Tải bản đầy đủ (.doc) (112 trang)

giải pháp hoàn thiện công tác quản trị rủi ro tín dụng tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.72 MB, 112 trang )

NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
HỌC VIỆN NGÂN HÀNG
____________________________
Họ và tên tác giả luận văn: Phan Đăng Lưu
Lớp: Cao học 13.01 A
ĐTDĐ: 0913 010 504
Cơ quan công tác: Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam
LUẬN VĂN THẠC SỸ
GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN
CÔNG TÁC QUẢN TRỊ RỦI RO TÍN DỤNG TẠI NGÂN HÀNG
NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN VIỆT NAM
Người hướng dẫn khoa học: PGS - TS Tô Ngọc Hưng
Học viện Ngân hàng – Hà Nội
HÀ NỘI – 2013
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Agribank Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam
ATM Máy rút tiền tự động
BIDV Ngân hàng thương mại cổ phần Đầu tư và phát triển Việt Nam
CBTD Cán bộ tín dụng
CIC Trung tâm thông tin tín dụng
Cty CP Công ty cổ phần
DPRR Dự phòng rủi ro
GDP Tổng sản phẩm quốc dân
HĐQT Hội đồng quản trị
HĐTV Hội đồng thành viên
HTX Hợp tác xã
HTXHTDNB Hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ
NHTM Ngân hàng Thương Mại
NHNN Ngân hàng Nhà nước
NHTW Ngân hàng trung ương
PN&XLRR Phòng ngừa và xử lý rủi ro


QTRRTD Quản trị rủi ro tín dụng
RRTD Rủi ro tín dụng
SPDV Sản phẩm dịch vụ
TCKT Tổ chức kinh tế
TCTD Tổ chức tín dụng
TNHH Trách nhiệm hữu hạn
USD Đô la Mỹ
Vietcombank Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam
Vietinbank Ngân hàng thương mại cổ phần Công thương Việt Nam
Luận văn QTRRTD – PĐL- tháng 06/2013
2
VNĐ Việt Nam đồng
A. MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài.
Trong những năm qua nền kinh tế Việt Nam ổn định và từng bước phát
triển, tạo được niềm tin trong nhân dân cũng như các nhà đầu tư trong và ngoài
nước. Cùng với những thành tựu đổi mới của đất nước, hoạt động Ngân hàng đã
có những chuyển biến, góp phần tích cực vào việc kiềm chế lạm phát, thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện
đại hoá để từng bước hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Tuy nhiên, hoạt động của
ngành ngân hàng vẫn còn nhiều bất cập cả về cơ chế chính sách và tổ chức hoạt
động. Bên cạnh những kết quả đạt được, hệ thống ngân hàng còn nhiều bất cập,
hạn chế, một trong những tồn tại chủ yếu thể hiện ở năng lực quản lý hoạt động
tín dụng còn yếu, nợ xấu tăng làm suy giảm năng lực tài chính và vị thế của hệ
thống ngân hàng. Từ đó, việc đánh giá đúng mức thực trạng quản trị rủi ro trong
lĩnh vực tín dụng và nghiên cứu để tìm ra giải pháp nâng cao chất lượng quản trị
rủi ro tín dụng, đảm bảo an toàn cho hoạt động ngân hàng luôn là vấn đề được
đặt lên hàng đầu trong hoạt động của mọi ngân hàng.
Quản lý rủi ro tín dụng là một trong những mục tiêu cơ bản trong quá trình
thực hiện đề án cơ cấu lại một cách toàn diện và nâng cao năng lực cạnh tranh

của các ngân hàng Việt Nam trước yêu cầu mở cửa thị trường tài chính dịch vụ
theo các cam kết quốc tế của Việt Nam.
Từ thực tiễn trên, là một nhân viên đang làm việc tại Ngân hàng Nông
nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam, tôi chọn đề tài “Giải pháp hoàn thiện
công tác quản trị rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông
thôn Việt Nam” làm đề tài luận văn thạc sĩ chuyên ngành kinh kế tài chính ngân
hàng. Hy vọng luận văn sẽ đóng góp những giải pháp thiết thực, từng bước hoàn
thiện công tác quản lý rủi ro tín dụng để đầu tư cho vay ngày một tốt hơn, hoạt
động ngân hàng luôn an toàn, hiệu quả tương xứng với vị thế của Ngân hàng
Luận văn QTRRTD – PĐL- tháng 06/2013
3
Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam trong sự nghiệp phát triển kinh tế
đất nước.
2. Mục đích nghiên cứu:
- Góp phần hệ thống hoá để từng bước hoàn thiện lý luận cơ bản về quản
trị rủi to tín dụng của ngân hàng thương mại.
- Phân tích, đánh giá thực trạng công tác quản trị rủi ro tín dụng tại Ngân
hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam (Agribank) thời gian qua.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm giảm thiểu rủi ro trong hoạt động tín
dụng, củng cố, hoàn thiện nâng cao hiệu quả hệ thống quản trị rủi ro tín dụng của
Agribank.
- Nâng cao kỹ năng, phương pháp nghiên cứu.
3. Đối tượng phạm vi nghiên cứu:
Nghiên cứu về công tác quản trị rủi ro tín dụng ngân hàng trong hệ thống
Agribank.
Sử dụng các Báo cáo thường niên, báo cáo tổng kết, báo cáo chuyên đề…
của Agribank, kỷ yếu hội thảo khoa học và các tài liệu có liên quan đến đề tài.
Phạm vi nghiên cứu từ thực tiễn của công tác tín dụng và quản trị rủi ro tín
dụng trong hệ thống Agribank từ năm 2009 đến năm 2012.
4. Phương pháp nghiên cứu:

Luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng,
suy luận logic kết hợp với lịch sử, phương pháp thống kê, so sánh, lý thuyết hệ
thống, diễn giải và quy nạp để phân tích, chứng minh và đánh giá các vấn đề.
Bên cạnh đó, luận văn cũng vận dụng kết quả nghiên cứu của các công trình khoa
học, các báo cáo, các tài liệu trên báo chí và internet có liên quan để làm sâu sắc
hơn các cơ sở khoa học và tính thực tiễn của đề tài.
5. Bố cục luận văn:
Luận văn QTRRTD – PĐL- tháng 06/2013
4
* Tên đề tài: " Giải pháp hoàn thiện công tác quản trị rủi ro tín dụng tại
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam".
* Kết cấu luận văn:
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
chính của luận văn kết cấu thành 3 chương:
Chương 1: Rủi ro tín dụng và công tác quản trị rủi ro tín dụng của ngân
hàng thương mại.
Chương 2: Thực trạng công tác quản trị rủi ro tín dụng trong hệ thống
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam.
Chương 3: Giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản trị rủi ro tín dụng của
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam.
Luận văn QTRRTD – PĐL- tháng 06/2013
5
B. NỘI DUNG
Chương 1
RỦI RO TÍN DỤNG VÀ CÔNG TÁC QUẢN TRỊ RỦI RO TÍN DỤNG
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Rủi ro tín dụng của ngân hàng thương Mại
1.1.1 Khái niệm
Tín dụng là nghiệp vụ truyền thống, chiếm tỷ trọng lớn nhất và đem lại
nguồn thu nhập chủ yếu trong hoạt động ngân hàng. Tuy nhiên lĩnh vực này luôn

chứa đựng nhiều rủi ro. Rủi ro tín dụng là khoản lỗ tiềm tàng vốn có được tạo ra
khi cấp tín dụng cho khách hàng. Bất kỳ một khoản tín dụng nào được cấp ra đều
phải tuân thủ theo nguyên tắc sau đây:
- Khoản tín dụng đó phải được sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả.
- Khoản tín dụng đó phải được hoàn trả cả vốn và lãi đúng kỳ hạn đã cam
kết.
Trên thực tế, trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, vì một lý do
nào đó có thể là chủ quan hoặc là khách quan khiến cho nguyên tắc thứ hai bị vi
phạm tức là khoản tín dụng đó không được hoàn trả đúng kỳ hạn đã cam kết.
Điều này sẽ làm cho ngân hàng chịu mọi khoản tổn thất như thiếu vốn khả dụng,
mất khả năng thanh toán. Những tổn thất này người ta gọi là rủi ro tín dụng. Vậy
từ đây ta có thể rút ra một khái niệm đầy đủ về rủi ro tín dụng:
“Rủi ro tín dụng là những thiệt hại, mất mát mà ngân hàng phải gánh chịu
do người vay vốn hay người sử dụng vốn của ngân hàng không trả đúng hạn,
không thực hiện đúng nghĩa vụ đã cam kết trong hợp đồng tín dụng với bất kỳ lý
do nào”.
1.1.2. Phân loại rủi ro tín dụng
Luận văn QTRRTD – PĐL- tháng 06/2013
6
1.1.2.1. Căn cứ vào nguyên nhân phát sinh rủi ro, rủi ro tín dụng (RRTD)
được phân chia thành hai loại:
- Rủi ro giao dịch: nguyên nhân phát sinh là do những hạn chế trong quá
trình giao dịch và xét duyệt cho vay, đánh giá khách hàng. Rủi ro giao dịch có ba
bộ phận:
+ Rủi ro lựa chọn: là rủi ro liên quan đến quá trình đánh giá phân tích tín
dụng, khi ngân hàng lựa chọn phương án vay vốn có hiệu quả để ra quyết định
cho vay.
+ Rủi ro bảo đảm: phát sinh từ các tiêu chuẩn đảm bảo như các điều khoản
trong hợp đồng cho vay, các loại tài sản đảm bảo, chủ thể đảm bảo, cách thức
đảm bảo và mức cho vay trên trị giá của tài sản đảm bảo.

+ Rủi ro nghiệp vụ: là rủi ro liên quan đến công tác quản lý khoản vay và
hoạt động cho vay, bao gồm cả việc sử dụng hệ thống xếp hạng rủi ro và kỹ thuật
xử lý các khoản cho vay có vấn đề.
- Rủi ro danh mục: nguyên nhân phát sinh từ những hạn chế trong quản lý
danh mục cho vay của ngân hàng, được phân chia thành hai loại:
+ Rủi ro nội tại: xuất phát từ các yếu tố, các đặc điểm riêng có, mang tính
riêng biệt bên trong của mỗi chủ thể đi vay hoặc ngành, lĩnh vực kinh tế. Nó xuất
phát từ đặc điểm hoạt động hoặc đặc điểm sử dụng vốn của khách hàng vay vốn.
+ Rủi ro tập trung: xảy ra trong trường hợp ngân hàng tập trung vốn cho
vay quá nhiều đối với một số khách hàng, cho vay quá nhiều doanh nghiệp hoạt
động trong cùng một ngành, lĩnh vực kinh tế; hoặc trong cùng một vùng địa lý
nhất định; hoặc cùng một loại hình cho vay có rủi ro cao.
1.1.2.2. Căn cứ vào khả năng trả nợ của khách hàng, RRTD được phân
chia thành hai loại:
- Rủi ro không hoàn trả nợ đúng hạn (rủi ro đọng vốn): Khi thiết lập mối
quan hệ tín dụng, ngân hàng và khách hàng phải quy ước về khoảng thời gian
hoàn trả nợ vay. Tuy nhiên đến thời hạn mà ngân hàng vẫn chưa thu hồi được
Luận văn QTRRTD – PĐL- tháng 06/2013
7
vốn vay, những tổn thất xảy ra trong trường hợp này được gọi là rủi ro không
hoàn trả nợ đúng hạn.
- Rủi ro do không có khả năng trả nợ: xảy ra trong trường hợp khách hàng
đi vay đã mất khả năng chi trả. Do vậy ngân hàng phải xử lý tài sản của khách
hàng để thu nợ.
1.1.3. Dấu hiệu nhận biết rủi ro tín dụng
1.1.3.1. Phát sinh từ phía khách hàng:
a. Dấu hiệu liên quan đến mối quan hệ với ngân hàng:
- Trì hoãn hoặc gây trở ngại đối với ngân hàng trong quá trình kiểm tra
theo định kỳ hoặc đột xuất về tình hình sử dụng vốn vay, tình hình hoạt động sản
xuất kinh doanh, tài chính của khách hàng.

- Có dấu hiệu không thực hiện đầy đủ các quy định, vi phạm phát luật
trong quá trình quan hệ tín dụng.
- Chậm hoặc trì hoãn các báo cáo tài chính theo yêu cầu của ngân hàng
mà không có sự giải thích minh bạch, thuyết phục.
- Đề nghị gia hạn, điều chỉnh các khoản nợ nhiều lần không rõ lý do.
- Sự sụt giảm bất thường số dư tài khoản tiền gửi mở tại ngân hàng.
- Chậm thanh toán các khoản lãi khi đến hạn thanh toán.
- Xuất hiện nợ quá hạn vì : tiêu thụ hàng chậm, thu hồi công nợ chậm
- Mức độ vay thường xuyên gia tăng, vượt quá nhu cầu dự kiến.
- Tài sản đảm bảo không đủ tiêu chuẩn, giá trị tài sản đảm bảo giảm sút so
với định giá cho vay, có các dấu hiệu cho người khác thuê, bán hoặc trao đổi
- Dấu hiệu cho thấy khách hàng trông chờ vào các nguồn thu nhập ngoài
sản xuất kinh doanh hoăc tìm kiếm sự tài trợ từ nhiều nguồn.
- Dấu hiệu đầu tư các khoản tiền ngắn hạn cho hoạt động đầu tư dài hạn.
- Chấp nhận nguồn sử dụng lãi suất cao với mọi điều kiện.
Luận văn QTRRTD – PĐL- tháng 06/2013
8
b. Dấu hiệu liên quan đến phương pháp quản lý, tình hình tài chính và
hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng:
- Có sự chênh lệch lớn giữa doanh thu thực tế so với mức dự kiến.
- Những thay đổi bất lợi trong cơ cấu vốn, tỷ lệ thanh khoản.
- Xuất hiện phí bất hợp lý: quảng cáo, tiếp khách quá mức, phô trương…
- Thay đổi thường xuyên tổ chức hoặc ban điều hành
- Bỏ hợp đồng nhỏ và vừa có tỷ suất lợi nhuận cao, để tìm hợp đồng lớn
nhưng tỷ suất lợi nhuận lại thấp.
- Quá trình khảo sát, thẩm định dự án sai dẫn đến đầu tư không hiệu quả.
- Khó khăn khi phát triển sản phẩm dịch vụ mới.
- Tung sản phẩm ra thị trường quá sớm hoặc đặt áp lực thời gian sinh lời.
- Thiên tai, hỏa hoạn, dịch bệnh, dẫn đến mất mùa, thất thu, mất tài sản.
- Đối với khách hàng là tư nhân, có dấu hiệu của bệnh kéo dài hoặc chết.

1.1.3.2. Phát sinh từ phía ngân hàng
- Chính sách tín dụng không hợp lý.
- Đánh giá và phân loại không chính xác về mức độ rủi ro của khách hàng.
- Cấp tín dụng cho cam kết không chắc chắn và thiếu đảm bảo của khách.
- Tăng trưởng tín dụng quá nhanh, vượt quá năng lực kiểm soát.
- Soạn các điều kiện ràng buộc trong hợp đồng tín dụng không rõ ràng.
- Hồ sơ tín dụng không đầy đủ thiếu sự hoàn chỉnh
- Cạnh tranh thái quá: giảm thấp lãi suất, tăng hạn mức.
1.1.4. Nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng
Có bốn nguyên nhân cơ bản gây nên rủi ro tín dụng: nguyên nhân khách
qua từ môi trường bên ngoài, nguyên nhân từ phía khách hàng, nguyên nhân từ
chính ngân hàng và nguyên nhân từ các bảo đảm tín dụng.
Luận văn QTRRTD – PĐL- tháng 06/2013
9
1.1.4.1. Nguyên nhân khách quan từ môi trường bên ngoài
- Rủi ro do các nguyên nhân bất khả kháng thuộc về thiên nhiên như thiên
tai động đất, lũ lụt, hạn hán, dịch bệnh
Nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế nông nghiệp, lệ thuộc chủ yếu vào
sản xuất nông nghiệp và công nghiệp phục vụ nông nghiệp (nuôi trồng, chế biến
thực phẩm và nguyên liệu), dầu thô, may mặc vốn rất nhạy cảm với rủi ro từ
môi trường tự nhiên, mỗi biến động của tự nhiên đều gây ảnh hưởng trực tiếp
hoặc gián tiếp tới hoạt động kinh doanh của khách hàng vay vốn, làm suy giảm
khả năng trả nợ vay ngân hàng dẫn tới rủi ro tín dụng.
- Rủi ro do môi trường kinh tế không ổn định: Bao gồm các yếu tố: các
giai đoạn của chu kỳ kinh tế (phát triển, hưng thịnh hay suy thoái), sự thay đổi cơ
chế chính sách kinh tế, lãi suất, tỷ giá, chỉ số giá cả
Khi nền kinh tế phát triển mạnh, hoạt động kinh doanh thuận lợi, khả năng
rủi ro từ việc không trả được nợ hoặc vỡ nợ rất thấp, hoạt động tín dụng tương
đối an toàn.
Khi nền kinh tế suy thoái, sản xuất bị đình trệ, hàng hóa tồn kho ứ đọng

không tiêu thụ được làm suy giảm khả năng tài chính của khách hàng, khả năng
trả nợ của khách hàng kém đồng nghĩa với tăng RRTD.
Trong điều kiện nền kinh tế phát triển quá nóng, ngân hàng nhà nước sẽ áp
dụng chính sách tiền tệ thăt chặt, lãi suất thị trường tăng, doanh nghiệp sẽ phải đi
vay với lãi suất cao hơn dẫn đến chi phí tài chính tăng. Trong khi đó thì doanh
thu của doanh nghiệp giảm một cách rõ rệt, vì vậy RRTD sẽ gia tăng.
- Môi trường chính trị, pháp luật:
Khi một quốc gia có nền chính trị không ổn định, có chiến tranh, hay xảy
ra các cuộc bạo loạn, đình công, tranh chấp giữa các đảng phái thì việc triển
khai dự án đầu tư của các doanh nghiệp chắc chắn sẽ gặp nhiều khó khăn và ảnh
hưởng trực tiếp đến hoạt động tín dụng của các ngân hàng.
- Do môi trường pháp lý:
Luận văn QTRRTD – PĐL- tháng 06/2013
10
Cơ chế chính sách của nhà nước tác động trực tiếp đến hoạt động sản xuất
kinh doanh và môi trường đầu tư vốn của các ngân hàng. Khi có sự thay đổi, điều
chỉnh luật pháp, chính sách, chế độ của Nhà nước hoặc thay đổi địa giới hành
chính của các địa phương, sự sát nhập hay chia tách của các cơ quan, bộ ngành
mặc dù những thay đổi và điều chỉnh đó là tất yếu trong quá trình phát triển của
một đất nước nhưng sẽ tác động trực tiếp tới mọi cá nhân, tổ chức kinh tế - các
khách hàng của ngân hàng, đó cũng là nguyên nhân có thể mang đến rủi ro.
Hiện nay ở Việt Nam chưa có cơ chế công bố thông tin đầy đủ về doanh
nghiệp và ngân hàng. Trung tâm thông tin tín dụng (CIC) bước đầu đã cung cấp
thông tin khá kịp thời về tình hình hoạt động tín dụng. Tuy nhiên thông tin cung
cấp còn đơn điệu, thiếu cập nhật. Đó cũng là thách thức cho hệ thống ngân hàng
trong việc mở rộng và kiểm soát tín dụng trong điều kiện thiếu một hệ thống
thông tin tương xứng. Nếu các ngân hàng cố gắng chạy theo thành tích, mở rộng
tín dụng với những thông tin không đầy đủ thì sẽ gia tăng nguy cơ nợ xấu cho hệ
thống ngân hàng.
- Môi trường quốc tế:

Trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay, tín dụng trong nước có mối quan hệ
chặt chẽ với tín dụng quốc tế, các dòng vốn luôn vận hành theo quy luật thị
trường. Khủng hoảng tài chính làm cho mối quan hệ thương mại quốc tế giữa
Việt Nam và các nước bị thay đổi, tạm ngưng trệ hoặc cắt đứt, làm giảm sút sức
mua, hàng hóa bị ứ đọng khó tiêu thụ sẽ ảnh hưởng đến khả năng trả nợ của
khách hàng vay vốn ngân hàng, tất yếu phát sinh RRTD.
Ngoài ra, quá trình tự do hóa tài chính và hội nhập quốc tế có thể làm cho
nợ xấu gia tăng bởi sự cạnh tranh gay gắt và quy luật chọn lọc, đào thải khắc
nghiệt của thị trường, khiến cho các khách hàng thường xuyên của ngân hàng
phải đối mặt với nguy cơ thua lỗ hoặc phá sản. Bên cạnh đó, bản thân các ngân
hàng thương mại trong nước với hệ thống quản lý yếu kém bị các ngân hàng
nước ngoài có nền tảng quản trị và công nghệ vượt trội cạnh tranh lôi kéo những
khách hàng tốt, có tiềm lực tài chính lớn để lại khách hàng ốm yếu cho ngân
Luận văn QTRRTD – PĐL- tháng 06/2013
11
hàng nội địa, dẫn tới nguy cơ rủi ro, nợ xấu tăng lên.
1.1.4.2. Nguyên nhân từ phía khách hàng vay
- Khách hàng cố ý vi phạm nguyên tắc, chế độ; làm giả hồ sơ, tài liệu để
lừa đảo, biển thủ, sử dụng trái phép, chiếm đoạt tài sản của người khác.
- Đối với khách hàng là cá nhân: Nguồn trả nợ chủ yếu là từ thu nhập của
cá nhân. Các khách hàng là cá nhân thường có những rủi ro vì nguyên nhân sau:
+ Không có nơi cứ trú ổn định. Thu nhập thất thường, do công việc bị
thay đổi hoặc bị mất việc làm.
+ Rủi ro đạo đức như: sử dụng vốn sai mục đích, không muốn hoàn trả
nợ vay, thậm chí kinh doanh trên lưng ngân hàng, sử dụng tiền vay ngân hàng để
cho vay với lãi suất cao hơn.
- Đối với khách hàng là doanh nghiệp, nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng
bao gồm:
+ Từ thị trường: Thị trường cung cấp đầu vào bị thu hẹp, giá cả nguyên
vật liệu tăng, chi phí sản xuất tăng lên, sản phẩm giảm sức cạnh tranh; Sản phẩm

kém phẩm chất, không phù hợp với thị trường, khó tiêu thụ; hoặc do: cạnh tranh
trên thị trường, thị hiếu thay đổi,… Tất cả các nguyên nhân này làm doanh thu
của doanh nghiệp giảm sút.
+ Khách hàng sử dụng sai mục đích, do đó mất vốn hoặc hiệu quả đầu tư
thấp không trả đươc nợ dẫn đến nợ quá hạn.
+ Khả năng quản lý điều hành: Trình độ, năng lực quản lý hạn chế, thiếu
trình độ, kinh nghiệm chuyên môn dẫn tới việc tổ chức và việc điều hành sản
xuất kinh doanh yếu kém, tài chính không rõ ràng minh bạch, hiệu quả sử dụng
vốn giảm, khả năng trả nợ giảm.
+ Do sự thay đổi nhân sự hoặc thay đổi sở hữu doanh nghiệp: có sự thay
đổi về đội ngũ chủ chốt trong doanh nghiệp, bộ máy quản lý không đồng bộ, điều
hành kém, hiệu quả sản xuất không cao, giảm số lượng và chất lượng sản phẩm.
Lúc đó doanh nghiệp sẽ không thu được lợi nhuận sự kiến hoặc bị thua lỗ.
Luận văn QTRRTD – PĐL- tháng 06/2013
12
+ Do tình trạng tham nhũng diễn ra trong nội bộ doanh nghiệp.
1.1.4.3. Nguyên nhân từ phía ngân hàng
Nguyên nhân rủi ro từ phía ngân hàng hết sức quan trọng do ngân hàng là
chủ thể của các hoạt động tín dụng. Theo đánh giá của quỹ tiền tệ quốc tế IMF thì
50% ngân hàng phá sản trên thế giới là do năng lực quản lý yếu kém. Nguyên
nhân cụ thể như sau:
-Ngân hàng thiếu một chính sách cho vay rõ ràng, chính sách cho vay
không phù hợp với thực trạng nền kinh tế. Thực tế chứng minh sự hoạt động của
một ngân hàng dựa trên cơ sở chính sách thống nhất hiệu quả nhiều hơn là dựa
trên cơ sở kinh nghiệm và trao quyền quyết định cho giám đốc. Chính sách cho
vay ở đây phải được hiểu theo nghĩa đầy đủ, bao gồm: định hướng chung cho
việc cho vay, chế độ tín dụng ngắn hạn, trung hạn và dài hạn, các quy định về
bảo đảm tiền vay, về loại khách hàng mà ngân hàng cho vay quan tâm, ngành
nghề được ưu tiên, quy trình xét duyệt cho vay cụ thể Chính sách cho vay có
thể ví như kim chỉ nam cho hoạt động kinh doanh của một ngân hàng.

- Ngân hàng chưa chú trọng vào mục tiêu của khoản vay, tính toán sai hiệu
quả đầu tư của dự án xin vay dẫn đến các quyết định sai lầm trong cho vay.
- Ngân hàng đánh giá chưa đúng mức về khoản vay, về người đi vay hoặc
do chủ quan, tin tưởng vào khách hàng mà coi nhẹ khâu kiểm tra, thẩm định các
chỉ tiêu tài chính, phi tài chính, khả năng thanh toán hiện tại và tương lai, nguồn
trả nợ…
- Cán bộ tín dụng: thiếu thông tin tín dụng hoặc có thông tin nhưng không
đầy đủ chính xác nên không phân tích đánh giá khách quan, chính xác về khách
hàng. Không am hiểu ngành nghề, lĩnh vực, thị trường mà mình đang tài trợ, dẫn
đến việc xác định sai hiệu quả của dự án xin vay. Do trình độ quản lý, năng lực
chuyên môn của cán bộ ngân hàng chưa bắt kịp với cơ chế thị trường luôn biến
động, dẫn đến hạn chế trong quản lý các món vay.
Luận văn QTRRTD – PĐL- tháng 06/2013
13
- Công tác kiểm tra kiểm toán nội bộ còn bất cập: Các ngân hàng thường
tập trung chủ yếu cho việc thẩm định trước khi cho vay mà nơi lỏng, xem nhẹ
quá trình kiểm tra, giám sát đồng vốn sau khi cho vay; hầu hết các sai phạm phát
hiện sau khi vụ việc đã xảy ra, chưa cảnh báo được rủi ro mà chỉ xử lý những vụ
việc đã phát sinh RRTD.
- Ngân hàng thiếu một cơ chế theo dõi, quản lý rủi ro, thiếu hạn mức tín
dụng tối đa cho từng khách hàng thuộc các ngành nghề, sản phẩm địa phương
khác nhau để phân tán rủi ro, chưa đủ các tiêu thức đo lường rủi ro, độ RRTD tối
đa cho phép chấp nhận đối với từng khách hàng thuộc các ngành khác nhau.
- Cán bộ, nhân viên suy thoái đạo đức nghề nghiệp:
Do một số cán bộ, nhân viên ngân hàng trong đó có cán bộ tín dụng vi
phạm đạo đức nghề nghiệp, cố tình làm sai nguyên tắc, thông đồng hoặc tiếp tay
với khách hàng để chiếm đoạt tài sản tiền vốn của người khác. Thời gian vừa qua
xảy ra nhiều vụ án kinh tế lớn có liên quan đến NHTM đều có sự tiếp tay của một
số cán bộ ngân hàng với khách hàng (làm giả hồ sơ vay, hay nâng giá trị tài sản
thế chấp, cầm cố lên quá cao so với thực tế ) để rút tiền ngân hàng.

- Thiếu sự hợp tác, phối hợp giữa các ngân hàng:
Hoạt động ngân hàng là một nghề kinh doanh đặc biệt, các ngân hàng cần
phải hợp tác chặt chẽ với nhau nhằm hạn chế rủi ro. Sự hợp tác nảy sinh do nhu
cầu quản lý rủi ro đối với cùng một khách hàng khi khách hàng có quan hệ tín
dụng với nhiều ngân hàng. Trong quản trị tài chính, khả năng trả nợ của một
khách hàng là một con số cụ thể, có giới hạn tối đa của nó. Do thiếu trao đổi
thông tin, nhiều ngân hàng cùng cho vay một khách hàng dẫn đến mức vượt quá
giới hạn tối đa, khi có rủi ro mọi ngân hàng đều phải gánh chịu.
1.1.4.4. Nguyên nhân từ các bảo đảm tín dụng
- Trường hợp bảo đảm bằng tài sản:
+ Do sự biến động của giá trị tài sản đảm bảo theo chiều hướng bất lợi. Tài
sản đảm bảo khó định giá, khó phát mại
Luận văn QTRRTD – PĐL- tháng 06/2013
14
+ Do doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc tiếp cận, nắm giữ các tài sản
đảm bảo để xử lý chúng. Có những tranh chấp tài sản về mặt pháp lý.
- Trường hợp bảo đảm đối nhân (bảo lãnh): Người bảo lãnh không thực
hiện nghĩa vụ thanh toán thay cho người vay ngân hàng khi người này không có
khả năng trả nợ.
Tóm lại, RRTD có thể phát sinh do rất nhiều nguyên nhân chủ quan hoặc
khách quan. Trong phạm vi quản lý của các ngân hàng, RRTD phụ thuộc vào
năng lực của bộ phận tín dụng trong việc phát hiện và hạn chế rủi ro từ khâu xem
xét quyết định cho vay cũng như trong suốt thời gian vay. Khả năng cấp tín dụng
phụ thuộc vào năng lực chuyên môn của cán bộ tín dụng và các bộ phận có liên
quan đồng thời phụ thuộc vào nguồn vốn của ngân hàng.
1.1.5. Ảnh hưởng của RRTD đến nền kinh tế và ngân hàng
1.1.5.1. Đối với nền kinh tế
- RRTD có thể gây ra hậu quả đối với hệ thống tài chính của cả một quốc
gia. Do sự ràng buộc chặt chẽ giữa các trung gian tài chính trong hệ thống tài
chính, rủi ro tín dụng có thể châm ngòi cho hiệu ứng đổ vỡ dây chuyền khiến hệ

thống trung gian tài chính bị khủng hoảng nghiêm trọng.
- RRTD có thể gây ra hậu quả tiêu cực tới mọi đối tượng trong xã hội, làm
giảm lòng tin của công chúng vào hệ thống tài chính, ngân hàng cũng như hiệu
lực các chính sách tài chính - tiền tệ của Chính phủ.
1.1.5.2. Đối với ngân hàng
- Chi phí gia tăng: do phải trích lập quỹ bù đắp tổn thất khiến hiệu quả hoạt
động giảm, tình trạng thua lỗ kéo dài, uy tín bị giảm sút
- RRTD kéo dài làm thất thoát lượng vốn lớn, ngân hàng có thể rơi vào
tình trạng mất thanh khoản, không có khả năng chi trả, thậm chí có thể rơi vào
tình trạng phá sản.
Rủi ro tín dụng gây ảnh hưởng vô cùng nghiêm trọng không chỉ với ngân
hàng mà còn tác động sâu rộng đối với kinh tế, xã hội; vì vậy đòi hỏi các NHTM
Luận văn QTRRTD – PĐL- tháng 06/2013
15
phải đặc biệt chú trọng đến công tác xác định, đo lường, quản trị và kiểm RRTD,
phải có chiến lược quản trị rủi ro hiệu quả nhằm giảm thiểu tổn thất trong hoạt
động tín dụng của ngân hàng.
1.2. Những nội dung cơ bản về công tác quản trị RRTD của NHTM
1.2.1. Khái niệm về quản trị RRTD ngân hàng
Quản trị rủi ro là quá trình tiếp cận rủi ro một cách khoa học, toàn diện, có
hệ thống nhằm nhận dạng, đo lường, kiểm soát, và tối thiểu hóa những tác động
bất lợi của rủi ro. Quản trị rủi ro tín dụng là quá trình xây dựng và thực thi các
chiến lược, các chính sách quản lý và kinh doanh tín dụng thông qua hệ thống
các công cụ nhằm hạn chế và giảm thiểu các tổn thất từ rủi ro trong hoạt động tín
dụng ngân hàng
1.2.2. Sự cần thiết của quản trị RRTD ngân hàng
1.2.2.1. Đối với các tổ chức tín dụng
Trong hoạt động ngân hàng, cấp tín dụng là nghiệp vụ kinh tế cơ bản,
chiếm tỷ trọng lớn. Đối với các NHTM, dư nợ cho vay thường chiếm tới 1/2 tổng
tài sản có và thu nhập từ tín dụng chiếm khoảng trên 1/2 đến 2/3 tổng thu

nhập.Vì vậy, rủi ro trong kinh doanh ngân hàng cũng tập trung chủ yếu ở danh
mục tín dụng. Khi ngân hàng rơi vào tình trạng khó khăn, nguyên nhân thường
phát sinh từ hoạt động tín dụng. Tuy nhiên, trong hoạt động, các ngân hàng chỉ
chấp nhận RRTD mà mức độ thiệt hại tối đa không cao hơn mức lợi nhuận mong
đợi. Thực tế, mọi trường hợp các ngân hàng đều có thể tính toán khả năng chấp
nhận rủi ro qua mô hình dưới đây:
Sơ đồ 1.1: Mô hình khả năng rủi ro của ngân hàng
Khả năng thiệt hại của ngân hàng
Lợi nhuận Chi phí Vốn tự có
Vùng rủi ro cho phép Vùng rủi ro nguy hiểm Vùng rủi ro thảm khốc
Luận văn QTRRTD – PĐL- tháng 06/2013
16
Đ
i

m

b

t

đ

u

g
i

m


l

i

n
h
u

n
Đ
i

m

b

t

đ

u

t
h
u
a

l

Đ

i

m

k
h
ô
n
g

c
ó

d
o
a
n
h

t
h
u
Đ
i

m

m

t


v

n


t


c
ó

v
à

p
h
á

s

n
Nguồn:
Trong một môi trường hoạt động tiềm ẩn nhiều rủi ro, nếu một ngân hàng
quản trị rủi ro yếu kém, RRTD có thể xảy ra vượt ngoài tầm kiểm soát dẫn tới
giảm lợi nhuận mong đợi; tác động tiêu cực đến sự ổn định và phát triển của ngân
hàng trong tương lai.
1.2.2.2. Đối với hệ thống ngân hàng và với nền kinh tế
RRTD không chỉ thiệt hại cho ngân hàng mà còn làm giảm niềm tin của
những người gửi tiền - nguồn vốn huy động chủ yếu từ xã hội của ngân hàng. Tới

mức độ nghiêm trọng, hiện tượng rút tiền hàng loạt có thể xảy ra. Nếu không có
đủ ngồn dự phòng và được xử lý kịp thời, ngân hàng có thể sụp đổ và gây ra hiệu
ứng lan truyền đặc trưng của hệ thống ngân hàng, ảnh hưỏng một cách sâu rộng
đến nền kinh tế và toàn xã hội.
Khi năng lực QTRRTD chưa tốt, mở rộng tín dụng cũng đồng nghĩa với
gia tăng thua lỗ. Năng lực quản trị rủi ro yếu kém dẫn đến hạn chế tăng trưởng tín
dụng, hậu quả ngân hàng mất dần những khách hàng tốt, giảm thị phần và đến
một thời điểm nào đó ngân hàng có thể thua lỗ thậm chí phá sản. Do đó hoàn
thiện và nâng cao năng lực quản trị tín dụng là tiền đề của việc mở rộng tín dụng
có hiệu quả, tăng lợi nhuận cho ngân hàng. Theo đó cũng cũng cần xét sâu hơn
khi cấp tín dụng, về nguyên tắc, mức lãi suất phải đủ trang trải chi phí bao gồm
cả phần bù đắp rủi ro và cộng thêm phần lợi nhuận mong đợi. Với sự cạnh tranh
của các tổ chức tín dụng, nếu ngân hàng cấp những khoản tín dụng ít rủi ro thì lợi
thế trong kinh doanh của ngân hàng sẽ tăng. Thể hiện ở chỗ ngân hàng có thể thu
hút khách hàng bằng cách giảm mức lãi suất cho khách hàng so với đối thủ cạnh
tranh. Thêm nữa thông qua mở rộng tín dụng ngân hàng có cơ hội mở rộng cung
cấp những sản phẩm dịch vụ khác của mình. Do vậy QTRRTD giúp ngân hàng
xử lý tốt mối quan hệ giữa RRTD và lợi nhuận, qua đó đánh giá được thiệt hại và
đem lại lợi ích cho bản thân và các đối tác trong quan hệ tín dụng.
Luận văn QTRRTD – PĐL- tháng 06/2013
17
1.2.3. Đo lường rủi ro tín dụng
Rủi ro là những biến cố xảy ra ngoài mong đợi trong hoạt động kinh doanh
của ngân hàng, tuy không thể loại bỏ được hoàn toàn nhưng người ta có thể
nghiên cứu để nhận biết nó, từ đó có thể đưa ra các biện pháp nhằm phòng ngừa
và hạn chế rủi ro, giảm thiểu mức độ thiệt hại đến mức thấp nhất. Muốn dự đoán
được rủi ro chính xác thì ngân hàng phải đo lường được rủi ro một cách cụ thể.
Đây là một trong những phương pháp nghiên cứu mà ngân hàng nào cũng áp
dụng vì nó có ý nghĩa rất lớn trong công tác quản lý kinh doanh.
Đo lường RRTD là cơ sở để ngân hàng xây dựng chính sách tín dụng hợp

lý, chính sách lãi suất phù hợp với từng thời kỳ, xây dựng hệ thống quản trị
RRTD cho từng loại tài sản có và cho từng loại hình cho vay.
Chỉ tiêu dùng để đo lường RRTD được chia thành các nhóm sau:
1.2.3.1. Nợ quá hạn và tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ
Tỷ lệ nợ quá hạn = Dư nợ quá hạn/ Tổng dư nợ
Nợ quá hạn là khoản nợ mà một phần hoặc toàn bộ nợ gốc và/hoặc lãi đã
quá hạn. Ngân hàng có tỷ lệ nợ quá hạn cao thì rủi ro càng lớn vì với những
khoản nợ không thu hồi được sẽ ảnh hưởng đến quá trình khai thác và sử dụng
vốn của ngân hàng, phá vỡ kế hoạch kinh doanh và hơn thế nữa làm ảnh hưởng
đến khả năng thanh toán của các tổ chức tín dụng.
Tỷ lệ nợ quá hạn càng cao làm tăng chi phí của ngân hàng. Với một khoản
tín dụng gặp rủi ro, ngân hàng phải thêm chi phí giám sát khoản vay, chi phí xử
lý tài sản đảm bảo, chi phí pháp lý… do đó làm tăng chi phí thực tế của ngân
hàng. Trong khi không có nguồn thu từ khoản tín dụng này thì ngân hàng vẫn
phải trả lãi cho nguồn vốn vay từ khách hàng. Nợ quá hạn xuất hiện làm chậm
quá trình tuần hoàn và chu chuyển vốn của các tổ chức tín dụng, làm giảm lợi
nhuận và hiệu quả kinh doanh. Đồng thời hạn chế khả năng mở rộng và tăng
trưởng tín dụng, làm giảm uy tín và khả năng cạnh tranh của ngân hàng.
1.2.3.2. Nợ xấu và tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ
Luận văn QTRRTD – PĐL- tháng 06/2013
18
Các tổ chức tín dụng (TCTD) hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam thực hiện
phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro theo Quyết định số 493/2005/QĐ-
NHNN ngày 22/04/2005 về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý
rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng (Quyết định 493)
và Quyết định số 18/2007/QĐ-NHNN ngày 25/04/2007 về sửa đổi, bổ sung một
số điều của Quy định về việc phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử
lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng ban hành theo
Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/04/2005 của Thống đốc Ngân hàng
Nhà nước (Quyết định 18), việc phân loại nợ có thể được sử dụng một trong hai

phương pháp: phương pháp định lượng (Điều 6 Quyết định 18) và phương pháp
định tính (Điều 7 Quyết định 493); theo đó TCTD phân loại nợ thành 5 nhóm, nợ
xấu là các khoản nợ thuộc nhóm 3, 4 và 5.
Tỷ lệ nợ xấu là một trong các chỉ tiêu để đánh giá chất lượng tín dụng
TCTD, tỷ lệ này cao đồng nghĩa với rủi ro tín dụng cao.
Tỷ lệ nợ xấu = Dư nợ xấu/Tổng dư nợ
Nợ xấu gây khó khăn lớn trong việc bảo toàn và nâng cao hiệu quả sử dụng
vốn của ngân hàng. Nếu nợ xấu không giải quyết kịp thời đến một thời điểm nào
đó khả năng trích lập sự phòng rủi ro sẽ không đủ để bù đắp phần tổn thất và việc
nâng cao tiềm lực tài chính đảm bảo tỷ lệ an toàn vốn lại càng là vấn đề khó thực
hiện cho ngân hàng.
1.2.3.3. Tỷ lệ mất vốn
Tỷ lệ mất vốn = Dư nợ mất vốn/Tổng dư nợ
Dư nợ mất vốn là các khoản nợ thuộc nhóm 5 bao gồm: Các khoản nợ quá
hạn trên 360 ngày, các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn từ 90
ngày trở lên theo thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần đầu
Tỷ lệ mất vốn càng cao thì thiệt hại của ngân hàng càng lớn, nó phản ánh
những khoản tín dụng không thu hồi được, phải dùng quỹ dự phòng để bù đắp.
1.2.3.4. Tỷ lệ trích lập dự phòng RRTD so với tổng dư nợ kỳ báo cáo
Luận văn QTRRTD – PĐL- tháng 06/2013
19
Dự phòng RRTD là khoản tiền được trích lập để dự phòng cho những tổn
thất có thể xảy ra do khách hàng của TCTD không thực hiện nghĩa vụ theo cam
kết.
Tỷ lệ trích lập = Dự phòng RRTD/ Tổng dư nợ kỳ báo cáo
dự phòng RRTD được trích lập
Dự phòng rủi ro được tính theo dư nợ gốc và hạch toán vào chi phí hoạt
động của TCTD, dự phòng rủi ro bao gồm: dự phòng cụ thể và dự phòng chung:
- Dự phòng cụ thể:
Theo quy định tại Quyết định 493của NHNN, dự phòng cụ thể được trích

lập trên rủi ro tín dụng thuần của các khoản cho vay theo các tỷ lệ tương ứng với
các nhóm nợ như sau:
Bảng 1.1: Tỷ lệ trích lập dự phòng cụ thể đối với các nhóm nợ
Nhóm Loại Tỷ lệ trích lập dự phòng
1 Nợ đủ tiêu chuẩn 0%
2 Nợ cần chú ý 5%
3 Nợ dưới tiêu chuẩn 20%
4 Nợ nghi ngờ 50%
5 Nợ có khả năng mất vốn 100%
Nguồn: Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/04/2005 của NHNN
Riêng đối với các khoản nợ khoanh chờ Chính phủ xử lý thì được trích lập
dự phòng cụ thể theo khả năng tài chính của tổ chức tín dụng.
Số tiền dự phòng cụ thể đối với từng khoản nợ được tính theo công thức:
R = max {0, (A – C)} x r
Trong đó:
+ R: Số tiền dự phòng cụ thể phải trích
+ A: Số dư nợ gốc của khoản vay
+ C: Giá trị khấu trừ của tài sản (Giá trị tài sản x Tỷ lệ khấu trừ).
Luận văn QTRRTD – PĐL- tháng 06/2013
20
+ r: Tỷ lệ trích lập dự phòng cụ thể
Đến nay, hầu hết các NHTM Việt Nam đã áp dụng phân loại nợ và trích
lập dự phòng RRTD theo phương pháp định tính, việc phân loại nợ theo phương
pháp định tính là xu thế tất yếu mà các NHTM các nước trên thế giới đang áp
dụng, dựa trên hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ có thể đánh giá khách hàng ở
mọi thời điểm, việc phân loại nợ và trích lập dự phòng được thực hiện tự động.
Phân loại nợ theo phương pháp định tính giúp cho nhà quản trị ngân hàng đánh
giá đúng thực trạng của khách hàng bởi các yếu tố tác động đến tình hình sản
xuất kinh doanh của khách hàng, đánh giá được chất lượng hoạt động tín dụng
của mình, từ đó đưa ra các quyết sách đối phó với những rủi ro có thể xảy ra

nhằm giảm thiểu tối đa tổn thất.
- Dự phòng chung:
Theo Điều 9 Quyết định 493, các NHTM thực hiện trích lập và duy trì dự
phòng chung bằng 0,75% tổng giá trị các khoản nợ từ nhóm 1 đến nhóm 4.
Như vậy tỷ lệ trích lập dự phòng RRTD so với tổng dư nợ càng lớn càng
làm cho chi phí hoạt động tăng, lợi nhuận giảm, các NHTM phải tìm mọi biện
pháp để giảm mức trích lập dự phòng RRTD; tăng lợi nhuận cho ngân hàng.
1.2.4. Các nguyên tắc quản trị rủi ro tín dụng
Trong hoạt động kinh doanh ngân hàng nói chung và lĩnh vực tín dụng nói
riêng, từ thực trạng của các NHTM Việt Nam, để hạn chế các rủi ro, đặc biệt là
RRTD, các ngân hàng phải nắm rõ các nguyên tắc quản lý rủi ro sau:
1.2.4.1. Nguyên tắc phù hợp với chiến lược chung của ngân hàng
Theo nguyên tắc này thì hệ thống quản lý rủi ro cần phải được dựa trên nền
tảng những tiêu chí chung của chiến lược phát triển của ngân hàng cũng như
chính sách điều hành từng hoạt động riêng biệt của ngân hàng.
1.2.4.2. Nguyên tắc chấp nhận rủi ro
Các nhà quản trị ngân hàng cần phải chấp nhận rủi ro ở mức cho phép nếu
mong muốn có một thu nhập phù hợp từ những hoạt động nghiệp vụ của mình.
Luận văn QTRRTD – PĐL- tháng 06/2013
21
Mỗi nghiệp vụ cụ thể sau khi đánh giá mức độ rủi ro, các NHTM cần xây dựng
chiến thuật phòng chống rủi ro, tuy nhiên loại bỏ hoàn toàn rủi ro trong hoạt động
ngân hàng là không thể vì rủi ro ngân hàng là sự hiện hữu khách quan vốn có
trong các nghiệp vụ của ngân hàng. Do đó, nguyên tắc đầu tiên trong quá trình
QTRR đối với các nhà quản trị ngân hàng là phải biết nhận biết những rủi ro cho
phép. Việc chấp nhận mức độ, loại rủi ro nào chính là điều kiện quan trọng để
điều tiết những tác động tích cực của chúng trong quá trình quản lý rủi ro.
1.2.4.3. Nguyên tắc điều hành rủi ro cho phép
Nguyên tắc này đòi hỏi phần lớn rủi ro trong “gói rủi ro cho phép” phải có
khả năng điều tiết trong quá trình quản lý mà không phụ thuộc vào những hoàn

cảnh khách quan và chủ quan của nó. Chỉ đối với những loại rủi ro như vậy thì
các nhà quản trị ngân hàng mới có thể sử dụng tất cả những vũ khí, nghệ thuật
của mình để điều tiết chúng. Ngoài ra, đối với các loại rủi ro không có khả năng
điều chỉnh cần phải được chuyển đẩy sang công ty bảo hiểm bên ngoài.
1.2.4.4. Nguyên tắc quản lý độc lập các rủi ro riêng biệt
Nguyên tắc là các loại rủi ro khá độc lập với nhau, thiệt hại do một loại rủi
ro nào đó trong gói rủi ro cho phép gây ra không hẳn sẽ làm tăng xác suất xảy ra
với các loại rủi ro khác. Nói cách khác, thiệt hại do các loại rủi ro khác nhau gây
nên là độc lập với nhau, quá trình quản lý chúng cần phải được điều tiết riêng
biệt, không thể gộp các loại rủi ro khác nhau vào một nhóm để đưa ra cùng một
phương pháp điều hành.
1.2.4.5. Nguyên tắc phù hợp giữa mức độ rủi ro cho phép và mức độ thu nhập
Nguyên tắc này là nền tảng của lý thuyết QTRR. Các ngân hàng chỉ được
phép chấp nhận các rủi ro và thiệt hại khi chúng xảy ra trong phạm vi không
được cao quá mức cho phép. Điều này có nghĩa rằng, tất cả các loại rủi ro có mức
tổn thất cao hơn mức độ thu nhập mong đợi cần phải loại bỏ.
1.2.4.6. Nguyên tắc phù hợp giữa mức độ rủi ro cho phép và khả năng tài chính
Luận văn QTRRTD – PĐL- tháng 06/2013
22
Tổn thất mà ngân hàng dự kiến tính toán từ những khoản rủi ro phải phù
hợp với phần có thể trích lập dự phòng từ chi phí; giá trị thiệt hại phải phù hợp
với mức độ dự báo, bao gồm cả những khoản rủi ro không thể chuyển được sang
đối tác hay công ty bảo hiểm bên ngoài.
1.2.4.7. Nguyên tắc hiệu quả kinh tế
Mục đích cơ bản của việc quản lý rủi ro là ngân hàng điều tiết những tác
động tiêu cực khi xảy ra rủi ro. Bên cạnh đó, chi phí ngân hàng bỏ ra để điều tiết
phải thấp hơn giá trị thiệt hại do những rủi ro gây nên.
1.2.4.8. Nguyên tắc hợp lý về thời gian
Thời gian tồn tại của một nghiệp vụ ngân hàng càng lâu thì biên độ xảy ra
rủi ro càng lớn, khả năng điều tiết những tác động tiêu cực của nó càng khó và

hiệu quả của QTRR càng thấp. Khi bắt buộc phải thực hiện các nghiệp vụ này thì
ngân hàng phải bảo đảm có mức thu nhập phụ trội cần thiết không chỉ vì lợi
nhuận mà còn vì mục đích bù đắp những chi phí để điều tiết tác động của rủi ro
trong trường hợp chúng xảy ra.
1.2.4.9. Nguyên tắc chuyển đẩy các loại rủi ro không cho phép
Nguyên tắc này đòi hỏi các loại rủi ro nằm trong “gói rủi ro cho phép” phải
có tính chuyển đẩy cao. Các loại rủi ro không tương thích với khả năng điều tiết
hay không phù hợp với những yêu cầu cụ thể trong chiến lược và chính sách điều
hành hoạt động của ngân hàng cần phải được loại bỏ khỏi gói rủi ro cho phép.
Hay nói cách khác, chúng chỉ được chấp thuận khi có khả năng chuyển đẩy cao
sang các đối tác hoặc các công ty bảo hiểm bên ngoài.
Trên đây là 9 nguyên tắc cơ bản để từ đó mỗi ngân hàng xây dựng cho
mình một chính sách QTRR ngân hàng riêng biệt. Chính sách QTRR phải được
xem là một cấu phần trong chiến lược hoạt động chung của ngân hàng và nó đòi
hỏi phải xây dựng được một hệ thống phòng chống từ xa, đưa ra được giải pháp
nhằm điều tiết các tác động xấu đến tình hình tài chính của ngân hàng. Các
Luận văn QTRRTD – PĐL- tháng 06/2013
23
nguyên tắc này cần phải được kết hợp áp dụng một cách đồng bộ và hài hòa trong
quá trình QLRRTD.
1.2.4. Những nội dung cơ bản của quản trị rủi ro tín dụng
1.2.4.1. Xây dựng chiến lược quản trị rủi ro tín dụng
Chiến lược QTRRT của ngân hàng là hệ thống các quan điểm, các mục
đích và mục tiêu cơ bản cùng các giải pháp, chính sách nhằm sử dụng một các tốt
nhất các nguồn lực, lợi thế của NHTM nhằm đạt được các mục đích, mục tiêu đặt
ra trong việc kiểm soát RRTD của ngân hàng.
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường biến động phức tạp, một chiến lược
quản trị rõ ràng, chính xác trong dự báo, đảm bảo cho ngân hàng có thể linh hoạt
trong phòng ngừa và xử lý rủi ro. Nó góp phần định hướng cho các hoạt động tín
dụng trong tương lai nhằm đảm bảo mục tiêu an toàn và lợi nhuận cao. Chiến

lược này có thời hạn trong thời gian dài, nó quyết định đến sự tồn tại của cả ngân
hàng, là điều kiện tiên quyết trong hoạt động QTRRTD. Chiến lược quản trị rủi
ro tín dụng hợp lý phải xây dụng trên những căn cứ:
Một là, nguồn vốn của ngân hàng (bao gồm cả vốn huy động và vốn chủ
sở hữu). Dựa vào quy mô nguồn vốn, ngân hàng có thể lựa chọn kỳ hạn đầu tư,
loại hình cho vay phù hợp.
Thứ hai, các chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước, điều này ảnh hưởng
đến nhu cầu tín dụng của thị trường. Ngân hàng xây dựng chiến lược QTRR phải
phù hợp với chính sách điều hành vĩ mô của Chính phủ.
Thứ ba, căn cứ các quy định của cơ quan quản lý, với các chính sách, văn
bản pháp quy đã được ban hành, các ngân hàng phát triển theo hướng chủ động
kinh doanh và hoàn toàn tự chịu trách nhiệm trước những hoạt động của mình.
Thứ tư, nguồn lực vật chất và trình độ của đội ngũ cán bộ công nhân viên
là nhân tố tác động đến khả năng hoạt động của ngân hàng trên mọi lĩnh vực,
những nhân tố này là lợi thế cạnh tranh của ngân hàng trên thị trường.
Luận văn QTRRTD – PĐL- tháng 06/2013
24
Thứ năm, những phân tích, dự báo rủi ro trong hoạt động kinh doanh nói
chung và hoạt động tín dụng nói riêng. đây là những phân tích mang tính chất kỹ
thuật, kinh tế, chính trị, xã hội; nhất là những phân tích dự báo về tình hình tài
chính tiền tệ như lãi suất, lạm phát, ngoại tệ
Thứ sáu, hệ thống các nguyên tắc QTRRTD cụ thể: Chiến lược quản trị
rủi ro phải phù hợp với chiến lược phát triển và chính sách tín dụng của ngân
hàng trên cơ sở tuân thủ các quy tắc tín dụng đề ra.
Ngân hàng cần có một bộ phận QTRRTD riêng, hoạt động độc lập với các
bộ phận kinh doanh khác trong ngân hàng, đảm bảo sự độc lập của công tác
QTRR trong việc nhìn nhận các rủi ro của riêng từng bộ phận cũng như toàn bộ
hoạt động của ngân hàng.
Xây dựng chiến lược QTRR trên cơ sở ngân hàng phải thực hiện nguyên
tắc “hai tay, bốn mắt” trong hoạt động QTRRTD, thực hiện phân cấp, phân

quyền hợp lý, giải quyết hài hoà mối quan hệ giữa lợi ích và trách nhiệm trên cơ
sở thực hiện toàn bộ danh mục cho vay cũng như đối với từng khoản vay riêng lẻ.
Xây dựng QTRRTD phải được đặt trong mối quan hệ với các loại rủi ro khác,
phải được thực hiện đồng thời các công việc như xác định, định lượng, giám sát
và QTRRTD cũng như thực hiện dự phòng rủi ro đủ để bù đắp tổn thất khi rủi ro
tín dụng xảy ra.
Khi xây dựng chiến lược QTRRTD cần phải thực hiện cân bằng giữa chi phí
và lợi ích thu về. Chi phí QTRR phải thấp hơn thu nhập mang lại từ việc thực hiện
công việc này.
1.2.4.2. Phân tích rủi ro tín dụng
Thực hiện phân tích tín dụng một cách đầy đủ và toàn diện là nhằm đánh
giá khách hàng và tính hiệu quả của dự án trước khi cho vay. Việc phân tích,
thẩm định được thực hiện trước, trong và sau khi cấp tín dụng là yêu cầu bắt buộc
đối với mỗi khoản tín dụng nhằm đảm bảo sự chính xác, tính hiệu quả sử dụng
vốn, nhằm đánh giá mức sinh lời của tín dụng, đảm bảo được mục đích kinh
doanh của ngân hàng, xác định những tình huống có thể dẫn đến rủi ro cho ngân
Luận văn QTRRTD – PĐL- tháng 06/2013
25

×