KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP GVHD: T.S PHẠM THỊ
VÂN ANH
Trong 10 năm thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010,
chúng ta đã tranh thủ thời cơ, thuận lợi, vượt qua nhiều khó khăn, thách thức, nhất
là những tác động tiêu cực của hai cuộc khủng hoảng tài chính - kinh tế khu vực và
toàn cầu, đạt được những thành tựu to lớn và rất quan trọng, đất nước đã ra khỏi
tình trạng kém phát triển, bước vào nhóm nước đang phát triển có thu nhập trung
bình. Phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo
hướng hiện đại; đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được nâng lên rõ rệt; vị
thế của Việt Nam trên trường quốc tế tiếp tục được nâng lên; tạo tiền đề vững chắc
để phát triển cao hơn trong giai đoạn sau.
Để thực hiện được nhiệm vụ đó đòi hỏi một nguồn vốn đầu tư rất lớn bởi vốn
là tiền đề cho sự tăng trưởng kinh tế, mức tăng trưởng kinh tế phụ thuộc vào qui mô
và hiệu quả vốn đầu tư. Vốn có thể được tạo thành từ nhiều nguồn, tuy nhiên trong
điều kiện thị trường tài chính nước ta đang trong giai đoạn bước đầu hình thành và
phát triển thì huy động vốn qua kênh ngân hàng vẫn là phổ biến và hiệu quả nhất.
Với vai trò trung gian tài chính, Ngân hàng thương mại tập trung mọi nguồn vốn
tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế và phân phối chúng cho các nhu cầu đầu tư, sản
xuất kinh doanh và các nhu cầu khác của các tổ chức và cá nhân. Cùng với sự phát
triển chung của nền kinh tế, nhu cầu về vốn ngày càng tăng và đòi hỏi phải được
đáp ứng nhanh chóng kịp thời. Nhu cầu vốn đầu tư ngày càng tăng của nền kinh tế
cũng tương đương với việc huy động vốn của các Ngân hàng thương mại phải được
tăng cường, mở rộng cho phù hợp. Mặt khác việc tăng cường huy động và sử dụng
vốn hợp lý cũng giúp cho hoạt động kinh doanh của Ngân hàng được an toàn, hiệu
quả hơn. Do vậy, công tác huy động vốn đã, đang và sẽ luôn được đặt lên hàng đầu
đối với các ngân hàng thương mại.
Vậy làm thế nào để huy động, khai thác hết mọi nguồn vốn tiềm tàng trong
dân cư, trong các tổ chức kinh tế để đáp ứng nhu cầu vốn của xã hội là vấn đề bức
thiết đối với những NHTM nói chung và đối với Ngân hàng thương mại cổ phần
Hàng Hải chi nhánh Thái Thịnh nói riêng. Chính vì lý do đó trong thời gian thực
SV: NGUYỄN THỌ HẢI LỚP:
NH03_05
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP GVHD: T.S PHẠM THỊ
VÂN ANH
tập, quan sát, tìm hiểu tình hình thực tế tại chi nhánh em đã mạnh dạn nghiên cứu
và chọn đề tài: “Giải pháp tăng cường nguồn vốn huy động vốn tại ngân hàng
thương mại cổ phần Hàng Hải chi nhánh Thái Thịnh” làm Khóa Luận tốt nghiệp
của mình.
Bài viết của em được trình bày theo 3 chương với nội dung cơ bản như sau:
• Chương 1: Lý luận chung về hoạt động huy động vốn của Ngân
hàng thương mại.
• Chương 2: Thực trạng hoạt động huy động vốn tại ngân hàng
TMCP Hàng Hải chi nhánh Thái Thịnh.
• Chương 3: Giải pháp tăng cường hoạt động huy động vốn tại Ngân
hàng TMCP Hàng Hải chi nhánh Thái Thịnh
Do thời gian thực tập tại đơn vị chưa lâu, cũng như một vài hạn chế về
trình độ lý luận, kinh nghiệm hiểu biết thực tế nên chuyên đề của em không tránh
khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được sự góp ý nhận xét của thầy cô, các
anh chị nhân viên trong chi nhánh Thái Thịnh để bài khóa luận của em được hoàn
thiện hơn. Nhân đây, em cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất đến cô giáo
hướng dẫn T.S Phạm Thị Vân Anh, ban giám đốc và các anh chị tại Maritime Bank
Thái Thịnh đã nhiệt tình hướng dẫn giúp đỡ em trong suốt quá trình thực tập và
thực hiện Khóa luận.
SV: NGUYỄN THỌ HẢI LỚP:
NH03_05
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP GVHD: T.S PHẠM THỊ
VÂN ANH
Ngân hàng thương mại là một bộ phận quan trọng trong hệ thống tài chính
quốc gia. Đó là tổ chức thu hút tiết kiệm lớn nhất trong hầu hết các nền kinh tế.
Phần lớn các cá nhân hộ gia đình và các ngân hàng doanh nghiệp, các tổ chức kinh
tế xã hội đều gửi tiền tại ngân hàng thương mại. Do đó, Ngân hàng thương mại
đóng vai trò là người thủ quỹ cho toàn xã hội. Để hiểu rõ hơn vai trò này thì chương
1 sẽ nêu lên cái nhìn tổng quan nhất về Ngân hàng thương mại và hoạt động huy
động vốn tại đây.
!"#$%&"'(#)"*+"#,* "#/01
2*31"14/#)"*+"#,* "#/01
Quá trình phát triển kinh tế là điều kiện tiền đề cho sự phát triển của ngân
hàng và cũng chính sự phát triển của hệ thống ngân hàng đã trở thành động lực của
phát triển kinh tế. Các nhà khoa học đều đồng ý rằng hoạt động ngân hàng xuất hiện
cùng lúc với sự hình thành đời sống kinh tế và xã hội của loài người. Ngân hàng đã
hình thành từ chính nhu cầu phát triển của xã hội và nền kinh tế là nhân tố chính
thúc đẩy ngân hàng ngày một phát triển, nâng cao cả về số lượng lẫn chất lượng các
hoạt động, dịch vụ để trở thành một thành phần cực kỳ quan trọng trong nền kinh tế.
Cùng với sự phát triển khoa học kĩ thuật và công nghệ, hoạt động ngân hàng
đã có những bước tiến rất nhanh. Nhiều nghiệp vụ mới ngày càng phát triển, hình
thức cho vay cũng như hình thức huy động cũng ngày càng phong phú. Thanh toán
điện tử đang thay thế dần dần thanh toán thủ công, các loại thẻ thay thế dần tiền
giấy, dịch vụ ngân hàng 24 giờ, dịch vụ ngân hàng tại nhà đang tạo ra những tiện
ích ngày càng lớn cho người dân và xã hội.
Khái niệm Ngân hàng thương mại: có thể được tiếp cận theo nhiều cách khác
nhau thông qua chức năng, các dịch vụ hoặc vai trò mà chúng thực hiện trong nền
kinh tế.
SV: NGUYỄN THỌ HẢI LỚP:
NH03_05
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP GVHD: T.S PHẠM THỊ
VÂN ANH
Theo Peter.S.Rose - Quản trị ngân hàng thương mại: "Ngân hàng thương
mại là tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất -
đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán - và thực hiện nhiều chức năng
tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế".
Theo khoản 3 - điều 4 Chương 1 - Luật các tổ chức tín dụng năm 2010 được
Quốc hội khóa XII ban hành thì: “Ngân hàng thương mại là loại hình ngân hàng
được thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác
theo quy định của Luật này nhằm mục tiêu lợi nhuận.” (Luật số: 47/2010/QH12)
536*70,89"#6.:;"6<&
Cùng với sự phát triển về số lượng và quy mô các ngân hàng, các hoạt động
ngân hàng cũng trở nên phong phú và đa dạng. Theo khoản 12 điều 4, Luật các tổ
chức tín dụng 2010: “Hoạt động ngân hàng là việc kinh doanh, cung ứng thường
xuyên một hoặc một số các nghiệp vụ sau đây:
a) Nhận tiền gửi;
b) Cấp tín dụng;
c) Cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản.”
Xét một cách khái quát có thể chia các hoạt động của ngân hàng thương mại
như sau: huy động vốn, hoạt động tín dụng, hoạt động cung ứng dich vụ thanh toán
và các hoạt động khác.
1.1.2.1 Hoạt động huy động vốn
Huy động vốn - hoạt động tạo nguồn vốn cho NHTM - đóng vai trò quan
trọng, ảnh hưởng tới chất lượng hoạt động của ngân hàng. NHTM huy động vốn
bằng các phương thức sau :
Nhận tiền gửi: Trong bảng cân đối của NHTM thì nguồn tiền gửi chiếm tỷ
trọng lớn nhất và cũng là nguồn quan trọng nhất. Nhận tiền gửi là một dịch vụ mà
ngân hàng cung cấp để bảo quản hộ người gửi tiền với cam kết trả đúng hạn. Các
khoản tiền gửi tiết kiệm và tiền gửi thanh toán là một trong những nguồn tiền quan
trọng nhất mà ngân hàng huy động. Ngân hàng trả lãi cho các khoản tiền gửi này.
Lãi suất phụ thuộc vào tính chất, kỳ hạn, thời gian gửi và được quyết định bởi cung
SV: NGUYỄN THỌ HẢI LỚP:
NH03_05
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP GVHD: T.S PHẠM THỊ
VÂN ANH
cầu tiền gửi trên thị trường tài chính. Lãi tiền gửi chính là phần thưởng cho sự hy
sinh việc tiêu dùng trước mắt của khách hàng để cho ngân hàng sử dụng vào mục
đích kinh doanh của mình.
Phát hành giấy tờ có giá: Các NHTM phần lớn sử dụng nghiệp vụ này để thu
hút các khoản vốn có tính thời hạn tương đối dài và ổn định, nhằm đảm bảo khả
năng đầu tư, khả năng cung cấp đủ các khoản tín dụng mang tính trung và dài hạn
vào nền kinh tế. Hơn nữa, nghiệp vụ này còn giúp các NHTM giảm thiểu rủi ro và
tăng cường tính ổn định vốn trong hoạt động kinh doanh.
Đi vay: Nghiệp vụ đi vay được các NHTM sử dụng thường xuyên nhằm mục
đích tạo vốn kinh doanh cho mình bằng việc vay các tổ chức tín dụng trên thị
trường tiền tệ và vay Ngân hàng nhà nước dưới các hình thức tái chiết khấu hay vay
có đảm bảo
Ngoài ba nghiệp vụ huy động vốn cơ bản kể trên, NHTM còn có thể tạo vốn
kinh doanh cho mình thông qua việc nhận làm đại lý hay uỷ thác vốn cho các tổ
chức, cá nhân trong và ngoài nước. Đây là khoản vốn huy động không thường
xuyên của NHTM, thường để nhận được khoản vốn này đòi hỏi các Ngân hàng phải
lập ra các dự án cho từng đối tượng hoặc nhóm đối tượng phù hợp với đối tượng
các khoản vay.
1.1.2.2 Hoạt động tín dụng
Các nguồn vốn sau huy động sẽ được ngân hàng thương mại phân bổ sử dụng
vào các mục tiêu khác nhau. Nguyên tắc hoạt động của ngân hàng là dự trữ một
phần, phần còn lại được sử dụng vào các nghiệp vụ sinh lời nhằm tạo ra thu nhập để
bù đắp chi phí hoạt động và có lợi nhuận. Các NHTM lớn hiện nay thực hiện đa
dạng hóa các hình thức tín dụng từ ngắn, trung, dài hạn. Ngân hàng cấp tín dụng
cho tổ chức, cá nhân dưới các hình thức cho vay, chiết khấu thương phiếu và giấy tờ
có giá khác, bảo lãnh, cho thuê tài chính và các hình thức khác theo quy định của
NHNN.
Điều 4 chương 1 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010:
“14. Cấp tín dụng là việc thỏa thuận để tổ chức, cá nhân sử dụng một khoản
tiền hoặc cam kết cho phép sử dụng một khoản tiền theo nguyên tắc có hoàn trả
SV: NGUYỄN THỌ HẢI LỚP:
NH03_05
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP GVHD: T.S PHẠM THỊ
VÂN ANH
bằng nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bao thanh toán, bảo lãnh
ngân hàng và các nghiệp vụ cấp tín dụng khác.”
= #*14>'?6*7'&@
Cho vay là một chức năng, một nhiệm vụ cơ bản nhất của hệ thống ngân hàng
thương mại. Về bản chất, với nghiệp vụ này ngân hàng chuyển giao quyền sử dụng
đối với một lượng vốn nhất định của mình cho một bên thứ hai để đổi lấy thu nhập
về lãi. Đối với ngân hàng, cho vay là nghiệp vụ mang lại lợi nhuận chủ yếu, là
nguồn thu nhập chính bù đắp các chi phí trong hoạt động của ngân hàng. Với một
ngân hàng trung bình, thu nhập từ cho vay chiếm 70 – 80% tổng số thu nhập. Tuy
nhiên do mối quan hệ giữa thu nhập và rủi ro, cho vay cũng là nghiệp vụ tiềm ẩn
nhiều mối lo ngại nhất cho các ngân hàng, trong đó rủi ro lớn nhất mà ngân hàng
thường xuyên phải đối mặt là rủi ro tín dụng, ngân hàng không thu hồi được vốn.
Do vậy trong hoạt động của mình, các cán bộ tín dụng của ngân hàng phải luôn đề
cao tinh thần trách nhiệm, cảnh giác không ngừng học hỏi để tránh cho ngân hàng
những tổn thất lớn.
Nghiệp vụ cho vay được phân chia theo nhiều tiêu thức kỳ hạn gồm 3 nhóm là
cho vay ngắn hạn, cho vay trung hạn và cho vay dài hạn; hoặc phân chia theo lĩnh
vực cho vay thành cho vay công nghiệp, cho vay dự án, cho vay tiêu dùng, Các
ngân hàng hiện nay đang rất chú trọng phát triển các dịch vụ cho vay tiêu dùng khi
mà nhu cầu mua sắm những hàng hóa sa xỉ trong dân chúng tăng.
= #*14> '? 6*1A, B*C%D ,31 6*1A, B*C% 6E"# 6? 6*%@F"
"*-G"#'+#1C@,H6I#13B*36
Là nghiệp vụ trong đó ngân hàng thực hiện việc mua lại các giấy tờ có giá với
mục đích hưởng một mức lợi tức – thường gọi là lãi suất chiết khấu – tương xứng
với chi phí vốn và rủi ro mà ngân hàng phải đảm nhận khi sở hữu các giấy tờ có giá
đó. Các giấy tờ thường được ngân hàng chiết khấu là thương phiếu, các giấy nợ như
trái khoán hay hối phiếu chấp nhận thanh toán. Sau khi chiết khấu, ngân hàng có thể
giữ tài sản này tới lúc đáo hạn hoặc tiến hành tái chiết khấu tại Ngân hàng Nhà
nước hay bán lại trên thị trường tiền tệ.
= #*14>'?6*7,*%J,+1K;"L,*%JM/%&N
SV: NGUYỄN THỌ HẢI LỚP:
NH03_05
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP GVHD: T.S PHẠM THỊ
VÂN ANH
Cho thuê tài sản có hai hình thức chủ yếu là cho thuê nghiệp vụ và cho thuê tài
chính. Hoạt động cho thuê của Ngân hàng thương mại chủ yếu là cho thuê tài chính.
Cho thuê tài chính là hoạt động tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng dành cho
khách hàng doanh nghiệp. Khi này, ngân hàng cam kết mua và cho thuê lại máy
móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển và các động sản khác theo yêu cầu của doanh
nghiệp. Trong suốt thời gian thuê, ngân hàng vẫn là chủ sở hữu tài sản và doanh
nghiệp có nghĩa vụ thanh toán tiền thuê cho ngân hàng theo hợp đồng đã ký giữa 2
bên. Lãi suất cho thuê thường cao do thời gian thực hiện nghiệp vụ cho thuê và
nhiều loại chi phí phát sinh.Bên cạnh đó thì khi khách hàng kinh doanh không hiệu
quả không đáp ứng được tiền thuê trong khi nhiều tài sản mang tính đặc chủng khó
bán … nên rủi ro cho thuê rất cao với các Ngân hàng. Do vây, Ngân hàng phải tiến
hành phân tích một cách kỹ lưỡng hay tốt nhất là lập các phòng cho thuế hoặc công
ty cho thuê để thực hiện và quản lý hoạt động cho thuê.
= #*14>'?:;7OP"*
Bảo lãnh ngân hàng chính là việc ngân hàng cam kết sẽ thanh toán cho bên thụ
hưởng của hợp đồng khoản đền bù trong phạm vi của số tiền được nêu rõ trong giấy
bảo lãnh nếu bên đối tác không thực hiện được trách nhiệm của mình trong hợp
đồng. Ngân hàng không bảo lãnh việc bên đối tác có thực hiện nghĩa vụ hợp đồng
của mình cho bên thụ hưởng hay không mà chỉ đảm bảo sự thanh toán trong phạm
vi số tiền trong giấy bảo lãnh.
Bảo lãnh sẽ giảm thiểu rủi ro, hơn nữa khách hàng không phải thanh toán
ngay cho bên đối tác vì đã có bảo lãnh của ngân hàng do đó có cơ hội trì hoãn việc
thanh toán và làm tăng tài sản lưu thông hiện có.Theo mục tiêu, bảo lãnh được chia
thành: Bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh bảo hành, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh
thanh toán, bảo lãnh nhận hàng.
Các hình thức bảo đảm bao gồm : Ký quỹ bằng tiền, bảo đảm tiền gửi có kỳ
hạn tại ngân hàng thương mại, Cầm cố/ Thế chấp tài sản, Bảo lãnh của bên thứ ba
và các hình thức khác theo quy định của pháp luật.
= #*14>'?Q&7,*&"*,73"
SV: NGUYỄN THỌ HẢI LỚP:
NH03_05
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP GVHD: T.S PHẠM THỊ
VÂN ANH
Gồm có: Bao thanh toán trong nước; bao thanh toán quốc tế đối với các ngân
hàng được phép thực hiện thanh toán quốc tế. Bao thanh toán là hình thức cấp tín
dụng cho bên bán hàng hoặc bên mua hàng thông qua việc mua lại có bảo lưu
quyền truy đòi các khoản phải thu hoặc các khoản phải trả phát sinh từ việc mua,
bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ theo hợp đồng mua, bán hàng hoá, cung ứng dịch
vụ.
Đơn vị bao thanh toán chịu toàn bộ rủi ro khi bên mua hàng không có khả
năng hoàn thành nghĩa vụ thanh toán khoản phải thu, và chỉ có quyền đòi lại số tiền
đã ứng trước cho bên bán hàng trong trường hợp bên mua hàng từ chối thanh toán
khoản phải thu do bên bán hàng giao hàng không đúng như thoả thuận tại hợp đồng
mua, bán hàng hoặc vì một lý do khác không liên quan đến khả năng thanh toán của
bên bán hàng.
= #7+1R&D Ngân hàng còn phát hành thẻ tín dụng cho phép
khách hàng thấu chi trong hạn mức quy định. Với một chiếc thẻ tín
dụng trong ta có thể chi tiêu vượt quá số tiền hiện có trong tài khoản mà
chỉ phải thanh toán một khoản tối thiểu trước ngày đáo hạn ghi trên
bảng sao kê nhờ chức năng dùng trước, trả sau của thẻ tín dụng,
Hầu hết các điểm bán lẻ lớn hiện nay đều chấp nhận việc thanh toán
bằng thẻ tín dụng. Nếu bạn là một tín đồ shopping, đặc biệt là người thường xuyên
đi nước ngoài, bạn không thể không sở hữu một chiếc thẻ tín dụng. Hầu hết các
ngân hàng đều cung cấp cả hai loại thẻ tín dụng nội địa và quốc tế để khách hàng
lựa chọn.
1.1.2.3 Cung ứng dịch vụ thanh toán
Tại khoản 15 điều 4 chương 1 – Luật các tổ chức tín dụng 2010 nêu rõ:
“Cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản là việc cung ứng phương tiện
thanh toán; thực hiện dịch vụ thanh toán séc, lệnh chi, ủy nhiệm chi, nhờ thu, ủy
nhiệm thu, thẻ ngân hàng, thư tín dụng và các dịch vụ thanh toán khác cho khách
hàng thông qua tài khoản của khách hàng.”
Ngân hàng không chỉ bảo quản tiền gửi của khách hành mà còn thực hiện các
lệnh chi trả cho khách hàng. Thực hiện chi trả thông qua tài khoản ngân hàng mang
SV: NGUYỄN THỌ HẢI LỚP:
NH03_05
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP GVHD: T.S PHẠM THỊ
VÂN ANH
lại cho khách hàng nhiều lợi ích như thanh toán nhanh, chính xác tiết kiệm chi phí
và an toàn, góp phần rút ngắn thời gian kinh doanh và nâng cao thu nhập cho khách
hàng. Phạm vi thanh toán qua ngân hàng càng được mở rộng khi ngân hàng mở
rộng thêm nhiều chi nhánh. Việc cung cấp các tài khoản giao dịch của ngân hàng
góp phần nâng cao hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt trong nền kinh tế.
Cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin ngân hàng đã phát triển các hình
thức thanh toán mới bằng điện thoại, thẻ ATM bên cạnh các hình thức thanh toán
truyền thống như ủy nhiệm thu, ủy nhiệm chi, L/C, séc
Các dịch vụ thanh toán bao gồm: chuyển tiền, thanh toán xuất khẩu, thanh
toán nhập khẩu, Séc, trả lương tự động, thanh toán hóa đơn.
1.1.2.4 Các hoạt động khác.
ST6*'?"#)"$%Uquản lý tiền mặt, tư vấn ngân hàng, tài chính; các dịch vụ
quản lý, bảo quản tài sản, cho thuê tủ, két an toàn.
I>'V"D/%&6!>*W" Ngân hàng thương mại chỉ được dùng vốn điều lệ và
quỹ dự trữ để góp vốn thành lập hoặc mua lại công ty con, công ty liên kết để thực
hiện hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực bảo hiểm, chứng khoán, kiều hối, kinh
doanh ngoại hối, vàng, bao thanh toán, phát hành thẻ tín dụng, tín dụng tiêu dùng,
dịch vụ trung gian thanh toán, thông tin tín dụng.
*&/#1&,*T,R-H"#,1(",4 Ngân hàng thương mại được tham gia đấu thầu
tín phiếu Kho bạc, mua, bán công cụ chuyển nhượng, trái phiếu Chính phủ, tín
phiếu Kho bạc, tín phiếu Ngân hàng Nhà nước và các giấy tờ có giá khác trên thị
trường tiền tệ.
#*14>'?<@,*36'+801OX Ngân hàng thương mại được quyền ủy thác,
nhận ủy thác, đại lý trong lĩnh vực liên quan đến hoạt động ngân hàng, kinh doanh
bảo hiểm, quản lý tài sản theo quy định của Ngân hàng Nhà nước.
-'C",+16*Y"* doanh nghiệp, tư vấn mua, bán, hợp nhất, sáp nhập doanh
nghiệp và tư vấn đầu tư.
%&D:3",R31 phiếu Chính phủ, trái phiếu doanh nghiệp.
ST6*'?/E1 giới tiền tệ.
SV: NGUYỄN THỌ HẢI LỚP:
NH03_05
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP GVHD: T.S PHẠM THỊ
VÂN ANH
-%BX6*Z"#B*73", kinh doanh vàng và các hoạt động kinh doanh
khác liên quan đến hoạt động ngân hàng sau khi được Ngân hàng Nhà nước chấp
thuận bằng văn bản.
Ngoài ra, Một số Ngân hàng thương mại được NHNN cho phép kinh doanh,
cung ứng dịch vụ ngoại hối và sản phẩm phái sinh
[&1,R\6<&8V1']1K^>*3,,R1F"B1"*,A
= Cung cấp nhu cầu vay vốn cho sự phát triển kinh tế
= Tạo tiền: Tạo vốn cho sự phát triển kinh tế
= Biến tiết kiệm thành đầu tư
= Nâng cao hiệu quả kinh tế
= Rút ngắn tốc độ lưu thông hàng hoá và tiền tệ
= Góp phần làm cho sản xuất kinh doanh diễn ra liên tục không bị
đứt quãng cung cấp vốn đầu tư và các công cụ lưu thông tín dụng.
= Thúc đẩy và củng cố hạch toán kinh tế
= Tham gia vào sự ổn định và phát triển của thị trường tài chính và
thị trường chứng khoán.
= Cung cấp thông tin, tư vấn và dịch vụ đầu tư.
= Tiến hành cung cấp các dịch vụ kinh doanh chứng khoán
= Tham gia kiểm soát các hoạt động kinh tế.
5V"6<&#)"*+"#,* "#/01
Ngân hàng thương mại là một trong những định chế tài chính quan trọng nhất
của hệ thống tài chính quốc gia. Đối với sự vận hành của nền kinh tế quốc gia, nếu
nguồn vốn được xem như là máu trong một cơ thể sống thì hệ thống các ngân hàng
thương mại là các mao mạch chính. Chính vì lẽ đó vốn luôn đóng một vai trò then
chốt trong hoạt động của các Ngân hàng thương mại.
5 2*31"14/'('V"6<&
Trước hết, chúng ta sẽ tìm hiểu một cách khái quát về vốn hay vốn trong kinh
tế học. Trong tác phẩm Tư bản luận của mình, Các Mác đã khái quát phạm trù vốn
SV: NGUYỄN THỌ HẢI LỚP:
NH03_05
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP GVHD: T.S PHẠM THỊ
VÂN ANH
thành phạm trù cơ bản. Theo Các Mác, tư bản là giá trị mang lai giá trị thặng dư.
Định nghĩa này thể hiện đầy đủ tổng quát bản chất của vốn:
1) vốn phải đại diện cho một loại tài sản nhất định nào đó;
2) vốn phải luôn luôn vận động, luôn luôn sinh lời trong quá trình vận động;
3) vốn là một loại hàng hóa và cũng như những loại hàng hóa khác, nó có chủ
đích thực. Nói ngắn gọn, vốn là một bộ phận của cải được dùng vào sản xuất để làm
ra của cãi nhiều hơn.
Dựa trên những lý luận cơ bản đó thì các nhà kinh tế học đã đưa ra khái niệm
về vốn của NHTM như sau: “Vốn của ngân hàng thương mại là những giá trị tiền tệ
do bản thân ngân hàng thương mại tạo lập hoặc huy động được dùng để cho vay,
đầu tư hoặc thực hiện các dịch vụ kinh doanh khác”.
Việc tạo lập và huy động vốn hình thành nên các khoản mục bên tài sản nợ
của bảng cân đối tài sản của ngân hàng thương mại. Việc sử dụng vốn để cho vay,
đầu tư, thực hiện các dịch vụ ngân hàng hình thành nên các khoản mục bên tài sản
có của bảng cân đối tài sản ngân hàng thương mại.
5 5.6C%'V"6<&6<&
Về cơ bản nguồn vốn của ngân hàng có thể được phân loại thành các dạng cơ
bản sau: vốn chủ sở hữu, vốn nợ. Mỗi loại nguồn vốn lại có những đặc điểm và vai
trò riêng nhưng đã góp phần tạo nên tính bền vững và phát triển cho ngân hàng.
1.2.2.1 Vốn chủ sở hữu :
Vốn chủ sở hữu là nguồn vốn cơ bản, tiên quyết của bất kỳ Ngân hàng thương
mại nào. Hơn nữa, đây còn là đối tượng quản lý chặt chẽ của Ngân hàng Trung
ương nhằm đảm bảo an toàn cho những người gửi tiền.
Về mặt quản lý, theo các cơ quan quản lý ngân hàng, vốn chủ sở hữu của ngân
hàng được chia làm hai loại:
• Vốn ban đầu : hay vốn chủ sở hữu hình thành khi ngân hàng
bắt đầu hoạt động. Tùy theo tính chất của mỗi ngân hàng mà nguồn gốc
hình thành vốn ban đầu khác nhau
SV: NGUYỄN THỌ HẢI LỚP:
NH03_05
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP GVHD: T.S PHẠM THỊ
VÂN ANH
• Vốn chủ sở hữu hình thành trong quá trình hoạt động ( VCSH
bổ sung )
Trong quá trình hoạt động ngân hàng gia tăng vốn chủ sở hữu theo nhiều
phương thức khác nhau tùy thuộc vào điều kiện cụ thể
Nguồn từ lợi nhuận giữ lại (lợi nhuận chưa phân phối) trong điều
kiện thu nhập ròng lớn hơn không. Tỷ lệ tích lũy tùy thuộc vào quyết định
của hội đồng quản trị
Nguồn bổ sung từ phát hành thêm cổ phần, góp thêm, cấp thêm…
để mở rộng quy mô hoạt động. Nguồn này không thường xuyên, song giúp
cho ngân hàng có được lượng vốn sở hữu lớn vào lúc cần thiết.
Các quỹ: Nguồn hình thành các quỹ từ thu nhập của Ngân hàng.
Ngân hàng có nhiều quỹ và mỗi quỹ lại có mục đích riêng như quỹ dự phòng
tổn thất, quỹ bảo toàn vốn, quỹ thặng dư, quỹ phúc lợi, khen thưởng…
Nguồn vay nợ có thể chuyển đổi thành cổ phần: tín phiếu vốn, trái
phiếu chuyển đổi…Một số khoản vay trung và dài hạn của ngân hàng thương
mại được ngân hàng quy định có thể chuyển đổi thành vốn cổ phần. Đây là
khoản nợ lưỡng tính.
Đặc điểm của vốn chủ sở hữu:
= là nguồn vốn ổn định và luôn tăng trưởng trong qúa trình hoạt động
của ngân hàng.
= chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn tuy nhiên nó lại giữ một
vai trò rất quan trọng vì nó là cơ sở để hình thành nên các nguồn vốn khác
của ngân hàng đồng thời tạo nên uy tín ban đầu của ngân hàng.
= quyết định quy mô hoạt động của ngân hàng, là cơ sở để xác định
giới hạn huy động vốn của ngân hàng. Nó còn là đối tượng mà các cơ quan
quản lý ngân hàng thường hướng vào đó để ban hành những quy định nhằm
điều chỉnh hoạt động của các ngân hàng, là tiêu chuẩn để xác định tính an
toàn.
1.2.2.2 Vốn nợ
DV"*%@89"#
SV: NGUYỄN THỌ HẢI LỚP:
NH03_05
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP GVHD: T.S PHẠM THỊ
VÂN ANH
Vốn huy động là nguồn vốn hình thành trong quá trình hoạt động kinh doanh
của Ngân hàng thương mại. Đó là những giá trị tiền tệ mà ngân hàng huy động
được từ công chúng thông qua việc bán các sản phẩm dịch vụ cho khách hàng.
Ngân hàng có nhiều hình thức nhằm tăng nguồn vốn huy động chủ yếu từ tiền
gửi bao gồm
= Tiền gửi thanh toán, tiền gửi có kì hạn của doanh nghiệp, các
tổ chức xã hội, tiền gửi tiết kiệm của dân cư, tiền gửi của các ngân hàng
và tổ chức tín dụng khác.
= Phát hành giấy tờ có giá: kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền
gửi, trái phiếu…
= Vốn đi vay: nhằm đảm bảo và phát triển hoạt động kinh
doanh của mình, Ngân hàng có thể đi vay từ nhiều nguồn khác nhau như :
vay từ Ngân hàng Nhà nước, vay từ các tổ chức tín dụng khác. Nguồn
vốn vay chỉ chiếm tỷ trọng không lớn trong kết cấu nguồn song nó rất cần
thiết, đảm bảo độ an toàn trong hoạt động ngân hàng.
Các hình thức này sẽ được tìm hiểu kĩ hơn ở phần “ các hình thức huy động
vốn”ở mục 3 của chương này.
QDV""GB*36.
Ngoài những nguồn vốn cơ bản trên, Ngân hàng còn có các nguồn vốn khác
như:
1. Nguồn uỷ thác: NHTM thực hiện các dịch vụ uỷ thác như uỷ thác
cho vay, uỷ thác đầu tư, uỷ thác cấp phát, uỷ thác giải ngân và thu
hộ….Trong đó Uỷ thác Đầu tư là dịch vụ khá hấp dẫn của ngân hàng. Với
dịch vụ này, khách hàng uỷ thác tiền bạc, tài sản của mình cho ngân hàng để
ngân hàng tiến hành đầu tư vào những dự án khả thi để sinh lãi. Ngân hàng
với lợi thế về uy tín và thông tin cũng như khả năng thẩm định dự án tốt sẽ
tiến hành hoạt động đầu tư có hiệu quả hơn, mang lại thu nhập cho khách
hàng đồng thời thu lời cho chính mình qua phí dịch vụ.
2. Nguồn trong thanh toán: Các hoạt động thanh toán không dùng tiền
mặt có thể hình thành nguồn trong thanh toán ( séc trong quá trình chi trả,
SV: NGUYỄN THỌ HẢI LỚP:
NH03_05
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP GVHD: T.S PHẠM THỊ
VÂN ANH
tiền ký quỹ L/C…), Hoặc các ngân hàng là ngân hàng đầu mối trong đồng tài
trợ có kết dư tiền gửi từ tiền của các ngân hàng thành viên chuyển về để cho
vay. Đặc điểm của nguồn này là thời gian tồn tại ngắn vì phần lớn chúng đều
ở trong trạng thái chờ luân chuyển, do đó các ngân hàng ít khi chỉ sử dụng
chúng để cho vay lâu dài mà chỉ để bổ sung thêm nguồn ở thời điểm hiện tại.
3. Nguồn khác: Các khoản phải nộp , phải trả nhưng chưa thực hiện
như Thuế chưa nộp, lương chưa trả…Đây là nguồn mà ngân hàng tạm thời
chiếm dụng, không có ảnh hưởng đáng kể tới nguồn vốn cũng như hoạt động
huy động vốn của ngân hàng.
5 [&1,R\6<&'V"8V1']1
Trước hết, vốn là cơ sở cần thiết cho sự tồn tại và hoạt động của Ngân hàng.
Bất kì một ngân hàng nào muốn tiến hành các hoạt động cho vay hay cung cấp các
dịch vụ đều phải có một số lượng vốn đủ lớn đảm bảo. Chính vì thế các ngân hàng
không ngừng cạnh tranh nhau để thu hút được lượng vốn lớn trên thị trường bằng
nhiều chiến lược khác nhau.
1.2.3.1 Vốn là cơ sở để ngân hàng tổ chức mọi hoạt động kinh doanh
Để bước vào hoạt động kinh doanh thì đầu tiên ngân hàng phải cần có vốn.
Vốn pháp định là số vốn tối thiểu mà Ngân hàng Nhà nước quy định bắt buộc mọi
Ngân hàng thương mại cần có mới được phép thành lập Ngân hàng. Ngân hàng như
chúng ta vẫn được biết là định chế tài chính kinh doanh tiền tệ “đi vay để cho vay”.
Vậy để có hoạt động cho vay thì phải có thứ để mà cho vay. Nguồn vốn phản ánh
tiềm năng và sức mạnh của ngân hàng. Vốn không chỉ là phương tiện kinh doanh
mà còn là đối tượng kinh doanh chủ yếu của ngân hàng thương mại. Nói cách khác,
vốn là điều kiện tiên quyết để Ngân hàng thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh của
mình.
1.2.3.2 Vốn quyết định quy mô hoạt động tín dụng và các hoạt động khác của
Ngân hàng.
Một dẫn chứng cụ thể là với những ngân hàng lớn, việc tham gia tài trợ cho
những dự án lớn luôn dễ dàng hơn các ngân hàng nhỏ. Hoạt động tín dụng của ngân
SV: NGUYỄN THỌ HẢI LỚP:
NH03_05
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP GVHD: T.S PHẠM THỊ
VÂN ANH
hàng phụ thuộc vào vốn của ngân hàng. Ngân hàng có nhiều vốn sẽ có ưu thế cạnh
tranh hơn so với ngân hàng ít vốn. Có được nhiều vốn ngân hàng sẽ có điều kiện để
đưa ra các hình thức tín dụng linh hoạt, có thể làm tăng quy mô tín dụng đáp ứng
nhu cầu về tài chính cho các dự án lớn. Các ngân hàng lớn, nhiều vốn thường có rất
nhiều các dịch vụ ngân hàng. Phạm vi hoạt động kinh doanh của họ sẽ rộng hơn
nhiều các ngân hàng nhỏ.
1.2.3.3 Vốn quyết định khả năng thanh toán và đảm bảo uy tín của ngân hàng
trên thương trường.
Các doanh nghiệp cần gì ở Ngân hàng? Câu hỏi này không khó để trả lời. Bởi
phần lớn số vốn vay cần thiết cho sản xuất kinh doanh đểu xuất phát từ nguồn tín
dụng Ngân hàng, bên cạnh đó việc thanh toán tiền cho đối tác kinh doanh thông qua
Ngân hàng cũng góp một phần đáng kể thúc đẩy thương mại phát triển doanh
nghiệp. Do đó, ắt hẳn doanh nghiệp phải chọn những ngân hàng nào đáp ứng được
những yêu cầu trên. Điều kiện đầu tiên để xây dựng được uy tín của ngân hàng
chính là vốn của ngân hàng. Có nhiều vốn, khả năng thanh toán của ngân hàng luôn
được đảm bảo, các khách hàng luôn cảm thấy yên tâm khi giao thiệp với ngân hàng.
1.2.3.4 Vốn quyết định năng lực cạnh tranh của Ngân hàng.
Trong thời đại kinh tế cạnh tranh khốc liệt như hiện nay, vốn là điều kiện để
các ngân hàng tham gia cạnh tranh. Nó giúp cho ngân hàng mở rộng quy mô hoạt
động, tăng cường quan hệ với các đối tác. Vì thế mà các ngân hàng không ngừng
mở ra những ưu đãi đãi ngộ đặc biệt để thu hút tiền gửi trong dân cư nhằm gia tăng
luồng vốn. Đồng thời nó lôi kéo khách hàng mới, giữ chân các khách hàng truyền
thống. Và khi tiềm lực vốn của Ngân hàng lớn thì tạo nên lợi cạnh tranh không nhỏ,
thu hút được lượng tiền gửi của xã hội như thế doanh số của ngân hàng tăng lên
đồng thời làm tăng nguồn vốn của ngân hàng và lại càng tăng khả năng cạnh tranh
được với các ngân hàng khác trên thị trường. Các dịch vụ ngân hàng sẽ ngày càng
được cải tiến, phát triển và được thực hiện tốt hơn.
[70,89"#*%@89"#'V"6<&#)"*+"#,* "#/01
Huy động vốn có thể được xem là một trong những nghiệp vụ xuất hiện sớm
nhất trong hoạt động của các ngân hàng thương mại.Tuy nhiên cùng với sự phát
SV: NGUYỄN THỌ HẢI LỚP:
NH03_05
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP GVHD: T.S PHẠM THỊ
VÂN ANH
triển của hệ thống ngân hàng hoạt động này không hề bị lãng quên mà còn là một
trong những hoạt động hết sức quan trọng và liên quan đến sự sống còn của các
ngân hàng thương mại.
[ 2*31"14/*70,89"#*%@89"#'V"
Xuất hiện khá lâu đời và không ngừng phát triển, thay đổi cùng với sự phát
triển của các ngân hàng thương mại, nội hàm của khái niệm hoạt động huy động
vốn đã có những thay đổi rất đáng kể, cả về quy mô và các hình thức thể hiện. Hơn
nữa, gần như không tìm được một định nghĩa hoàn thiện về hoạt động này cũng như
không có được sự thống nhất hoàn toàn giữa các quan điểm. Đặc biệt, là sự khác
biệt trong cách hiểu khi đề cập vấn đề này dưới các khía cạnh khác nhau. Huy động
vốn - hoạt động tạo nguồn vốn cho ngân hàng thương mại – đóng vai trò quan
trọng, ảnh hưởng tới chất lượng hoạt động của ngân hàng.
Hay nói một cách khái quát: Hoạt động huy động vốn của các ngân hàng
thương mại là hoạt động mà trong đó các ngân hàng này tìm kiếm nguồn vốn khả
dụng từ các chủ thể khác nhằm đảm bảo sự vận hành bình thường, hiệu quả của
bản thân nó theo đúng các quy định pháp luật
[ 536*_"*,*Z6*%@89"#'V"
Nghiên cứu hoạt động huy động vốn là một việc hết sức cần thiết để qua đó có
những phương pháp quản lý cũng như sử dụng một cách hợp lý nhằm nâng cao hiệu
quả huy động vốn đáp ứng yêu cầu hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
Để làm được điều đó thì điều kiện tiên quyết ta phải tìm hiểu đó là nghiệp vụ
huy động vốn của ngân hàng bao hàm những hoạt động nào hình thức huy động ra
sao.
Cụ thể, tại điều 45, 46, 47, 48 chương 3 “mục 1: Huy động vốn” Luật các Tổ
chức tín dụng 2004 quy định 4 hình thức của hoạt động huy động vốn:
“ Điều 45. Nhận tiền gửi
1. Ngân hàng được nhận tiền gửi của tổ chức, cá nhân và các tổ chức tín dụng
khác dưới các hình thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn và các loại tiền
gửi khác.
SV: NGUYỄN THỌ HẢI LỚP:
NH03_05
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP GVHD: T.S PHẠM THỊ
VÂN ANH
2. Tổ chức tín dụng phi ngân hàng được nhận tiền gửi có kỳ hạn từ một năm
trở lên của tổ chức, cá nhân theo quy định của Ngân hàng Nhà nước.
Điều 46. Phát hành giấy tờ có giá
Khi được Thống đốc Ngân hàng Nhà nước chấp thuận, tổ chức tín dụng được
phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu và giấy tờ có giá khác để huy động vốn của
tổ chức, cá nhân trong nước và ngoài nước.
Điều 47. Vay vốn giữa các tổ chức tín dụng
Các tổ chức tín dụng được vay vốn của nhau và của tổ chức tín dụng nước
ngoài.”
Điều 48. Vay vốn của Ngân hàng Nhà nước
Tổ chức tín dụng là ngân hàng được vay vốn ngắn hạn của Ngân hàng Nhà
nước dưới hình thức tái cấp vốn theo quy định tại Điều 30 của Luật Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam.” ( trích dẫn chương 3 mục 1 – Luật các tổ chức tín dụng 2004 )
1.3.2.1 Hoạt động nhận tiền gửi.
“Nhận tiền gửi là hoạt động nhận tiền của tổ chức, cá nhân dưới hình
thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm, phát hành chứng
chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, tín phiếu và các hình thức nhận tiền gửi khác theo nguyên tắc
có hoàn trả đầy đủ tiền gốc, lãi cho người gửi tiền theo thỏa thuận.”
(theo khoản 13 điều 4 chương I - Luật các tổ chức tín dụng 2010)
Tiền gửi là nguồn vốn huy động từ bên ngoài đầu tiên và quan trọng nhất đối
với mỗi NHTM. Trong cơ cấu vốn của các ngân hàng, tiền gửi luôn chiếm tỷ trọng
lớn và có nhiều ảnh hưởng nhất tới các hoạt động của ngân hàng. Vì thế để gia tăng
tiền gửi trong môi trường cạnh tranh và để có được nguồn tiền gửi chất lượng ngày
càng cao thì các ngân hàng đã đưa ra nhiều hình thức huy động khác nhau.
& 1("#`1,*&"*,73"L*&@,1("#`1#1&7aT6*N
Tiền gửi thanh toán có đặc điểm tương đồng với tiền gửi không kì hạn là loại
tiền gửi mà người gửi có thể rút ra bất cứ lúc nào. Nghĩa là nếu một người vừa gửi
tiền sáng nay, nếu cần anh ta có thể rút ra ngay buổi chiều cùng ngày. Nhung điểm
khác biệt là chủ các tài khoản tiền gửi thanh toán thường thanh toán cho các đối tác
qua tài khoản mà không cần phải đến ngân hàng rút tiền nữa. Việc này đẩy nhanh
SV: NGUYỄN THỌ HẢI LỚP:
NH03_05
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP GVHD: T.S PHẠM THỊ
VÂN ANH
tốc độ lưu thông của tiền và hạn chế bớt tiền mặt trong thanh toán. Chính ưu điểm
này của tiền gửi thanh toán đã khiến nó rất được ưa thích và phổ biến với tất cả mọi
người, đặc biệt là các doanh nghiệp và cá nhân có hoạt động mua bán thường
xuyên.
Đối với ngân hàng, tiền gửi thanh toán cũng là khoản vốn huy động khá hấp
dẫn. Bởi chi phí (lãi suất) cho loại tiền gửi này thấp nhất trong các loại tiền gửi. Để
thu hút tiền gửi thanh toán, các ngân hàng tạo rất nhiều sản phẩm cũng như tiện ích
sử dụng khiến cho khách hàng có rất nhiều lựa chọn. Chỉ riêng về Thẻ đã có rất
nhiều loại và nhiều tính năng phù hợp với mỗi loại khách hàng. Tương lai, tiền gửi
thanh toán sẽ thay thế hầu như toàn bộ tiền mặt, nó không những giúp người sở hữu
thuận lợi trong các giao dịch, ngân hàng có thêm nhiều vốn mà còn giúp Nhà nước
quản lý có hiệu quả lượng tiền mặt trong lưu thông.
: 1("#`16IB_*0"6<&636,!6*Z6B1"*,A
Trong quá trình hoạt động, các doanh nghiệp hay tổ chức luôn có một lượng
tiền tạm thời chưa cần sử dụng, họ gửi nó vào ngân hàng với các kì hạn khác nhau
để hưởng lãi nhằm tạo thêm thu nhập cho mình. Lãi suất của loại tiền gửi này
thường ở mức cao hơn loại tiền gửi thanh toán và tùy thuộc vào lượng tiền cũng
như kỳ hạn gửi của mỗi món tiền gửi . Tuy nhiên lượng tiền gửi có kì hạn của các tổ
chức chiếm một lượng rất nhỏ so với lượng tiền gửi thanh toán , đồng thời rất khó
dự đoán được sự biến động của nó do sự biến động của hoạt động kinh doanh sản
xuất của các doanh nghiệp.
6 1("#`1,1A,B14/
= 1("#`1,1A,B14/B*E"#Bb*0"
Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn là khoản tiền gửi tiết kiệm mà người gửi tiền
có thể rút tiền theo yêu cầu mà không cần báo trước vào bất kỳ ngày làm việc nào
của tổ chức nhận tiền gửi tiết kiệm. Về phương diện điều kiện rút tiền tất toán tài
khoản thì loại hình này giống với tiền gửi thanh toán. Tuy nhiên, mục đích gửi tiền
của hai hình thức khác nhau, nếu với tiền gửi thanh toán thì mục đích của người gửi
tiền là số tiền của họ được đảm bảo an toàn và sử dụng các dịch vụ thanh toán của
Ngân hàng; thì đối với tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn thì mục tiêu chủ yếu là
SV: NGUYỄN THỌ HẢI LỚP:
NH03_05
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP GVHD: T.S PHẠM THỊ
VÂN ANH
hưởng lãi suất. Nhận biết được tâm lý đó nên lãi suất tiền gửi tiết kiệm không kỳ
hạn cao hơn tiền gửi thanh toán. Ở các nước trên thế giới, lãi suất này tương đối
thấp do tính không ổn định của nguồn tiền. Nhưng trong bối cảnh các Ngân hàng
thương mại ở Việt Nam đang “khát” vốn như hiện nay thì lãi suất được các Ngân
hàng đưa ra đang ở mức cao báo động. Các ngân hàng lấy việc tăng lãi suất làm vũ
khí cạnh tranh đồng thời đưa ra những tiện ích, khuyến mại kèm theo.
= 1("#`1,1A,B14/6IBb*0"
Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn là tiền gửi tiết kiệm mà người gửi tiền chỉ có thể
rút tiền sau một kỳ hạn gửi tiền nhất định theo thỏa thuận với tổ chức nhận tiền gửi
tiết kiệm.
Một số tầng lớp dân cư trong xã hội có các khoản thu nhập tạm thời chưa dùng
đến, họ có thể sử dụng để tích luỹ cho tương lai hoặc dự phòng. Người dân có nhiều
cách để giữ số tiền tiết kiệm của mình. Một trong những cách đó là gửi tiền tiết
kiệm tại ngân hàng. Ngân hàng thu hút lương tiền này bằng việc đảm bảo an toàn
cho tài sản của họ đồng thời trả lãi để khuyến khích họ gửi nhiều tiền với thời hạn
lâu dài. Huy động tiền gửi trong tầng lớp dân cư là nghiệp vụ truyền thống đem lại
cho ngân hàng một lượng vốn rất lớn để có thể tiến hành các hoạt động cho vay và
đầu tư sinh lợi.
Gửi tiết kiệm ngắn hạn đang là lựa chọn tốt nhất cho khách hàng có nguồn
tiền nhàn rỗi và loại hình này cũng đang được các nhà băng chú trọng “cạnh tranh”
nhằm giữ chân khách hàng. Không những thế, nhằm đa dạng hóa sản phẩm, phục
vụ nhu cầu ngày càng cao của khách hàng, nhiều nhà băng đã cho ra mắt các sản
phẩm tiện ích, điển hình nhất trong tuần qua là sản phẩm “ Tiết kiệm VNĐ đảm bảo
bằng USD” triển khai thu hút sự quan tâm và được đánh giá cao về tính tiện ích.
Hơn nữa, mức lãi suất huy động trung bình đối cao nhất vẫn thuộc về các kỳ
hạn ngắn hạn. Với các kỳ hạn tuần VNĐ: 1 tuần, 2 tuần, 3 tuần mức lãi suất cao
nhất đang được cá Ngân hàng niêm yết sát với mức trần mà NHNN quy định. Đặc
biệt, hiện nay để cạnh tranh hầu như các ngân hàng đều cho người gửi tiền tiết kiệm
có kì hạn rút tiền trước hạn khi cần. Điều này làm tăng sức hấp dẫn của tiền gửi tiết
SV: NGUYỄN THỌ HẢI LỚP:
NH03_05
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP GVHD: T.S PHẠM THỊ
VÂN ANH
kiệm có kì hạn. Tuy nhiên sổ tiết kiệm này không dùng để thanh toán hay chuyển
khoản song có thể được thế chấp để vay vốn nếu Ngân hàng cho phép.
• Cầm cố sổ tiết kiệm để: Vay vốn hay bảo lãnh cho người thứ ba
vay vốn tại Ngân hàng
• Dùng để xác nhận khả năng tài chính cho quý khách hoặc thân
nhân đi du lịch, học tập, … ở nước ngoài.
• Cá nhân người cư trú được sử dụng tài khoản tiền gửi tiết kiệm để
thanh toán tiền vay hoặc chuyển khoản sang tài khoản khác của chính chủ tài
khoản tại Ngân hàng thương mại đó. Gửi tiền: chủ tài khoản có thể nộp tiền
mặt trực tiếp hoặc thông qua người khác và không bị hạn chế về số lần giao
dịch.
• Rút tiền: chủ tài khoản trực tiếp rút tiền và không bị hạn chế về số
lần giao dịch.
Chuyển tiền: khách hàng được chuyển tiền để gửi tiết kiệm có kỳ hạn VND.
a 70,89"#>*3,*+"*#1C@,H6I#13
Trong lịch sử phát triển ngân hàng, việc phát hành các giấy tờ có giá để huy
động vốn được xem là loại hình giao dịch ra đời muộn hơn so với giao dịch nhận
tiền gửi.
• Phân loại theo thời hạn giấy tờ có giá ( là khoảng thời gian từ
ngày phát hành đến ngày đến hạn thanh toán) gồm có:
Giấy tờ có giá ngắn hạn là giấy tờ có giá có thời hạn dưới một 1 năm bao gồm
kỳ phiếu, chứng chỉ tiền gửi ngắn hạn, tín phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn
khác.
NHTM chủ động tổ chức các đợt phát hành giấy tờ có giá ngắn hạn trong
năm. Tuy nhiên, trước thời điểm phát hành từng đợt ít nhất là 3 ngày làm việc,
NHTM phải gửi Thông báo phát hành của đợt phát hành dự kiến về Ngân hàng Nhà
nước.
Giấy tờ có giá dài hạn là giấy tờ có giá có thời hạn từ một năm trở lên, bao
gồm trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi dài hạn và các giấy tờ có giá dài hạn khác.
SV: NGUYỄN THỌ HẢI LỚP:
NH03_05
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP GVHD: T.S PHẠM THỊ
VÂN ANH
Giấy tờ có giá dài hạn có những quy định phát hành khắt khe hơn đó là: Tổ
chức tín dụng được phát hành giấy tờ có giá dài hạn khi đáp ứng đầy đủ các điều
kiện và được sự chấp thuận của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước
• Phân loại theo hình thức phát hành: Tổ chức tín dụng phát
hành giấy tờ có giá theo hình thức chứng chỉ ghi danh, chứng chỉ vô danh
và ghi sổ.
= Giấy tờ có giá ghi danh là giấy tờ có giá phát hành theo hình thức
chứng chỉ hoặc ghi sổ có ghi tên người sở hữu.
= Giấy tờ có giá vô danh là giấy tờ có giá phát hành theo hình thức
chứng chỉ không ghi tên người sở hữu. Giấy tờ có giá vô danh thuộc quyền
sở hữu của người nắm giữ giấy tờ có giá.
Trường hợp phát hành giấy tờ có giá theo hình thức ghi sổ, tổ chức tín dụng
phát hành cấp cho người mua chứng nhận quyền sở hữu giấy tờ có giá.
Về phương diện kinh tế, giao dịch phát hành giấy tờ có giá được hiểu là một
nghiệp vụ huy động vốn của tổ chức tín dụng. Nghiệp vụ này được thực hiện thông
qua việc tổ chức tín dụng phát hành ra công chúng các giấy tờ có giá dưới dạng
chứng khoán nợ để vay tiền của công chúng, với cam kết hoàn trả số tiền đó kèm
theo một khoản lãi vào ngày đáo hạn.
Về phương diện pháp lý, giao dịch phát hành giấy tờ có giá của tổ chức tín
dụng được hiểu là hành vi pháp lý theo đó tổ chức tín dụng cam kết vay tiền của
khách hàng là tổ chức, cá nhân trong một thời hạn nhất định với điều kiện sẽ hoàn
trả cho khách hàng số tiền ghi trên chứng thư nhận nợ do tổ chức tín dụng phát
hành.
Những đặc trưng pháp lý trên đây cho ta thấy, việc phát hành giấy tờ có giá
của tổ chức tín dụng là một loại hình giao dịch huy động vốn khá đặc biệt. Tính
chất đặc biệt này còn được phản ánh cả trong cơ chế hình thành quyền, nghĩa vụ của
các bên trong giao dịch phát hành giấy tờ có giá. Do vậy, một khi ngân hàng sử
dụng hình thức huy động vốn thông qua nghiệp vụ phát hành giấy tờ có giá cần hết
sức thận trọng.
SV: NGUYỄN THỌ HẢI LỚP:
NH03_05
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP GVHD: T.S PHẠM THỊ
VÂN ANH
Các giấy tờ có giá do ngân hàng thương mại phát hàng bao gồm kỳ phiếu, trái
phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi có mệnh giá. Loại giấy tờ có giá đầu tiên do tổ
chức tín dụng phát hành ra công chúng để huy động vốn và được công chúng chấp
nhận như một loại “tiền”, đó là các chứng thư tiền gửi.
Việc thanh toán trước hạn giấy tờ có giá do tổ chức tín dụng tự quyết định phù
hợp với quy định về quản trị rủi ro và đảm bảo an toàn hoạt động của tổ chức tín
dụng.
Giấy tờ có giá được chuyển quyền sở hữu dưới các hình thức mua, bán, cho,
tặng, trao đổi và thừa kế. Bên cạnh đó, nó còn được sử dụng làm tài sản cầm cố
chiết khấu, tái chiết khấu theo quy định hiện hành của pháp luật tại các tổ chức tín
dụng nếu tổ chức tác dụng đó chấp thuận.
Các giấy tờ có giá là công cụ Nợ do ngân hàng phát hành để huy động
vốn trên thị trường. Đây cũng là một kênh huy động tích cực của Ngân hàng bởi
lượng vốn dồi dào đáp ứng nhu cầu cho vay thường xuyên (đặc biệt là cho vay
trung và dài hạn), bên cạnh việc thu hút tiền gửi, các Ngân hàng thường chủ động đi
vay trên thị trường vốn. Thông thường đây là các khoản vay không có đảm bảo,
nên những ngân hàng lớn có uy tín hoặc trả lãi suất cao hơn thì sẽ vay được nhiều
hơn. Tuy nhiên, nghiệp vụ này cũng tương đối phức tạp đòi hỏi Ngân hàng cần
nghiên cứu một cách kĩ lưỡng về thị trường về mệnh giá, thời hạn, lãi suất… đặc
biệt trong giai đoạn hiện nay khi mà tình hình kinh tế tài chính liên tục có những
biến động khó lường.
c 1("#`16<&636"#)"*+"#'+,!6*Z6,Y"a?"#B*36
Trong giai đoạn hiện nay, giữa các ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác
thường xuyên có mối liên hệ với nhau về nhiều mặt trong hoạt động kinh doanh.
Nhằm mục đích tạo sự thuận tiện cho việc thanh toán hộ, chuyển khoản hay mua
bán, giao dịch khác,các ngân hàng thương mại đều gửi một lượng tiền tại các ngân
hàng khác.Song lượng tiền gửi này thường không lớn, biến động nhỏ nên ít ảnh
hưởng tới nguồn vốn của ngân hàng.
Luật Tổ chức tín dụng năm 1997 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của
Luật Các tổ chức tín dụng năm 2004 cho phép các tổ chức tín dụng được thực hiện
SV: NGUYỄN THỌ HẢI LỚP:
NH03_05
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP GVHD: T.S PHẠM THỊ
VÂN ANH
các hoạt động gửi tiền, nhận tiền gửi lẫn nhau và thực tế các tổ chức tín dụng cũng
đang chủ yếu thực hiện hoạt động này. Tuy nhiên, Luật các Tổ chức tín dụng năm
2010 có hiệu lực từ năm 2011 thì không có điều khoản nào quy định việc các tổ
chức tín dụng được gửi tiền - nhận tiền gửi lẫn nhau. Tại Chương IV Luật Tổ chức
tín dụng năm 2010 không quy định về hoạt động gửi tiền lẫn nhau giữa các tổ chức
tín dụng, chỉ quy định việc mở tài khoản thanh toán lẫn nhau của các tổ chức tín
dụng nhằm phục vụ cho mục đích thanh toán.
Như vậy, kể từ ngày 1/1/2011, các Ngân hàng thương mại phải chấm dứt toàn
bộ hoạt động gửi tiền và nhận tiền gửi có kỳ hạn tại các tổ chức tín dụng khác mà
chỉ duy trì hình thức cho vay và đi vay tổ chức tín dụng khác.
1.3.2.2 Hoạt động đi vay
Vốn đi vay là nguồn vốn giúp cho NHTM bổ sung nguồn vốn ngắn hạn của
mình để đảm bảo duy trì hoạt động một cách bình thường, ổn định, đảm bảo an toàn
trong hệ thống.
& &@#)"*+"#*+"-]6L'&@#)"*+"#,R%"# "#N
Ngân hàng trung ương là ngân hàng của các ngân hàng, thực hiện nhiệm vụ
người cho vay cuối cùng thông qua nghiệp vụ tái chiết khấu (hoặc tái cấp vốn). Các
ngân hàng thương mại trong nước đều được hưởng quyền vay tại ngân hàng NHNN
trong những tình huống cấp bách như khó khăn trong thanh toán thiếu hụt dự trữ
hoặc quá kẹt vốn.
Chiết khấu, tái chiết khấu giấy tờ có giá của các ngân hàng là nghiệp vụ Ngân
hàng Nhà nước mua ngắn hạn các giấy tờ có giá còn thời hạn thanh toán, mà các
giấy tờ có giá này đã được các ngân hàng giao dịch trên trên thị trường sơ cấp hoặc
mua lại trên thị trường thứ cấp. Các giấy tờ có giá được Ngân hàng Nhà nước chiết
khấu gồm tín phiếu kho bạc, trái phiếu kho bạc, tín phiếu Ngân hàng Nhà nước và
các loại giấy tờ có giá khác được Thống đốc Ngân hàng Nhà nước qui định trong
từng thời kỳ.
Lãi suất chiết khấu do Ngân hàng Nhà nước xác định và công bố, phù hợp với
mục tiêu của chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ.
SV: NGUYỄN THỌ HẢI LỚP:
NH03_05
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP GVHD: T.S PHẠM THỊ
VÂN ANH
Các Ngân hàng thương mại nếu có nhu cầu vay thì thông báo hạn mức chiết
khấu gửi tới Ngân hàng Nhà nước đúng thời gian qui định. Ngân hàng Nhà nước sẽ
công bố hạn mức chiết khấu được xác định theo quý (là số dư tối đa mà Ngân hàng
Nhà nước thực hiện chiết khấu đối với các giấy tờ có giá cho một ngân hàng tại mọi
thời điểm trong quý).
Trong điều kiện chưa có thương phiếu, Ngân hàng Nhà nước cho ngân hàng
thương mại vay dưới hình thức tái cấp vốn theo hạn mức tín dụng nhất định. Lãi
suất tái cấp vốn do Ngân hàng Nhà nước quy định theo từng thời kỳ.
Ngoài ra, NHNN có thể cho vay cầm cố đối với các ngân hàng thực hiện theo
các nguyên tắc sau:
= Khoản cho vay cầm cố được bảo đảm bằng các GTCG đủ tiêu
chuẩn theo quy định của NHNN;
= Cho vay cầm cố giấy tờ có giá nhằm cung ứng vốn ngắn hạn và
phương tiện thanh toán cho các ngân hàng tạm thời thiếu hụt khả năng thanh
khoản;
= Ngân hàng được vay cầm cố phải hoàn trả vốn vay NHNN (cả gốc
và lãi) đầy đủ và đúng hạn.
: &@636,!6*Z6,Y"a?"#B*36
Hạn mức được vay từ Ngân hàng Nhà nước là rất hạn chế nên khi cần thiết
các NHTM thường vay mượn lẫn nhau trên thị trường liên ngân hàng. Quá trình vay
mượn này rất đơn giản. Ngân hàng vay chỉ cần liên hệ trực tiếp với ngân hàng cho
vay hoặc thông qua ngân hàng đại lí (hoặc NHNN). Khoản vay có thể không cần
bảo đảm hoặc được bảo đảm bằng các chứng khoán của kho bạc. Thông thường, các
ngân hàng đang có dự trữ vượt yêu cầu do có kết dư gia tăng bất ngờ về các khoản
tiền huy động hoặc giảm cho vay sẽ sẵn lòng cho các ngân hàng khác vay để tìm
kiếm lãi suất cao hơn. Ngược lại, các ngân hàng đang thiếu hụt dự trữ có nhu cầu
vay mượn tức thời để đảm bảo thanh khoản. Việc vay mượn giữa các ngân hàng là
hoạt động thường xuyên và là một kênh huy động vốn tốt nhanh chóng cho các
ngân hàng trong những trường hợp khẩn cấp.
SV: NGUYỄN THỌ HẢI LỚP:
NH03_05
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP GVHD: T.S PHẠM THỊ
VÂN ANH
Vay qua thị trường liên ngân hàng nhằm mục đích đảm bảo nhu cầu vốn khả
dụng trong thời gian ngắn, ngân hàng có thể khai thác các khoản vốn nhàn rỗi từ
các ngân hàng, tổ chức tài chính tín dụng khác. Hoạt động vay mượn này nhằm mục
đích điều hòa nhu cầu vốn khả dụng và đảm bảo nguồn vốn lưu chuyển thông suốt
liên tục trong hệ thống ngân hàng.
Về nguyên tắc giao dịch cho vay, đi vay, dự thảo đưa ra quy định tất cả các
giao dịch liên ngân hàng phải thực hiện thanh toán qua hệ thống thanh toán điện tử
liên ngân hàng quốc gia. Điều này được giải thích là để phù hợp với các quy định
của pháp luật và đảm bảo an toàn trong hoạt động cho vay, đi vay trên thị trường
liên ngân hàng và tạo điều kiện cho Ngân hàng Nhà nước trong theo dõi, giám sát
thị trường liên ngân hàng.
Về tỷ lệ an toàn trong hoạt động liên ngân hàng, quy định dự kiến là tổng số
tiền đi vay (bao gồm cả phát hành giấy tờ có giá để huy động vốn của tổ chức tín
dụng khác) của ngân hàng tối đa gấp 3 lần so với vốn tự có. Vốn tự có của tổ chức
tín dụng là nguồn vốn ổn định, thể hiện nguồn lực tự có của tổ chức tín dụng, vì
vậy, để hạn chế việc các tổ chức tín dụng đi vay quá mức trên thị trường liên ngân
hàng so với quy mô hoạt động và nguồn vốn tự có của mình, khuyến khích tổ chức
tín dụng tham gia thị trường liên ngân hàng để đảm bảo khả năng thanh khoản, hạn
chế việc đi vay để cho vay lại.
[ [d%;"OY*70,89"#*%@89"#'V"
Nhận thấy rõ các đối tượng cách thức huy động vốn bước tiếp theo mang tính
chất then chốt đối với ngân hàng nhằm tối đa hóa lượng vốn huy động được phục
vụ cho hoạt động kinh doanh. Đó là :
1.3.3.1 Lập kế hoạch huy động vốn:
Xây dựng kế hoạch huy động vốn rõ ràng cho từng giai đoạn. Mỗi giai đoan
cần có một kế hoạch cho việc huy động vốn và kế hoạch đó phải phù hợp. Vì vậy
đầu mỗi thời kỳ phải lập ra một kế hoạch rõ ràng cho việc huy động vốn trong
khoảng thời gian trước mắt và cả trong tương lai dựa trên những nghiên cứu về tiềm
năng vốn trong dân cư, nhu cầu vốn của khách hàng. Kế hoạch này sẽ là định hướng
SV: NGUYỄN THỌ HẢI LỚP:
NH03_05