1
I. TÊN ĐỀ TÀI
PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC, CHỦ ĐỘNG SÁNG TẠO
CỦA HỌC SINH TRONG GIỜ HỌC MÔN VẬT LÍ LỚP 9
II. ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lý do chọn đề tài
Trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hiện nay cần phải
có những con người có kiến thức, có trình độ, có khả năng tiếp cận với khoa học
kỹ thuật hiện đại. Muốn như vậy, ngay từ đầu các cấp học giáo viên cần phải
trang bị cho học sinh những kiến thức cơ bản nhất, trang bị cho học sinh từ ý
thức học tập, năng lực tự học, tự trao dồi, tìm kiếm kiến thức mới. Trên cơ sở đó
học sinh có thể vận dụng linh hoạt những kiến thức đã được học vào cuộc sống
và lao động.
Với yêu cầu trên mỗi giáo viên ngoài việc truyền thụ kiến thức cho học
sinh, giáo viên còn phải hình thành cho học sinh năng lực hoạt động, năng lực tư
duy sáng tạo. Giúp học sinh biết vận dụng kiến thức, thu thập kiến thức. Từ đó
xử lí được các vấn đề đặt ra trong khoa học và đời sống một cách hợp lí.
Kiến thức và kỹ năng là một trong những yếu tố cấu thành năng lực của học
sinh. Nhưng với trình độ phát triển khoa học và kỹ thuật với điều kiện tiếp cận
thông tin như hiện nay, thì năng lực đạt được kiến thức và xử lý thông tin trở
nên vô cùng quan trọng và được đặt lên hàng đầu. Việc phát huy tính tích cực,
chủ động sáng tạo của học sinh trong mỗi giờ học đã trở thành một trong những
nhiệm vụ chủ yếu của việc dạy học.
Nhờ đặc điểm của môn Vật lí và mối liên hệ chặt chẽ những kiến thức Vật
lí với những tiến bộ khoa học kỹ thuật, mà việc giảng dạy Vật lí ở trường tạo ra
rất nhiều khả năng để phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của học sinh
trong quá trình dạy học.
Trong chương trình Vật lí THCS dạy học theo hướng tích cực không có
nghĩa là loại bỏ các phương pháp dạy học hiện có và thay vào đó là các phương
pháp mới. Các phương pháp dạy học truyền thống, với nét đặc trưng cơ bản là
cung cấp những tri thức khoa học dưới dạng có sẵn đều có mặt tích cực của nó.
Nếu giáo viên biết tìm cách cải tiến để phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo
của học sinh trong giờ học thì sẽ làm cho học sinh suy nghĩ nhiều hơn, làm việc
nhiều hơn, thảo luận nhiều hơn và luôn có niềm đam mê thích được nghiên cứu
học tập, luôn yêu thích học tập môn Vật lí.
Xuất phát từ tầm quan trọng của việc phát huy tính tích cực, chủ động sáng
tạo của học sinh trong giờ học môn Vật lí nhằm giúp học sinh có thêm nhiều
phương pháp học tập tốt, lĩnh hội được toàn bộ các kiến thức trong các giờ học,
từ đó vận dụng được vào trong cuộc sống một cách thiết thực và có hiệu quả tôi
đã chọn đề tài: “Phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của học sinh trong
giờ học môn Vật lí lớp 9” để làm đề tài nghiên cứu.
2
2. Tầm quan trọng của vấn đề nghiên cứu
Trong giờ dạy môn Vật lí giáo viên không chỉ cung cấp cho học sinh những
kiến thức, hay giải những bài tập có sẵn trong SGK mà phải giúp cho học sinh
hiểu rằng các thành tựu khoa học ngày nay có những đóng góp không nhỏ của
Vật lí. Nền văn minh mà nhân loại có được không thể thiếu những công trình,
những nghiên cứu khoa học của các nhà Vật lí vĩ đại như: Aristotle, Ixac
Newton, Kepler, Anbe Anhxtanh… Giáo viên nên giới thiệu và kể nhiều về các
câu chuyện liên quan đến môn Vật lí, bởi khi đó sẽ kích thích tính tò mò, ham
muốn tìm hiểu những cái mới của học sinh, khuyến khích học sinh tìm đọc
nhiều hơn tài liệu môn Vật lí. Từ đó học sinh hiểu rằng môn Vật lí không phải
môn học khô khan và khó hiểu, mà nó là một môn học rất lý thú, là một môn
khoa học để khám phá thế giới và tầm ảnh hưởng của nó đến đời sống hằng
ngày của chúng ta là rất lớn.
Ở lứa tuổi này nhiều học sinh có tâm lý rụt rè, không thích tạo sự chú ý nên
thường thụ động trong giờ học, ngại phát biểu, ít trao đổi trong hoạt động nhóm
vì thế đa số học sinh chọn phương án ngồi nghe giáo viên giảng một cách thụ
động, không hề phát biểu hay có một phản hồi nào khác dù hiểu hay chưa hiểu,
từ đó tạo nên thói quen không chịu suy nghĩ và làm cho giờ học không sôi nổi
và hiệu quả thấp. Vì vậy giáo viên cần thay đổi cách học đó của học sinh, tạo
điều kiện cho học sinh hoạt động nhiều hơn, suy nghĩ nhiều hơn, khuyến khích
đặt câu hỏi xây dựng bài học, mạnh dạn thảo luận xây dựng các phương án thực
hành trong hoạt động nhóm. Từ đó học sinh luôn có niềm đam mê với khoa học
nhiều hơn, đặc biệt luôn yêu thích môn học Vật lí.
3. Những thực trạng liên quan đến vấn đề đang nghiên cứu
a) Đối tượng nghiên cứu
Học sinh lớp 9/2 trường THCS Nguyễn Văn Trỗi - Duy Nghĩa – Duy
Xuyên – Quảng Nam.
b) Thời gian nghiên cứu
Từ tháng 9 đến tháng 3 năm học 2013 -2014.
c) Phạm vi nghiên cứu
Phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của học sinh trong giờ học môn
Vật lí lớp 9/2 trường THCS Nguyễn Văn Trỗi – Duy Xuyên – Quảng Nam.
4. Giới hạn nghiên cứu của đề tài
Đề tài nghiên cứu được giới hạn trong giờ học môn Vật lí lớp 9/2 từ tháng 9
đến tháng 3 năm học 2013 – 2014.
III. CƠ SỞ LÍ LUẬN
Trong giáo dục hoạt động cơ bản là dạy và học. Trong đó hoạt động dạy
học không chỉ đơn thuần là cung cấp cho học sinh kiến thức có sẵn và những
kinh nghiệm xã hội mà còn góp phần tích cực vào việc hình thành và phát triển
nhân cách của học sinh theo mục tiêu đào tạo.
3
Mục tiêu của bài viết này là tôi muốn giúp cho học sinh từ những học sinh
có học lực trung bình, thậm chí học sinh yếu đều tích cực và ham học tập, biết
vận dụng phương pháp học tập có hiệu quả nhất đối với bản thân. Qua đó học
sinh nắm được vững vàng kiến thức Vật lí, rèn khả năng tư duy lô gíc và lý luận
thực tế. Hơn nữa rèn luyện tính năng động, sáng tạo, cách làm việc khoa học. Đó
là những phẩm chất của người ham nghiên cứu khoa học, ham học tập… phải
được hình thành ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường.
IV. CƠ SỞ THỰC TIỄN
1. Đặc điểm tình hình
Cơ cơ sở vật chất nhà trường khang trang, phòng học và phòng thí nghiệm
thực hành kiên cố, sạch sẽ, đúng qui cách, có đồ dùng dạy học, dụng cụ thí
nghiệm thực hành đầy đủ cho từng tiết dạy;
Giáo viên được đào tạo có trình độ chuyên môn nghiệp vụ vững vàng, kiến
thức phong phú. Luôn thực hiện tốt việc ứng dụng công nghệ thông tin vào
trong soạn, giảng làm cho tiết dạy thêm sinh động. Trong giờ học thí nghiệm
thực hành giáo viên phát huy tối đa đồ dùng dạy học hiện có;
Học sinh có đầy đủ sách giáo khoa, sách bài tập, sách tham khảo, dụng cụ
học tập đầy đủ và nhu cầu nhận thức của học sinh càng phát triển tích cực.
2. Thực trạng của vấn đề nghiên cứu
Mỗi môn học có một đặc trưng riêng. Môn Vật lí là một môn khoa học thực
nghiệm. Các vấn đề mà môn Vật lí nghiên cứu đều là những vấn đề liên quan
đến các hiện tượng, quy luật, trong cuộc sống, trong lao động. Nắm được khoa
học kỹ thuật vừa giúp cho học sinh có cơ sở để đạt được những mục đích, yêu
cầu đã đề ra ở trên, đồng thời giúp cho học sinh có thể vận dụng được những
kiến thức đã học vào trong thực tế cuộc sống.
a) Thuận lợi
Đề tài được Hội đồng khoa học nhà trường duyệt và cho áp dụng nghiên
cứu thực hiện ngay từ đầu năm học;
Được sự quan tâm chỉ đạo sát sao của Ban giám hiệu, Tổ chuyên môn và sự
nhiệt tình cộng tác của các đồng nghiệp trong trường;
Bản thân luôn năng nổ, tích cực áp dụng đề tài trong từng tiết dạy trên lớp;
Học sinh ngoan ngoãn, lễ phép có nhiều cố gắng muốn được vươn lên
nhiều hơn nữa trong học tập.
b) Khó khăn
Trường THCS Nguyễn Văn Trỗi là một trường thuộc vùng bãi ngang ven
biển, nằm trong vùng dự án, đời sống kinh tế phần lớn nhiều hộ gia đình còn gặp
nhiều khó khăn. Phần lớn ngoài thời gian học tập tại trường học sinh còn tranh
thủ thời gian để phụ giúp công việc cho gia đình nên ảnh hưởng không nhỏ đến
công việc học tập;
4
Đối với môn học Vật lí là môn khoa học thực nghiệm khó, cần phải đi từ
các thí nghiệm để phát hiện sự vật hiện tượng. Từ đó phân tích, rút ra nhận xét,
kết luận, hình thành kiến thức mới. Đặc biệt là nhiều kiến thức liên quan đến
những hiện tượng hàng ngày học sinh thường gặp, cũng như những kinh nghiệm
trong thực tiễn cuộc sống. Chính vì vậy, khi dạy những kiến thức mới giáo viên
cần phải hướng dẫn cho học sinh thực hiện tốt các hoạt động thí nghiệm thực
hành, để rút ra nhận xét, kết luận theo yêu cầu của bài học. Nếu không học sinh
thường có những suy nghĩ, phán đoán theo kiểu cảm tính về những hiện tượng
được nghiên cứu. Và điều này sẽ tạo nên những khó khăn trong việc hình thành
kiến thức mới cho học sinh;
Học sinh trong lớp không đồng đều, có sự chênh lệch về nhận thức rất rõ
rệt, đặc biệt nhận thức về môn học tự nhiên. Lý do là các em chưa biết phương
pháp học tập, rỗng kiến thức nên sinh ra chán học, không muốn đầu tư thời gian,
tâm huyết vào việc tìm tòi khám phá. Không chỉ vậy mà còn có một số học sinh
chưa yêu thích môn học. Điều đó thể hiện ở một số kết quả khảo sát đầu năm đối
với bộ môn Vật lí như sau:
Khảo sát chất lượng đầu năm học:
Năm
học
Lớp
Số
Yếu kém T. bình Khá giỏi TB
SL TL SL TL SL TL SL
TL
13 - 14 9/2 30 9 30% 11 36,7% 10 33,3% 21 70%
V. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
Để phát huy được tính tích cực, chủ động sáng tạo của học sinh trong giờ
học môn Vật lí. Tôi đã nghiên cứu, phân loại và áp dụng một số phương pháp
dạy học nhằm phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của học sinh trong giờ
học môn Vật lí lớp 9. Các phương pháp này được vận dụng phù hợp cho từng
nội dung, từng bài dạy, đã đem lại hiệu quả tích cực đối với giáo viên và học
sinh của lớp nghiên cứu áp dụng đề tài.
Các Phương pháp đó là:
Phương pháp dạy học thí nghiệm Vật lí;
Phương pháp dạy học thực nghiệm Vật lí;
Phương pháp dạy học theo nhóm;
Phương pháp dạy học một hiện tượng Vật lí;
Phương pháp dạy học một đại lượng Vật lí;
Phương pháp dạy học một định luật Vật lí;
Phương pháp dạy học tiết bài tập Vật lí.
5
Với các phương pháp đó cần phải áp dụng phù hợp cho từng nội dung, từng
bài dạy. Không chỉ vậy còn phải thực hiện theo đúng tiến trình thì mới đem lại
hiệu quả cao trong từng tiết dạy.
1. Phương pháp dạy học thí nghiệm Vật lí
Quy luật của quá trình dạy học là đi từ trực quan sinh động đến tư duy trừu
tượng, song quá trình nhận thức đó đạt hiệu quả cao hay không còn phụ thuộc
vào phương pháp giảng dạy của giáo viên và quá trình tiếp thu kiến thức của học
sinh. Vật lí là một trong những môn học có ưu thế trong việc phát huy tính tích
cực, chủ động sáng tạo của học sinh. Các dụng cụ thí nghiệm là một trong
những phương tiện thể hiện phương pháp dạy học tích cực trong các giờ học thí
nghiệm, trong đó thí nghiệm phải kích thích được hứng thú óc sáng tạo của học
sinh. Muốn đạt được điều đó giáo viên phải tìm hiểu thật kỹ nội dung bài dạy,
các dụng cụ và các bước thí nghiệm sẽ làm trước khi giảng dạy.
a) Tiến trình hoạt động
- Phải cho học sinh thảo luận để hiểu rõ được mục tiêu của thí nghiệm, từ
đó tạo ra hứng thú nhận thức thích thực hành thí nghiệm ở học sinh;
- Giáo viên giới thiệu các dụng cụ thí nghiệm, cho học sinh tìm hiểu đầy đủ
chức năng của từng bộ phận có trong dụng cụ thí nghiệm được sử dụng;
- Cho học sinh thảo luận về các bước của việc tiến hành thí nghiệm, những
yêu cầu cần quan sát hay đo đạt trong mỗi bước thí nghiệm. Phải chuẩn bị các
bảng ghi số liệu thu được từ kết quả thí nghiệm;
- Xử lí các kết quả thu được từ thí nghiệm, rút ra mối liên hệ giữa các quan
sát, giữa các số liệu, lập biểu đồ, đồ thị… Từ đó rút ra nhận xét, kết luận, hình
thành kiến thức mới.
b) Lưu ý: Với phương pháp này giáo viên cần phải chuẩn bị thật kĩ thí
nghiệm trước khi đưa vào dạy học, cần dự phòng trước các tình huống có thể
dẫn tới các thí nghiệm không thành công, từ đó tìm ra nguyên nhân khắc phục.
c) Ví dụ: Thí nghiệm để rút ra kết luận về từ tính của nam châm.
- Học sinh thảo luận, nêu được mục tiêu của thí nghiệm là khẳng định được
nam châm có tính chất từ;
- Giáo viên giới thiệu các dụng cụ thí nghiệm cho học sinh: Kim nam châm,
giá đặt kim, thanh nam châm, một số mảnh kim loại bằng sắt, nhôm, đồng;
- Học sinh thảo luận các bước tiến hành thí nghiệm và tiến hành thí nghiệm
theo hướng dẫn của giáo viên;
- Từ kết quả thí nghiệm thu được: Nam châm có khả năng hút các vật bằng
sắt, thép; khi cân bằng kim nam châm luôn đứng tự do theo hướng Nam – Bắc.
Từ những kết quả thu được từ thí nghiệm học sinh rút ra kết luận là nam châm
có tính chất từ.
2. Phương pháp dạy học thực nghiệm Vật lí
6
Phương pháp thực nghiệm là một phương pháp nhận thức khoa học, được
thực nghiệm khi nghiên cứu tìm tòi xây dựng phương án và tiến hành thí nghiệm
kiểm tra. Dựa trên kết quả thí nghiệm để xác lập giả thiết hoặc kiểm tra một giả
thiết nào đó.
a) Tiến trình hoạt động
- Tổ chức cho học sinh tìm hiểu các hiện tượng Vật lí mà tại thời điểm đó
học sinh không thể giải thích được bằng các kiến thức đã có;
- Yêu cầu học sinh nêu lên vấn đề cần nhận thức, thường dưới dạng một
câu hỏi nhận thức “Tại sao ?”. Nếu yêu cầu vượt quá khả năng của học sinh thì
giáo viên chủ động nêu tình huống có vấn đề để học sinh suy nghĩ;
- Tiếp theo giáo viên yêu cầu học sinh trình bày một giả thuyết dưới dạng
một dự đoán khoa học. Giả thuyết này cần được kiểm tra bằng thí nghiệm. Nếu
giả thuyết quá khó đối với học sinh thì giáo viên có thể nêu giả thuyết;
- Học sinh đưa ra phương án thí nghiệm kiểm tra giả thuyết. Nếu giả thuyết
khó thì giáo viên hướng dẫn học sinh mô tả phương án thí nghiệm;
- Tiến hành thí nghiệm theo phương án đã đề ra. Từ kết quả thí nghiệm xác
nhận hoặc bác bỏ giả thuyết. Nếu giả thuyết bị bác bỏ thì phải xây dựng lại, còn
nếu được xác nhận thì phát biểu thành định luật hoặc hình thành một lý thuyết
Vật lí mới.
b) Lưu ý:
- Nếu áp dụng toàn bộ các bước thì cần nhiều thời gian. Vì thế chỉ nên áp
dụng một số bước hiệu quả nhất;
- Tuỳ theo trình độ và khả năng nhận thức của học sinh mà áp dụng các tình
huống phức tạp hay đơn giản.
c) Ví dụ: Kiểm tra sự phụ thuộc của điện trở vào chiều dài dây dẫn bằng
phương pháp thực nghiệm.
- Giả thuyết vấn đề đặt ra: Với cùng một hiệu điện thế, cùng một dây dẫn
nhưng tại sao dây dẫn càng dài thì bóng đèn sáng yếu hơn?
- Vấn đề cần tìm hiểu: Chiều dài của dây dẫn nó có mối liên hệ như thế nào
đối với điện trở của dây dẫn, với cường độ dòng điện chạy qua dây dẫn;
- Từ các bài học trước, học sinh đã biết điện trở tương đương của đoạn
mạch nối tiếp. Dựa vào kiến thức này có thể tổ chức cho học sinh dự đoán sự
phụ thuộc của điện trở dây dẫn vào chiều dài dây dẫn;
- Giáo viên tổ chức cho học sinh suy luận diễn dịch từ trường hợp chung
(mắc nối tiếp các điện trở bất kì) cho trường hợp riêng ( mắc nối tiếp các đoạn
dây dẫn cùng loại và có cùng chiều dài để có được một dây dẫn có chiều dài lớn
gấp hai, ba… lần) và đưa ra các phương án thí nghiệm;
- Cuối cùng giáo viên cho học sinh tổ chức tiến hành thí nghiệm kiểm tra để
khẳng định sự phụ thuộc của điện trở vào chiều dài dây dẫn là đúng.
7
3. Phương pháp dạy học theo nhóm
Dạy học theo nhóm là một hoạt động học tập có sự phân chia học sinh theo
từng nhóm nhỏ với đủ thành phần khác nhau về trình độ, cùng trao đổi ý tưởng,
một nguồn kiến thức dựa trên cơ sở là hoạt động tích cực của từng cá nhân.
Từng thành viên của nhóm không chỉ có trách nhiệm với việc học tập của mình
mà còn có trách nhiệm quan tâm đến việc học tập của bạn bè trong nhóm.
a) Tiến trình hoạt động
- Giao nhiệm vụ cho mỗi nhóm. Giai đoạn này được thực hiện cho cả lớp,
bao gồm những hoạt động:
+ Giới thiệu chủ đề chung, nhiệm vụ chung, những chỉ dẫn cần thiết thông
qua thuyết trình, đàm thoại hay làm mẫu;
+ Xác định nhiệm vụ của các nhóm;
+ Tổ chức phân chia các nhóm và bố trí địa điểm làm việc cho từng nhóm.
- Làm việc theo nhóm. Các nhóm tự thực hiện nhiệm vụ được giao, nhóm
trưởng tiến hành phân công nhiệm vụ cho từng thành viên trong nhóm, thảo luận
kế hoạch và các bước tiến hành làm việc. Từ đó tiến hành thực hiện và chuẩn bị
báo cáo kết quả trước lớp;
- Trình bày kết quả làm việc của mỗi nhóm và đánh giá kết quả. Đại diện
mỗi nhóm tiến hành trình bày kết quả làm việc của nhóm mình trước lớp. Kết
quả trình bày được cả lớp đánh giá và rút kinh nghiệm, từ đó rút ra kết luận cho
việc học tập tiếp theo.
b) Lưu ý: Để thực hiện tốt phương pháp giảng dạy theo nhóm, mỗi giáo
viên phải có năng lực lập kế hoạch và năng lực tổ chức hoạt động nhóm. Với
học sinh phải được định hướng làm việc thường xuyên, luôn nêu cao ý thức xây
dựng hoạt động nhóm. Giáo viên phải nhận xét chính xác về hoạt động tích cực
của từng nhóm và các thành viên trong nhóm để phát huy được vai trò của các
thành viên học tập trong nhóm.
c) Ví dụ: Giao nhiệm vụ cho các nhóm tiến hành xử lý kết quả thí nghiệm
kiểm tra trong bài “Định luật Jun – Len-xơ”.
- Giao nhiệm vụ:
+ Tiến hành xử lí kết quả thí nghiệm hình 16.1 để so sánh điện năng tỏa ra
với nhiệt lượng của nước và ấm thu vào trong quá trình trao đổi nhiệt;
+ Chia học sinh thành các nhóm, phân công nhóm trưởng;
+ Yêu cầu các nhóm dựa vào kết quả thu được, nghiên cứu kĩ nội dung vấn
đề cần thực hiện, thảo luận và hoàn thành vấn đề cần thực hiện theo nhóm.
- Làm việc theo nhóm: Từng thành viên trong nhóm thảo luận, phân tích,
tóm tắt dưới dạng các kí hiệu, chuyển đổi các đơn vị đo về đơn vị chuẩn, lập
công thức, suy luận giá trị cần tìm, thay số tính toán, biện luận kết quả, ghi vào
bảng nhóm.
8
- Trình bày kết quả làm việc của mỗi nhóm và đánh giá kết quả: Một vài
nhóm trình bày kết quả trước lớp, các nhóm khác nhận xét. Giáo viên tổng hợp
nhận xét kết quả của từng nhóm.
4. Phương pháp dạy học một hiện tượng Vật lí
Có nhiều hiện tượng xảy ra trong đời sống hằng ngày không thể áp dụng
hết các công thức để tính toán chính xác được. Vì vậy có nhiều hiện tượng cần
phải giải thích về mặt định tính cho phù hợp với nhận thức của học sinh. Có thể
nêu lên một vấn đề, vận dụng những kiến thức đã được học để giải thích những
hiện tượng đó một cách khoa học, sẽ tạo được niềm đam mê thích được nghiên
cứu học tập của học sinh.
a) Tiến trình hoạt động
- Giáo viên đặt ra một số hiện tượng trong đời sống hằng ngày mà chúng ta
hay gặp, nêu vấn đề đó ra cho học sinh suy nghĩ. Ví dụ như tại sao khi bỏ chiếc
đũa vào tô nước ta nhìn thấy chiếc đũa bị gãy khúc…? Giáo viên có thể tiến
hành thí nghiệm cho học sinh quan sát hiện tượng đó;
- Trên cơ sở những hiện tượng mà học sinh quan sát, nhìn thấy được trong
thực tế đời sống hay trong những thực nghiệm. Bằng những câu hỏi định hướng
hợp lí, giáo viên hướng dẫn học sinh phát hiện được những dấu hiệu chung, bản
chất của hiện tượng Vật lí;
- Giáo viên cho học sinh kiểm tra kết luận thông qua các quan sát và thí
nghiệm khác;
- Diễn đạt kết luận thu được bằng những thật ngữ Vật lí thành các khái
niệm, hiện tượng được nghiên cứu.
b) Lưu ý: Trong phương pháp dạy học một hiện tượng Vật lí thì khái niệm
về hiện tượng Vật lí mới chỉ đề cập tới mặt định tính của hiện tượng Vật lí.
c) Ví dụ: Dạy học hiện tượng khúc xạ ánh sáng
- Giáo viên nêu giả thuyết và tiến hành thí nghiệm cho học sinh quan sát
một hiện tượng Vật lí. Tại sao khi bỏ chiếc đũa vào tô nước ta nhìn thấy chiếc
đũa bị gãy khúc?
- Những câu hỏi liên quan giáo viên yêu cầu học sinh trả lời:
+ Phát biểu định luật truyền thẳng ánh sáng?
+ Có thể nhận biết được đường truyền của tia sáng bằng những cách nào?
- Sau khi học sinh quan sát hiện tượng giáo viên yêu cầu học sinh trả lời các
câu hỏi sau:
+ Ánh sáng truyền trong không khí và trong nước đã tuân theo định luật
nào?
+ Hiện tượng ánh sáng truyền từ không khí sang nước có tuân theo định
luật truyền thẳng của ánh sáng hay không? + Khi tia sáng truyền từ không khí
sang nước có đặc điểm gì?
9
- Giáo viên yêu cầu học sinh phát biểu hiện tượng khúc xạ ánh sáng.
5. Phương pháp dạy học một đại lượng Vật lí
Đại lượng Vật lí là các thể hiện về mặt định lượng bản chất Vật lí có thể đo
lường được của một vật thể hay hiện tượng tự nhiên, như khối lượng, trọng
lượng, thể tích, vận tốc, lực Khi đo đạc một đại lượng, giá trị đo được là một
con số theo sau bởi một đơn vị đo.
a) Tiến trình hoạt động
- Phát hiện đặc điểm định tính của đại lượng Vật lí;
Bằng cách nêu lại một tình huống thực tế trong đời sống có liên quan đến
bài học hôm nay, hay tiến hành một thí nghiệm đơn giản, giải thích một bài tập
Vật lí… Giáo viên tạo tình huống trong đó xuất hiện tính chất mới của sự vật,
hiện tượng không thể giải thích bằng các đại lượng Vật lí đã biết ở các bài học
trước, bắt buộc phải đưa ra một đại lượng Vật lí mới để giải thích hiện tượng
mới. Lúc đó, học sinh hiểu rõ việc đưa ra đại lượng Vật lí mới để làm gì? Để đặc
trưng cho tính chất mới nào của sự vật, hiện tượng? Trả lời được câu hỏi đó
chính là đã phát hiện được đặc điểm định tính của đại lượng Vật lí.
- Làm sáng tỏ đặc điểm định lượng của đại lượng Vật lí;
Đặc điểm định lượng của đại lượng Vật lí thường được biểu diễn bằng một
biểu thức toán học liên hệ giữa đại lượng mới với đại lượng đã biết. Trong dạy
học Vật lí có hai cách để tìm ra đặc điểm định lượng của đại lượng Vật lí mới:
+ Cách 1: Nếu đã biết trước đặc điểm định tính của đại lượng Vật lí mới,
giáo viên hướng dẫn học sinh xuất phát từ đặc điểm định tính đó, phân tích mối
liên hệ giữa đại lượng mới với các đại lượng cũ để tìm ra một biểu thức định
lượng giữa các đại lượng cũ. Biểu thức này có giá trị càng lớn khi tính chất mới
của sự vật, hiện tượng có biểu hiện càng lớn và ngược lại;
+ Cách 2: Nếu chưa biết trước đặc điểm định tính của đại lượng Vật lí thì
phải sử dụng những đại lượng và định luật đã biết, để khảo sát một hiện tượng
mới và tìm được một biểu thức luôn có giá trị không đổi khi các đại lượng có
mặt trong biểu thức đó thay đổi. Giá trị của biểu thức này chỉ phụ thuộc vào bản
thân sự vật, hiện tượng, mà không phụ thuôc vào điều kiện bên ngoài. Phân tích
biểu thức đó, ta sẽ biết được biểu thức đó đặc trưng cho tính chất nào của sự vật,
hiện tượng, nghĩa là tìm được đặc điểm định tính của đại lượng Vật lí mới. Khi
đó, quá trình xây dựng đại lượng Vật lí mới thường đi liền với xây dựng một đại
lượng Vật lí đã học.
- Định nghĩa đại lượng Vật lí;
Định nghĩa đại lượng Vật lí có nghĩa là nêu cả đặc điểm định tính và đặc
điểm định lượng của đại lượng Vật lí. Đối với các đại lượng Vật lí mà đặc điểm
định tính của nó về sau mới được làm sáng tỏ thì trong định nghĩa đại lượng Vật
lí, ta chỉ nêu đặc điểm định lượng của nó.
- Xác định đơn vị đo đại lượng Vật lí;
10
Ngoài các đơn vị cơ bản, mọi đơn vị đo đều được xác định dựa trên biểu
thức định nghĩa của đại lượng. Sau khi xác định được đơn vị đo phải chú thích
được đơn vị đo dưới dạng các kí hiệu.
- Vận dụng đại lượng Vật lí;
Trong giai đoạn này, học sinh vận dụng các kiến thức vừa học để giải thích
những sự vật hiện tượng cụ thể trong đời sống hằng ngày, dự đoán những dấu
hiệu, hiện tượng có thể cảm nhận được trong thực tiễn bằng giác quan, có thể đo
lường cụ thể và giải các bài tập tính toán.
b) Lưu ý: Mỗi đại lượng Vật lí có thể có một hoặc nhiều đơn vị đo khác
nhau, nhiều kí hiệu giữa các đại lượng có thể trùng nhau. Đơn vị đo của đại
lượng Vật lí này có mối liên hệ chặt chẽ với biểu thức đã lập cho đại lượng Vật
lí mới. Vì vậy giáo viên phải hướng dẫn cho học sinh cách chuyển đổi về một
đơn vị chuẩn và một kí hiệu đặc trưng được bản chất của đại lượng Vật lí mới.
c) Ví dụ: Hình thành kiến thức về một đại lượng Vật lí mới “Điện trở suất”.
- Giáo viên cho học sinh tiến hành thí nghiệm mắc sơ đồ mạch điện với ba
dây dẫn có cùng chiều dài, cùng tiết diện nhưng được làm bằng ba vật liệu khác
nhau (đồng, sắt và constantan). Xác định điện trở của ba dây dẫn có cùng chiều
dài, cùng tiết diện nhưng được làm từ các vật liệu khác nhau;
- Qua thí nghiệm trên học sinh rút ra được kết luận: Điện trở của dây dẫn
phụ thuộc vào vật liệu làm dây dẫn;
- Sự phụ thuộc của điện trở vào vật liệu làm dây dẫn được đặc trưng bằng
đại lượng nào? Đại lượng đó được phát biểu như thế nào? (Học sinh trả lời cá
nhân);
- Điện trở suất được kí hiệu như thế nào? Đơn vị đo của nó là gì? Cho biết
điện trở suất của đồng là 1,7.10
-8
Ω
.m con số đó có ý nghĩa là gì?
- Sau khi xây dựng công thức điện trở của dây dẫn có điện trở suất
ρ
, giáo
viên cho học sinh làm một bài tập vận dụng để khắc sâu hơn kiến mới mà học
sinh vừa mới lĩnh hội được.
6. Phương pháp dạy học một định luật Vật lí
Định luật Vật lí là mối quan hệ khách quan, phổ biến giữa các thuộc tính
của các đối tượng, các quá trình và trạng thái được mô tả thông qua các đại
lượng Vật lí, tồn tại trong những điều kiện xác định và thể hiện khi những điều
kiện này xuất hiện, tương đối bền vững và có thể lặp lại.
a) Tiến trình hoạt động
- Trước tiên ôn tập để nắm vững các đại lượng Vật lí được đề cập trong
định luật sẽ được khảo sát trong bài học;
- Thiết lập và tiến hành các thí nghiệm trong đó có thể lần lượt tác động
làm thay đổi trị số của hai trong số các đại lượng Vật lí, còn các đại lượng khác
được giữ nguyên không đổi. Trong mỗi lần thí nghiệm, khi làm thay đổi trị số
11
của một đại lượng sẽ dẫn tới sự thay đổi trị số của đại lượng khác. Lập bảng ghi
lại trị số phụ thuộc và tương ứng của hai đại lượng này;
- Từ bảng, lập đồ thị biểu diễn mối quan hệ phụ thuộc giữa hai đại lượng.
Từ đó suy luận lô gíc để tìm ra mối quan hệ định lượng giữa hai đại lượng. Nếu
định luật phản ánh mối quan hệ giữa nhiều đại lượng thì lại lặp lại thí nghiệm
tương tự đối với một cặp đại lượng khác và suy luận về mối quan hệ định lượng
giữa cặp đại lượng này;
- Tiến hành tổng hợp, khái quát hoá và suy luận toán học, trên cơ sở mối
quan hệ định lượng giữa các cặp đại lượng đã tìm được, để đi tới tổng quát giữa
các đại lượng được đề cập trong định luật được khảo sát;
- Phát biểu định luật, viết công thức biểu thị mối quan hệ giữa các đại
lượng, chú thích các đơn vị, kí hiệu các đại lượng trong công thức;
- Áp dụng định luật cho một số bài toán cụ thể, từ đơn giản đến phức tạp.
b) Lưu ý: Giáo viên nên tìm cách giúp đỡ học sinh trong quá trình tổng hợp,
khái quát hoá, suy luận quy nạp cũng như suy luận toán học trong thí nghiệm.
Giáo viên cần đầu tư suy nghĩ các giải pháp sư phạm phù hợp với từng nhóm đối
tượng học sinh.
c) Ví dụ: Xây dựng hệ thức định Ôm trong bài “Điện trở của dây dẫn –
Định luật Ôm”.
- Trước hết cho học sinh ôn lại kiến thức về sự phụ thuộc của cường độ
dòng điện vào hiệu điện thế giữa hai đầu dây dẫn;
- Xác định thương số
I
U
đối với hai dây dẫn khác nhau;
- Cho học sinh tìm hiểu đại lượng Vật lí mới, đó là điện trở của dây dẫn.
Điện trở dây dẫn biểu thị mức độ cản trở dòng điện nhiều hay ít của dây dẫn;
- Cho học sinh tìm hiểu mối quan hệ giữa cường độ dòng điện I, hiệu điện
thế U và điện trở R của dây dẫn. Từ đó xây dựng được hệ thức của định luật Ôm
I =
R
U
;
- Từ hệ thức của định luật, yêu cầu học sinh phát biểu thành định luật và
chú thích các đại lượng, đơn vị đo có trong hệ thức của định Ôm;
- Cho học sinh làm bài tập vận dụng ở câu C
3
; C
4
trang 8 sách giáo khoa để
học sinh khắc sâu hơn kiến thức của định Ôm.
7. Phương pháp dạy học tiết bài tập Vật lí
Bài tập Vật lí sẽ giúp học sinh hiểu sâu hơn những qui luật Vật lí, những
hiện tượng Vật lí. Thông qua các bài tập ở các dạng khác nhau, các cách giải
khác nhau, tạo điều kiện cho học sinh vận dụng linh hoạt những kiến thức để tự
lực giải quyết thành công những tình huống, thì những kiến thức đó mới trở nên
sâu sắc và trở thành vốn riêng của học sinh. Để làm được điều này đòi hỏi giáo
viên phải đưa ra nhiều phương pháp cũng như các cách giải khác nhau trong
12
cùng một bài tập. Từ đó thấy được những ưu điểm và hạn chế trong mỗi cách
giải để áp dụng phù hợp cho từng nhóm đối tượng học sinh.
a) Tiến trình hoạt động
- Ôn lại kiến thức cần vận dụng để giải bài tập đã được học ở các bài trước;
- Giáo viên lựa chọn các bài tập để giải trong tiết học:
+ Bài tập từ đơn giản đến phức tạp;
+ Các bài tập định tính, các bài tập định lượng, các bài tập trắc nghiệm và
bài tập tự luận;
+ Các bài tập thường có nhiều cách giải khác nhau;
+ Các bài tập để ra thêm cho học sinh khá giỏi.
- Sau khi ôn xong lý thuyết giáo viên cho học sinh tự giải khoảng 6 câu trắc
nghiệm. Sau khoảng 10 phút cho 6 học sinh đại diện trả lời kết quả, mỗi học
sinh cho biết đáp số một câu. Sau đó cho học sinh nhận xét;
- Tiếp theo cho cả lớp làm 2 bài tập tự luận, mỗi bài khoảng 10 phút;
- Giáo viên để cho từng học sinh tự lực giải mỗi bài tập trong 10 phút. Sau
đó đề nghị một học sinh trình bày cách giải, học sinh khác nhận xét và có thể
nêu cách giải khác. Nếu cách giải khác khó thì cho học sinh thảo luận nhóm đề
xuất cách giải khác. Sau đó một vài nhóm trình bày, các nhóm khác nhận xét;
- Đối với các học sinh khá giỏi khi làm xong bài trước, giáo viên có thể
hướng dẫn cách giải khác hoặc giải một bài tập khác có phần phức tạp hơn;
- Cuối bài, giáo viên tổng kết và nêu cách giải hợp lí và ngắn gọn nhất,
cũng như đáp số của bài tập đó.
b) Lưu ý: Không nên dạy tiết bài tập trong đó không có sự trao đổi thảo
luận của các học sinh trong quá trình giải mỗi bài tập, từng học sinh loay hoay
giải bài tập, sau đó giáo viên trình bày lời giải của mình trên bảng cho học sinh
ghi lại. Cách dạy như thế rất tẻ nhạt, nhàm chán đối với các đối tượng học sinh
vì không có tác dụng giúp học sinh hiểu sâu sắc hơn các kiến thức và kỹ năng
cần vận dụng, không giúp học sinh phát triển khả năng tự lực, tích cực và sáng
tạo trong việc giải quyết các tình huống mà bài tập đề ra.
Các phương pháp dạy học trình bày ở trên nhằm phát huy tính tích cực, chủ
động sáng tạo của học sinh đã được vận dụng trong năm học 2013 - 2014 đối
với học sinh lớp 9/2 trường THCS Nguyễn Văn Trỗi trong giờ học môn Vật lí.
Dưới đây là một giáo án cụ thể được áp dụng một trong các phương pháp trên
trong năm học 2013 – 2014. (Giáo án được trình bày cụ thể tại phần Phụ lục).
VI. KẾT QUẢ ÁP DỤNG SÁNG KIẾN
Việc áp dụng sáng kiến này vào giảng dạy trong năm học 2013 – 2014 đối
với 30 học sinh lớp 9/2 trường THCS Nguyễn Văn Trỗi đã đạt được một số kết
quả nhất định như sau:
13
1. Đối với giáo viên
- Vận dụng tốt các phương pháp dạy học tích cực, phát huy được tính chủ
động sáng tạo của học sinh trong các giờ dạy;
- Với sáng kiến này đã định hướng được cho tất cả các đối tượng học sinh
một phương pháp học tập có hiệu quả nhất.
2. Đối với học sinh
- Đa số học sinh nắm được các kiến thức cơ bản của chương trình, biết cách
tiến hành các thí nghiệm có trong chương trình, kỹ năng thực hành thành thạo;
- Phần lớn học sinh tích cực tư duy trong các giờ học, yêu thích môn Vật lí,
thích khám phá cái mới và say mê với việc học tập;
- Mỗi học sinh có được một phương pháp học tập phù hợp cho bản thân đối
với từng nội dung bài học.
* Kết quả khảo sát trước và sau khi áp dụng đề tài
Kết quả khảo sát chất lượng đầu năm:
Năm
học
Lớp
Số
Yếu kém T. bình Khá giỏi TB
SL TL SL TL SL TL SL
TL
13 - 14 9/2 30 9 30% 11 36,7% 10 33,3% 21 70%
Kết quả khảo sát chất lượng sau khi áp đề tài:
Năm
học
Lớp
Số
Yếu kém T. bình Khá giỏi TB
SL TL SL TL SL TL SL
TL
13 - 14 9/2 30 1 3,3% 10 33,3% 19 63,4% 29 96,7%
Qua đối chiếu kết quả của bài kiểm tra khảo sát sau khi áp dụng đề tài với
bài khảo sát chất lượng đầu năm thì tỉ lệ học sinh khá giỏi tăng lên đáng kể, tỉ lệ
học sinh yếu kém giảm rõ rệt. Đây chính là nhờ vận dụng tốt các phương pháp
dạy học tích cực để phát huy tốt tính tích cực, chủ động sáng tạo của học sinh.
Với kết quả đạt được đã khẳng định được tính hiệu quả của đề tài khi áp dụng
vào giảng dạy.
VII. KẾT LUẬN
Để phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của học sinh trong năm học
2013 – 2014 tôi đã vận dụng sáng kiến này vào việc dạy học môn Vật lí đối với
đối tượng học sinh lớp 9/2 của trường THCS Nguyễn Văn Trỗi. Tôi nhận thấy
việc áp dụng đề tài này là rất phù hợp đối với đối tượng học sinh lớp 9. Học sinh
14
luôn có niềm đam mê ham thích được nghiên cứu khoa học, thích khám phá
những cái mới mà thường ngày các em chỉ mới thấy được vấn đề chứ chưa thể
giải thích được hiện tượng đó. Trong giờ học lý thuyết, học sinh luôn tích cực
thảo luận phát biểu xây dựng bài sôi nổi. Trong các giờ học thực hành thì trình
tự các bước tiến hành lắp ráp dụng cụ; thí nghiệm thực hành; ghi chép số liệu;
phân tích kết quả; nhận xét và rút ra kết luận đều được đa số học sinh tiến hành
rất thành thạo. Các giờ giải bài tập vận dụng, học sinh vận dụng tốt các kiến
thức đã được học, giải hầu hết các bài tập trong sách bài tập và sách tham khảo.
Nhìn chung đa số học sinh luôn đam mê, hứng thú với môn học Vật lí. Kết
quả học tập trong học kì I vừa qua 100% học sinh có điểm trung bình môn đạt
điểm trung bình trở lên, không có học sinh yếu, kém. Kết quả khảo sát chất
lượng tăng lên rõ rệch so với khi chưa áp dụng đề tài.
Trong quá trình nghiên cứu và áp dụng sáng kiến này tôi rút ra được một số
bài học kinh nghiệm trong quá trình giảng dạy như sau:
- Về phương pháp giảng dạy lý thuyết:
+ Giáo viên phải nắm vững chương trình giáo dục phổ thông môn Vật lí ở
THCS;
+ Giáo viên phải có kĩ năng xác định mục tiêu dạy học đã lượng hoá của
từng bài, từng đơn vị kiến thức;
+ Có kĩ năng tổ chức cho học sinh hoạt động chiếm lĩnh kiến thức. Để làm
tốt công việc này mỗi giáo viên cần tổ chức tốt tình huống học tập, từ đó thu
thập thông tin, xử lí thông tin, thông báo kết quả làm việc, vận dụng, ghi nhớ
kiến thức. Các câu hỏi cần phân loại để phù hợp với từng đối tượng học sinh:
Câu hỏi biết, câu hỏi hiểu, câu hỏi vận dụng, câu hỏi phân tích, câu hỏi tổng
hợp, câu hỏi đánh giá.
- Phương pháp giảng dạy thực hành:
+ Khi làm thí nghiệm cả giáo viên và học sinh cần phải nắm được mục đích
của thí nghiệm;
+ Nắm chắc các bước tiến hành thí nghiệm. Thao tác thí nghiệm cẩn thận,
chính xác. Tránh làm đi làm lại thí nghiệm nhiều lần, mất tính thuyết phục;
+ Với các thí nghiệm cần cho học sinh dự đoán trước hiện tượng, kết quả.
Từ đó tiến hành thí nghiệm kiểm tra dự đoán và kết luận dự đoán;
+ Đối với những thí nghiệm giáo viên làm biểu diễn cần phải làm trước khi
lên lớp. Giải quyết trước các tình huống có thể xảy ra. Thí nghiệm phải thành
công và có tính thuyết phục cao;
+ Với những thí nghiệm học sinh làm theo nhóm: Giáo viên cần phải hướng
dẫn, gợi ý cách làm. Trong khi học sinh làm thí nghiệm giáo viên luôn luôn phải
quan sát, hướng dẫn; kịp thời uốn nén những thiếu sót;
+ Khi có kết quả thí nghiệm cần phải tổ chức và điều khiển lớp hình thành
kiến thức bằng những câu hỏi kích thích tư duy học sinh;
15
+ Có sự kết hợp tốt giữa các nhóm (các nhóm nhận nhận xét đánh giá lẫn
nhau), giáo viên thường xuyên động viên khi học sinh có những thao tác, có kết
quả tốt, phê bình những học sinh chưa có ý thức học tập, chưa tích cực trong giờ
học.
Trên đây là một số kinh nghiệm đã được tôi vận dụng vào thực tiễn giảng
dạy trong chương trình Vật lí lớp 9. Tôi rất mong Hội đồng nghiên cứu khoa học
xem xét, đánh giá và cho những ý kiến bổ sung để tôi có điều kiện hoàn thiện và
bản thân nâng cao thêm kinh nghiệm, kiến thức về chuyên môn để ngày càng
giảng dạy được tốt hơn.
VIII. NHỮNG ĐỀ NGHỊ, ĐỀ XUẤT
1. Đối với nhà trường và giáo viên giảng dạy
Thường xuyên mở các Hội nghị chuyên đề về phương pháp giảng dạy môn
Vật lí để các giáo viên được giao lưu, học tập kinh nghiệm lẫn nhau;
Tùy theo từng bài dạy, giáo viên có thể lựa chọn các phương pháp dạy học
phù hợp để áp dụng cho từng hoạt động cụ thể;
Đề tài này có thể áp dụng trong quá trình giảng dạy với nhiều bộ môn khác
nhau. Đặc biệt là ở các bộ môn tự nhiên.
2. Đối với địa phương
Cần quan tâm giúp đỡ những học sinh có hoàn cảnh gia đình khó khăn, tạo
điều tốt nhất để học sinh được yên tâm đến trường;
Tổ chức Đoàn thanh niên và các tổ chức xã hội khác cần tổ chức các hoạt
động ngoại khoá, các buổi nói chuyện chuyên đề nhằm giáo dục lý tưởng cách
mạng, đạo đức lối sống để học sinh luôn có tinh thần, thái độ say mê hứng thú
trong học tập.
3. Đối với gia đình học sinh
Cần tạo điều kiện tốt nhất để học sinh có đủ thời gian nghiên cứu và chuẩn
bị bài trước khi đến lớp;
Thường xuyên quan tâm động viên việc học tập của học sinh, gia đình đóng
vai trò quan trọng trong việc uốn nắn kịp thời những lệch lạc trong suy nghĩ của
học sinh do sự tác động của môi trường sống và những thay đổi của tâm sinh lí.
Duy Nghĩa, tháng 03 năm 2014
TÁC GIẢ
Nguyễn Phi Hùng
IX. PHỤ LỤC
16
Bài 16: ĐỊNH LUẬT JUN – LEN - XƠ
(Đây là bài nghiên cứu định luật Vật lí và dạy học theo hoạt động nhóm)
Tuần: 8
Tiết: 16
ĐỊNH LUẬT JUN – LEN-XƠ
N.Soạn: 08/10/13
N.Giảng:12/10/13
I. Mục tiêu
1. Kiến thức
Nêu được tác dụng nhiệt của dòng điện: Khi có dòng điện chạy qua vật dẫn
thông thường thì một phần hay toàn bộ điện năng được biến đổi thành nhiệt
năng.
Phát biểu, viết được hệ thức của định luật Jun- Len-xơ và vận dụng được định
luật này để giải các bài tập về tác dụng nhiệt của dòng điện.
2. Kỹ năng
Rèn luyện kỹ năng phân tích, tổng hợp kiến thức để xử lý kết quả đã cho.
3.Thái độ
Luôn tích cực nghiên cứu bài học, tham gia xây dựng bài sôi nổi.
II. Chuẩn bị
1. Đối với mỗi nhóm học sinh: Chuẩn bị bảng nhóm và bút lông để thảo luận
nhóm hoàn thành câu C
1
và C
2
.
2. Đối với giáo viên: Hình 16.1 phóng to.
III. Tổ chức hoạt động dạy và học
1. Ổn định: (1 phút)
2. Kiểm tra bài cũ: Kết hợp trong bài mới
3. Bài mới: Giáo viên tạo tình huống có vấn đề như phần thông tin đầu bài.
HOẠT ĐỘNG CỦA GIÁO VIÊN
VÀ HỌC SINH
NỘI DUNG GHI BẢNG
* Hoạt động 1: Tìm hiểu sự biến đổi điện năng thành nhiệt năng. (9 phút)
1. Kiến thức: HS biết được một số dụng cụ điện khi hoạt động thì năng lượng
của dòng điện bị tiêu hao là do năng lượng điện đã chuyển sang nhiệt năng.
2. Kỹ năng: Kể tên được một số dụng cụ điện khi hoạt động thì điện năng
chuyển thành nhiệt năng như: bàn là, nồi cơm điện, bếp điện…
- GV trong cuộc sống hằng ngày ta sử dụng rất
nhiều dụng cụ điện hãy kể tên các dụng cụ điện
thường được sử dụng trong đời sống hằng
ngày?
I. Trường hợp điện năng
biến đổi thành nhiệt năng
17
- HS cá nhân nêu tên các dụng cụ điện.
- GV cho HS quan sát tranh vẽ các dụng cụ
điện như: bóng đèn dây tóc, bóng đèn compac,
đèn Led, nồi cơm điện, bàn là, ấm điện, máy
sấy tóc, máy quạt, máy bơm nước, máy khoan
điện
- GV đặt câu hỏi: Trong số các dụng cụ điện
trên dụng cụ nào biến đổi điện năng đồng thời
thành nhiệt năng và năng lượng ánh sáng?
Đồng thời thành nhiệt năng và cơ năng?
- HS mỗi cá nhân nêu đúng một dụng cụ theo
yêu cầu câu hỏi.
- GV tiếp tục nêu câu hỏi: Dụng cụ nào biến
đổi toàn bộ điện năng thành nhiệt năng?
- HS cá nhân học sinh trả lời theo yêu cầu.
GV trong cấu tạo các dụng cụ điện năng biến
đổi hoàn toàn thành nhiệt năng thì bộ phận nào
quan trọng nhất? Chúng được làm bằng những
vật liệu gì? So sánh điện trở suất của các vật
liệu đó với dây dẫn bằng đồng?
- HS thảo luận nhóm đại diện nhóm trả lời.
- GV vậy vì sao dây đốt nóng của nồi cơm điện
thường làm bằng vật liệu có điện trở suất lớn?
Chúng ta tiếp tục nghiên cứu phần tiếp theo để
giải thích câu hỏi trên.
1. Một phần điện năng được
biến đổi thành nhiệt năng.
a) Bóng đèn dây tóc, bóng đèn
compac, đèn Led.
b) Máy quạt, máy bơm nước,
máy khoan điện.
2. Toàn bộ điện năng được
biến đổi thành nhiệt năng:
Nồi cơm điện, bàn là, ấm
điện…
* Dây hợp kim nikêlin và
constantan có điện trở suất lớn
hơn rất nhiều so với điện trở
suất của dây đồng.
* Hoạt động 2: Xây dựng hệ thức biểu thị định luật Jun – Len-xơ (25 phút)
1. Kiến thức: Phát biểu và viết được hệ thức của định luật Jun – Len-xơ.
2. Kỹ năng: Xử lí được kết quả TN hình 16, rút ra được mối quan hệ giữa Q với
I, R và t. Giải thích được các đại lượng trong hệ thức định luật Jun – Len-xơ.
- GV xét trường hợp điện năng biến đổi hoàn
toàn thành nhiệt năng thì nhiệt lượng toả ra ở
dây dẫn điện trở R khi có dòng điện cường độ I
chạy qua trong thời gian t được tính bằng công
thức nào?
- HS vì điện năng biến đổi hoàn toàn thành
nhiệt năng nên nhiệt lượng tỏa ra ở dây dẫn
II. Định luật Jun- Len-Xơ
1. Hệ thức của định luật
Q = I
2
.R.t
18
trong thời gian t là: Q = I
2
.R.t
- GV treo hình vẽ 16.1 yêu cầu HS đọc kỹ mô
tả thí nghiệm xác định điện năng sử dụng và
nhiệt lượng toả ra.
- HS đọc phần II.2 “Xử lí kết quả của thí
nghiệm kiểm tra”
- GV yêu cầu HS thảo luận nhóm để trả lời câu
hỏi C1,C2,C3.
- HS thảo luận nhóm hoàn thành hoàn thành
câu C1, C2, C3 vào bảng nhóm.
- GV nhận xét phần thảo luận nhóm của HS
- GV do có một phần nhỏ nhiệt lượng truyền ra
môi trường bên ngoài, nếu bỏ qua phần nhiệt
lượng tỏa ra môi trường bên ngoài thì Q = A.
Như vậy hệ thức định luật Jun - Len –Xơ mà
đã suy luận ở phần 1 đã khẳng định đúng kết
quả thí nghiệm, kiểm tra.
- GV hãy dựa vào hệ thức trên phát biểu thành
định luật? Chú thích các đại lượng trong công
thức.
- HS phát biểu định luật Jun - Len –Xơ.
- GV giới thiệu định luật trên được nhà Vật lí
học người Anh J.P.Jun và nhà vật lí người Nga
H.Len-xơ độc lập tìm ra bằng thực nghiệm nên
định luật này mang tên của hai ông.
- GV ngoài đơn vị Jun còn sử dụng đơn vị gì
để đo nhiệt lượng? Khi đó hệ thức được viết
như thế nào?
- HS cá nhân học sinh suy nghĩ trả lời.
* Kiến thức môi trường:
- Đối với các thiết bị đốt nóng như: bàn là, bếp
điện, việc tỏa nhiệt là có ích. Nhưng một số
thiết bị khác như: động cơ điện, các thiết bị
điện tử gia dụng khác việc tỏa nhiệt là vô ích.
- Biện pháp GDBVMT: Để tiết kiệm điện
năng, cần giảm sự tỏa nhiệt hao phí đó bằng
cách giảm điện trở của chúng.
2. Xử lí kết quả của thí
nghiệm kiểm tra
C
1
:
Điện năng của dđ chạy qua R:
A = I
2
R.t = 2,4
2
.5.300 = 8640J
C
2
:
Nhiệt lượng do nước thu vào:
Q
1
= C
1
m
1
∆
t = 4200 .0,2 .9,5
= 7980J
Nhiệt lượng do ấm nhôm thu
vào:
Q
2
= C
2
m
2
∆
t = 880.0,078.9,5
= 652,08J
Nhiệt lượng do nước và ấm
nhận được là:
Q = Q
1
+ Q
2
= 7980 + 652,08
= 8632,08J.
C
3
: Nếu bỏ qua phần nhỏ nhiệt
lượng truyền ra môi trường
xung quanh thì Q
≈
A.
3. Phát biểu định luật (SGK)
Hệ thức của định luật
Q = I
2
.R.t
I đo bằng ampe (A)
R đo bằng ôm (
Ω
)
t đo bằng giây (s)
Q đo bằng jun (J)
* Nếu nhiệt lượng Q đo bằng
đơn vị calo thì Q = 0,24.I
2
.R.t
* Hoạt động 3: Giải các bài tập phần vận dụng (10 phút)
19
1. Kiến thức: Vận dụng được định luật Jun – Len - Xơ để giải thích các hiện
tượng đơn giản có liên quan.
2. Kỹ năng: Giải thích được một số hiện tượng trong thực tế (dựa vào định luật
Jun – Len - Xơ). Tính được nhiệt lượng tỏa ra khi dụng cụ đốt nóng bằng điện
hoạt động hoặc một đoạn mạch tiêu thụ điện và các đại lượng có trong công thức
Q = I
2
.R.t.
- GV từ hệ thức của định luật, hãy trả lời C4
- HS cá nhân học sinh hoàn thành C4
- GV vậy tại sao dây đốt nóng thường làm
bằng những vật liệu có điện trở suất cao?
- HS vận dụng hệ thức của định luật trả lời câu
hỏi trên.
- GV hướng dẫn HS hoàn thành C5
+ Viết công thức tính nhiệt lượng cần cung cấp
để đun sôi lượng nước đã cho theo khối lượng,
nhiệt dung riêng và độ tăng nhiệt độ.
+ Công thức tính điện năng tiêu thụ trong thời
gian t để tỏa ra nhiệt lượng cần cung cấp trên
đây.
+ Từ đó áp dụng định luật bảo toàn và chuyển
hóa năng lượng tính thời gian t cần dùng để
đun sôi nước.
III. Vận dụng
C
4
: Dây nối bóng đèn bằng
đồng có R bé nên Q nhỏ
→
nhiệt lượng tỏa ra ít.
Dây tóc đèn được làm bằng
hợp kim có R lớn nên Q lớn
→
nhiệt lượng tỏa ra lớn
→
dây
tóc nóng và phát sáng.
C
5
: Theo định luật bảo toàn và
chuyển hóa năng lượng.
Q = m.c.t = P.t
⇒
t =
P
tmc∆
= 672 (s)
4. Củng cố dặn dò
Giáo viên yêu cầu học sinh đọc phần ghi nhớ SGK và phần có thể em chưa biết .
Học bài cũ và làm bài tập.16-17.1; 16-17.2; 16-17.3, 16-17.4 SBT Vật lí 9.
Nghiên cứu trước các bài tập trong bài 17 SGK.
Hướng dẫn bài tập về nhà:
- Chuyển đổi các đơn vị đo về đơn vị chuẩn;
- Phần nhiệt lượng tỏa ra được tính theo công thức Q = I
2
Rt sẽ bằng phần nhiệt
lượng thu vào Q = m.c.t với (t = t
2
– t
1
);
- Lập luận viết biểu thức suy ra các đại lượng cần tìm, thay số tính kết quả.
5. Rút kinh nghiệm
X. TÀI LIỆU KHAM KHẢO
20
STT Tên tác giả Tên tài liệu Nhà xuất bản Năm
1 Vũ Quang (Tổng chủ biên) Sách giáo khoa Vật lí 9 NXB-GD 2005
2 Vũ Quang (Tổng chủ biên) Sách giáo viên Vật lí 9 NXB-GD 2005
3 Đoàn Duy Hinh (Chủ biên) Sách bài tập Vật lí 9 NXB-GD 2010
4
Trương Thọ Lương
(Chủ biên)
Bồi dưỡng Vật lí 9 NXB
Đà Nẵng
2005
5
Phan Hoàng Văn
(Chủ biên)
500 Bài tập Vật lí THCS Đại học
Quốc gia TP.
HCM
2007
6
Nguyễn Đức Thâm
(Chủ biên)
Phương pháp dạy học
Vật lí ở trường phổ
thông
Đại học
Sư phạm -
Hà Nội
2004
XI. MỤC LỤC
21
STT Tiêu đề từng phần của mục lục Trang
1 I. TÊN ĐỀ TÀI 1
2
II. ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lý do chọn đề tài
2. Tầm quan trọng của vấn đề nghiên cứu
3. Những thực trạng liên quan đến vấn đề đang nghiên
cứu
4. Giới hạn nghiên cứu của đề tài
1
1
2
2
2
3 III. CƠ SỞ LÍ LUẬN 2
4
IV. CƠ SỞ THỰC TIỄN
1. Đặc điểm tình hình
2. Thực trạng của vấn đề nghiên cứu
3
3
3
5
V. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
1. Phương pháp dạy học thí nghiệm Vật lí
2. Phương pháp dạy học thực nghiệm Vật lí
3. Phương pháp dạy học theo nhóm
4. Phương pháp dạy học một hiện tượng Vật lí
5. Phương pháp dạy học một đại lượng Vật lí
6. Phương pháp dạy học một định luật Vật lí
7. Phương pháp dạy học tiết bài tập Vật lí
4
5
5
7
8
9
10
11
6 VI. KẾT QUẢ ÁP DỤNG SÁNG KIẾN 12
7 VII. KẾT LUẬN 13
8
VIII. NHỮNG ĐỀ NGHỊ, ĐỀ XUẤT
1. Đối với nhà trường và GV giảng dạy
2. Đối với địa phương
3. Đối với gia đình HS
15
15
15
15
9 IX. PHỤ LỤC 16
9 X. TÀI LIỆU THAM KHẢO 20
10 XI. MỤC LỤC 21