Tải bản đầy đủ (.doc) (71 trang)

công tác huy động vốn- thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn khu vực i - tỉnh thái bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (486.45 KB, 71 trang )

Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Tài chính – Ngân hàng
LỜI NÓI ĐẦU
Vốn là điều kiện tiền đề cho mọi hoạt động sản xuất nói chung. Ở Việt
Nam hiện nay vốn đang trở thành vấn đề cấp thiết cho quá trình tăng trưởng và
phát triển của nền kinh tế đất nước. Tuy nhiên để huy động được khối lượng vốn
lớn từ nền kinh tế trong nước là một thách thức lớn đối với nền kinh tế Việt Nam
nói chung và đối với hệ thống Ngân hàng thương mại nói riêng.
Trong điều kiện thị trường chứng khoán phát triển chưa tương xứng với
nhu cầu rất lớn của nền kinh tế thì quá trình nhìn nhận và điều chuyển vốn trên
thị trường chủ yếu thực hiện hệ thống Ngân hàng thương mại- nơi tích tụ, tập
trung, khơi dậy và động viên các nguồn lực cho sự phát nền kinh tế đất nước và
trên thực tế ở nước ta có hơn 80% lượng vốn trong nền kinh tế là do Ngân hàng
cung cấp.
Ngân hàng với tư cách là một trung gian tài chính hoạt động trên thị
trường, hoạt động theo nguyên tắc đi vay để cho vay cần phải nỗ lực để thu hút
vốn phục vụ cho nền kinh tế. Các ngành kinh tế và nhân dân hiện nay đang đòi
hỏi ở ngành Ngân hàng là phải góp phần làm thay đổi luồng chảy cuả vốn hướng
các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi vào các dự án đầu tư phát triển sản xuất kinh
doanh, cải thiện đời sống.
Nguồn vốn trong kinh doanh của Ngân hàng có vai trò đặc biệt quan
trọng, nó là cơ sở cho công tác tín dụng. Muốn mở rộng việc cho vay, phát triển
sản xuất kinh doanh không thể trông chờ vào nguồn ngân sách như ở thời kì bao
cấp mà Ngân hàng phải tổ chức huy động từ nền kinh tế để làm nguồn vốn tín
dụng, nâng cao khả năng huy động vốn, hoàn thiện thêm những hình thức huy
động vốn cho Ngân hàng trong tương lai.
Vì vậy vấn đề đặt ra cho các Ngân hàng thương mại hiện nay là: làm thế
nào để tìm ra giải pháp tối ưu nhằm khai thác triệt để nguồn vốn nhàn rỗi nằm
Nguyễn Thị Toàn NHD-CĐ26
1
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Tài chính – Ngân hàng
trong dân cư và các thành phần kinh tế phục vụ cho tiến trình Công nghiệp hóa-


Hiện đại hóa đất nước.
Để làm rõ vấn đề này em xin viết chuyên đề với đề tài: “Công tác huy
động vốn- thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả tại Ngân hàng
Nông Nghiệp và Phát Triển nông thôn Khu vực I - Tỉnh Thái Bình”.
Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là xem xét một cách tổng quát và cí hệ
thống thực trạng huy động vốn của Chi nhánh NHNo-KVI Tỉnh Thái Bình trong
diễn biến của nền kinh tế hiện nay. Trên cơ sở đó đưa ra các giải pháp nhằm
nâng cao hiệu quả huy động vốn tại Ngân hàng.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đề tài lấy hoạt động huy động vốn của NHNo-KVI Tỉnh Thái Bình trong
những năm từ 2009 đến 2011 làm đối tượng nghiên cứu.
Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, Chuyên đề đã sử dụng các phương pháp
nghiên cứu: Duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin để
nghiên cứu phần lý thuyết và thực tiễn. Kết hợp với phương pháp điều tra khảo
sát, phân tích tổng hợp, thống kê để đánh giá tính hình thực tế
Kết cấu chuyên đề gồm có 3 chương:
Chương I: Các vấn đề cơ bản về huy động vốn của NHTM
Chương II: Thực trạng huy động vốn tại NHNo- KVI Tỉnh Thái Bình
Chương III: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả huy động vốn tại NHNo-
KVI Tỉnh Thái Bình.
Nguyễn Thị Toàn NHD-CĐ26
2
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Tài chính – Ngân hàng
CHƯƠNG I: CÁC VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HUY ĐỘNG VỐN
CỦA NHTM
1.1. Huy động vốn tại NHTM.
1.1.1. Đặc điểm của nguồn vốn huy động.
Nguồn vốn huy động của ngân hàng có những đặc điểm nổi bật sau:

- Vốn huy động là nguồn vốn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn
khoảng 70- 80%, là kênh cung cấp vốn chủ yếu cho các ngân hàng hoạt động.
- Bản chất của vốn huy động là tài sản của khách hàng, ngân hàng chỉ có
quyền sử dụng và phải hoàn trả lại cho khách hàng cả gốc và lãi khi đến hạn
thanh toán hoặc khi khách hàng có nhu cầu rút vốn để chi trả trước hạn. Với thời
hạn hoàn trả có thể là không cố định nên ngân hàng không thể sử dụng toàn bộ
số tiền gửi mà phải dự trữ với một tỷ lệ thích hợp để đảm bảo khả năng thanh
toán. Ngoài ra vốn huy động là loại vốn phải trích dự trữ bắt buộc nên chi phí sử
dụng nguồn vốn này thường cao hơn các nguồn vốn khác
- Nguồn vốn này đặc biệt nhạy cảm với những biến động của nền kinh tế
như lăi suất, tỷ giá, thu nhập, chu kỳ kinh tế.
- Sự thay đổi nguồn vốn huy động ngắn hạn sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới
cung cầu thanh khoản và khả năng thanh khoản của ngân hàng
1.1.2. Vai trò của vốn huy động.
Vốn huy động là nguồn chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng nguồn vốn của
ngân hàng. Nó có vai trò rất quan trọng đối với các hoạt động kinh doanh của
NHTM. Nguồn vốn huy động dồi dào giúp ngân hàng đa dạng hóa các hoạt động
kinh doanh nhằm phân tán rủi ro và thu được lợi nhuận cao vì mục tiêu an toàn
và hiệu quả. Vậy vốn là cơ sở để ngân hàng tạo thế chủ động trong kinh doanh.
Thứ nhất, Vốn huy động là cơ sở để ngân hàng tiến hành hoạt động kinh
doanh. Đối với bất kỳ doanh nghiệp nào, muốn hoạt động kinh doanh được thì
Nguyễn Thị Toàn NHD-CĐ26
3
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Tài chính – Ngân hàng
phải có vốn, vì vốn phản ánh năng lực kinh doanh. Điều này thể hiện ở vốn tự
có, vốn huy động và vốn đi vay của ngân hàng. Nếu vốn tự có giữ vai trò quan
trọng trong việc thành lập thì sau khi đi vào hoạt động, vốn huy động quyết định
tới quy mô đầu tư, cho vay nên sẽ ảnh hưởng tới thu nhập của ngân hàng.
Vậy, nếu ngân hàng không có vốn thì không thể tiến hành hoạt động kinh
doanh. Bởi vì, với đặc trưng của hoạt động ngân hàng, vốn không chỉ là phương

tiện kinh doanh mà còn là đối tượng kinh doanh chủ yếu. Trên thực tế, ngân
hàng nào có khối lượng vốn lớn thì ngân hàng đó có thế mạnh cạnh tranh trong
kinh doanh.
Thứ hai, vốn huy động quyết định quy mô tín dụng và các hoạt động kinh
doanh khác của NHTM. Vốn huy động quyết định việc mở rộng hay thu hẹp
khối lượng tín dụng của ngân hàng. Thông thường, nếu so với các ngân hàng lớn
thì các ngân hàng nhỏ có các khoản mục đầu tư cho vay kém đa dạng hơn, phạm
vi và khối lượng cho vay cũng nhỏ hơn. Trong khi các ngân hàng lớn có thể mở
rộng phạm vi cho vay ra trong vùng, trong cả nước và thậm chí ra thị trường
quốc tế thì các ngân hàng nhỏ lại bị giới hạn trong phạm vi hẹp, chủ yếu là các
hợp đồng nhỏ lẻ. Hơn nữa do khả năng về huy động vốn hạn hẹp nên các ngân
hàng này không phản ứng nhạy bén được với sự biến động của lãi suất nên đã
ảnh hưởng đến khả năng thu hút vốn từ các tầng lớp dân cư và các tầng lớp kinh
tế. Nếu khả năng vốn dồi dào thì chắc chắn ngân hàng sẽ có đủ điều kiện mở
rộng thị trường tín dụng và các dịch vụ ngân hàng.
Thứ ba, vốn quyết định khả năng thanh toán và đảm bảo uy tín của ngân
hàng trên thương trường. Các ngân hàng lớn trên thế giới là các ngân hàng có uy
tín, luôn được ca ngợi và nể trọng. Điều kiện đầu tiên để xây dựng được uy tín
của ngân hàng chính là vốn của ngân hàng. Trong nền kinh tế bất ổn định hiện
nay, khả năng thanh toán luôn được các ngân hàng ưu tiên hàng đầu để được như
vậy thì các ngân hàng luôn tìm cách huy động được nhiều vốn hơn.
Nguyễn Thị Toàn NHD-CĐ26
4
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Tài chính – Ngân hàng
Thứ tư, vốn quyết định năng lực cạnh tranh của ngân hàng. Trong thời đại
kinh tế đang cạnh tranh khốc liệt như hiện nay, vốn là điều kiện để các ngân
hàng tham gia cạnh tranh. Nó giúp cho các ngân hàng mở rộng quy mô hoạt
động, tăng cường quan hệ với các đối tác. Đồng thời nó lôi kéo khách hàng mới,
giữ chân các khách hàng truyền thống. Doanh số của ngân hàng tăng lên đồng
thời làm tăng nguồn vốn của ngân hàng. Vốn của ngân hàng lớn giúp cho ngân

hàng có khả năng tài chính dồi dào để cạnh tranh với các ngân hàng khác: hạ lãi
suất, linh hoạt về thời gian tín dụng, hình thức trả lãi… Các dịch vụ ngân hàng sẽ
ngày càng được cải tiến, phát triển và được thực hiện tốt hơn.
1.1.3. Các hình thức huy động vốn của Ngân hàng thương mại.
1.1.3.1. Huy động vốn tiền gửi.
Vốn tiền gửi bao gồm:
+ Tiền gửi không kỳ hạn: là loại tiền gửi mà khách hàng có thể rút ra bất
cứ lúc nào. Khách hàng có thể yêu cầu ngân hàng trích tiền từ tài khoản tiền gửi
này để chi trả cho người thụ hưởng hoặc yêu cầu ngân hàng chuyển số tiền mình
được hưởng vào tài khoản. Đối với khoản tiền này mục đích của người sử dụng
là đảm bảo an toàn về tài sản và thực hiện các hoạt động thanh toán qua ngân
hàng nên còn được gọi là tài khoản tiền gửi thanh toán. Ở Việt Nam, loại tài
khoản này bao gồm tài khoản thanh toán cho doanh nghiệp và tài khoản thanh
toán dùng cho cá nhân. Hiện nay hầu hết các NHTM trả lãi cho khoản tiền gửi
này và NHTM sẽ thực hiện thu phí thanh toán khi khách hàng sử dụng dịch vụ
thanh toán. Đối với loại tài khoản này, khách hàng có thể rút vốn khỏi ngân hàng
bất kỳ khi nào có nhu cầu và ngân hàng có nghĩa vụ thỏa mãn yêu cầu đó vô điều
kiện. Do vậy đây là một nguồn vốn biến động thường xuyên.
Với tính chất như vậy giải pháp chủ yếu để tăng cường nguồn vốn này
không phải là yếu tố lãi suất mà là sự thuận tiện, an toàn cho nguồn vốn tiền
gửi cũng như chất lượng dịch vụ tiện ích của ngân hàng đặc biệt là dịch vụ
thanh toán không dùng tiền mặt.
Nguyễn Thị Toàn NHD-CĐ26
5
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Tài chính – Ngân hàng
+ Tiền gửi có kỳ hạn: là loại tiền gửi mà khách hàng được rút ra sau một
thời hạn nhất định theo quy định của ngân hàng trong từng thời kỳ. Mục đích
chủ yếu của người gửi tiền là lấy lãi, ngân hàng có thể chủ động kế hoạch hóa
cho việc sử nguồn vốn này. Mức lãi suất cụ thể phụ thuộc vào thời hạn gửi tiền
và sự thỏa thuận giữa ngân hàng và khách hàng trên cơ sở xem xét mức độ an

toàn của ngân hàng cũng như quan hệ cung cầu về vốn trên thị trường. Để tạo
nên tính lỏng cho loại tiền gửi có kỳ hạn ngân hàng có thể cho phép khách hàng
rút tiền trước với những khoản phí đáng kể ( hưởng mức lãi suất thấp hơn quy
định). Ở một số nước tiền gửi không kỳ hạn còn được biến tướng dưới dạng
chứng chỉ tiền gửi (CD), chủ yếu là phát hành cho các công ty và ngân hàng
khác.
+ Tiền gửi tiết kiệm: là tiền tiết kiệm của dân cư gửi vào ngân hàng nhằm
mục đích hưởng lãi. Ở Việt Nam hiện nay có các hình thức tiền gửi tiết kiệm phổ
biến như sau:
 Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn: là loại tiền gửi mà khách hàng có thể
gửi vào nhiều lần và rút ra bất cứ lúc nào. Ngân hàng trả lãi theo số dư bình quân
hàng tháng với lãi suất tương ứng, số tiền lãi được nhập gốc hàng tháng.
 Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn: là loại tiền gửi được rút ra sau một thời
hạn nhất định. Cũng như tiền gửi có kỳ hạn để tăng tính lỏng cho loại tiền gửi
tiết kiệm này ngân hàng cho phép khách hàng rút tiền trước với điều kiện chỉ
được hưởng mức lãi suất thấp.
 Tiền gửi tiết kiệm có mục đích: thường là tiền gửi tiết kiệm trung và
dài hạn nhằm những mục đích nhất định như xây nhà ở, mua ô tô…Người tham
gia loại hình tiền gửi tiết kiệm này ngoài việc được hưởng lãi còn được ngân
hàng cho vay nhằm bổ sung thêm vốn để thực hiện những nhu cầu chi tiêu lớn
của mình.
Nguyễn Thị Toàn NHD-CĐ26
6
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Tài chính – Ngân hàng
1.1.3.2. Huy động vốn qua phát hành giấy tờ có giá.
Theo QĐ07-NHNN thì giấy tờ có giá do các tổ chức tín dụng phát hành
được hiểu là: “Chứng nhận của tổ chức phát hành để huy động vốn trong đó xác
nhận nghĩa vụ trả một khoản tiền trong một thời hạn nhất định, điều kiện trả lãi
và các điều khoản cam kết khác giữa tổ chức tín dụng và người mua”. Như vậy
giấy tờ có giá là công cụ nợ do ngân hàng phát hành để huy động vốn trên thị

trường. Nguồn vốn này tương đối ổn định, nhưng lãi suất của loại vốn này
thường cao hơn lãi suất tiền gửi có kỳ hạn thông thường do sự cấp thiết của việc
huy động vốn. Ngân hàng chủ động phát hành phiếu nợ để huy động vốn nhằm
những mục đích nhất định: cho vay khắc phục hậu quả bão lụt, cho vay để mua
nông sản….Các giấy tờ có giá được phát hành phải bao gồm các yếu tố bắt buộc:
tên tổ chức phát hành, tên gọi của giấy tờ có giá, mệnh giá, thời hạn, ngày phát
hành, ngày đến hạn thanh toán, lãi suất, phương thức trả lãi, thời gian và địa
điểm trả lãi, địa điểm thanh toán gốc và giấy tờ có giá, phải ghi rõ là giấy tờ có
giá vô danh hay hữu danh. Các loại giấy tờ có giá thường được ngân hàng sử
dụng:
- Giấy tờ có giá ngắn hạn:
+ Chứng chỉ tiền gửi (CDs): là công cụ vay nợ do ngân hàng phát hành
nhằm huy động vốn trên thị trường với bản chất tương tự như một khoản tiền gửi
có hạn kỳ. Theo đó người sở hữu CD được hưởng các khoản lãi suất định kỳ tính
toán trên cơ sở 360 ngày và được hoàn trả mệnh giá khi đến hạn. Thời hạn của
CDs thường là ngắn hạn 1-3 tháng hoặc 6 tháng và có thể là 5-7 năm nhưng chủ
yếu vẫn là ngắn hạn. Lãi suất được tổ chức phát hành ấn định dựa vào lãi suất
cạnh tranh trên thị trường, tình trạng tài chính của tổ chức phát hành và thời hạn
của CDs.
+ Kỳ phiếu ngân hàng: là kỳ phiếu huy động vốn có mục đích, có thời
hạn, có lãi suất tương ứng với từng kỳ hạn hoặc phương thức trả lãi. Kỳ phiếu
thường được phát hành thường xuyên và có kỳ hạn phong phú thường là từ 3
Nguyễn Thị Toàn NHD-CĐ26
7
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Tài chính – Ngân hàng
tháng, 6 tháng…Kỳ phiếu có đặc điểm là tính ổn định hơn nhưng lãi suất cũng
cao hơn so với tiền gửi thông thường nên ngân hàng cần phải có kế hoạch sử
dụng vốn cụ thể trước khi huy động. Việc phát hành các giấy tờ có giá được áp
dụng chủ yếu theo 2 phương thức:
 Phát hành theo mệnh giá: Người mua trả tiền mua kỳ phiếu theo mệnh

giá đã ghi trên kỳ phiếu. Khi đến hạn ngân hàng sẽ hoàn trả gốc và thanh toán lãi
cho người mua kỳ phiếu.
 Phát hành dưới hình thức chiết khấu: Người mua kỳ phiếu sẽ trả số
tiền mua bằng mệnh giá trừ đi khoản lãi mà họ được hưởng. Khi đến hạn ngân
hàng sẽ hoàn trả cho khách hàng theo mệnh giá của kỳ phiếu.
- Giấy tờ có giá dài hạn: Phổ biến nhất là trái phiếu ngân hàng: là một
chứng thư xác nhận một khoản nợ của tổ chức phát hành đối với người sở hữu và
cam kết sẽ hoàn trả nợ kèm lãi trong một thời hạn nhất định. Theo quy định hiện
hành thì mệnh giá của trái phiếu tối thiểu là 100.000VNĐ, nếu có giá trị lớn hơn
thì phải là bội số của giá trị tối thiểu. Đây là một công cụ nợ dài hạn, thông qua
việc phát hành trái phiếu ngân hàng có thể có được nguồn vốn trung và dài hạn
để phục vụ cho những kế hoạch với quy mô lớn, dài hạn. Trái phiếu được phát
hành với quy mô lớn đồng loạt trên toàn hệ thống mỗi ngân hàng
1.1.3.3.Vốn đi vay và vốn khác.
Vốn đi vay là quan hệ vay mượn giữa NHTM với NHTW, hoặc giữa các
NHTM với nhau trên thị trường liên ngân hàng, hay với các tổ chức tài chính
khác.
- Vay NHTW:
Đây là khoản vay nhằm giải quyết nhu cầu cấp bách trong chi trả của
NHTM. Trong trường hợp thiếu hụt dự trữ (thiếu hụt dự trữ bắt buộc, dự trữ
thanh toán) NHTM thường vay NHTW. Hình thức cho vay của NHTW chủ yếu
là tái chiết khấu các thương phiếu hoặc tái cấp vốn. Trong điều kiện của Việt
Nguyễn Thị Toàn NHD-CĐ26
8
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Tài chính – Ngân hàng
Nam chưa có thương phiếu NHNN cho NHTM vay dưới hình thức tái cấp vốn
theo hạn mức tín dụng nhất định.
- Vay các TCTD khác:
Đây là nguồn các NHTM vay của các TCTD khác trên thị trường liên
ngân hàng. Các ngân hàng đang có dự trữ vượt yêu cầu do có kết dư gia tăng bất

ngờ về các khoản huy động hoặc giảm cho vay sẽ có thể sẵn lòng cho các ngân
hàng khác vay để tìm lãi suất cao hơn. Ngược lại, các ngân hàng đang thiếu hụt
dự trữ có nhu cầu vay mượn tức thời để đảm bảo khả năng thanh khoản. Như vậy
nguồn vốn vay mượn từ các ngân hàng khác là để đáp ứng nhu cầu dự trữ và chi
trả cấp bách và trong nhiều trường hợp nó có thể bổ sung hoặc thay thế cho
nguồn vay mượn từ NHNN. Khoản vay có thể không cần đảm bảo hoặc được
đảm bảo bằng các chứng khoán của kho bạc nhà nước.
1.2. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động huy động vốn.
Một trong những tiêu chí quan trọng để người dân lựa chọn ngân hàng
để gửi tiền chính là khả năng cung ứng nhiều tiện ích thuận tiện chứ không chỉ
đơn thuần là chức năng cất trữ tiền tệ và kiếm lời qua lãi suất. Do đó, khách hàng
sẽ luôn tìm đến những ngân hàng có uy tín, lãi suất hấp dẫn, phong cách phục vụ
tốt, sản phẩm dịch vụ phong phú, tiếp thị hiệu quả, phân phối và cung ứng dịch
vụ thuận tiện. Chính vì vậy, để hoạt động huy động vốn trong dân đạt hiệu quả
cao, các NHTM sẽ phải cạnh tranh rất gay gắt, qua đó nâng cao chất lượng phục
vụ, củng cố uy tín và khẳng định vị thế của mình.
1.2.1 Khái niệm về hiệu quả huy động vốn
Hiệu quả huy động vốn là phạm trù phản ánh trình độ và khả năng đảm bảo
thực hiện công tác huy động vốn có kết quả và hiệu quả cao với chi phí thấp
nhất. Có nghĩa là đối với mặt lượng, hiệu quả huy động vốn biểu hiện giữa kết
quả thu được và chi phí bỏ ra, còn đối với mặt chất, nó phản ánh giữa năng lực
và trình độ quản lý của ngân hàng.
Nguyễn Thị Toàn NHD-CĐ26
9
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Tài chính – Ngân hàng
Đánh giá công tác huy động vốn của NHTM, chúng ta có thể rút ra những
giải pháp tốt để đảm bảo công tác huy động vốn có hiệu quả và an toàn.
1.2.2 Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả huy động vốn
1.2.2.1. Sự tăng trưởng của quy mô vốn.
Đây là chỉ tiêu đầu tiên khi đánh giá hiệu quả huy động vốn bởi quy mô vốn

đóng vai trò quan trọng đối với ngân hàng. Quy mô vốn quyết định đến khả năng
thanh toán cũng như nâng cao năng lực cạnh tranh và uy tín của ngân hàng. Tính
quy mô thể hiện ở khối lượng huy động vốn và tốc độ tăng trưởng nguồn vốn
huy động.
Tốc độ tăng trưởng NVHĐ =
NVHĐ kỳ này
x 100%
NVHĐ kỳ trước
Quy mô đó phải phù hợp với khả năng của ngân hàng, phù hợp với nhu cầu
sử dụng vốn của nền kinh tế và phải tương ứng với chi phí huy động.
Để huy động vốn cho hoạt động kinh doanh của mình ngân hàng phải bỏ ra
rất nhiều chi phí bao gồm chi phí trả lãi, chi phí tiếp thị quảng cáo, chi phí nhân
viên… Càng huy động được nhiều, chi phí ngân hàng bỏ ra càng tăng lên, do đó
ngân hàng phải xem xét khả năng chi trả của mình trước khi quyết định quy mô
nguồn vốn sẽ huy động từ các tổ chức, cá nhân trong nền kinh tế từ đó đưa ra
quyết định sử dụng vốn phù hợp cho mục đích huy động của mình.
Quy mô vốn không chỉ cần đáp ứng nhu cầu nguồn vốn hiện tại của ngân
hàng mà còn phải phù hợp với mục tiêu tăng trường hoạt động của ngân hàng
trong tương lai. Một tốc độ tăng trưởng tốt không phải là chạy theo số lượng mà
phải tương ứng với nhu cầu vốn thực tế của nền kinh tế cũng như khả năng đáp
ứng nhu cầu ấy của ngân hàng.
Nguyễn Thị Toàn NHD-CĐ26
10
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Tài chính – Ngân hàng
1.2.2.2. Cơ cấu nguồn vốn.
Tỷ trọng từng NVHĐ =
NVHĐ loại i
x 100%
Tổng NVHĐ
Chỉ tiêu này cho thấy nguồn vốn nào mà ngân hàng huy động được nhều

nhất, ít nhất. Từ đó thấy được sự phù hợp, tìm ra nguyên nhân tại sao và kịp thời
đưa ra giải pháp. Ngoài ra chỉ tiêu này có thể thấy được mức độ ổn định hay
không của từng loại nguồn vốn.
- Cơ cấu vốn huy động theo kỳ hạn
Chỉ tiêu cơ cấu huy động theo kỳ hạn phản ánh tỷ trọng nguồn vốn huy
động theo kỳ hạn trong tổng vốn huy động là bao nhiêu phần trăm (%).
Công thức:
V
i
KH
VHĐ
V
i
KH
là nguồn vốn huy động theo thời hạn i
Ngân hàng có thể huy động và cho vay theo các kỳ hạn khác nhau, mỗi kỳ
hạn có những ưu nhược điểm riêng, chính vì vậy ngân hàng phải tính toán sao
cho huy động và sử dụng vốn với kỳ hạn hợp lý nhằm mục đích sinh lời và an
toàn.
Đối với khoản vốn huy động ngắn hạn, ngân hàng chỉ có được nguồn vốn
ổn định trong ngắn hạn nhưng chi phí cho khoản huy động này thấp. Để đảm bảo
an toàn, ngân hàng thường dùng nguồn vốn ngắn hạn để cho vay ngắn hạn và sử
dụng một tỷ lệ nhất định của nguồn vốn này để cho vay trung và dài hạn. Như
vậy, ngân hàng sẻ giảm được rủi ro lãi suất và rủi ro thanh khoản.
Đối với nguồn vốn càng dài hạn thì chi phí càng cao trong khi nguồn vốn rẻ
thì tính ổn định lại thấp. Do đó vấn đề đặt ra cho các ngân hàng là tính toán cơ
cấu nguồn vốn huy động một cách hợp lý. Mục tiêu của ngân hàng lúc này
Nguyễn Thị Toàn NHD-CĐ26
11
D

KH
=
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Tài chính – Ngân hàng
không phải chỉ là có một nguồn vốn ổn định nhất hoặc rẻ nhất mà phải tìm ra
một phương pháp kết hợp các nguồn vốn khác nhau sao cho tính ổn định cao và
chi phí thấp.
- Cơ cấu nguồn vốn huy động theo đối tượng
V
i
ĐT
VHĐ
V
i
ĐT
là nguồn vốn huy động theo đối tượng
Căn cứ vào mục tiêu và đặc trưng hoạt động, mỗi ngân hàng sẽ hướng vào
một đối tượng khách hàng khác nhau. Mỗi đối tượng khác nhau sẽ mang lại cho
ngân hàng những thuận lợi và bất lợi riêng.
- Khách hàng vừa và nhỏ: Bao gồm các khách hàng cá nhân, hộ gia đình,
doanh nghiệp vừa và nhỏ. Số lượng khách hàng thuộc đối tượng này thường lớn,
giá trị mỗi lần giao dịch nhỏ nhưng số lượng giao dịch nhiều. Chính vì thế, ngân
hàng phải thiết lập mạng lưới hoạt động với nhiều chi nhánh, địa điểm giao dịch,
áp dụng nhiều kênh phân phối hiện đại.
- Khách hàng lớn: Là các tổ chức kinh tế bao gồm các công ty lớn, tập đoàn
đa quốc gia. Số lượng khách hàng thuộc đối tượng này ít, khối lượng giao dịch
không nhiều nhưng giá trị một giao dịch là lớn. Ngân hàng có thể huy động vốn
lớn cũng như cung cấp được nhiều dịch vụ với thu nhập cao từ đối tượng khách
hàng này.
Tùy vào loại hình ngân hàng mà khách hàng của ngân hàng có thể chủ yếu
là cá nhân hay doanh nghiệp, nguồn vốn huy động của mỗi ngân hàng là khác

nhau. Tuy nhiên, nhìn chung các ngân hàng thường cố gắng đa dạng hóa đối
tượng khách hàng của mình nhằm phân tán rủi ro bởi khách hàng gửi tiền cũng
thường là những khách hàng sẽ sử dụng những sản phẩm dịch vụ khác của ngân
hàng như vay vốn, bảo lãnh, thanh toán…
- Cơ cấu vốn huy động theo loại tiền (nội tệ, ngoại tệ)
Nguyễn Thị Toàn NHD-CĐ26
12
D
ĐT
=
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Tài chính – Ngân hàng
Đây cũng là một chỉ tiêu đánh giá về hiệu quả huy động vốn của ngân hàng.
Nó phản ánh tỷ trọng của nguồn vốn huy động bằng ngoại tệ hay nội tệ trong
tổng nguồn vốn huy động, chiếm bao nhiêu lần hay bao nhiêu phần trăm (%).
Công thức:
V
i
LT
VHĐ
V
i
LT
là nguồn vốn huy động theo loại tiền i
Những ngân hàng tập trung vào các hoạt động kinh tế đối ngoại thì tỷ lệ huy
động ngoại tệ thường cao hơn nhằm đáp ứng nhu cầu sử dụng vốn. Tùy vào loại
hình hoạt động kinh doanh và mục tiêu của ngân hàng trong tương lai mà có cơ
cấu huy động vốn nội tệ, ngoại tệ cho hợp lý.
1.2.2.3 Chi phí huy động.
Muốn huy động vốn, ngân hàng phải trả lãi cho các khoản vốn huy động và
chi phí lãi khác phục vụ cho công tác huy động vốn.

Chi phí trả lãi với các nguồn vốn khác nhau thì khác nhau, tùy thuộc vào kỳ
hạn, loại tiền… Hiện nay, lãi suất huy động do các NHTM quyết định dựa trên
quan hệ cung cầu và mức độ cạnh tranh trên thị trường. Chi phí lãi là chi phí
chiếm tỷ trọng chủ yếu trong tổng chi phí vốn. Chi phí lãi được coi là hợp lý khi
nó vừa đảm bảo tính cạnh tranh trên thị trường, vừa đảm bảo thực hiện được
mục tiêu lợi nhuận của ngân hàng.
Các khoản chi phí phi lãi bao gồm chi phí tiền lương cho cán bộ quản lý,
nhân viên, chi phí khấu hao nhà cửa, tài sản cố định, chi phí quảng cáo, thiết lập
mạng lưới, chi nhánh… Ngân hàng thường cố gắng kiểm soát các chi phí phi lãi
này mà vẫn không ảnh hưởng đến chất lượng dịch vụ. Mức giảm các chi phí này
phải phù hợp với quy mô hoạt động của ngân hàng.
Nguyễn Thị Toàn NHD-CĐ26
13
D
LT
=
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Tài chính – Ngân hàng
Một ngân hàng được coi là thành công trong huy động vốn thì các nguồn
vốn ấy phải đạt các yêu cầu cơ bản:
- Nguồn vốn của ngân hàng là nguồn vốn có chi phí thấp nhất nhưng vẫn
đảm bảo nhu cầu sử dụng vốn của nền kinh tế về các phương diện quy mô, cơ
cấu, thời gian…
- Tăng được lợi nhuận ngân hàng mà không phải chấp nhận những rủi ro và
sức ép về tăng chi phí vốn. Cũng giống như các doanh nghiệp khác, mục tiêu
hàng đầu của ngân hàng là lợi nhuận. Để tăng lợi nhuận, ngân hàng có thể đầu tư
vào các tài sản sinh lời cao nhưng như vậy sẽ gia tăng rủi ro cho ngân hàng. Do
đó, việc quản lý chi phí vốn một cách hiệu quả sẽ là phương thức an toàn hơn
cho ngân hàng, tuy vậy đó không phải là điều dễ thực hiện.
1.2.2.4. Cân đối giữa huy động vốn và sử dụng vốn.
Có thể nói đây là một yêu cầu hết sức quan trọng khi xác định quy mô và cơ

cấu vốn hợp lý cho ngân hàng. Các ngân hàng không chỉ huy động vốn càng
nhiều càng tốt mà phải tìm nơi đầu tư hiệu quả bởi nếu không cho vay và đầu tư
hết sẽ gây tình trạng ứ đọng vốn, chi phí bỏ ra nhiều mà không đem lại lợi
nhuận. Ngược lại, khi nhu cầu sử dụng vốn tăng cao mà ngân hàng không có khả
năng thu hút vốn, ngân hàng sẽ mất đi cơ hội kinh doanh và khả năng tạo lợi
nhuận sẽ giảm sút, đồng thời uy tín đối với khách hàng cũng bị ảnh hưởng. Sự
không cân xứng giữa huy động vốn và sử dụng vốn có thể dẫn tới các rủi ro chủ
yếu như rủi ro lãi suất, rủi ro thanh khoản, rủi ro hối đoái.
Rủi ro lãi suất là những tổn thất, thiệt hại mà ngân hàng phải gánh chịu khi
lãi suất trên thị trường biến động. Đây là rủi ro mang lại tính đặc trưng của bất
kỳ một trung gian tài chính nào khi có sự chênh lệch về thời gian giữa nguồn vốn
và sử dụng vốn. Sự không cân xứng về thời hạn giữa tài sản có và tài sản nợ xảy
ra thường xuyên trong quá trình hoạt động của trung gian tài chính cũng như sự
biến động thường xuyên của mức lãi suất trên thị trường làm cho các tổ chức này
rơi vào tình trạng rủi ro lãi suất. Rủi ro lãi suất được thể hiện ở hai dạng là rủi ro
Nguyễn Thị Toàn NHD-CĐ26
14
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Tài chính – Ngân hàng
do tái tài trợ tài sản Nợ và rủi ro do tái đầu tư tài sản Có. Rủi ro do tài trợ tài sản
Nợ là trường hợp khi thời gian của nguồn vốn huy động ngắn hơn thời gian sử
dụng vốn. Nếu lãi suất trên thị trường có xu hướng tăng lên cao hơn mức lãi suất
đang đầu tư thì rủi ro lãi suất nảy sinh do ngân hàng phải huy động vốn với lãi
suất cao để tài trợ cho khoản sử dụng vốn có kỳ hạn. Rủi ro do tái đầu tư tài sản
Có là trường hợp khi thời hạn nguồn vốn lớn hơn thời hạn sử dụng vốn, nếu lãi
suất trên thị trường có xu hướng giảm thì rủi ro lãi suất nảy sinh do nguồn vốn
được đầu tư lại với lãi suất thấp hơn lãi suất thị trường.
Rủi ro thanh khoản phát sinh khi những người gửi tiền đồng thời có nhu cầu
rút tiền tại các trung gian tài chính ngay lập tức. Nếu ngân hàng chủ yếu huy
động vốn không kỳ hạn và ngắn hạn trong khi lại sử dụng vốn có kỳ hạn dài sẽ
dẫn đến sự không cân xứng về kỳ hạn giữa nguồn vốn và sử dụng vốn, khi sự

không cân xứng này quá lớn, ngân hàng sẽ rơi và tình trạng không có đủ vốn để
đáp ứng nhu cầu rút vốn của khách hàng do kỳ hạn của các khoản nợ chưa đến
hạn thu hồi. Rủi ro thanh khoản không chỉ gây ra tình trạng mất khả năng thanh
toán mà còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến uy tín của ngân hàng.
Đối với những ngân hàng có các hoạt động liên quan đến ngoại tệ đều phải
chịu một rủi ro đặc biệt đó là rủi ro tỷ giá. Do tỷ giá biến động thường xuyên
không dự báo trước được nên rủi ro tỷ giá được xem là rủi ro thường trực gắn
liền với hoạt động kinh doanh ngoại tệ của ngân hàng. Rủi ro tỷ giá là những tổn
thất tiềm tàng của ngân hàng khi tỷ giá hối đoái thay đổi. Ngân hàng chịu rủi ro
tỷ giá khi duy trì trạng thái ngoại hối mở. Trạng thái ngoại hối mở của một ngoại
tệ là chênh lệch giữa tài sản có và tài sản nợ của ngoại tệ đó tại một thời điểm.
Trạng thái ngoại hối = (TSC ngoại tệ - TSN ngoại tệ) + (Doanh số ngoại tệ
mua vào - Doanh số ngoại tệ bán ra)
Đối với mỗi ngoại tệ, tại một thời điểm, giả sử hoạt động mua bán ngoại tệ
đạt trạng thái cân bằng, ngân hàng sẽ chịu rủi ro trong hai trường hợp. Nếu tổng
TSC ngoại tệ lớn hơn tổng TSN ngoại tệ thì ngoại tệ ở trạng thái trường, khi
Nguyễn Thị Toàn NHD-CĐ26
15
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Tài chính – Ngân hàng
đồng tiền này lên giá làm phát sinh lãi ngoại hối còn trong trường hợp ngược lại,
khi ngoại tệ giảm giá so với nội tệ, sự giảm giá của TSC sẽ lớn hơn sự giảm giá
của TSN khi quy về đồng nội tệ, do đó lúc này ngân hàng chịu rủi ro hối đoái.
Nếu tổng TSC ngoại tệ nhỏ hơn tổng TSN ngoại tệ thì ngoại tệ đó ở trạng thái
đoản, đồng tiền này giảm giá làm phát sinh lãi ngoại hối còn trường hợp ngược
lại, khi ngoại tệ tăng giá so với nội tệ, ngân hàng chịu rủi ro khi sự tăng giá của
TSC nhỏ hơn sự tăng giá của TSN khi quy về đồng nội tệ.
1.3.3. Các nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả huy động vốn của Ngân hàng
Thương Mại.
Do xuất phát từ đặc điểm, nguồn hình thành, hướng sử dụng, việc huy
động vốn trong dân cũng thường xuyên có những biến động do phụ thuộc vào

môi trường kinh tế vĩ mô và chính sách vĩ mô (tiết kiệm, lãi suất, lạm phát và tỷ
giá, thu hút vốn); môi trường chính trị, xã hội; đặc điểm dân cư (niềm tin đối với
ngân hàng, thói quen tiết kiệm, thói quen giữ tiền, thói quen tiêu dùng); sự phát
triển ổn định và uy tín của NHTM (các tiện ích, tính đồng nhất, nghiệp vụ, sự
phong phú); các hình thức huy động vốn (hình thức huy động, kỳ hạn huy
động…); thông tin (lôi cuốn người gửi tiền, giáo dục…) và các nhân tố khác
(khuyến mại, maketing…).
1.3.3.1. Nhân tố chủ quan.
Nhân tố chủ quan bao gồm các nhân tố bên trong nằm trong sự kiểm soát
của ngân hàng, chiến lược với nhóm nhân tố này là xác định và phát huy điểm
mạnh, khắc phục điểm yếu. Nhóm nhân tố này bao gồm : uy tín, kênh phân phối
và công nghệ của ngân hàng, lãi suất huy động của ngân hàng, các sản phẩm
dịch vụ mà ngân hàng đưa ra và đội ngũ cán bộ của ngân hàng…
Uy tín của ngân hàng
Hình ảnh của ngân hàng cũng ảnh hưởng không nhỏ tới công tác huy động
vốn. Ngân hàng phải tạo ra cho mình hình ảnh đẹp, bề thế gây lòng tin cho khách
Nguyễn Thị Toàn NHD-CĐ26
16
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Tài chính – Ngân hàng
hàng, dân chúng tin tưởng vào ngân hàng và đem gửi tiền vào ngân hàng. Vì
người gửi tiền bên cạnh mục đích sinh lời còn có mục đích an toàn. Do đó uy tín
của ngân hàng càng lớn thì người gửi tiền càng cảm thấy an toàn hơn và có thể
hy sinh một chút lãi chênh lệch để hưởng sự an toàn này. Ngược lại, hình ảnh
của ngân hàng không tạo được lòng tin cho dân chúng thì họ sẽ dùng tiền của
mình đầu tư vào kĩnh vực khác.
Kênh phân phối của ngân hàng
Tổ chức hoạt động tiêu thụ sản phẩm là khâu cuối cùng của quá trình kinh
doanh. Tổ chức tiêu thụ sản phẩm chính là hình thức cạnh tranh phi giá cả và gây
ra sự chú ý và thu hút khách hàng. Việc xây dựng các kênh phân phối trở thành
một vấn đề hết sức trọng yếu trong kinh doanh ở các NH. Kênh phân phối là

phương tiện trực tiếp đưa sản phẩm dịch vụ của NH đến KH, đồng thời giúp NH
nắm bắt chính xác và kịp thời nhu cầu của KH, qua đó, NH chủ động trong việc
cải tiến, hoàn thiện sản phẩm dịch vụ, tạo điều kiện thuận lợi trong việc cung cấp
sản phẩm dịch vụ cho KH.
Công nghệ của ngân hàng
Công nghệ ngân hàng đã trở thành một nhân tố quyết định uy thế, sức
cạnh tranh của ngân hàng không chỉ trong hoạt động huy động vốn mà cả trong
các hoạt động của ngân hàng. Công nghệ ngân hàng là nền tảng để ngân hàng
cung ứng các dịch vụ ngân hàng hiện đại, nâng cao chất lượng dịch vụ, đáp ứng
tốt mọi nhu cầu của khách hàng. Công nghệ ngân hàng hiện đại sẽ đảm bảo
nhanh chóng, an toàn và thuận lợi cho khách hàng trong quá trình giao dịch với
ngân hàng. Các NHTM đẩy mạnh ứng dụng những thành tựu công nghệ hiện đại,
nhất là công nghệ thông tin, bởi vì chỉ trên cơ sở kỹ thuật công nghệ hiện đại thì
các NHTM mới có điều kiện triển khai các loại hình dịch vụ mới, mở rộng đối
tượng và phạm vi khách hàng. Công nghệ thông tin cho phép các NHTM nắm
bắt cập nhật và đầy đủ các thông tin từ phía khách hàng, cho phép giảm thiểu rủi
ro từ lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức. Công nghệ hiện đại cũng cho phép
Nguyễn Thị Toàn NHD-CĐ26
17
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Tài chính – Ngân hàng
các NHTM giảm chi phí, giảm thời gian trong giao dịch, tăng độ an toàn cho
khách hàng - đây vốn là những yêu cầu bắt buộc trong kinh doanh của các
NHTM. Các Website của ngành NH được ví như trung tâm thông tin, các chi
nhánh phân phối ở mọi lúc, mọi nơi, khách hàng có thể truy cập để tìm hiểu, lấy
thông tin về các dịch vụ cung cấp, phía NH cũng có thể tiếp cận với khách hàng
nhanh chóng và có hiệu quả.
Lãi suất huy động của ngân hàng
Lãi suất huy động có tác động rất lớn đến lượng vốn huy động và chi phí
huy động của ngân hàng. Ngân hàng không thể đẩy lãi suất lên quá cao vì sẽ làm
giảm lợi nhuận của ngân hàng. Vì vậy ngân hàng phải tính đến chi phí vốn để có

thể xác định lượng vốn tăng đến bao nhiêu, huy động loại vốn nào thì chi phí
huy động là thấp nhất, mang lại lợi nhuận và sự an toàn nhất cho ngân hàng.
Sự đa dạng các dịch vụ, sản phẩm huy động của ngân hàng:
Mỗi khách hàng có nhu cầu về dịch vụ là khác nhau nên ngân hàng cần có
những sản phẩm, dịch vụ huy động khác nhau để khách hàng lựa chọn. Một
ngân hàng có dịch vụ, sản phẩm phong phú, linh hoạt, thuận tiện thì khả năng
huy động vốn sẽ càng cao.
Đội ngũ cán bộ ngân hàng
Để tăng lưọng khách hàng đến giao dịch với ngân hàng thì một trong
những yêu cầu bắt buộc là trình độ chuyên môn nghiệp vụ của tất cả các cán bộ,
nhân viên trong các NHTM, không chỉ là trình độ chuyên môn nghiệp vụ tài
chính – ngân hàng, mà còn đòi hỏi trình độ kinh tế tổng hợp, bởi vì, có như vậy
thì các NHTM mới tư vấn cho khách hàng của mình các định hướng mở tài
khoản loại nào tại ngân hàng là phù hợp với khách hàng, tiết kiệm theo hình thức
nào, kỳ hạn như thế nào…đội ngũ cán bộ ngân hàng là người luôn tiếp xúc trực
tiếp với khách hàng và giới thiệu về sản phẩm của ngân hàng nên thái độ phục
vụ có ảnh hưởng rất lớn đến sự hài lòng của khách hàng. Một đội ngũ cán bộ có
Nguyễn Thị Toàn NHD-CĐ26
18
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Tài chính – Ngân hàng
chuyên môn, có tinh thần trách nhiệm, thân thiện với khách hàng và một nhà
quản lý giỏi, nhiệt tình sẽ là nền tảng cho sự thịnh vượng của một ngân hàng.
1.3.3.2. Nhân tố khách quan:
Nhân tố khách quan là những nhân tố bên ngoài tầm kiểm soát của ngân
hàng. Đối với nhóm nhân tố này ngân hàng cần thích ứng một cách tốt nhất, nó
bao gồm : môi trường kinh tế, chính trị, xã hội , các nhân tố pháp lý, sự chỉ đạo
của ngân hàng mẹ, tâm lý tập quán của khách hàng…
Môi trường kinh tế, chính trị, xã hội
Bất cứ ngân hàng nào cũng có môi trường kinh tế, chính trị, xã hội. Các
chỉ tiêu kinh tế như Tốc độ tăng trưởng, chỉ số lạm phát, thu nhập dân cư…ảnh

hưởng trực tiếp đến các hoạt động của ngân hàng, nhất là hoạt động huy động
vốn. Nếu nền kinh tế chính trị ổn định sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động
huy động vốn. Nền kinh tế ổn định làm cho thu nhập dân cư ngày càng được cải
thiện và ổn định, tạo điều kiện cho nguồn tiền vào các ngân hàng ngày càng gia
tăng, số vốn huy động được dồi dào, trong khi đó cơ hội đầu tư cũng được mở
rộng. Đặc biệt, trong điều kiện mở rộng quan hệ hợp tác với các nước ngày một
tăng, mọi sự biến động về kinh tế, chính tri, xã hội của một nước sẽ ảnh hưởng
đến hoạt động của các doanh nghiêp, các ngân hàng thương mại không chỉ trong
nước mà ảnh hưởng đến cả ngoài nước.
Chính sách điều tiết vĩ mô
Hệ thống ngân hàng Việt nam vẫn đang hoạt động theo cơ chế thị trường
nhưng có sự điều tiết quản lý của cơ quan Nhà nước. Tuỳ vào tình hình kinh tế
xã hội cụ thể mà Chính phủ, NHTW sẽ thực thi chính sách tiền tệ mở rộng hoặc
chính sách tiền tệ thắt chặt. Khi nền kinh tế đang cần vốn cho đầu tư phát triển
thì NHNN thực thi các chính sách như giảm lãi suất chiết khấu, giảm tỷ lệ dự trữ
bắt buộc….còn khi nền kinh tế phát triển quá nóng, lạm phát gia tăng, NHNN sẽ
tiến hành tăng lãi suất chiết khấu, tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc…. nhằm rút bớt tiền
đồng ra khỏi lưu thông.
Nguyễn Thị Toàn NHD-CĐ26
19
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Tài chính – Ngân hàng
Cơ chế điều chuyển vốn giữa hội sở chính và chi nhánh
Sự điều chuyển vốn giữa Hội sở chính và các chi nhánh luôn là một vấn
đề phức tạp đối với mỗi ngân hàng lớn. Cơ chế điều chuyển vốn sẽ tác động trực
tiếp đến thu nhập cũng như khả năng huy động vốn của từng chi nhánh. Có ngân
hàng chủ trương nâng cao tính tự chủ, chủ động cho các chi nhánh trong công
tác huy động vốn và sử dụng vốn. Tuy nhiên cơ chế này sẽ làm cho các chi
nhánh huy động nguồn vốn ngắn hạn và đầu tư dài hạn vào Hội sở chính làm cho
chi phí trả lãi tại Hội sở chính tăng, điều này dễ gây rủi ro kỳ hạn cho các chi
nhánh. Để khắc phục nhược điểm này các ngân hàng có thể áp dụng cơ chế điều

chuyển vốn giữa Hội sở chính và các chi nhánh – Các chi nhánh sẽ huy động và
gửi tất cả lên Hội sở chính đúng với kỳ hạn huy động của mình và khi muốn sử
dụng thì lại vay từ Hội sở chính với mức lãi suất ưu đãi. Cơ chế này giúp các chi
nhánh tránh được rủi ro kỳ hạn và làm giảm chi phí trả lãi của Hội sở chính. Mặc
dù vậy nhưng cơ chế này lại làm giảm tính chủ động trong việc huy động và sử
dụng vốn của các chi nhánh. Hơn nữa, hiệu quả sử dụng vốn không đạt tối ưu vì
khi tiền gửi được gửi tại Hội sở chính theo kỳ hạn danh nghĩa nhưng trong thực
tế các ngân hàng lại hoạt động huy động vốn theo kỳ hạn thực tế. Hội sở chính sẽ
không biết rõ được tính chất của nguồn vốn, kỳ hạn thực của nguồn vốn vì vậy
sẽ sử dụng vốn không hiệu quả, gây lãng phí rất lớn. Hơn nữa sẽ làm cho mối
quan hệ giữa khách hàng và chi nhánh ít bền chặt và sẽ tác động không nhỏ đến
tổng vốn huy động.
Tâm lý tập quán của khách hàng.
Tâm lý khách hàng là một trong các yếu tố quan trọng. Bất cứ khách hàng nào
khi đem vốn của mình đi đầu tư cũng muốn đồng vốn của mình sinh lời. Đó là sự
mong muốn của công chúng đầu tư. Tuy nhiên, trong thực tế một số ngân hàng thương
mại không quan tâm đúng mức yếu tố này. Đây cũng là một nguyên nhân gây mất lòng
tin của khách hàng đối với ngân hàng, do vậy ngân hàng mất đi một lượng khách hàng
lớn (đồng nghĩa với việc giảm quy mô của nguồn vốn huy động) làm ảnh hưởng tới uy
Nguyễn Thị Toàn NHD-CĐ26
20
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Tài chính – Ngân hàng
tín của ngân hàng trên thị trường. Chính vì vậy, các nhà quản lý ngân hàng phải nghiên
cứu tâm lý, nhu cầu của khách hàng từ đó đưa ra những giải pháp thích hợp nhằm khơi
dậy lòng tin của khách hàng đối với ngân hàng. Ngân hàng phải có địa điểm giao dịch
thuận tiện, đây là yếu tố cần thiết nhằm thu hẹp không gian, rút ngắn thời gian cho
khách hàng khi đến giao dịch. Tạo điều kiện cho khách hàng mở rộng khối lượng giao
dịch, đồng thời góp phần nâng cao chất lượng huy động vốn. Nhân viên ngân hàng
phải thường xuyên giúp đỡ khách hàng, tạo cho khách hàng niềm tin vào ngân hàng.
Từ đó khách hàng thấy được sự quan tâm của ngân hàng đối với mình và sẵn sàng tìm

đến ngân hàng khi có nhu cầu.
Nguyễn Thị Toàn NHD-CĐ26
21
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Tài chính – Ngân hàng
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG HUY ĐỘNG VỐN TẠI
NHNo-KVI TỈNH THÁI BÌNH
2.1. Tổng quan về NHNo-KVI Tỉnh Thái Bình
2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của NHNo-KVI Tỉnh Thái Bình.
Chi nhánh NHNo-KVI Tỉnh Thái Bình được thành lập từ ngày
01/07/2003 trên cơ sở là sự sát nhập công ty vàng bạc đá quý Thái Bình vào
NHNo khu vực Tỉnh Thái Bình.
NHNo-KVI Tỉnh Thái Bình là một chi nhánh trực thuộc NHNo&PTNT
Tỉnh Thái Bình thực hiện vai trò tạo lập nguồn vốn, cung cấp các dịch vụ ngân
hàng đáp ứng nhu cầu tín dụng của các thành phần kinh tế trên địa bàn, góp phần
thực hiện các mục tiêu, chương trình, giải pháp của tỉnh và Nhà nước đề ra, định
hướng phát triển kinh doanh của NHNo&PTNT Việt Nam và công cuộc công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Chi nhánh NHNo-KVI Tỉnh Thái Bình có trụ sở chính tại 81- Lê Lợi -
thành phố Thái Bình, Tỉnh Thái Bình với một trụ sở chính và một phòng giao
dịch Đông Mỹ tại xã Đông Mỹ, thành phố Thái Bình.
NHNo-KVI là ngân hàng cấp 2 có địa bàn hoạt động rộng. Thành phố
Thái Bình là trung tâm kinh tế, chính trị, xã hội của tỉnh, tập trung nhiều quan hệ
kinh tế buôn bán lớn, nhiều doanh nghiệp hoạt động. Hoạt động của NHNo-KVI
tuân thủ theo luật ngân hàng và luật các TCTD.
Hiện tại NHNo-KVI có 41 nhân viên gồm 1 giám đốc, 2 phó giám đốc và
các ban phòng ban sau: phòng hành chính nhân sự, phòng kế hoạch kinh doanh
( bao gồm phòng tín dụng và phòng kế hoạch ), phòng kế toán ngân quỹ, phòng
giao dịch Đông Mỹ.
Chức năng, nhiệm vụ cơ bản của các phòng chuyên môn nghiệp vụ như
sau:

Nguyễn Thị Toàn NHD-CĐ26
22
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Tài chính – Ngân hàng
 Ban giám đốc: gồm 1 giám đốc và 2 phó giám đốc.
Giám đốc là người chịu toàn bộ trách nhiệm trước pháp luật và trước giám
đốc NHNo&PTNT Tỉnh Thái Bình. Giúp việc cho giám đốc là hai phó giám đốc
trong chỉ đạo, điều hành, tham gia chỉ đạo nghiệp vụ do giám đốc phân công và
thay mặt giám đốc khi được ủy quyền.
 Phòng kế hoạch kinh doanh
Là phòng rất quan trọng trong việc nghiên cứu xây dựng các kế hoạch, hỗ
trợ đắc lực cho ban lãnh đạo ngân hàng trong việc ra các quyết định kinh doanh
chiến lược của ngân hàng. Nhiệm vụ của phòng kế hoạch kinh doanh là:
- Nghiên cứu và đề xuất chiến lược khách hàng, chiến lược huy động vốn trên
địa bàn thành phố Thái Bình.
- Xây dựng chiến lược kinh doanh theo định hướng kinh doanh của ngân hàng
Tỉnh.
- Tổng hợp, theo dõi các chỉ tiêu kế hoạch kinh doanh và quyết toán kế hoạch
hoạt động, xây dựng các báo cáo trình ban giám đốc.
- Cân đối nguồn vốn, sử dụng nguồn vốn và điều hòa vốn kinh doanh.
- Làm đầu mối thực hiện thông tin phòng ngừa rủi ro và xử lý thông tin tín dụng.
Trong đó, phòng tín dụng có chức năng:
- Nghiên cứu xây dựng chiến lược khách hàng, phân loại khách hàng và đề xuất
các chính sách ưu đãi tín dụng đối với khách hàng.
- Thẩm định và cho vay theo cấp ủy quyền nhằm mở rộng hoạt động tín dụng,
đảm bảo an toàn và hiệu quả.
- Tiếp nhận chương trình, dự án thuộc nguồn vốn trong và ngoài nước, trực tiếp
làm dịch vụ ủy thác nguồn vốn Chính Phủ, bộ, ngành và các cá nhân, tổ chức
kinh tế trong nước.
- Tổng hợp báo cáo định kỳ và thường xuyên theo dõi, tư vấn cho giám đốc về
những lĩnh vực do phòng phụ trách.

Nguyễn Thị Toàn NHD-CĐ26
23
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Tài chính – Ngân hàng
 Phòng kế toán ngân quỹ:
- Ghi chép, thống kê giao dịch, hạch toán kế toán, thanh toán.
- Lập các báo cáo, xây dựng các chỉ tiêu kế hoạch tài chính, quyết toán kế hoạch
thu chi tài chính.
- Tổng hợp, lưu trữ hồ sơ tài liệu về hạch toán, kế toán, quyết toán và báo cáo
theo quy định.
- Thực hiện các nghiệp vụ thanh toán, chuyển tiền, gửi tiền, chi trả kiều hối…
 Phòng hành chính nhân sự: nằm trong bộ máy giúp việc cho giám đốc
và phục vụ cho các phòng nghiệp vụ trong quá trình hoạt động kinh
doanh.
- Chấp hành quy định, lề lối làm việc trong đơn vị và mối liên hệ với tổ chức
Đảng, công đoàn.
2.2. Tình hình hoạt đông kinh doanh của NHNo- KVI Tỉnh Thái Bình
2.2.1. Tình hình huy động vốn.
Nhận thức được tầm quan trọng của Vốn đối với hoạt động kinh doanh Ngân
hàng, để đảm bảo đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn tín dụng cho nền kinh tế.
NHNo- KVI Tỉnh Thái Bình coi trọng nghiệp vụ nguồn vốn mà chủ yếu là công
tác huy động vốn. Kết quả công tác huy động vốn từ năm 2009 trở lại đây được
thể hiện qua Bảng 2.1 như sau:
Nguyễn Thị Toàn NHD-CĐ26
24
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Tài chính – Ngân hàng
Bảng 2.1. Kết quả công tác huy động vốn.
Đơn vị: Triệu đồng
Chỉ Tiêu 2009 2010
Tỉ lệ tăng
2010/2009(%)

2011
Tỉ lệ tăng
2011/2010(%)
Tổng nguồn vốn
huy động
131,665.50 141,485.22 7.45 180,928.44 27.88
Tiền gửi của
khách hàng
125,724.16 137,311.82 9.22 178,737.44 30.17
Phát hành giấy tờ
có giá
5,941.34 4,173.40 -29.76 2,191.00 -47.50
(Nguồn: BCĐ chi tiết của NHNo-KVI Tỉnh Thái Bình)
Để tạo được tính chủ động trong kinh doanh và đáp ứng tốt nhất nhu cầu vốn
của khách hàng thì các ngân hàng phải tạo cho mình nguồn vốn dồi dào dựa trên
tình hình thực tế của địa bàn và biện pháp huy động vốn phù hợp. Nhận biết
được vai trò của nguồn vốn huy động đối với hoạt động ngân hàng, trong những
năm qua, công tác huy động vốn tại chi nhánh ngày càng được chú trọng theo
hướng nâng cao cả về số lượng và chất lượng. Chi nhánh đã luôn chủ động tích
cực trong công việc, giải quyết nhanh chóng các nghiệp vụ với thái độ phục vụ
văn minh, thân thiện khiến khách hàng luôn cảm thấy thoải mái khi đến giao
dịch tại chi nhánh. Đó là một cách thông minh để có thể lôi kéo, giữ chân khách
hàng trong bối cảnh lãi suất huy động hiện nay giữa các ngân hàng hầu như
không có sự khác biệt. Công tác tiết kiệm được thực hiện đúng quy trình, đảm
bảo an toàn, đã được sự yên tâm tin tưởng của khách hàng. Đó là lý do tại sao
nguồn vốn huy động được không ngừng tăng qua các năm từ 2009 đến 2011.
Năm 2010 tăng 7.45% (9,819.72 triệu đồng) so với năm 2009 trong đó mặc dù
nguồn vốn từ phát hành giấy tờ có gía giảm 1,767.94 triệu đồng (giảm 29.76%)
so với năm 2009 nhưng nguồn vốn huy động từ tiền gửi của khách hàng tăng
Nguyễn Thị Toàn NHD-CĐ26

25

×