạp. Thiệt hại mà tham nhũng gây ra cho Hy Lạp ước tính vào khoảng 8%
GDP. Tham nhũng không chỉ gây ra trốn thuế, nó còn làm tăng chi tiêu chính phủ,
nhắm tới duy trì mức lương cao cho công chức và thực hiện các dự án có vốn đầu tư
lớn thay vì nhắm vào các dự án tạo ra nhiều việc làm và nâng cao năng suất lao động.
Mức lương cao không chỉ tạo ra gánh nặng ngân sách mà còn làm cho tính cạnh tranh
của nền kinh tế Hy Lạp yếu đi. Lương cao, đồng euro tăng giá từ mức 1 euro đổi hơn
0,8 đô la Mỹ lên đến 1 euro đổi 1,6 đô la trong suốt giai đoạn từ 2000-2008 khiến sức
cạnh tranh của hàng hóa Hy Lạp yếu và hệ quả tất yếu là một cán cân thương mại
thâm hụt triền miên.
1.4.2.4. Sự tiếp cận dễ dãi với nguồn vốn đầu tư nước ngòai và việc sử
dụng nguồn vốn không hiệu quả
Bên cạnh đó, việc gia nhập Eurozone năm 2001 là cơ hội lớn để Hy Lạp có thể
tiếp cận với thị trường vốn quốc tế với việc sử dụng một đồng tiền được những nền
kinh tế lớn như Đức và Pháp bảo đảm cùng với sự quản lý chính sách tiền tệ của Ngân
hàng Trung ương châu Âu (ECB). Nhờ việc gia nhập Eurozone Hy Lạp nghiễm nhiên
có được hình ảnh ổn định cao và chắc chắn trong mắt các nhà đầu tư, dễ dàng thu hút
vốn đầu tư nước ngoài với mức lãi suất thấp. Trong gần một thập kỷ qua, chính phủ
Hy Lạp liên tục bán trái phiếu để thu về hàng trăm tỷ đôla. Số tiền này lẽ ra có thể
giúp kinh tế Hy Lạp tiến rất xa nếu chính phủ có kế hoạch chi tiêu hợp lý. Tuy nhiên,
chính phủ Hy Lạp đã chi tiêu quá tay (phần lớn cho cơ sở hạ tầng) mà hầu như không
quan tâm đến các kế hoạch trả nợ dẫn đến mức nợ ngày càng tăng.
1.4.2.5. Thiếu tính minh bạch và niềm tin của các nhà đầu tư
Sự thiếu minh bạch trong số liệu thống kê của Hy Lạp đã làm mất niềm tin của
các nhà đầu tư mà quốc gia này đã tạo dựng được với tư cách là một thành viên của
Eurozone và nhanh chóng xuất hiện các làn sóng rút vốn ồ ạt khỏi các ngân hàng của
Hy Lạp, đẩy quốc gia này vào tình trạng khó khăn trong việc huy động vốn trên thị
trường vốn quốc tế. Sự phụ thuộc vào nguồn tài chính nước ngoài đã khiến cho Hy
Lạp trở nên rất dễ bị tổn thương trước những thay đổi trong niềm tin của giới đầu tư.
Trong thời đại hội nhập kinh tế quốc tế, thì minh bạch luôn là một đòi hỏi lớn của các
nhà đầu tư. Khủng hoảng nợ công của Hy Lạp do chính phủ không minh bạch các số
liệu, cố gắng vẽ nên bức tranh sáng, màu hồng về tình trạng ngân sách về những chính
Nhóm 5_CHĐ 11_K 23_UEH Trang 21
Tiểu luận môn tài chính tiền tệ GVHD: TS. Diệp Gia Luật
sách sắp ban hành để khắc phục những khó khăn về ngân sách hay vấn đề kinh tế vĩ
mô do vậy, hiệu lực của những chính sách đó sẽ bị hạn chế nhiều.
1.4.3. Tác động của khủng hoảng nợ công Hy Lạp đến tình hình tài chính –
tiền tệ.
1.4.3.1. Giá trái phiếu giảm và lãi suất tăng.
Hình 2.2 Lãi suất trái phiếu chính phủ 10 năm một số nước trên thế giới
Nguồn : ECB
Từ năm 1998 đến năm 2011 Trái phiếu Chính phủ Hy Lạp có lãi trung bình
5,21%, đạt mức cao lịch sử 11,39 % trong tháng 12 năm 2010 và một mức thấp kỷ lục
3,23% trong tháng 9 năm 2005. Lãi suất trái phiếu của Hy Lạp thời gian gần đây tăng
cao vì khủng hoảng nợ công, cán cân ngân sách thâm hụt, do đó chính phủ cần huy
động vốn để trả nợ buộc phải phát hành trái phíếu. Việc phát hành thêm trái phiếu
chính phủ thì giá trái phiếu chính phủ giảm, thể hiện qua việc chính phủ phải nâng lãi
suất trái phiếu thì mới huy động được người mua, theo báo cáo mới nhất thì lãi suất
trái phiếu của Hy Lạp đã lên đến 11,39%.
1.4.3.2. Cắt giảm chi tiêu
Đứng trước nguy cơ vỡ nợ trong cuộc khủng hoảng nợ công trầm trọng hiện nay,
chính phủ Hy Lạp buộc phải đưa ra nhiều biện pháp thắt chặt chi tiêu như tăng các
loại thuế nhằm cái thiện tình hình, mặc dù các chính sách mà theo các chuyên gia thì
các chính sách này cực kì đau đớn, và sẽ khiến cho cuộc sống của người dân trở nên
khó khăn hơn rất nhiều.Chính vì vậy, khi chính phủ Hy Lạp đưa ra các chính sách trên
đã gặp không ít những là sóng phản đối từ dân chúng.
Nhóm 5_CHĐ 11_K 23_UEH Trang 22
Tiểu luận môn tài chính tiền tệ GVHD: TS. Diệp Gia Luật
• Tăng các loại thuế: Trong năm 2011, Hy Lạp sẽ thu 2,32 tỷ Euro thuế và lần lượt
là 3,38 tỷ , 1.52 triệu và 699 triệu trong 3 năm tiếp theo. Trong đó, thuế giá trị
gia tăng (VAT) sẽ tăng từ 19% lến 23%.
• Đánh thuế vào hàng xa xỉ là du thuyền, hồ bơi và ô tô. Sẽ có một loại thuế đặc
biệt đánh vào các công ty làm ăn với lợi nhuận lớn, bất động sản giá trị lớn.
• Đánh thuế vào một số mặt hàng nội địa: nhiên liệu, thuốc lá, thức uống có cồn sẽ
tăng một phần ba.
• Giảm chi tiêu công: các chi tiêu trong khu vực công sẽ bị cắt 15%.
• Giảm chi tiêu quân sự: trong năm 2012 chi tiêu cho quân sự của Hy Lạp sẽ bị cắt
giảm 200 triệu Euro và từ năm 2013 đến 2015, sẽ cắt giảm mỗi năm 333 triệu
Euro.
• Giảm chi tiêu giáo dục: chi tiêu cho giáo dục cũng bị cắt giảm bằng cách đóng
cửa hoặc sát nhập 1976 trường học.
• Giảm chi tiêu cho an sinh xã hội: trong năm 2011, 1,09 tỷ Euro sẽ được cắt từ
quỹ an sinh xã hội của Hy Lạp. Tiếp đến, từ năm 2012 đến 2015 số cắt giảm lần
lượt là 1,28tỷ; 1,03 tỷ; 1,01 tỷ và 700 triệu. Bên cạnh đó, độ tuổi về hưu sẽ tăng
từ 61 lên 65.
• Tư hữu hóa chính phủ: chính phủ Hy Lạp sẽ tiến hành tư nhân hóa các doanh
nghiệp quốc doanh trong đó có OPAP, Hellenic Postbank, Hellenic Telecom.
Bên cạnh đó cũng sẽ bán cổ phần tại Athens Water, công ty dầu khí Hellenic
Petroleum, công ty điện PPC và lender ATEbank và một số hải cảng, sân bay,
đường cao tốc, quyền sở hữu đất và khai khoáng.
• Sa thải công chức: trong năm 2011, cư 10 công chức sẽ có một người bị sa thải.
Còn trong những năm tới, tỷ lên sa thải sẽ là cứ 5 người thì sẽ sa thải 1 người.
• Giảm chi tiêu y tế: trong năm 2011, chi tiêu cho y tế sẽ bị cắt giảm 310 triệu
Euro và từ 2012 đến 2015 sẽ giảm 1,81 triệu euro.
1.4.3.3. Đầu tư trực tiếp FDI giảm
Chính phủ Hy Lạp đang thực hiện các biện pháp thắt lưng buộc bụng nhằm đảm
bảo cam kết giảm thâm hụt ngân sách của Chính phủ Hy Lạp để nhận được sự trợ giúp
từ EU và IMF. Vì thực hiện chính sách giảm chi tiêu, tăng thuế nên dẫn đến tình hình
đầu tư FDI vào Hy Lạp giảm mạnh.
Nhóm 5_CHĐ 11_K 23_UEH Trang 23
Tiểu luận môn tài chính tiền tệ GVHD: TS. Diệp Gia Luật
Hình 2.3 Đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Hi Lạp 2003-2009
Theo số liệu, trong thời gian 2006-2008 FDI vào Hy Lạp đã liên tục duy trì mức
độ cao hơn so với giai đoạn năm 2003 - 2005, mặc dù biến động. Có nhiều yếu tố,
chẳng hạn như cải thiện cơ sở hạ tầng, đã đóng một vai trò quan trọng trong sự gia
tăng đáng kể khối lượng FDI.
Trong năm 2009 tổng luồng vốn vào Hy Lạp đạt 4,5 tỷ Euro, và luồng vốn ròng
vượt quá 2,4 tỷ Euro. So với năm 2008, dòng chảy FDI vào Hy Lạp sụt giảm 21% do
hậu quả của cuộc khủng hoảng nợ công.
1.4.3.4. Hạ bậc xếp hạng tín dụng
Ngày 15/6/2010, Tổ chức xếp hạng tín dụng Moody’s đã hạ 4 bậc xếp hạng tín
dụng của Hy Lạp xuống mức không đầu tư và cảnh báo, việc Hy Lạp giảm thâm hụt
ngân sách sẽ tạo ra nhiều hậu quả xấu về kinh tế.
Dù được EU và IFM hứa hẹn “bơm” tiền nhưng hình ảnh của Hy Lạp vẫn chưa
được cải thiện trong mắt các tổ chức xếp hạng độc lập, vào 14/7/2011, hãng xếp hạng
Fitch đã hạ 3 bậc đối với mức tín dụng của Hy Lạp từ B+ xuống CCC, thấp nhất trong
thang xếp hạng của Fitch. Lý giải cho việc này, Fitch cho rằng các chương trình tài trợ
mà các tổ chức tài chính quốc tế dành cho Hy Lạp chỉ đơn thuần là tài chính chứ
không đưa ra những giải pháp đầy đủ và đáng tin cậy đồng thời vai trò của khu vực tư
nhân trong các chương trình cải cách tại Hy Lạp cũng chưa thực sự rõ ràng, trong khi
triển vọng kinh tế vĩ mô không lấy làm chắc chắn. Chính vì vậy, mức xếp hạng CCC
(cận kề phá sản) mới được đưa ra.
Nhóm 5_CHĐ 11_K 23_UEH Trang 24
Tiểu luận môn tài chính tiền tệ GVHD: TS. Diệp Gia Luật
Vào ngày 28/07/2011 Standard & Poor’s (S&P) nhận định rằng Hy lạp sẽ phá
sản một phần sau khi các quan chức châu âu thúc đẩy kế hoạch tái cơ cấu nợ trong gói
cứu trợ 2. Chính vì vậy S&P đã hạ tiếp hạng tín dụng của Hy Lạp từ CCC xuống CC
chỉ trên mức vỡ nợ 2 bậc với đánh giá triển vọng tiêu cực. S&P cho biết, việc cơ cấu
lại nợ của Chính phủ Hy Lạp có thế nói là một trao đổi gây ra hậu quả tiêu cực vì nó
có nguy cơ gây thiệt hại cho chủ nợ.
1.4.3.5. Thất nghiệp tăng
Khi nền kinh tế toàn cầu mới thoát khỏi khủng hoảng, bắt đầu có dấu hiệu phục
hồi do kết quả của các gói kích thích kinh tế mà chính phủ các nước đã chi ra trong
những năm gần đây, thì việc cắt giảm chi tiêu, tăng thuế sẽ làm giảm đầu tư, kìm hãm
sự phục hồi kinh tế, làm chậm tốc độ tăng trưởng sẽ dẫn đến tình trạng việc làm giảm,
thất nghiệp gia tăng. Đồng thời với chính sách “thắt lưng buộc bụng”, đã khiến cho
tình trạng thất nghiệp ở nước này càng thêm nghiêm trọng.
Từ năm 2000 đến năm 2008, tỷ lệ thất nghiệp của Hy Lạp trung bình 9.5%, tỷ lệ
này đang gia tăng nhanh trong những năm gần đây và đạt mức cao nhất ở mức xấp xĩ
18% trong năm 2011.
Hình 2.4 Tỷ lệ thất nghiệp của Hi Lạp
1.4.3.6. Lạm phát tăng
Nhóm 5_CHĐ 11_K 23_UEH Trang 25