Tải bản đầy đủ (.doc) (42 trang)

phát triển thương mại mặt hàng nông sản trên thị trường châu âu của chi nhánh xuất nhập khẩu phía bắc – tổng công ty thương mại hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (310.31 KB, 42 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết nghiên cứu của đề tài khóa luận
Chi nhánh xuất nhập khẩu Phía Bắc – Tổng công ty thương mại Hà Nội được
đánh giá là đơn vị đi đầu trong lĩnh vực xuất nhập khẩu, thương mại lớn của thủ đô.
Chi nhánh đã có những bước tiến đáng kể trong lĩnh vực xuất khẩu nhiều mặt hàng
quan trọng với nhiều đối tác lớn trên thế giới. Là đơn vị trực tiếp nhận nhiệm vụ phát
triển thương mại các mặt hàng xuất khẩu của Tổng công ty thương mại Hà Nội, trong
cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu của Chi nhánh thì mặt hàng nông sản luôn chiếm tỷ
trọng cao nhất và được đánh giá là mặt hàng chủ lực. Kim ngạch xuất khẩu nông sản
luôn chiếm trên 70% tổng kim ngạch xuất khẩu qua các năm, đặc biệt là năm 2011 kim
ngạch nông sản đã chiếm tới hơn 80%.
Một thị trường quan trọng góp phần cho kết quả đạt được trong kim ngạch xuất
khẩu nông sản kể trên của chi nhánh là thị trường Châu Âu. Với trên 500 triệu khách
hàng và sức mua theo đầu người khoảng 32.700 USD /năm, thị trường Châu Âu được
đánh già là thị trường rộng lớn và đầy hấp dẫn đối với các doanh nghiệp nói chung và
chi nhánh xuất nhập khẩu nói riêng. Hơn nữa trong điều kiện kinh tế tài chính ở Châu
Âu hiện nay, người tiêu dùng các nước có xu hướng quay lại dùng các sản phẩm có giá
trị hợp lý hơn.
Thị trường Châu Âu mở ra một tiềm năng đầy hấp dẫn đối với xuất khẩu nông
sản nhưng lại là một thị trường khắt khe, khó tính đòi hòi sản phẩm nông sản phải đáp
ứng được những tiêu chuẩn cao thì mới có thể đứng vững được trên thị trường này.
Nhất là khi mặt hàng nông sản của Chi nhánh xuất nhập khẩu Phía Bắc mới xuất khẩu
vào thị trường Châu Âu trong khoảng 10 năm trở lại đây, hoạt động xuất khẩu nông
sản có nhiều khởi sắc ngay từ khi mới bắt đầu nhưng còn nhiều thách thức lớn từ
nguồn nguyên liệu nông sản, mạng lưới phân phối, vị trí năng lực cạnh tranh trên thị
trường còn yếu, kim ngạch xuất khẩu hàng năm chưa cao. Năm 2011 kim ngạch xuất
khẩu trên thị trường Châu Âu chỉ đạt 4.34 triệu USD chưa tương xứng với tiềm năng
phát triển xuất khẩu nông sản của Chi nhánh trên thị trường Châu Âu
Trước tình hình này, việc phát triển thương mại mặt hàng nông sản trên thị
trường Châu Âu nhằm nâng cao hơn những hiệu quả đã đạt được và khai thác thế
mạnh trong xuất khẩu nông sản của Chi nhánh là hết sức cần thiết. Góp phần giải


quyết những hạn chế trong xuất khẩu hàng hóa, đưa sản phẩm nông sản đến gần hơn
1
nữa đến tay người tiêu dùng thị trường Châu Âu, nâng cao đẩy mạnh thương hiệu
nông sản Việt Nam trên trường quốc tế.
2. Tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan
Trong những năm qua, đã có rất nhiều các công trình nghiên cứu liên quan đến
phát triển thương mại mặt hàng nông sản trên thị trường Châu Âu, mỗi công trình
nghiên cứu đều đưa ra những khía cạnh khác nhau về phát triển thương mại hay là về
xuất khẩu mặt hàng nông sản. Trong đó, tại Chi nhánh xuất nhập khẩu phía Bắc –
Tổng công ty thương mại Hà Nội chưa có công trình nghiên cứu nào, và tại trường
Đại học Thương mại cũng đã có một số công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài.
Đáng chú ý là một số công trình nghiên cứu sau:
Luận văn tốt nghiệp: “Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh nguồn nhân lực
với phát triển xuất khẩu hàng nông sản của Tổng công ty rau quả nông sản Việt Nam”
của tác giả Ngô Thị Vân Anh/ Khoa Kinh tế ( năm 2008). Công trình nghiên cứu cho
ta thấy được các lý luận cũng như giải pháp liên quan đến nâng cao năng lực cạnh
tranh nguồn nhân lực cũng như phát triển xuất khẩu mặt hàng nông sản. Hướng tập
trung chủ yếu của luận văn là đi sâu vào nâng cao năng lực cạnh tranh của nguồn nhân
lực. Đề tài cũng đã chỉ ra được thực trạng nguồn nhân lực trong lĩnh vực phát triển
xuất khẩu nông sản ở Việt Nam cũng như ở Tổng công ty rau quả Việt Nam. Có thể
nhận thấy, phát triển thương mại mặt hàng nông sản sẽ là một hướng mới đảm bảo
xuất khẩu nông sản phát triển bền vững.
Luận văn tốt nghiệp: “Giải pháp phát triển thị trường với thúc đẩy xuất khẩu
sản phẩm nông sản của Chi nhánh công ty cổ phần xuất nhập khẩu Hòa Bình tại Hà
Nội” của tác giả Nguyễn Thị Hồng Nhung/ Khoa Kinh tế ( năm 2008). Công trình
nghiên cứu đã bước đầu đi sát vào mục tiêu nghiên cứu, giải quyết các vấn đề lý luận
liên quan đến phát triển thị trường như bản chất của phát triển thị trường và các tiêu
chí đánh giá phát triển thương mại, các nhân tố môi trường ảnh hưởng đến thúc đẩy
xuất khẩu, gắn với đặc điểm riêng của mặt hàng nông sản. Tuy nhiên, luận văn mới chỉ
đưa ra và tập trung chủ yếu vào các giải pháp thúc đẩy xuất khẩu một cách chung nhất,

đưa ra các giải pháp thị trường nhằm phát triển thị trường mặt hàng nông sản. Nhưng
đề tài này phát triển thương mại mặt hàng nông sản trên thị trường chung, không tập
trung vào thị trường trọng điểm nhằm đưa ra được các giải pháp cụ thể.
Luận văn tốt nghiệp : “Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng nông sản sang thị
trường EU của công ty Intimex” của tác giả Nguyễn Thanh Hằng/ Khoa Thương mại
2
quốc tế ( năm 2011) . Đề tài luận văn tốt nghiệp này đã đưa ra và hệ thống hóa được
một số lý luận chung liên quan đến giải pháp thúc đẩy xuất khẩu, phân tích được đặc
điểm của thị trường nông sản ở EU và đề ra được một số giải pháp phát triển thương
mại mặt hàng nông sản. Tuy nhiên, cũng như đề tài kể trên thì luận văn cũng chỉ tập
trung đi sâu và nghiên cứu về thúc đẩy xuất khẩu nông sản và chưa có các lý luận,
thực trạng cũng như giải pháp về phát triển thương mại mặt hàng nông sản trên thị
trường Châu Âu.
Tất cả các đề tài kể trên liên quan đến mặt hàng nông sản hoặc là thị trường
Châu Âu. Nhưng hạn chế chung nhất giữa các đề tài này vẫn là khả năng hệ thống hóa
lý luận chung đều không đề cập được đến phát triển thương mại sản phẩm và các
nguyên lý, chỉ tiêu đánh giá phát triển thương mại. Bên cạnh đó đề tài cũng đưa ra các
giải pháp chủ yếu về thúc đẩy xuất khẩu sản phẩm cũng như nghiên cứu phát triển thị
trường hoặc là năng lực cạnh tranh nguồn nhân lưc. Đây chỉ là hai trong số rất nhiều
khía cạnh của phát triển thương mại mặt hàng trên thị trường xuất khẩu.
3. Xác lập và tuyên bố vấn đề nghiên cứu
Từ các công trình nghiên cứu đã đưa ra ở trên ta nhận thấy hầu hết các công trình
chỉ giải quyết được một phần trong phát triển thương mại đi liền với thúc đẩy xuất
khẩu , chủ yếu là các giải pháp phát triển thị trường do vậy chưa thực sự đưa ra được
giải pháp phát triển bền vững nâng cao hiệu quả thương mại đó là phát triển theo
chiều sâu dựa trên các yếu tố của phát triển thương mại là tốc độ phát triển và sự
chuyển dịch cơ cấu của sản phẩm. Theo hướng phát triển này đối với mặt hàng nông
sản có thể tạo được tốc độ phát triển nhanh, ổn định, cơ cầu sản phẩm nông sản dịch
chuyển theo hướng hợp lý, giảm xuất khẩu sản phẩm thô, tăng hàm lượng các sản
phẩm nông sản đã qua chế biến từ đó hướng tới sự phát triển bền vững.

Phát triển thương mại sản phẩm trên thị trường Châu Âu em lựa chọn sản phẩm
nông sản do những đặc trưng của sản phẩm về chất lượng cũng như sự phong phú về
chủng loại, khả năng tiếp cận với khách hàng Châu Âu cũng sẽ được đánh giá cao.
Bên cạnh đó mặt hàng nông sản cũng là mặt hàng có tiềm năng tiếp cận thị trường
hơn bất cứ một mặt hàng nào khác do đây là những mặt hàng thiết yếu hàng ngày đối
với bất kỳ người dân nào, do vậy khả năng phát triển thương mại mặt hàng nông sản
trên thị trường Châu Âu sẽ có cơ hội gia tăng mạnh mẽ.
Với mong muốn tìm ra những giải pháp phát triển thương mại mặt hàng nông sản
trên thị trường Châu Âu của Chi nhánh xuất nhập khẩu phía Bắc, em xin lựa chọn và
3
nghiên cứu đề tài “ Phát triển thương mại mặt hàng nông sản trên thị trường Châu Âu
của Chi nhánh xuất nhập khẩu phía Bắc – Tổng công ty thương mại Hà Nội”
4. Mục tiêu, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu
Về tổng quát:
- Lý luận : Làm rõ, hệ thống hóa một số khái niệm, lý thuyết liên quan đến phát
triển thương mại mặt hàng nông sản trên thị trường Châu Âu
Làm rõ bản chất của phát triển thương mại sản phẩm, khái niệm mặt hàng nông
sản, tổng quan thị trường Châu Âu
Các lý thuyết về phát triển thương mại sản phẩm, các lý thuyết liên quan đến
mặt hàng nông sản
Nội dung và nguyên lý giải quyết vấn đề nghiên cứu: các chỉ tiêu và đánh giá
về phát triển thương mại
- Thực trạng:Tổng quan tình hình và các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển
thương mại mặt hàng nông sản trên thị trường Châu Âu
Thực trạng phát triển thương mại mặt hàng nông sản trên thị trường Châu Âu
của Chi nhánh xuất nhập khẩu phía Bắc
Kết luận và đánh giá về thành tựu, hạn chế, nguyên nhân trong thực trạng phát
triển thương mại mặt hàng nông sản của chi nhánh xuất nhập khẩu phía Bắc trên thị
trường Châu Âu.

Cụ thể các giải pháp:
Nâng cao sức cạnh tranh mặt hàng nông sản của Chi nhánh trên thị trường Châu Âu
Xây dựng nguồn cung ổn định và chất lượng
Đẩy mạnh hoạt động quảng cáo, xúc tiến thương mại
Giải pháp đối với nguồn lực
Đối tượng: Phát triển thương mại mặt hàng nông sản của chi nhánh xuất nhập
khẩu phía Bắc – Tổng công ty thương mại Hà Nội
Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung :
Số lượng: Đề tài nghiên cứu các sản phẩm nông sản đóng vai trò là sản phẩm
của hoạt động trồng trọt.
4
Chất lượng: Đề tài phân tích thực trạng phát triển thương mại mặt hàng nông
sản từ đó có cơ sở để đưa ra các giải pháp phát triển và các kiến nghị đối với nhà nước
về phát triển thương mại mặt hàng nông sản.
Thị trường: Nghiên cứu phát triển thương mại sản phẩm nông sản trên thị
trường Châu Âu
Về không gian: Đề tài chủ yếu nghiên cứu phát triển thương mại mặt hàng nông
sản của chi nhánh xuất nhập khẩu phía Bắc.
Về thời gian: Số liệu tổng hợp, phân tích thực trạng hoạt động thương mại của
Chi nhánh trong giai đoạn 2007 – 2011.
5. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp thu thập dữ liệu thứ cấp
Thu thập dữ liệu thứ cấp là một công việc quan trọng trong nghiên cứu các vấn
đề. Thu thập dữ liệu thứ cấp để làm cơ sở thực tế cho vấn đề nghiên cứu. Luận văn
thập dữ liệu bằng cách tham khảo tài liệu và thu thập dữ liệu thực nghiệm
- Thu thập dữ liệu bằng cách tham khảo tài liệu từ những nguồn thông tin thứ cấp
như sách, báo, mạng internet, báo cáo của các doanh nghiệp. Ngoài ra còn lấy dữ liệu từ các
giáo trình kinh tế học để triển khai viết lý luận. Các dữ liệu này được sử dụng cho tất cả các
chương trong luận văn để làm cơ sở cho việc nghiên cứu các vấn đề.

- Lấy ý kiến đánh giá của các chuyên gia trong lĩnh vực liên quan đến phát triển
thương mại sản phẩm. Đây là những kinh nghiệm mà các chuyên gia đúc kết trong
nhiều năm nghiên cứu về lĩnh vực này. Đó cũng là cách nhìn tổng quan về các mặt
hàng nông sản
- Tham khảo các đề tài nghiên cứu trước có liên quan đến đề tài đang nghiên cứu.
Từ những nguồn thông tin này để có những đánh giá cụ thể về tình hình phát
triển thương mại mặt hàng nông sản của doanh nghiệp trên thị trường xuất khẩu, đánh
giá được những thành công, tồn tại và nguyên nhân của những tồn tại trong phát triển
thương mại sản phẩm. Từ các nguồn thông tin này ta có thể đưa ra được những hướng
giải quyết đúng đắn cho vấn đề đang nghiên cứu.
Thu thập tài liệu từ các nguồn khác nhau đều có những ưu, nhược điểm riêng .
Tùy vào yêu cầu của thông tin cần thu thập được mà sẽ lựa chọn lấy thông tin từ
những nguồn nào. Thông tin từ các nguồn này có thể sử dụng để đánh giá tổng quan
tình hình và các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển thương mại mặt hàng nông sản của
Chi nhánh trong phần 2.1, nguyên nhân thành công và hạn chế trong phần 2.3.
5
Phương pháp xử lý và phân tích dữ liệu
Thông tin sau khi đã thu thập về cần chọn lọc , xử lý các dữ liệu cho phù hợp
với mục tiêu mà mình hướng tới. Sau khi các dữ liệu, thông tin đã được chọn lọc và xử
lý thì cần phân tích để phục vụ cho nghiên cứu. Việc phân tích thông tin theo hướng
nào, phân tích theo khía cạnh nào sẽ do mục tiêu nghiên cứu quyết định. Đề tài sử
dụng một số phương pháp phân tích thông tin như:
Phương pháp tổng hợp thống kê: Các dữ liệu được thu thập từ các phòng ban
tập hợp thành các bảng biểu, biểu đồ phục vụ cho từng mục tiêu nghiên cứu, phân tích.
Phương pháp này giúp đưa ra được những kết luận chính xác hơn về thực trạng các
hoạt động phát triển thương mại mà doanh nghiệp đang nghiên cứu.
Phương pháp đối chiếu, so sánh: Phương pháp này giúp cho việc so sánh dữ
liệu giữa các thời kỳ, giữa các doanh nghiệp khác nhau để có thể có những đánh giá
khách quan về tình hình phát triển của doanh nghiệp mà mình đang nghiên cứu
Thông qua việc phân tích sẽ giúp cho việc đánh giá tình hình hoạt động kinh doanh

của doanh nghiệp, qua đó dự báo được tình hình phát triển của sản phẩm trong giai
đoạn tới. Kết quả thu được ở phương pháp này sẽ trực tiếp và chủ yếu phục vụ cho
việc phân tích các dữ liệu thứ cấp làm cơ sở cho việc đánh giá thực trạng trong chương
2 của khóa luận.
Phương pháp khác
Ngoài hai phương pháp trên, khóa luận còn sử dụng các phương pháp phân tích
dữ liệu bằng bảng biểu để phục vụ cho việc phân tích, đánh giá vấn đề về thực trạng và
công tác dự báo. Phương pháp này hiệu quả khi cho thấy sự thay đổi trong cơ cấu sản
phẩm, tốc độ tăng trưởng cũng như là đánh giá một cách chính xác các dữ liệu được
đưa ra. Phương pháp này được sử dụng chủ yếu trong phần 2.2
6. Kết cấu khóa luận tốt nghiệp
Ngoài các phần khác thì khóa luận gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận cơ bản về phát triển thương mại mặt hàng
nông sản trên thị trường Châu Âu
Chương 2: Thực trạng phát triển thương mại hàng nông sản trên thị trường xuất
khẩu Châu Âu của chi nhánh xuất nhập khẩu phía Bắc – Tổng công ty thương mại Hà Nội
Chương 3: Giải pháp phát triển thương mại hàng nông sản trên thị trường Châu
Âu của Chi nhánh xuất nhập khẩu – Tổng công ty thương mại Hà Nội trong giai đoạn
hiện nay.
6
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ PHÁT TRIỂN THƯƠNG MẠI
MẶT HÀNG NÔNG SẢN TRÊN THỊ TRƯỜNG CHÂU ÂU
1.1 Một số khái niệm cơ bản về phát triển thương mại mặt hàng nông sản
Để đánh giá sự phát triển của một nền kinh tế người ta dùng thuật ngữ phát
triển kinh tế. Theo thời gian thuật ngữ này càng được bổ sung và hoàn thiện hơn, có
nhiều cách để hiểu về thuật ngữ này. Theo Thạc sĩ Phạm Thị Tuệ: “ Phát triển kinh tế
là một quá trình lớn lên (hay biến đổi) về mọi mặt của nền kinh tế trong một thời kỳ
nhất định. Trong đó bao gồm sự tăng lên về quy mô sản lượng (tăng trưởng) và sự thay
đổi về cơ cấu kinh tế xã hội”. [3]
Hiện nay chưa có quan niệm chính thức về phát triển thương mại, do đó dựa

trên quan điểm về phát triển kinh tế có thể hiểu phát triển thương mại là quá trình lớn
lên hay biến động về mọi mặt của hoạt động thương mại trong một thời kỳ nhất định
trong đó bao gồm sự tăng lên về quy mô, sản lượng và sự thay đổi về chất lượng, cơ
cấu, sử dụng nguồn lực trong hoạt động thương mại. Thực chất chính là sự biến động
của các hiện tượng, các hoạt động và các quan hệ kinh tế gắn liền và phát sinh cùng
với trao đổi hàng hóa và cung ứng dịch vụ nhằm mục đích phát triển thương mại.
Theo một cách hiểu khác thì có thể hiểu phát triển thương mại là sự nỗ lực cải
thiện về quy mô, chất lượng các hoạt động thương mại trên thị trường nhằm tối đa hóa
tiêu thụ và hiệu quả của các hoạt động thương mại gắn với phát triển bền vững về môi
trường, kinh tế, xã hội, tối đa lợi ích của khách hàng mong đợi trên thị trường.
Phát triển thương mại sản phẩm: Thực chất là phát triển thương mại với đối
tượng là sản phẩm hữu hình. Dựa trên khái niệm về phát triển thương mại ta cũng có
thế hiểu phát triển thương mại sản phẩm chính là nỗ lực cải thiện về quy mô, chất
lượng các hoạt động thương mại của sản phẩm đó trên thị trường nhằm tối đa hóa tiêu
thụ và hiệu quả của các hoạt động thương mại sản phẩm gắn với phát triển bền vững
về môi trường, kinh tế, xã hội, cũng như tối đa hóa lợi ích mà khách hàng mong đợi
trên thị trường mục tiêu.
Khái niệm mặt hàng nông sản: Mặt hàng nông sản là sản phẩm đặc trưng của
hoạt động nông nghiệp trồng trọt, mặt hàng nông sản là mặt hàng đặc biệt chịu ảnh
hưởng của các điều kiện tự nhiên như thời tiết, khí hậu, địa hình.[10]
Khái niệm mặt hàng nông sản xuất khẩu: Từ khái niệm hàng nông sản đã nêu
trên có thể hiểu mặt hàng nông sản xuất khẩu là một sản phẩm hàng hóa đặc trưng của
một quốc gia dựa trên các điều kiện về tự nhiên để tạo nên sản phẩm nông sản xuất
7
khẩu. Là sản phẩm có lợi thế cạnh tranh trên thị trường quốc tế, được quốc gia lựa
chọn là mặt hàng xuất khẩu.
1.2 Một số lý thuyết về phát triển thương mại mặt hàng nông sản trên thị trường
Châu Âu
1.2.1 Đặc điểm của mặt hàng nông sản
Hàng nông sản chịu ảnh hưởng rất nhiều bởi các điều kiện tự nhiên như thời

tiết, khí hậu, nguồn nước, địa hình trong khi đó con người mới chỉ có thể dự báo và
hạn chế chứ không thể khắc phục được hoàn toàn những biến cố tự nhiên.
Các mặt hàng nông sản mang tính thời vụ vì việc gieo trồng, chăm bón đến thu
hoạch mỗi loại nông sản thường chỉ được tiến hành vào một số thời điểm thích hợp
trong năm, như vậy mới đảm bảo được những điều kiện tự nhiên thuận lợi cho sự sinh
sôi và phát triển của cây trồng.
Các mặt hàng nông sản thường có giá cả không ổn định, đặc điểm này chủ yếu
do yếu tố thời vụ gây ra. Thông thường vào chính vụ thì chất lượng nông sản ổn định,
số lượng lớn, chủng loại phong phú nên nhờ đó mà giá cả rẻ. Còn vào các thời điểm
khác do điều kiện tự nhiên không thuận lợi, lại phải chi phí nhiều cho các biện pháp
kích thích cây trồng tăng trưởng nên hàng nông sản có giá cao hơn bình thường trong
khi chất lượng và mẫu mã lại không đồng đều.
Các mặt hàng nông sản rất phong phú về chủng loại và chất lượng, mỗi mặt
hàng nông sản như gạo, chè, cà phê, cao su, tiêu , điều , lạc đều có công dụng, tính
chất, đặc điểm, điều kiện thích nghi khác nhau. Ngoài ra, mỗi mặt hàng nông sản nếu
được trồng tại các nơi khác nhau, vào các thời điểm khác nhau, cách thức gieo trồng
và thu hoạch khác nhau sẽ cho chất lượng các sản phẩm khác nhau tương đối. Chính vì
vậy trong công tác thu gom hàng cho xuất khẩu thì doanh nghiệp cần cẩn trọng trong
công tác phân loại để đảm bảo không có sự pha tạp giữa hàng chất lượng cao phục vụ
xuất khẩu và hàng loại phẩm chất kém, có vậy thì mới giữ vững được thương hiệu và
uy tín với các bạn hàng nước ngoài.
Hàng nông sản mang tính phân tán, do mỗi loại cây trồng thích hợp với các
điều kiện tự nhiên, thời tiết, khí hậu, địa hình khác nhau nên được trồng ở các vùng
miền khác nhau để đảm bảo thu được năng suất cao nhất (lúa chỉ trồng được ở các
vùng đồng bằng màu mỡ, chè thường được trồng ở những tỉnh miền núi phía Bắc còn
cà phê lại thích hợp với đất đỏ bazan tại các tỉnh Tây Nguyên ). Thêm nữa là dù loại
cây trồng nào cũng đòi hỏi phải có diện tích đất đai đủ rộng nên hàng nông sản chủ
8
yếu phân bố tại các vùng núi, cao nguyên, vùng nông thôn đất rộng người thưa, trong
khi đó lại được tiêu thụ phần nhiều tại thành phố.

Hàng nông sản dễ bị hư hỏng phần lớn hàng nông sản nếu không qua chế biến
thì sẽ có thời gian sử dụng tương đối ngắn, nếu bảo quản không tốt dễ dẫn đến thiu
mốc, hư hỏng.
Hàng nông sản là mặt hàng thiết yếu trong đời sống, có thể nói là nó có tác
dụng nuôi sống con người. Ngoài ra chất lượng hàng nông sản còn ảnh hưởng trực tiếp
đến sức khoẻ của người tiêu dùng nên những yêu cầu về vệ sinh an toàn thực phẩm là
rất khắt khe.
Một đặc điểm nữa của thị trường nông sản là độ nhạy cảm thấp của nhu cầu
nông sản đối với giá của nó. Nếu doanh nghiệp xuất khẩu chủ động giảm giá của một
mặt hàng nông sản để kích thích thì nhu cầu của người tiêu dùng đối với mặt hàng
nông sản cũng không tăng lên nhiều như mức độ giảm giá. Chính vì vậy việc giảm giá
bán để kích thích nhu cầu tiêu dùng không hoàn toàn có hiệu quả cao như đối với một
số mặt hàng khác.
1.2.2 Đặc điểm của phát triển thương mại mặt hàng nông sản xuất khẩu
Hiện nay mặt hàng nông sản xuất khẩu đang có đầy đủ cơ hội cho sự phát triển
thương mại khi mà tốc độ tăng trưởng của lĩnh vực này vẫn tăng qua các năm và nhận
được các chính sách ưu đãi cho sự phát triển của sản phẩm này do những lợi thế về đặc
điểm tự nhiên thuận lợi cũng như sự đa dạng về mặt hàng nông sản. Gần đây, chính
phủ đã phê duyệt đề án phát triển xuất khẩu giai đoạn 2011-2015, trong đó đưa ra cơ
cấu mặt hàng nông sản trong kim ngạch xuất nhập khẩu luôn chiếm môt vị trí nhất
định. Ngoài ra sản phẩm nông sản là một mặt hàng xuất khẩu tiềm năng, luôn đứng
trong top 5 các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam. Đặc biệt các sản phẩm như
gạo, cà phê đã có thương hiệu sản phẩm nông sản Việt Nam có chất lượng trên toàn
thế giới. Vì vậy việc phát triển thương mại mặt hàng nông sản xuất khẩu đang nhận
được sự đầu tư và khuyến khích lớn của Chính phủ.
Một đặc điểm khác nữa của phát triển thương mại mặt hàng nông sản là sự thể
hiện của phát triển thương mại sản phẩm đối với văn hóa, xã hội. Phát triển thương
mại sản phẩm bất kỳ nào cũng phải tính đến yếu tố hiệu quả kinh tế - xã hội – môi
trường. Việc sản xuất sản phẩm nông nghiệp có nhiều thuận lợi về xã hội và môi
trường, cải tạo môi trường đất cũng như giảm thiểu ôi nhiễm không khí, tăng Oxi

Việt Nam đang là một nước đang phát triển đang tiến hành quá trình công nghiệp hóa
9
hiện đại hóa đất nước nhưng không vì thế mà sản phẩm nông nghiệp không được coi
trọng. Nông nghiệp vẫn là ngành kinh tế chủ lực của Việt Nam trong giai đoạn này, nó
chiếm tới 30% trong tổng đóng góp vào GDP. Hơn thế nữa việc phát triển thương mại
sản phẩm này sẽ giải quyết được phần nào một số các vấn đề xã hội như tạo công ăn
việc làm, nâng cao đời sống nhân dân sống phụ thuộc chủ yếu vào nông nghiệp.
1.2.3 Vai trò của mặt hàng nông sản xuất khẩu
Với quốc gia: Mặt hàng nông sản luôn là một mặt hàng có nhu cầu thiết yếu
nhất đối với một quốc gia. Không những nó đáp ứng nhu cầu về lương thực thực phẩm
cho toàn xã hội mà nó còn có vai trò quan trọng trong việc làm nền cho các mặt hàng
khác phát triển. Vì vậy, các quốc gia luôn coi trọng và có những chính sách đúng đắn
trong việc sản xuất, xuất nhập khẩu lương thực của nước mình.
Xuất khẩu nông sản góp phần giải quyết việc làm và cải thiện đời sống nhân
dân. Đối với nước đang phát triển như Việt Nam, ngành nông nghiệp có ảnh hưởng
lớn nhất đến đời sống nhân dân. Một mặt sản xuất nông nghiệp là nơi thu hút nhiều lao
động và tạo thu nhập khá ổn định, mặt khác xuất khẩu nông sản tạo ra ngoại tệ để nhập
khẩu sản phẩm tiêu dùng đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng phong phú của nhân
dân. Sản xuất trong lĩnh vực nông nghiệp rất phong phú, phối hợp từ công nghệ đơn
giản nhất đến những kỹ thuật tiên tiến. Ngành nông nghiệp có khả năng tạo nhiều công
ăn việc làm cho người lao động, tăng thu lợi nhuận để tích lũy làm tiền đề cho sự phát
triển của các ngành công nghiệp khác, nâng cáo mức sống và ổn định tình hình kinh tế,
chính trị, xã hội.
Xuất khẩu nông sản kéo theo sự phát triển của các ngành liên quan. Chiến lược
xuất khẩu hàng nông sản trong thời gian qua đã và đang đóng vai trò rất quan trọng
trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nông sản Việt Nam có mặt ở
nhiều nước với sản phẩm chủ lực có khả năng chi phối thị trường thế giới như cà phê,
chè, gạo,hồ tiêu… Việc phát triển thương mại mặt hàng nông sản giúp tạo động lực
cho các ngành khác phát triển nhất là công nghiệp chế biến. Khi xuất khẩu nông sản
do yêu cầu của thị trường thế giới và sự cạnh tranh khốc liệt mà các doanh nghiệp sản

xuất, xuất khẩu trong nước luôn tìm tòi, cải tiến mẫu mã chất lượng sản phẩm, nâng
cao hàm lượng công nghệ của sản phẩm thông qua lai tạo và chọn giống, công nghệ
thu hoạch và bảo quản, công nghệ chế biến… nhằm đáp ứng tốt nhất nhu cầu thị
trường. Đây cũng là nguyên nhân kích thích ngành nông nghiệp phát triển, hiện đại
hóa mình và góp phần hiện đại hóa đất nước.
10
Thông qua hoạt động phát triển thương mại, nông sản xuất khẩu của Việt Nam
đã thâm nhập thị trường thế giới, từ đó mở rộng và thúc đẩy sự phát triển của các mối
quan hệ kinh tế đối ngoại giữa Việt Nam và thế giới. Thế giới biết đến Việt Nam qua
các sản phẩm nông sản và tạo vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Nhờ các mối
quan hệ đó, các ngành khác cũng phát triển theo như du lịch, vận tải quốc tế, tín dụng
quốc tế…Sự phát triển của các ngành này cũng tác động trở lại đối với hoạt động phát
triển thương mại mặt hàng nông sản xuất khẩu.
Với doanh nghiệp : Mặt hàng nông sản là sản phẩm chiến lược của các doanh
nghiệp thuộc ngành xuất khẩu. Xuất khẩu nông sản mang lại nguồn thu lớn cho doanh
nghiệp, giúp doanh nghiệp mở rộng quy mô xuất khẩu. Tạo điều kiện công ăn việc làm
ổn định cho công nhân chế biến nông sản. Nâng cao được uy tín của doanh nghiệp dựa
vào chất lượng của sản phẩm nông sản.
1.2.4 Phân loại một số sản phẩm nông sản xuất khẩu chính
Gạo: Là một sản phẩm lương thực thu từ cây lúa, là lương thực phổ biến của
gần một nửa dân số thế giới. Tùy theo kích thước, hình dạng đặc trưng vùng miền mà
gạo được chia thành nhiều loại với mùi vị, màu sắc đặc trưng cho từng loại khác nhau.
Gạo cần phải bảo quản nơi thoáng mạt, trong bao bì sạch, có khả năng hạn chế ẩm
mốc, sâu mọt. Dễ dàng vận chuyển bằng các phương tiện khác nhau. Phương tiện vận
chuyển cần phải sạch, không mùi vị lạ và không nhiễm bẩn.
Lạc: còn được gọi là đậu phộng, một loại thực phẩm thuộc họ đậu có nguồn gốc
tại Trung và Nam Mỹ. Đây loại thực phẩm giàu năng lượng vì chứa nhiều lipit. Lạc
được chia thành 2 loại: lạc quả và nhân lạc. Sản phẩm này đựng trong bao gói bền,
sạch, khô, không có mùi lạ tránh ảnh hưởng đến chất lượng của lạc
Cà phê: là cây công nghiệp dài ngày, có thời gian từ lúc đầu tư đến lúc thu

hoạch là từ 3 -5 năm. Điều này đã ảnh hưởng lớn đến những nhà sản xuất đặc biệt là
những người nông dân ở những nước sản xuất cà phê có nguồn tài chính hạn chế vì
chủ yếu vốn đầu tư là vay các ngân hàng. Sản xuất cà phê thường chịu ảnh hưởng
nhiều bởi điều kiện thời tiết, tự nhiên, hạn hán mất mùa làm giảm năng suất thu hoạch
Chè: là một cây công nghiệp dài ngày và mang tính thời vụ rõ ràng. Chè sinh
trưởng theo mùa, thường thu hoạch vào mùa hè. Do vậy cần nắm rõ quy luật sinh
trưởng của loại cây này để có quy trình sản xuất tốt. Ngoài ra chè là cây trồng theo
vùng miền, do vậy cần chú ý đến việc bố trí địa điểm, phương thức thu mua, chế biến
và vận chuyển sao cho phù hợp. Chè cũng như cá cây trồng khác là chịu ảnh hưởng
11
của điều kiện tự nhiên nên sản lượng thường không ổn định. Nếu không chăm sóc cẩn
thận và kỹ càng thì chất lướng sẽ kém.
Gia vị là một thứ không thể thiếu trong chế biến món ăn, nó định vị món ăn
hiệu quả và làm tăng hương vị, kích thích tiêu hóa, làm cho món ăn thêm ngon và hấp
dẫn đối với người thức. Gia vị được chia làm nhiều loại khác nhau: Gia vị có nguồn
gốc thực vật, gia vị có nguồn gốc động vật… ở đây ta chỉ xét xuất khẩu gia vị có
nguồn gốc thực vật như nhóm gia vị hồ tiêu và nhóm gia vị có chứa tinh dầu ( quế ,
hồi, gừng, nghệ, ớt, tỏi…)
Hồ tiêu là mặt hàng không chỉ ứng dụng trong gia vị thực phẩm mà còn được
ứng dụng trong dược phẩm. Thời gian gần đây, ở nước ta cây hồ tiêu đang dần chiếm
ưu thế so với các cây trồng khác như cà phê, điều, cao su…do lợi ích kinh tế mang lại
là lớn hơn. Tuy nhiên thì ngành sản xuất hồ tiêu đang gặp nhiều khó khăn do người
sản xuất là các hộ nông dân ít vốn, vì thế việc đầu tư, chăm sóc cũng gặp nhiều khó
khăn cũng như bảo quản còn hạn chế.
Đối với nhóm hàng chứa tinh dầu: được trồng chủ yếu ở các vùng đồng bằng
nhưng không tập trung thành vùng canh tác lớn trừ một số nơi ở miền Bắc nước ta như
Hưng Yên, Thái Bình Nhóm gia vị này được xuất khẩu dưới dạng phơi sấy khô thành
bột, thái lát hoặc nguyên quả.
1.2.5 Ý nghĩa của phát triển thương mại mặt hàng nông sản xuất khẩu
Đối với quốc gia: Phát triển thương mại mặt hàng nông sản xuất khẩu có ý

nghĩa vô cùng quan trọng đối với Việt Nam. Là một nước phát triển từ nông nghiệp,
mặt hàng nông sản xuất khẩu luôn có trong mục tiêu tăng trưởng, chuyển dịch cơ cấu
kinh tế cạnh tranh và hội nhập. Phát triển thương mại mặt hàng nông sản sẽ đóng góp
vào GDP của cả nước, phục vụ cho các mục tiêu tăng trưởng chuyển dịch cơ cấu kinh
tế. Mặt hàng nông sản có ý nghĩa với xã hội, tạo điểu kiện thu hút lao động nông thôn,
đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế nông thôn, nâng cao thu nhập, đời sống nhân dân.
Đối với doanh nghiệp xuất khẩu mặt hàng nông sản: Phát triển xuất khẩu nông
sản giúp doanh nghiệp đạt được mức tiêu thụ, thị phần lớn, tạo uy tín cho sản phẩm.
Đồng thời có ý nghĩa trong tăng cường lợi ích khách hàng và đối tác doanh nghiệp,
thiết lập mối quan hệ giữa khách hàng và đối tác, từ đó nâng cao hiệu quả phát triển
thương mại mặt hàng nông sản xuất khẩu. Bên cạnh đó, phát triển thương mại mặt
hàng nông sản còn có ý nghĩa với tối đa hóa hiệu quả sử dụng nguồn lực và lợi ích của
nhà cung cấp, nhà xuất khẩu.
12
1.3 Nội dung và nguyên lý giải quyết phát triển thương mại mặt hàng nông sản
trên thị trường xuất khẩu Châu Âu
1.3.1 Nội dung của phát triển thương mại
Nội dung của phát triển thương mại sản phẩm nông sản là sự tập trung vào gia
tăng quy mô, mở rộng thêm nhiều thị trường mới cho sản phẩm này. Các hoạt động đi
cùng để nâng cao chất lượng của mặt hàng nông sản, đa dạng hóa các loại mặt hàng
nông sản. Nguồn lực thương mại trong doanh nghiệp phải được sử dụng một cách kinh
tế nhất định mang lại hiệu quả tối ưu cho hoạt động phát triển thương mại mặt hàng
nông sản xuất khẩu.
Sự gia tăng về quy mô: Sự gia tăng quy mô nếu xét theo theo góc độ vi mô
được hiểu là sự gia tăng về doanh thu, sản lượng tiêu thụ, số lượng nhà cung ứng. Nếu
xét theo góc độ vĩ mô thì nó lại được hiểu là gia tăng về giá trị thương mại, gia tăng
tổng mức lưu chuyển hàng hóa trên thị trường Qua đó để biết được với những lợi thế
sẵn có của doanh nghiệp thì sự gia tăng như vậy thì đã hợp lý chưa và có những điều
chỉnh thích hơp. Tuỳ thuộc vào tình hình phát triển kinh tế xã hội của ngành mà quy
mô thương mại cũng có thể tăng hay giảm.

Sự gia tăng về tốc độ: thể hiện thông qua việc sản lượng,doanh thu của năm sau
so với năm trước như thế nào. Nếu tốc độ tăng trưởng dương tức là doanh thu năm sau
cao hơn năm trước và ngược lại, tốc độ tăng trưởng âm nghĩa là doanh thu đang giảm
đi. Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng chỉ là một trong số nhiều chỉ tiêu dùng để đánh giá
tình hình hoạt động của một công ty. Để đánh giá chính xác tình hình của công ty thì
nên dùng thêm nhiều chỉ tiêu khác như tình hình hoạt động chung của nghành, biến
đổi của nền kinh tế, chính sách vĩ mô…
Phát triển thương mại về mặt chất lượng: thể hiện thông qua cơ cấu mặt hàng,
cơ cấu thị trường tiêu thụ của sản phẩm… Phải đánh giá được chất lượng sản phẩm có
ảnh hưởng gì tới số lượng tiêu thụ sản phẩm cũng như doanh thu của công ty như thế
nào, xác định vị trí của sản phẩm của công ty trong lòng khách hàng và so với đối thủ
cạnh tranh. Phát triển thương mại về mặt chất lượng còn được thể hiện thông qua cách
thức sử dụng các nguồn lực thương mại để phát triển thương mại sản phẩm. Số lượng
và chất lượng nguồn lực được sử dụng trong thương mại có ảnh hưởng tới khả năng
cạnh tranh của sản phẩm, của ngành, của doanh nghiệp và của cả nền kinh tế.
Sự phát triển đạt được tính tối ưu và hiệu quả: Hiệu quả phản ánh quan hệ so
sánh giữa kết quả đạt được với chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó. Một phương án
13
kinh doanh sẽ được coi là tối ưu khi nó đạt được hiệu quả cao nhất, tức là chi phí bỏ ra
để đạt kết quả đó là nhỏ nhất. Suy cho cùng, phát triển được coi là tối ưu và hiệu quả
khi nó kết hợp hài hoà giữa các mục tiêu phát triển kinh tế - công bằng xã hội - bảo vệ
môi trường và hướng tới phát triển bền vững, nghĩa là sự phát triển đáp ứng những
nhu cầu của hiện tại mà không gây trở ngại cho việc đáp ứng những nhu cầu của thế
hệ tương lai.
1.3.2 Phát triển thương mại sản phẩm nông sản
Phát triển thương mại mặt hàng nông sản có thể đi theo các hướng hai hướng
chủ yếu đó là phát triển thương mại chiều rộng hoặc phát triển thương mại theo chiều
sâu, hoặc có thể phát triển theo 2 hướng tùy thuộc vào mục tiêu phát triển thương mại
sản phẩm của doanh nghiệp
Phát triển thương mại theo chiều rộng có thể hiểu là gia tăng quy mô của các

hoạt động đó, là dung lượng thị trường, số lượng khách hàng, thị phần chiếm lĩnh trên
thị trường, số lượng hàng hoá. Phát triển thương mại về chiều rộng là những nỗ lực
nhằm gia tăng doanh số bán, tăng số lượng sản phẩm, mở rộng đối tượng khách hàng,
chiếm lĩnh thị trường nhiều hơn.
Phát triển thương mại theo chiều sâu có thể hiểu là chất lượng của phát triển
thương mại. Chiều sâu của phát triển thương mại thể hiện qua 2 tiêu chí đánh giá đó là
tốc độ phát triển và sự chuyển dịch cơ cấu của sản phẩm, từ những sản phẩm thô sang
những sản phẩm tinh, từ những sản phẩm chứa nhiều lao động sang những sản phẩm
chứa hàm lượng công nghệ cao, tốn nhiều chất xám, những sản phẩm đắt tiền, có giá
trị lớn. Phát triển thương mại về chiều sâu là khiến cho tốc độ phát triển nhanh, ổn
định hơn, cơ cấu sản phẩm chuyển dịch theo hướng hợp lý hơn, hiệu quả hơn và
hướng tới phát triển bền vững
1.3.3 Nguyên tắc phát triển thương mại mặt hàng nông sản xuất khẩu
Nhằm giải quyết vấn đề phát triển thương mại mặt hàng nông sản xuất khẩu
chúng ta có thể đứng trên các góc độ sau:
Phát triển thị trường: Thị trường là nhân tố có ảnh hưởng quan trọng chi phố
việc phát triển thương mại mặt hàng nông sản xuất khẩu. Phát triển thị trường mặt
hàng nông sản xuất khẩu là mở rộng đối tượng tiêu thụ sản phẩm. tìm kiếm thêm thị
trường mới để từ đó gia tăng lượng hàng bán ra, thỏa mãn nhu cầu của thị trường. Khi
xem xét kỹ thị trường giúp các nhà quản trị ra quyết định gia tăng quy mô và thay đổi
chất lượng sản phẩm sao cho phù hợp với nhu cầu và những biến đổi của thị trường.
14
Phát triển nguồn hàng: Nguồn cung hàng nông sản là một yếu tố quan trọng để
phát triển thương mại mặt hàng nông sản trên thị trường xuất khẩu. Nguồn cung của
các mặt hàng nông sản chủ yếu nằm ở khu vực nông thôn, điều kiện vật chất kỹ thuật,
canh tác còn hạn chế. Vì vậy phát triển nguồn hàng cho mặt hàng nông sản xuất khẩu
không chỉ là đảm bảo nguồn cung ổn định mà còn cần đầu tư vốn, khoa học, công
nghệ nhằm nâng cao năng suất sản phẩm, chất lượng mặt hàng được đảm bảo.
Tạo ra môi trường thuận lợi cho hoạt động thương mại: Nhà nước ta thông qua
hệ thống luật pháp, các chính sách vĩ mô, xây dựng cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ

thuật thương mại …đã và đang tạo môi trường thuận lợi để các doanh nghiệp kinh
doanh xuất khẩu mặt hàng nông sản. Hệ thống giao thông vận tải, thông tin liên lạc
thông suốt là yếu tố quan trọng góp phần cho việc tổ chức lưu thông sản phẩm ngày
càng dễ dàng và nhanh chóng. Bên cạnh đó, hệ thống các dịch vụ ngân hàng, dịch vụ
tư vấn pháp lý ngày càng chuyên nghiệp hơn, thông thoáng hơn giúp cho các doanh
nghiệp xuất khẩu nông sản có thể thực hiện nghiệp vụ của mình nhanh hơn, tiết kiệm
được chi phí, thời gian, ngoài ra doanh nghiệp có thể quản lý tài chính của mình chặt
chẽ và hiệu quả hơn.
1.3.4 Chính sách về phát triển thương mại mặt hàng nông sản xuất khẩu
Nhóm hàng nông sản là nhóm hàng có lợi thế và năng lực cạnh tranh dài hạn
nhưng giá trị gia tăng còn thấp. Trong chiến lược và chính sách phát triển thương mại
xuất khẩu thì cơ cấu nhóm hàng nông sản đang chuyển dịch theo hướng nâng cao
năng suất, chất lượng và giá trị gia tăng, chuyển dịch cơ cấu hàng hóa xuất khẩu
hướng mạnh vào chế biến sâu, phát triển sản phẩm xuất khẩu có ứng dụng khoa học
công nghệ tiên tiến, ðể phát triển nông sản xuất khẩu bền vững theo hýớng ổn ðịnh,
bền vững và hiệu quả, cần cải tiến tổ chức, thể chế ngành hàng nông sản.
Chính phủ ðang chú trọng việc hỗ trợ và hýớng dẫn các doanh nghiệp mở rộng
thị trýờng xuất khẩu, phối hợp với các ðịa phýõng tổ chức hoạt ðộng xúc tiến thýõng
mại, xây dựng và quản lý chất lýợng nông sản hàng hóa, hýớng dẫn các doanh nghiệp
ðãng ký và bảo vệ thýõng hiệu. Ðặc biệt, tích cực thực hiện kế hoạch hành ðộng về hội
nhập kinh tế quốc tế, thực hiện ðầy ðủ các cam kết quốc tế ðã ký kết, tạo môi trýờng
ðầu tý, kinh doanh bình ðẳng, minh bạch, ổn ðịnh, thông thoáng, có tính cạnh tranh
cao ðể kinh tế Việt Nam sớm ðýợc công nhận là nền kinh tế thị trýờng.
Bên cạnh ðó các ðàm phán về mở cửa thị trýờng và hàng rào kỹ thuật, ðầu tý
dịch vụ liên quan ðến nông sản trong các khuôn khổ Hiệp ðịnh thýõng mại tự do
15
(FTAs) song phýõng và ða phýõng ðể tạo cõ hội cho các mặt hàng này výõn xa hõn
nữa.
Định hướng về cơ cấu thị trường mặt hàng nông sản đến năm 2020: châu Á
chiếm tỷ trọng khoảng 41%, châu Âu khoảng 30%, châu Mỹ khoảng 20%, châu Đại

Dương khoảng 4% và châu Phi khoảng 5%. Do vậy thị trường Châu Âu đóng vai trò
là một thị trường chiến lược trong tỷ trọng xuất khẩu mặt hàng nông sản
1.3.5 Các chỉ tiêu đo lường được sử dụng
Hệ thống chỉ tiêu phản ánh quy mô thương mại xuất khẩu
- Kim ngạch xuất khẩu : Là tổng giá trị xuất khẩu của tất cả hoặc một hàng hóa
xuất khẩu của doanh nghiệp ( hoặc một quốc gia) trong một kỳ nhất định quy đổi đồng
nhất ra một loại đơn vị tiền tệ nhất định. Kim ngạch xuất khẩu càng lớn càng chứng tỏ
hoạt động xuất khẩu phát triển. Thông qua chỉ tiêu kim ngạch có thể so sánh mức độ
phát triển của từng mặt hàng với nhau, cũng như thể hiện được tổng quan hoạt động
xuất khẩu của doanh nghiệp thông qua tổng kim ngạch.
- Sản lượng xuất khẩu: Là chỉ tiêu đánh giá về mặt số lượng các sản phẩm vào
thị trường. Sản lượng xuất khẩu càng lớn càng cho thấy hoạt động xuất khẩu đã thu
được kết quả tốt. Sản lượng xuất khẩu tăng theo thời gian chứng tỏ các biện pháp xuất
khẩu đã đi đúng hướng. Tuy nhiên, chỉ tiêu sản lượng xuất khẩu cho thấy sự thay đổi
của từng mặt hàng mà không thấy được tổng quan hoạt động xuất khẩu của doanh
nghiệp. Doanh nghiệp cần so sánh tỷ lệ tăng sản lượng trong năm thực hiện so với năm
kế hoạch, xem xét so sánh sản lượng xuất khẩu của mình với đối thủ cạnh tranh để có
thể tiến hành xâm nhập vào thị trường tương lai nơi các đối thủ.
Tốc độ gia tăng sản lượng tiêu thụ = (Q
n
– Q
n-1
).100/ Q
n
Trong đó: Q
n
là sản lượng tiêu thụ của năm n
Q
n-1
là sản lượng của năm trước đó

Hệ thống chỉ tiêu phản ánh chất lượng thương mại xuất khẩu
Phản ánh tăng trưởng của mặt hàng so với toàn ngành, với cả nước; cơ cấu
doanh nghiệp xuất khẩu, cơ cấu mặt hàng, cơ cấu thị trường.
- Tốc độ tăng trưởng hàng năm của mặt hàng xuất khẩu: Được tính bằng cách
lấy chênh lệch giữa kim ngạch xuất khẩu năm hiện tại so với kim ngạch xuất khẩu năm
trước chia cho kim ngạch xuất khẩu năm trước. Tốc độ tăng trưởng được thể hiện bằng
đơn vị %.
16
G = ( -1)*100%
Trong đó G: tốc độ tăng trưởng
doanh thu năm t
: doanh thu nãm t-1
Tốc độ tăng trưởng bình quân: Chỉ tiêu này dùng để tính tốc độ tăng trưởng
trung bình cho cả một giai đoạn.
- Cơ cấu mặt hàng (sự chuyển dịch cơ cấu mặt hàng, chủng loại theo thị trường
xuất khẩu, phương thức xuất khẩu): Cơ cấu xuất khẩu theo mặt hàng của doanh nghiệp
biến đổi theo hướng tăng tỷ trọng các mặt hàng mới thay thế các mặt hàng đã bão hòa
trên thị trường, tăng tỷ trọng mặt hàng truyền thống, mặt hàng chính so với các mặt
hàng khác.
Hệ thống chỉ tiêu về hiệu quả
- Hiệu quả thương mại phản ánh quan hệ so sánh giữa kết quả đạt được với chi
phí bỏ ra của quá trình trao đổi hàng hoá, dịch vụ trên thị trường.
Công thức chung biểu hiện hiệu quả thương mại: H= K/C
Trong đó: H là hiệu quả
K là kết quả đạt được
C là chi phí sử dụng nguồn lực
Thực chất, hiệu quả thương mại là trình độ sử dụng các nguồn lực thương mại
nhằm đạt tới những mục tiêu đã xác định. Có thể hiểu nguồn lực là các phương tiện
còn kết quả chính là các mục tiêu, cái đích cần đạt tới của hoạt động thương mại”[2].
Hiệu quả thương mại bao gồm hiệu quả kinh tế, hiệu quả xã hội và hiệu quả môi

trường.
- Hiệu quả kinh tế là một bộ phận quan trọng, cơ bản nhất của hiệu quả thương
mại. Trên tầm vĩ mô, nó phản ánh quan hệ so sánh giữa kết quả kinh tế đạt được với
các chi phí nguồn lực tài chính, lao động và các yếu tố vật chất kỹ thuật khác trong
quá trình tổ chức trao đổi hàng hóa cung cấp dịch vụ trên thị trường. Các chỉ tiêu biểu
hiện hiệu quả kinh tế của thương mại có thể bao gồm lưu chuyển hàng hóa bán lẻ/ vốn
lưu thông, kim ngạch xuất khẩu/ chi phí xuất khẩu, kim ngạch xuất nhập khẩu/thu
nhập quốc dân( độ mở của nền kinh tế), thu nhập quốc dân sản xuất/ thu nhập quốc
17
dân sử dụng…Trên tầm doanh nghiệp,các chỉ tiêu biểu hiện hiệu quả kinh doanh bao
gồm:
Đóng góp của ngành vào GDP: phản ánh tỷ trọng đóng góp của ngành vào tổng
thu nhập quốc dân. Đó là giá trị doanh thu của ngành so với tổng thu nhập quốc dân.
Từ đó có thể đánh giá được tầm quan trọng của ngành trong nền kinh tế quốc dân.Sự
đóng góp này càng lớn càng chứng tỏ ngành có vai trò càng quan trọng đối với nền
kinh tế và ngược lại
- Hiệu quả xã hội phản ánh kết quả đạt được theo mục tiêu hay chính sách xã
hội so với các chi phí nguồn lực bỏ ra để đạt được mục tiêu đó. Hiệu quả xã hội của
thương mại thể hiện ở tương quan giữa chi phí, nguồn lực bỏ ra nhằm thoả mãn nhu
cầu của xã hội về hàng hoá dịch vụ, đảm bảo chất lượng dịch vụ, đảm bảo chất lượng
phục vụ và các giá trị văn hoá, nhân văn, góp phần nâng cao chất lượng lao động, chất
lượng cuộc sống con người, giúp xoá đói giảm nghèo. Hiệu quả xã hội còn thể hịên
thông qua việc gia tăng việc làm thu hút lao động và hạn chế gia tăng thất nghiệp, qua
đó giúp hạn chế gia tăng các tệ nạn xã hội, ổn định cuộc sống cho người dân.
- Hiệu quả môi trường phản ánh các kết quả đạt được so với các nguồn tài
nguyên đã sử dụng. Nói cách khác hiệu quả môi trường chính là trình độ sử dụng các
nguồn tài nguyên thiên nhiên sẵn có. Sử dụng các nguồn tài nguyên thiên nhiên hợp lý
là việc sử dụng nguồn tài nguyên sao cho có hiệu quả cao nhất mà không để ảnh
hưởng đến việc sử dụng tài nguyên của thế hệ sau này. Hiệu quả môi trường còn thế
hiện thông qua việc bảo vệ môi trường sinh thái, chống ô nhiễm môi trường.

18
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN THƯƠNG MẠI HÀNG NÔNG
SẢN TRÊN THỊ TRƯỜNG CHÂU ÂU CỦA CHI NHÁNH XUẤT NHẬP KHẨU
PHÍA BẮC – TỔNG CÔNG TY THƯƠNG MẠI HÀ NỘI
2.1 Tổng quan tình hình và ảnh hưởng nhân tố môi trường đến phát triển thương
mại mặt hàng nông sản trên thị trường Châu Âu
2.1.1 Tổng quan tình hình phát triển thương mại mặt hàng nông sản trên thị
trường Châu Âu của Việt Nam hiện nay
Trong những năm qua Châu Âu là một thị trường tiêu thụ lớn về các mặt hàng
nông sản của nước ta. Bằng những cố gắng phát triển thương mại mặt hàng nông sản
để nâng cao kim ngạch xuất khẩu nông sản vào một thị trường khó tính và có tính cạnh
tranh cao như ở Châu Âu, mặt hàng nông sản của Việt Nam đang ngày càng thể hiện
được vị thế của mình trên thị trường này. Hiện nay kim ngạch xuất khẩu nông sản sang
thị trường Châu Âu của Việt Nam trung bình mỗi năm đạt trên 1.1 tỷ USD đang
chiếm trên 25% trên tổng kim ngạch xuất khẩu nông sản.
Hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam sang Châu Âu là cà phê, cao su, gạo
chè, gia vị và một số rau quả. Do đã và đang được tập trung thành các khu vực sản
xuất và chế biến lớn, mang tính công nghiệp nên các mặt hàng cao su, cà phê và chè
xuất khẩu sang Châu Âu khá ổn định với tốc độ tăng trưởng cao. Giá trị cà phê, chè và
các loại gia vị Việt Nam xuất sang Châu Âu qua các năm đều tăng.
Nhìn chung tuy giá cả có biến động theo từng năm nhưng tổng giá trị của các
mặt hàng này tăng và năm sau cao hơn năm trước. Riêng mặt hàng cà phê, do giá cả
trên thị trường thế giới từ năm 2008 giảm liên tục nên kim ngạch xuất khẩu sang Châu
Âu của Việt Nam tăng chậm. Trong khi đó gạo cũng là mặt hàng xuất khẩu sang Châu
Âu nhưng chưa được nhiều lắm vì mức thuế nhập khẩu vào thị trường này rất cao
( khoảng 12%) và nhập khẩu chủ yếu để tái suất sang nước thứ 3. Rau quả là mặt hàng
mới thâm nhập vào thị trường Châu Âu vài năm gần đây nhưng kim ngạch sản phẩm
tăng trưởng tương đối nhanh. Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu rau quả sang thị trường
này chiếm khoảng 18% tổng kim ngạch xuất khẩu rau quả của Việt Nam.
Kim ngạch xuất khẩu mặt hàng nông sản của Việt Nam sang Châu Âu trong

giai đoạn từ 2007 – 2011 đang có sự tăng trưởng nhanh và hứa hẹn còn phát triển hơn
nữa. Tổng kim ngạch xuất khẩu nông sản của nước ta vào thị trường Châu Âu trong
giai đoạn này đã đạt tới con số đáng khích lệ là 5.6 tỷ USD. Do đo góp phần tăng tổng
19
kim ngạch xuất khẩu mặt hàng nông sản của cả nước, tạo đà cho sự phát triển thương
mại mặt hàng nông sản trên thị trường thế giới.
Quy mô xuất khẩu của Việt Nam sang Châu Âu còn quá nhỏ bé so với tiềm
năng kinh tế của Việt Nam và nhu cầu nhập khẩu của Châu Âu. Tỷ trọng kim ngạch
xuất khẩu nông sản của Việt Nam sang Châu Âu trong tổng kim ngạch nhập khẩu
nông sản của thị trường này là không đáng kể chừng 1.67 %. Kết quả này được coi là
khiêm tốn, không xứng với tiềm năng phát triển thương mại mặt hàng nông sản trên
thị trường này mặc dù hoạt động xuất khẩu nông sản của Việt Nam sang thị trường
Châu Âu còn phụ thuộc nhiều vào thị trường này.
Như vậy về kim ngạch xuất khẩu trong vài năm gần đây, ta có thể nhận thấy
tình hình xuất khẩu mặt hàng nông sản của Việt Nam sang thị trường Châu Âu đang
dần có những kết quả khả quan, các sản phẩm nông sản của Việt Nam đang có vị thế
trên thị trường Châu Âu, nó thể hiện ở kim ngạch xuất khẩu liên tục tăng trong các
năm qua. Tuy có sự tăng trưởng về kim ngạch xuất khẩu nhưng chất lượng tăng trưởng
mặt hàng nông sản Việt Nam còn thấp và không bền vững do vậy vẫn cần các giải
pháp thúc đẩy phát triển thương mại mặt hàng này.
2.1.2 Các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển thương mại mặt hàng nông sản trên thị
trường châu Âu
Chính sách của nhà nước
Các chính sách vĩ mô của nhà nước được xem như định hướng phát triển mặt
hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam. Đồng thời nông sản cũng được xem như là
mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam nên được nhà nước chú trọng. Do đó các
chính sách của nhà nước có ảnh hưởng nhất định đến phát triển thương mại mặt hàng
nông sản nhằm phục vụ xuất khẩu. Thực hiện nghị quyết 01NT/TW của bộ Chính trị
trong Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X với mục tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế
theo hướng xuất khẩu nhằm phát triển mạnh mẽ kinh tế, tạo môi trường thông thoáng

cho các hoạt động phát triển thương mại mặt hàng nông sản xuất khẩu, chủ động hội
nhập là động lực mạnh mẽ cho sự phát triển của mặt hàng nông sản phục vụ xuất khẩu.
Chính sách về xuất nhập khẩu: Chính sách về xuất khẩu có tác động trực tiếp
đến các doanh nghiệp xuất khẩu mặt hàng nông sản. Bởi vì sản phẩm nông sản là sản
phẩm xuất khẩu ra nước ngoài, có liên quan nhiều đến thuế xuất nhập khẩu và chính
sách tỷ giá. Trong đó chính sách tỷ giá là lĩnh vực tác động trực tiếp và nhạy cảm đến
hoạt động phát triển thương mại mặt hàng nông sản xuất khẩu của các doanh nghiệp
20
kinh doanh xuất khẩu nông sản nói chung và Chi nhánh nói riêng. Từ năm 2008, trước
tình hình suy thoái kinh tế quốc tế ảnh hưởng mạnh đến Việt Nam, các dòng vốn vào
Việt Nam bị hạn chế, ngân hàng Nhà nước đã chủ động tỷ giá liên ngân hàng để tăng
tính thanh khoản trên thị trường ngoại tệ. Tuy nhiên, hiện nay thì việc thanh toán bằng
ngoại tệ sẽ gặp khó khăn hơn, vì trước đó khi lãi vay ngân hàng bằng VND tăng cao,
nên Chi nhánh đã chuyển sang vay bằng USD. Điều này dẫn tới việc các Chi nhánh sẽ
phải tìm mua USD ngoài thị trường tự do để trả nợ cho ngân hàng khi đáo hạn. Do đó
vô hình chung là cho chi phí tăng lên, dẫn đến lợi nhuận giảm, giảm hiệu quả về xuất
khẩu của Chi nhánh nói riêng và các doanh nghiệp xuất khẩu trên cả nước.
Chính trị pháp luật có tác động rất lớn đến hoạt động kinh doanh của các doanh
nghiệp. Môi trường chính trị trong nước và nước ngoài ổn định là điều kiện thuận lợi
để cho các doanh nghiệp tiến hành các hoạt động kinh doanh. Các yếu tố chính trị có
ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động xuất khẩu: sự bất ổn về chính trị sẽ làm chậm lại sự
tăng trưởng, kìm hãm sự phát triển của khoa học công nghệ gây khó khăn trong hoạt
động kinh doanh. Ngược lại nếu chính trị ổn định thì hoạt động kinh doanh sẽ phát
triển mạnh. Hoạt động trong môi trường chính trị ổn định của Việt Nam, các doanh
nghiệp có điều kiện rất thuận lợi để phát triển thương mại các mặt hàng của mình.
Các yếu tố thuộc về thị trường nhập khẩu nông sản Châu Âu
Đối với các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu thì văn hóa – xã hội tại thị
trường nhập khẩu là rất quan trọng. Các yếu tố này có ảnh hưởng trực tiếp đến phát
triển thương mại sản phẩm trên thị trường đó. Các doanh nghiệp khi muốn mở rộng
quy mô và chất lượng sản phẩm xuất khẩu thì cần phải tìm hiểu rõ về nhu cầu, thị yếu

của khách hàng trên thị trường đó. Từ đó, doanh nghiệp mới có thể đưa ra được các
sản phẩm phù hợp với thị trường. Thị trường Châu Âu có yêu cầu lớn, đa dạng và
phong phú về mặt hàng nông sản. Vì thế các doanh nghiệp khi xuất khẩu vào thị
trường này luôn không ngừng đổi mới các mặt hàng nông sản, quan tâm hơn nữa đến
chất lượng, mẫu mã của mặt hàng này để đáp ứng yêu cầu của thị trường.
Chúng ta có thể thấy rằng thị trường nông sản Châu Âu ngày càng sôi động và
nhu cầu về mặt hàng nông sản ngày một cao. Việc đánh giá thị trường xuất khẩu nông
sản có tác động trực tiếp đến phát triển thương mại mặt hàng nông sản trên thị trường
này. Hiện nay, nguồn cung nông sản là rất lớn từ Việt Nam sang thị trường này làm
cho thị trường trở lên sôi động hơn mặc dù có sự ảnh hưởng về giá cả các mặt hàng
nông sản trên thị trường này. Xét về quy mô thị trường thì đây là một thị trường lớn,
21
nhiều tiềm năng với lượng dân số đông, mức tiêu thụ sản phẩm nông sản tương đối
lớn. Xét về sở thích và thị hiếu của người tiêu dùng thì cũng là một trong những
nguyên nhân cản trở phát triển thương mại mặt hàng nông sản trên thị trường này. Sở
dĩ như vậy chúng ta có thể thấy rằng Châu Âu là một thị trường khó tính, người tiêu
dùng đặc biệt kỹ tính trong lựa chọn sản phẩm của mình. Vì vậy mà không ít doanh
nghiệp xuất khẩu nông sản gặp nhiều khó khăn, mặc dù mức tiêu thụ mặt hàng nông
sản trên thị trường là tương đối lớn và là thị trường tiềm năng cho các doanh nghiệp
xuất khẩu nông sản tăng kim ngạch xuất khẩu vào thị trường này. Để thâm nhập và
khai thác thị trường này thì các doanh nghiệp xuất khẩu nông sản nói chung và Chi
nhánh nói riêng cần tạo cho mình thương hiệu riêng, xem xét tiêu chuẩn chất lượng
nông sản trên thị trường này nhằm xâm nhập sâu hơn nữa vào thị trường tiềm năng
này.
Ngày này trong xu thế hội nhập diễn ra ngày một mạnh mẽ thì việc bảo hộ sản
xuất trong khu vực là một xu thế tất yếu của các lãnh thổ, khu vực trên toàn thế giới.
Châu Âu cũng đã áp dụng các công cụ này khi mặt hàng nông sản các nước khác xuất
khẩu vào thị trường này trong đó có Việt Nam. Công cụ này ảnh thưởng khá lớn đến
phát triển thương mại mặt hàng nông sản trên thị trường. EU duy trì hạn ngạch áp
dụng thuế quan đối với một số sản phẩm, giảm dần giá trị và số lượng các sản phẩm

được trợ cấp xuất khẩu. Hiện nay, các nước thành viên EU áp dụng một biểu thuế quan
chung đối với hàng hóa xuất nhập khẩu. Cụ thể, với hàng nhập khẩu, mức thuế trung
bình đánh vào hàng nông sản là 18%. Những đặc điểm về chính sách thương mại của
Châu Âu với mặt hàng nông sản nhập khẩu phần nào sẽ gây những khó khăn nhất định
trong xuất khẩu nông sản vào thị trường này.
Nhân tố cạnh tranh
Đây là nhân tố có ý nghĩa quyết định đến khả năng phát triển thương mại mạt
hàng nông sản của doanh nghiệp. Năng lực cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu của
doanh nghiệp chính là khả năng đáp ứng nhu cầu của thị trường. Sự đáp ứng này được
thể hiện trên các mặt như chất lượng, giá cả và cơ cấu sản phẩm Năng lực cạnh tranh
của mặt hàng nông sản của nước ta tại Châu Âu đã được nâng lên trong thời gian gần
đây. Tuy nhiên, các sản phẩm của chúng ta vẫn có những hạn chế như: Chất lượng
hàng nông sản còn chưa được đảm bảo, không đồng đều, nhiều sản phẩm có lưu lượng
thuốc trừ sâu quá mức cho phép trên rau quả Giá cả các mặt hàng nông sản còn chênh
lệch so với thế giới cũng làm giảm sức cạnh tranh của Việt Nam trên thị trường . Đơn
22
cử như với cà phê, chúng ta đang dẫn đầu thế giới về cà phê robusta, nhưng hơn 70%
lượng cà phê bị trả về trên thị trường xuất khẩu là hàng Việt Nam. Với mặt hàng chè,
mỗi năm chúng ta xuất khẩu hơn 100.000 tấn, giá chè trung bình của thế giới năm
2009 là 2,43 USD/kg, trong khi của ta chỉ đạt 1,23 USD/kg. Từ năm 1998 đến nay, giá
chè của thế giới tăng 18%, còn giá chè của Việt Nam lại giảm 20%.Đó chỉ là một vài
ví dụ về khả năng cạnh tranh của hàng nông sản Việt Nam trên thị trường EU. Quả
thực đối mặt với hàng nông sản của các nước khác trên thế giới ,chúng ta đều thua
kém về chất lượng và mẫu mã.
Ảnh hưởng về nguồn hàng nông sản xuất khẩu
Hoạt động thu mua nông sản là một qui trình bao gồm: tìm kiếm nhà cung cấp, tổ
chức kho tàng bến bãi, vận chuyển và bảo quản hàng chuẩn bị cho xuất khẩu. Trong
giao dịch xuất khẩu, ngoài việc đảm bảo chất lượng còn phải đảm bảo tiến độ thu mua
để kịp giao hàng đúng thời hạn. Sự chậm trễ trong giao hàng sẽ khiến nhà xuất khẩu
không chỉ mất uy tín mà còn có thể phải đền bù thiệt hại rất lớn cho bên đối tác, vì vậy

cần phải xem xét kĩ khả năng thu mua, tập trung hàng trước khi kí kết một hợp đồng
xuất khẩu nông sản.
Bên cạnh đó, mặt hàng nông sản còn có rất nhiều đặc điểm riêng ảnh hưởng lớn
đến quá trình thu mua nguồn hàng, cũng như là chất lượng của sản phẩm. Đơn cử như
sự ảnh hưởng của thời tiết không thuận lợi có thể dẫn đến mất mùa, không đảm bảo
được số lượng sản phẩm hay làm giảm sút chất lượng của sản phẩm. Vì vậy nguồn
hàng nông sản có ổn định về chất lượng và số lượng sản phẩm hay không có ảnh
hưởng lớn đến việc cung cấp sản phẩm đảm bảo theo các hợp đồng đã được ký kết.
Nguồn lực của doanh nghiệp
Nguồn nhân lực là yếu tố vô cùng quan trọng, có thể quyết định sự thành bại
của doanh nghiệp trong sản xuất và kinh doanh. Đối với doanh nghiệp xuất khẩu nông
sản không chỉ cần những nhân viên giỏi về các nghiệp vụ xuất khẩu mà còn cần những
người có kỹ năng, chuyên môn về khả năng phân tích thị trường, tìm kếm và đàm phán
với khách hàng. Tuy nhiên nguồn nhân lực có chuyên môn, yêu cầu nghiệp vụ đặt ra
như thế còn rất thiếu đối với các doanh nghiệp xuất khẩu nông sản nói chung và Chi
nhánh xuất nhập khẩu Phía Bắc nói riêng. Xét về nhân viên có trình độ chuyên môn
nghiệp vụ được đào tạo thì còn hạn chế, điều này ảnh hưởng tới năng lực và hiệu quả
trong việc đảm nhận các công việc của doanh nghiệp.
23
Tiềm lực tài chính – nguồn vốn thấy sức mạnh của doanh nghiệp thông qua
khối lượng vốn, khả năng phân phối quản lý có hiệu quả nguồn vốn, là bước đệm đầu
tiên để doanh nghiệp có thể sử dụng, đầu tư sản xuất kinh doanh, đảm bảo tạo ra các
sản phẩm phù hợp với mục tiêu của khách hàng. Các doanh nghiệp xuất khẩu nông sản
của nước ta thường có quy mô nhỏ, khả năng huy động vốn còn hạn chế. Mà việc phát
triển thương mại mặt hàng nông sản trên thị trường Châu Âu thường đòi hỏi nguồn
vốn khá lớn, do đó khi muốn gia tăng quy mô thương mại thì các doanh nghiệp thường
gặp khó khăn, không thể đạt hiệu quả cao như mong muốn.
Cơ sở vật chất kỹ thuật: Hiện nay, các doanh nghiệp của chúng ta cũng đang rất
nỗ lực để trang bị những thiết bị máy móc sản xuất hiện đại hơn, những nhà kho bảo
quản các sản phẩm nông sản với chất lượng cao đảm bảo chất lượng và số lượng hàng

xuất khẩu. Tuy nhiên, nhìn chung việc đổi mới công nghệ ở các cơ sở sản xuất chưa
được thực hiện một cách hệ thống, chưa cơ bản. Năng lực nghiên cứu ứng dụng tiến
bộ khoa học kỹ thuật của doanh nghiệp còn kém. Điều này làm hạn chế sự phát triển
sản xuất nông nghiệp, đồng thời làm ảnh hưởng đến sự phát triển thương mại mặt hàng
nông sản xuất khẩu cả về quy mô xuất khẩu lẫn chất lượng của sản phẩm xuất khẩu.
2.2 Phân tích thực trạng của phát triển thương mại mặt hàng nông sản trên thị
trường Châu Âu của chi nhánh xuất nhập khẩu phía Bắc – Tổng công ty thương
mại Hà Nội
2.2.1 Phân tích về quy mô thương mại mặt hàng nông sản của chi nhánh xuất nhập
khẩu phía Bắc trên thị trường Châu Âu
Bảng 2.1: Tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu mặt hàng nông sản của chi nhánh xuất
nhập khẩu phía Bắc trên thị trường Châu Âu giai đoạn 2007-2011
(Đơn vị: Triệu USD / %)
Chỉ tiêu/ Nãm 2007 2008 2009 2010 2011
Tổng kim ngạch XNK 3.57 3.96 4.06 4.25 4.34
Kim ngạch XNK nông sản 2.57 2.97 3.22 3.46 3.55
Tỷ trọng XNK nông sản 72.16 75.04 79.26 81.31 81.70
(Nguồn: Phòng hành chính tổng hợp )
Qua số liệu bảng trên ta có thể quan sát được giai đoạn 2007-2011 Tổng kim
ngạch xuất khẩu hàng nông sản của Chi nhánh luôn tăng. Tốc độ tăng trưởng giữa các
năm là tương đối đồng đều, chúng tỏ khi có nhiều sự biến động trên thị trường thì
Châu Âu vẫn là môt thị trường xuất khẩu nông sản có tăng trưởng và ổn định giữa các
24
năm. Những yếu tố khách quan như sự cạnh tranh bởi các đối thủ cạnh tranh đã có trên
thị trường cả về số lượng, chất lượng sản phẩm tới thị phần chiếm lĩnh được là ổn
đinh, Chi nhánh đã vượt qua được một số khó khăn khi gia nhập thị trường từ đó mới
tạo nên một thị trường ổn định và tăng trưởng.
Năm 2007 Việt Nam chính thức trở thành thành viên của WTO, điều này có ý
nghĩa quan trọng đối với Chi nhánh. Hoạt động xuất khẩu của chi nhánh trên thị
trường Châu Âu cũng đã có nhiều kết quả đáng khích lệ,thị sản phẩm nông sản được

đưa đến nhiều thị trường hơn nữa. Điều này mở ra nhiều cơ hội cho xuất khẩu nông
sản của Chi nhánh cũng như của cả nước. Doanh thu các năm đều tăng đặc biệt là kể
từ năm 2007.
Trong năm 2010- 2011 mặc dù nền kinh tế có nhiều biến động đặc biệt là cuộc
khủng hoảng nợ công trên toàn bộ thị trường Châu Âu, tuy nhiên kết quả kinh doanh
nông sản 2 năm gần đây vẫn duy trì được mức tăng trưởng đáng kể, đây chính là một
dấu hiệu khả quan cho sự phát triển thương mại mặt hàng nông sản trên thị trường
Châu Âu. Nguyên nhân chính cũng do các hợp đồng xuất khẩu nông sản của Chi
nhánh được ký hợp đồng từ trước, uy tín làm ăn của Chi nhánh nên khi xảy ra các cuộc
khủng hoảng kinh tế thì các hợp đồng xuất khẩu nông sản của Chi nhánh vẫn được
thực hiện.
Bảng 2.2 : Sản lượng xuất khẩu nông sản sang thị trường Châu Âu của Chi nhánh
xuất nhập khẩu phía Bắc giai đoạn 2007 – 2011
(Đơn vị: Tấn / %)
Chỉ tiêu/ Nãm 2007 2008 2009 2010 2011
Sản lýợng xuất khẩu ( tấn) 636 680 815 877 912
Tốc ðộ gia tãng sản lýợng (%) 6.47 16.56 7.07 3.84
(Nguồn : Phòng hành chính tổng hợp)
Sản lượng xuất khẩu nông sản ngày càng lớn cho thấy hoạt động xuất khẩu của
chi nhánh đang thu được những kết quả tốt, tuy nhiên sản lượng xuất khẩu chỉ cho ta
thấy được số tấn sản phẩm nông sản mà Chi nhánh đã thực hiện xuất khẩu không thể
cho chúng ta thấy được sự tăng trưởng thật sự về mặt chất. Tốc độ gia tăng sản lượng
xuất khẩu của Chi nhánh đang có dấu hiệu chậm lại do những ảnh hưởng về năng lực
cạnh tranh cũng như chất lượng sản phẩm. Tốc độ tăng trưởng sản lượng mạnh nhất là
năm 2009 với 16.56% đạt sản lượng 815 tấn, tăng trưởng có thể nói là vượt bậc so với
các giai đoạn còn lại năm 2008 tốc độ gia tăng sản lượng là 6.47 % đạt 680 tấn, gia
tăng không đáng kể so với năm 2007. Năm 2010 tốc độ gia tăng sản lượng nông sản
25

×