Tải bản đầy đủ (.doc) (84 trang)

giải pháp hoàn thiện hoạt động thanh toán quốc tế tại ngân hàng vp bank

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (423.67 KB, 84 trang )

Trường Đại học Chu Văn An GVHD: T.S Nguyễn Thị Thanh Hồi
LỜI CẢM ƠN
SVTH: Nguyễn Thị Mai Linh MSV: 0754010098
Trường Đại học Chu Văn An GVHD: T.S Nguyễn Thị Thanh Hồi
MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN
SVTH: Nguyễn Thị Mai Linh MSV: 0754010098
Trường Đại học Chu Văn An GVHD: T.S Nguyễn Thị Thanh Hồi
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Ngân hàng nhà nước NHNN
Ngân hàng thương mại NHTM
Xuất nhập khẩu XNK
Xuất khẩu XK
Nhập khẩu NK
Thanh toán quốc tế TTQT
SVTH: Nguyễn Thị Mai Linh MSV: 0754010098
Trường Đại học Chu Văn An GVHD: T.S Nguyễn Thị Thanh Hồi
LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Với xu thế quốc tế hóa, toàn cầu hóa, Việt Nam thực hiện mở cửa nền
kinh tế. Trong quá trình đó, hoạt động xuất nhập khẩu (XNK) có vai trò đặc
biệt quan trọng. Hiện nay, nước ta đang thúc đẩy quan hệ hợp tác quốc tế về
mọi mặt, đặc biệt là về kinh tế.
Để thực hiện tốt quá trình hội nhập với khu vực và thế giới, hoạt động
ngoại thương của Việt Nam đã có nhiều thay đổi mạnh mẽ cả về lượng và chất
nhằm đáp ứng nhu cầu hợp tác quốc tế ngày càng tăng. Để làm được điều này
các ngân hàng và các doanh nghiệp Việt Nam phải có một hệ thống thanh toán
quốc tế (TTQT) hiệu quả, nhanh chóng, phù hợp với yêu cầu đổi mới của nền
kinh tế.
Tuy nhiên, tình hình thế giới luôn có nhiều biến động. Trước những khó
khăn gặp phải, hoạt động XNK của các ngân hàng thương mại (NHTM) gặp


rất nhiều khó khăn đòi hỏi phải có những biện pháp khắc phục, thúc đẩy hoạt
động thanh toán quốc tế ngày một phát triển và trở thành một trong những
hoạt động chính của NHTM. Xuất phát từ tính thiết thực của việc nâng cao
chất lượng thanh toán quốc tế nên em đã chọn đề tài: “Giải pháp hoàn thiện
hoạt động thanh toán quốc tế tại ngân hàng VP Bank”.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về hoạt động thanh toán
quốc tế.
- Phân tích một số quy trình hoạt động tiêu biểu.
- Phân tích, đánh giá những yếu tố thuận lợi, khó khăn và kiến nghị giải
pháp nâng cao hiệu quả hoạt động.
SVTH: Nguyễn Thị Mai Linh MSV: 0754010098
1
Trường Đại học Chu Văn An GVHD: T.S Nguyễn Thị Thanh Hồi
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
- Đề tài tập trung vào phân tích hoạt động thanh toán quốc tế tại ngân
hàng VP Bank.
- Đưa ra kiến nghị nâng cao hiệu quả và phát triển hoạt động này trong
thời gian tới.
4. Phương pháp nghiên cứu:
- Vận dụng lý luận vào thực tiễn, sử dụng phương pháp phân tích, so
sánh, khái quát hóa và tổng hợp.
- Sử dụng và phân tích số liệu thống kê trên cơ sở tư duy logic.
5. Khóa luận được trình bày theo kết cấu sau:
Lời nói đầu
Chương 1: Cơ sở lý luận về thanh toán quốc tế.
Chương 2: Hoạt động thanh tón quốc tế tại ngân hàng VP Bank.
Chương 3: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao chất lượng
thanh toán quốc tế tại ngân hàng VP Bank.
Kết luận

SVTH: Nguyễn Thị Mai Linh MSV: 0754010098
2
Trường Đại học Chu Văn An GVHD: T.S Nguyễn Thị Thanh Hồi
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THANH TOÁN QUỐC TẾ
1. Lý luận cơ bản về ngõn hàng thương mại:
1.1.1. Khái niệm cơ bản về ngõn hàng thương mại:
Ngân hàng thương mại là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà họat động chủ yếu
và thường xuyên là nhận tiền kí gửi từ khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và
sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm phương
tiện thanh toán.
1.1.2. Chức năng của ngõn hàng thương mại:
Ngân hàng thương mại ra đời tồn tại song song và gắn bó với lịch sử phát
triển nền kinh tế quốc dân. Những đóng góp của ngành ngân hàng Việt Nam
cho đất nước có tầm quan trọng đặc biệt và được mọi người thừa nhận. Trong
thời đại nền kinh tế thông tin và kinh tế tri thức đang dần chiếm ưu thế thì vai
trò của ngân hàng càng quan trọng.
Trong các định chế tài chính, ngân hàng thương mại là định chế có kỳ hạn
quan trọng nhất, điều này được chứng minh trong tính ưu việt và tầm quan
trọng của chúng.
Có thể thấy tầm quan trọng của ngân hàng thương mại thông qua các chức
năng của nó .
• Chức năng tạo tiền:
Một trong những chức năng chủ yếu của ngân hàng là khả năng tạo tiền và
huỷ tiền. Chức năng này được thực hiện thông qua hoạt động tín dụng và đầu
tư của ngân hàng thương mại.
Hoạt động tín dụng có mục tiêu là kiếm lợi nhuận trên cơ sở phục vụ
các nhu cầu tín dụng của cộng đồng. Ngân hàng phải xác định một tỷ lệ phân
SVTH: Nguyễn Thị Mai Linh MSV: 0754010098
3

Trường Đại học Chu Văn An GVHD: T.S Nguyễn Thị Thanh Hồi
chia vốn hợp lý trong phạm vi khoản mục cho vay, điều này có nghĩa là vốn
phải được phân chia vào các mục tiêu tiêu dùng, đầu tư, thương mại một cách
hợp lý. Sự phân chia này phụ thuộc vào khả năng sinh lời của từng lĩnh vực và
phụ thuộc mục tiêu kinh doanh riêng của từng ngân hàng. Hoạt động tín dụng
có một vai trò rất quan trọng, nó giúp điều hồ cung cầu tiền tệ trên thị trường,
giúp ổn định giá cả, tạo được việc làm cho người lao động và giúp cho các
doanh nghiệp tiến hành kinh doanh một cách liên tục.
• Chức năng thanh toán:
Cơ chế thanh toán hay sự vận động của vốn là mụt trong những chức năng
quan trọng do ngân hàng thương mại thực hiện. Thông qua hoạt động thanh
toán quốc tế, chức năng thanh toán giúp cho sự vận chuyển của đồng tiền một
cách đơn giản và nhanh gọn hơn. Trước đây ngân hàng sử dụng các phương
tiện thanh toán chủ yếu bằng phát hành séc, ngày nay khi công nghệ thông tin
phát triển đã giúp cho hoạt động thanh toán diễn ra nhanh hơn, các hình thức
chuyển tiền bằng điện tử ra đời thay thế một phần việc sử dụng séc trong
thanh toán.
Dịch vụ này có vai trò rất lớn, nó tạo điều kiện cho khách hàng thực hiện
các khoản thanh toán mà không phải mang theo bên mình một lượng tiền lớn,
nó được xác lập dựa trên cơ sở mối quan hệ quốc tế cũng như tính thuận tiện
của các phương tiện truyền tin.
• Huy động tiết kiệm.
Các ngân hàng thương mại thực hiện một dịch vụ rất quan trọng đối với
tất cả các khu vực của nền kinh tế bằng cách cung ứng những điều kiện thuận
lợi cho việc gửi tiền tiết kiệm của dân chúng. Người gửi tiết kiệm được nhận
một khoản tiền thưởng dưới danh nghĩa là lãi suất tiết kiệm trên tổng số tiền
gửi tiết kiệm ở các ngân hàng, với mức độ an toàn và hình thức thanh khoản
cao.
SVTH: Nguyễn Thị Mai Linh MSV: 0754010098
4

Trường Đại học Chu Văn An GVHD: T.S Nguyễn Thị Thanh Hồi
Số tiền huy động được thông qua hình thức tiết kiệm, ngân hàng dựng để
đáp ứng nhu cầu vay vốn của các doanh nghiệp và cá nhân nhằm mở rộng khả
năng sản xuất và đáp ứng nhu cầu sinh hoạt cá nhân như mua sắm hàng tiêu
dùng và nhà cửa
+ Dịch vụ tài chính và tư vấn:
Dịch vụ tài chính và tư vấn được thực hiện khi ngân hàng trợ giúp các
công ty phát hành chứng khoán bằng việc đứng sau bảo lãnh cho các chứng
khoán này, hoặc khi ngân hàng đưa ra những lời khuyên gợi ý cho khách hàng
về những thời điểm thích hợp nhất để đầu tư vào chứng khoán có lãi.
+ Tạo điều kiện để tài trợ ngoại thương:
Mặc dù ngoại thương được hình thành và bắt nguồn từ các hoạt động nội
thương, nhưng nó có sự khác biệt đáng kể như là: các bên giao dịch thuộc các
quốc gia khác nhau, hàng hoá được trao đổi qua biên giới, đồng tiền thanh
toán là đồng ngoại tệ đối với ít nhất một trong hai nước, khác nhau về mặt
ngôn ngữ Chính vì có những sự khác biệt này, mà các hoạt động ngoại
thương cần đến ngân hàng thương mại. Ngân hàng thương mại có khả năng
cung ứng ngoại tệ một cách nhanh chóng, giúp cho các bên mua đảm bảo
được việc nhận hàng, bên bán đảm bảo thu được tiền hàng. Như vậy có thể
nói, ngân hàng thương mại đã tạo điều kiện rất lớn cho hoạt động ngoại
thương.
+ Ngoài những chức năng trên, ngân hàng còn có một số chức năng khác như:
dịch vụ uỷ thác, bảo quản an toàn vật có giá, bảo lãnh tín dụng, thương mại
1.1.3. Vai trò của ngân hàng thương mại:
* Vai trò tập trung vốn của nền kinh tế:
Trong nền kinh tế có những chủ thể có dư tiền và khoản tiền đó chưa được
sử dụng một cách triệt để (ví dụ như vẫn còn cất giấu trong nhà chưa được
mang ra lưu thông) nhưng họ cũng muốn tiền này sinh lời cho mình và họ
SVTH: Nguyễn Thị Mai Linh MSV: 0754010098
5

Trường Đại học Chu Văn An GVHD: T.S Nguyễn Thị Thanh Hồi
nghĩ là cho vay và có những chủ thể cần tiền để hoạt động kinh doanh. Nhưng
những chủ thể này không quen biết nhau và cũng có thể không tin tưởng nhau
nên tiền vẫn chưa được lưu thông. Ngân hàng thương mại với vai trò trung
gian của mình, nhận tiền từ người muốn cho vay, trả lãi cho họ và đem số tiền
ấy cho người muốn vay vay.
* Chức năng làm trung gian thanh toán và quản lý các phương tiện thanh
toán:
Khi làm trung gian thanh toán, ngân hàng tạo ra những công cụ lưu thông
và độc quyền quản lý các công cụ đó (sec, giấy chuyển ngân,thẻ thanh toán )
đã tiết kiệm cho xã hội rất nhiều vể chi phí lưu thông, đẩy nhanh tốc độ luân
chuyển vốn, thúc đẩy quá trình lưu thông hàng hóa. Ở các nước phát triển
phần lớn thanh toán được thực hiện qua sec và được thực hiện bằng việc bù
trừ thông qua hệ thống ngân hàng thương mại. Ngoài ra việc thực hiện chức
năng là thủ quỹ của các doanh nghiệp qua việc thực hiện các nghiệp vụ thanh
toán đã tạo cơ sở cho ngân hàng thực hiện các nghiệp vụ cho vay.
* Chức năng tạo ra tiền ngân hàng trong hệ thống ngân hàng hai cấp:
Vào cuối thế kỉ 19 hệ thống ngân hàng hai cấp được hình thành, các
ngân hàng không còn họat động riêng lẽ nữa mà tạo thành hệ thống, trong đó
ngân hàng trung ương là cơ quan quản lý về tiền tệ, tín dụng là ngân hàng của
các ngân hàng. Các ngân hàng còn lại kinh doanh tiền tệ, nhờ họat động trong
hệ thống các NHTM đã tạo ra bút tệ thay thế cho tiền mặt.
1.2. Lý luận về thanh toán quốc tế tại ngõn hàng thương mại:
1.2.1. Khái niệm thanh toán quốc tế:
TTQT là việc thực hiện các nghĩa vụ tiền tệ, nảy sinh trên cơ sở các hoạt
động kinh tế và phí kinh tế giữa các tổ chức hay cá nhân nước này với tổ chức
hay cá nhân nước khác hoặc giữa một quốc gia với tổ chức quốc tế, thông qua
quan hệ giữa các ngân hàng có liên hệ.
SVTH: Nguyễn Thị Mai Linh MSV: 0754010098
6

Trường Đại học Chu Văn An GVHD: T.S Nguyễn Thị Thanh Hồi
* Tính tất yếu khách quan của hoạt động thanh toán quốc tế:
Thanh toán quốc tế là một trong những khâu quan trọng trong xuất nhập
khẩu hàng hoá, hay nói rộng hơn thì nó là một khâu quan trọng của hoạt động
thương mại quốc tế.
Khái niệm: Thương mại quốc tế là sự trao đổi hàng hoá, dịch vụ giữa các
nước thông qua mua bán. Sự trao đổi đó là một hình thức của mối quan hệ xã
hội và phản ánh sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế giữa người sản xuất hàng
hoá riêng biệt giữa các quốc gia.
Ta có thể chứng minh sự hình thành hoạt động thanh toán quốc tế là tất yếu
trong quá trình trao đổi hàng hoá trên phạm vi thanh toán quốc tế qua sơ đồ sau:


Sơ đồ 1: Luồng chuyển dịch hàng, tiền, chứng từ.
Trong đó :
(1) Người xuất khẩu tiến hành giao hàng cho người nhập khẩu.
(2) Người xuất khẩu tiến hành giao chứng từ cho người nhập khẩu.
(3) Giao hàng đối lưu (người nhập khẩu đồng thời là người xuất khẩu và
ngược lại).
(4) Chuyển giao nghĩa vụ, khoản nợ.
(5) Người nhập khẩu tiến hành giao tiền cho người xuất khẩu.
Sự kết hợp các luồng dịch chuyển ở sơ đồ trên tạo ra một số phương thức
thanh toán.
SVTH: Nguyễn Thị Mai Linh MSV: 0754010098
7
Người
Xuất
Khẩu
Người
Nhập

Khẩu
(1)
(5)
(4)
(3)
(2)
Trường Đại học Chu Văn An GVHD: T.S Nguyễn Thị Thanh Hồi
Khi (1) kết hợp với (2) người xuất khẩu tiến hành giao hàng cho người
nhập khẩu, sau đó chuyển bộ chứng từ cho người nhập khẩu đi nhận hàng.
Việc thanh toán giữa người nhập khẩu và người xuất khẩu có thể bằng cách
giao trực tiếp, nhưng trên thực tế do cách xa về mặt địa lý mà việc thanh toán
trực tiếp ở đây là rất ít. Mặt khác sau khi giao hàng và chứng từ người xuất
khẩu không chắc chắn việc thu tiền của mình nên họ phải nhờ đến bên thứ ba
có thể là hệ thống ngân hàng thương mại để đảm bảo việc thu tiền của mình.
Hệ thống ngân hàng thương mại có vai trò như thế nào còn tuỳ thuộc vào sự
thoả thuận giữa người nhập khẩu và xuất khẩu. Phương thức thanh toán được
hình thành ở đây có thể là nhờ thu, chuyển tiền, L/C. Khi khách hàng áp dụng
phương thức L/C thì vai trò của ngân hàng là rất lớn, điều này sẽ được trình
bày ở phần dưới đây.
(1) kết hợp với (3) đây là phương thức giao hàng đối lưu. Phương thức
giao dịch này người xuất khẩu kết hợp chặt chẽ với người nhập khẩu, người
bán đồng thời là người mua, lượng hàng hoá trao đổi ở đây có giá trị tương
đương. Đồng tiền ở đây đóng vai trị là đồng tiền tính giá. Trong trường hợp
này có thể cần đến hệ thống ngân hàng thương mại như một nhà trung gian
giúp đảm bảo thực hiện hợp đồng bằng cách dựng thư tín thương mại đối
ứng, khống chế chứng từ sở hữu hàng hoá.
(2) kết hợp với (4) ở đây bên nhận hàng chuyển khoản nợ về tiền hàng cho
bên thứ ba, khi này nghĩa vụ trả tiền hàng cho người xuất khẩu không còn
thuộc nghĩa vụ của người nhập khẩu. Để đảm bảo việc thanh toán tiền hàng
cho người xuất khẩu, tuỳ từng trường hợp cụ thể mà hệ thống ngân hàng

thương mại có tham gia vào quy trình thanh toán hay không.
(1) kết hợp với (5) trong phương thức giao dịch này người xuất khẩu và
người nhập khẩu gặp nhau trực tiếp để giao hàng và thanh toán tiền hàng, khi
này vai trò của hệ thống ngân hàng thương mại được thể hiện không rõ.
SVTH: Nguyễn Thị Mai Linh MSV: 0754010098
8
Trường Đại học Chu Văn An GVHD: T.S Nguyễn Thị Thanh Hồi
Như vậy có thể thấy hoạt động thanh toán quốc tế được sử dụng ở hầu hết
các phương thức giao dịch, người ta có thể áp dụng phương thức thanh toán
quốc tế trong giao dịch hay không điều này còn tùy thuộc vào sự thoả thuận
giữa các bên, mức độ quen thuộc của bạn hàng và phụ thuộc vào phong tục
tập quán về hoạt động thanh toán của nước đó. Qua sự chứng minh trên ta có
thể thấy sự tồn tại tất yếu khách quan của hoạt động thanh toán quốc tế trong
quá trình trao đổi hàng hoá trên phạm vi quốc tế.
Ngày nay, thương mại quốc tế có tính chất sống còn vì nó giúp mở rộng
khả năng sản xuất và tiêu dùng các mặt hàng với số lượng nhiều hơn mức có
thể tiêu dùng so với ranh giới của khả năng sản xuất, tiêu dùng trong nước khi
thực hiện chế độ tự cung tự cấp. Sự trao đổi hàng hoá dịch vụ thông qua mua
bán là cần thiết bởi vì với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật, phạm vi mở rộng
của chuyên môn hoá ngày một tăng. Một đất nước sản xuất ra không đáp ứng
được nhu cầu của người dân nước đó thì đòi hỏi phải có sự trao đổi buôn bán
ra bên ngoài. Sự tồn tại tất yếu khách quan của thương mại quốc tế còn có
nhiều lý do khác nữa như là: Với lợi thế tương đối, mỗi nước có những điều
kiện hơn hẳn các nước khác về lĩnh vực sản xuất nhất định, nên có khả năng
sản xuất ra sản phẩm đó và trao đổi cho nước khác. Theo thuyết trên khi mà
một nước nào đó có điều kiện tài nguyên thiên nhiên, về lao động hay về khoa
học kỹ thuật thì sản xuất ra sản phẩm đó sẽ có ưu thế và có thể xuất khẩu đạt
hiệu quả. Ngoài ra còn có nhiều yếu tố liên quan khác như chi phí cơ hội, điều
kiện môi trường, pháp lý xuất phát từ các lý do này mà cần có sự trao đổi
hàng hoá giữa các quốc gia khác nhau hay cần có thương mại quốc tế. Sự tồn

tại tất yếu khách quan của hoạt động thương mại quốc tế một lần nữa khẳng
định sự tồn tại của hoạt động thanh toán quốc tế.
SVTH: Nguyễn Thị Mai Linh MSV: 0754010098
9
Trường Đại học Chu Văn An GVHD: T.S Nguyễn Thị Thanh Hồi
1.2.2. Vai trò của hoạt động thanh toán quốc tế trong ngân hàng
thương mại:
Thanh toán quốc tế có vai trò quan trọng trong kinh doanh xuất nhập khẩu
hàng hoá. Hiệu quả kinh tế trong lĩnh vực kinh doanh này một phần lớn phụ
thuộc vào hoạt động thanh toán. Việc mở rộng quan hệ đối ngoại của Việt
nam trong những năm đổi mới đã làm cho hoạt động thanh toán quốc tế có
điều kiện phát triển, sự xoá bỏ dần các điều kiện ràng buộc như hàng rào thuế
quan, tham gia vào quá trình quốc tế hoá đời sống là một trong những yếu tố
thúc đẩy nhanh quá trình phát triển của hoạt động thanh toán quốc tế.
Quá trình buôn bán trao đổi hàng hoá làm nảy sinh quan hệ trao đổi hàng
tiền, phát sinh nghĩa vụ thanh toán giữa các bên với nhau, đây là khâu cuối
cùng của sản xuất và lưu thông, sự kết thúc của thương vụ, các quan hệ hàng
tiền trở nên gắn liền với nhau thông qua trao đổi. Như vậy xu hướng mở rộng
nền kinh tế một lần nữa đã khẳng định vai trò quan trọng của hoạt động
thương mại quốc tế nói chung và hoạt động thanh toán quốc tế nói riêng.
* Vai trò của TTQT trong nền kinh tế:
Trong xu thế nền kinh tế quốc tế hóa mạnh mẽ như hiện nay, sẽ khó có
một quốc gia nào đứng vững và phát triển nếu thực hiện đường lối đóng cửa.,
không giao lưu với nước ngoài. Các quốc gia đều nhận thức được ý nghĩa to
lớn của việc tham gia vào phân công lao động quốc tế, thương mại quốc tế và ý
nghĩa của sự hòa nhập nền kinh tế thế giới.
Trong hoạt động kinh tế đối ngoại, TTQT có một vị trí hết sức quan trọng đặc
biệt trong lĩnh vực ngoại thương. Hoạt động TTQT là khâu kết thúc của một giao
dịch buôn bán hàng hoá hay dịch vụ. Hiệu quả kinh tế của bất kì một giao dịch nào
trong hoạt động trao đổi, mua bán giữa các quốc gia với nhau phần lớn đều phụ

thuộc vào khâu kết thúc này. Ngoài ra, TTQT còn giữ vai trò đặc biệt trong hệ
SVTH: Nguyễn Thị Mai Linh MSV: 0754010098
10
Trường Đại học Chu Văn An GVHD: T.S Nguyễn Thị Thanh Hồi
thống cán cân của các nước. Tình trạng của nó sẽ ảnh hưởng đến sự thay đổi của
tỷ giá hối đoái, đến tình hình ngoại hối của các nước và ảnh hưởng toàn bộ nền
kinh tế của một nước, trước hết là đến ngoại thương.
1.2.3. Các hình thức thanh toán quốc tế tại ngõn hàng thương mại:
Như trên đã nêu: thanh toán quốc tế là việc chi trả những khoản ngoại tệ,
tín dụng có liên quan đến hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá đã được thoả
thuận, quy định trong hợp đồng thương mại quốc tế.
Trong xuất nhập khẩu hàng hoá, việc thanh toán cần phải xét đến các vấn đề:
+ Tỷ giá hối đoái.
+ Tiền tệ trong thanh toán quốc tế.
+ Thời hạn trong thanh toán.
+ Các phương thức và hình thức thanh toán quốc tế.
+ Các điều kiện đảm bảo hối đoái.
+ Các điều kiện đảm bảo tín dụng.
Trong quan hệ thanh toán giữa các nước, có rất nhiều vấn đề có liên quan
đến quyền lợi và nghĩa vụ của đôi bên. Phương thức thanh toán là một trong
những biện pháp giúp chúng ta đảm bảo được phần nào quyền lợi của bên
xuất khẩu và nhập khẩu.
Nghiệp vụ thanh toán quốc tế phụ thuộc vào phương thức thanh toán áp
dụng và là sự vận dụng tổng hợp các điều kiện thanh toán quốc tế. Để hoạt
động thanh toán đạt hiệu quả cao chúng ta phải nghiên cứu kỹ phương thức
thanh toán và vận dụng chúng một cách tốt nhất trong việc ký kết và thực hiện
các hợp đồng mua bán quốc tế.
Yêu cầu đặt ra đối với hoạt động thanh toán quốc tế là:
- Đối với người xuất khẩu.
+ Bảo đảm chắc chắn thu được đúng, đủ tiền hàng, thu tiền về càng nhanh

càng tốt.
SVTH: Nguyễn Thị Mai Linh MSV: 0754010098
11
Trường Đại học Chu Văn An GVHD: T.S Nguyễn Thị Thanh Hồi
+ Bảo đảm giữ vững giá trị thực tế của số thu nhập ngoại tệ khi có biến
động tiền tệ xảy ra.
+ Góp phần đẩy mạnh xuất khẩu, củng cố và mở rộng thị trường, phát triển
thêm thị trường mới.
- Đối với người nhập khẩu:
+ Bảo đảm chắc chắn nhập được hàng đúng số lượng, chất lượng, đúng
thời hạn.
+ Trong điều kiện khác không thay đổi thì trả tiền càng chậm càng tốt.
+ Góp phần làm cho việc nhập khẩu của ta theo đúng nhu cầu phát triển
của nền kinh tế quốc dân một cách thuận lợi.
* Phân loại thanh toán quốc tế:
Theo tính chất người ta chia thanh toán quốc tế ra làm hai loại:
• Thanh toán mậu dịch.
• Thanh toán phi mậu.
Trong đó:
Thanh toán mậu dịch là quan hệ thanh toán phát sinh trên cơ sở hàng hoá,
dịch vụ thương mại kết hợp với xuất nhập khẩu dựa trên giá quốc tế. Trong
thanh toán mậu dịch các bên tham gia sẽ bị ràng buộc bởi hợp đồng kinh tế đã
ký kết và các cam kết thương mại khác. Nếu hai bên không ký hợp đồng mà
chỉ có đơn đặt hàng thì sẽ căn cứ vào đại diện các bên giao dịch.
Xuất phát từ khái niệm của thanh toán mậu dịch ta thấy rằng đây là một
hoạt động phức tạp, có nhiều bên tham gia, việc thanh toán này xuất hiện dựa
trên cơ sở buôn bán trao đổi hàng hoá, dịch vụ giữa các doanh nghiệp, các tổ
chức kinh tế. Đối với loại này nó ràng buộc trách nhiệm của các bên bởi các
chứng từ mua bán, bởi các thoả thuận mang tính chất pháp luật, nó được điều
chỉnh bởi nhiều hệ thống luật khác nhau. Chính vì vậy thanh toán mậu dịch có

SVTH: Nguyễn Thị Mai Linh MSV: 0754010098
12
Trường Đại học Chu Văn An GVHD: T.S Nguyễn Thị Thanh Hồi
mức độ rủi ro cao và đây là đối tượng của hoạt động thanh toán quốc tế, là đối
tượng của ngân hàng thương mại.
Thanh toán phi mậu dịch là quan hệ thanh toán phát sinh không liên quan
tới hàng hoá không có tính thương mại. Thanh toán phi mậu dịch bao gồm các
chi phí của các cơ quan ngoại giao ở các nước sở tại, chi phí vận tải, chi phí đi
lại của các đoàn khách Chính phủ của các tổ chức của các đoàn khách cá
nhận.
Dựa trên khái niệm ta có thể thấy thanh toán phi mậu dịch đơn giản hơn
nhiều so với thanh toán mậu dịch, đối với ngân hàng thương mại thì thanh
toán mậu dịch là đối tượng chính.
Từ sau đại hội đảng VI- 1986, nền kinh tế đã chuyển từ cơ chế kế hoạch
hoá tập trung sang cơ chế thị trường theo định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa. Nền
kinh tế Viêt Nam từ đó đến nay có bước phát triển không ngừng, từ một nền
kinh tế nghèo nàn lạc hậu chúng ta đã và đang xây dựng một nền kinh tế thị
trường ổn định ngày càng phát triển, người dân từ chỗ mong mỏi thoả mãn
nhu cầu tối thiểu của họ hiện nay đã quan tâm tới nhu cầu an toàn, nhu cầu xã
hội và xa hơn nữa là nhu cầu cá nhân. Cuộc sống của người dân ngày càng
được cải thiện, mức tăng trưởng bình quân đầu người ngày một gia tăng, tăng
trưởng GDP ngày càng cao và ổn định, năm 2000 chúng ta đã đạt tới 6,7%.
Nhu cầu về sự đa dạng của hàng hoá càng cao thương mại quốc tế càng phát
triển, thanh toán quốc tế ngày càng phát huy vai trò của mình.
* Các phương tiện thanh toán quốc tế:
Các phương tiện lưu thông tín dụng hối phiếu, kỳ phiếu, séc được dùng
làm phương tiện thanh toán quốc tế hình thành trên cơ sở phát triển tín dụng
thương nghiệp và tín dụng trong ngân hàng có vai trò rất quan trọng trong
thanh toán quốc tế. Cùng với quá trình hình thành và phát triển tín dụng
thương nghiệp và tín dụng ngân hàng các phương tiện tín dụng đã ra đời rất

SVTH: Nguyễn Thị Mai Linh MSV: 0754010098
13
Trường Đại học Chu Văn An GVHD: T.S Nguyễn Thị Thanh Hồi
lâu trong lịch sử dưới các hình thức như giấy ghi nợ, nhận nợ Thương mại
quốc tế ngày càng phát triển, gắn liền với sự phát triển đa dạng và quy mô
ngày càng lớn của các nghiệp vụ tín dụng. Dần dần các phương tiện lưu thông
tín dụng đã trở thành vật mang hình thái tiền tệ đặc thù.
Các phương tiện tín dụng được tạo ra chủ yếu trên cơ sở quan hệ hợp
đồng mua bán và nghiệp vụ tín dụng ngân hàng.
a. Hối phiếu:
* Khái niệm:
Hối phiếu là một tờ mệnh lệnh trả tiền vô điều kiện do một người ký phát
cho một người khác, yêu cầu người này khi nhìn thấy hối phiếu, hoặc đến một
ngày cụ thể nhất định hoặc đến một ngày có thể xác định trong tương lai phải
trả một số tiền nhất định cho một người nào đó hoặc theo lệnh của người này
trả cho mgười khác hoặc người cầm phiếu.
Qua khái niệm trên cho thấy hối phiếu có ba đặc điểm quan trọng:
• Tính trừu tượng của hối phiếu:
Trên hối phiếu không cần phải ghi nội dung quan hệ tín dụng, tức là
nguyên nhân gây ra việc lập hối phiếu, mà chỉ cần ghi rõ số tiền phải trả và
nội dung có liên quan đến việc trả tiền. Hiệu lực pháp lý của hối phiếu cũng
không bị ràng buộc do nguyên nhân gì sinh ra hối phiếu. Một khi tách ra khỏi
hợp đồng đến tay người thứ ba thì hồi phiếu trở thành một trái vụ độc lập, chứ
không phải trái vụ sinh ra từ hợp đồng. Hay nói một cách khác, nghĩa vụ trả
tiền của hối phiếu là trừu tượng.
• Tính bắt buộc trả tiền của hối phiếu:
Người trả tiền hối phiếu phải trả tiền theo đúng nội dung ghi trên tờ
phiếu. Người trả tiền không thể viện những lý do riêng của mình với người ký
phát phiếu, người ký hậu mà từ chối trả tiền, trừ trường hợp hối phiếu được
SVTH: Nguyễn Thị Mai Linh MSV: 0754010098

14
Trường Đại học Chu Văn An GVHD: T.S Nguyễn Thị Thanh Hồi
lập ra trái với đạo luật chi phối nó. Ví dụ một người đặt hàng máy móc sau khi
ký hợp đồng đã chấp nhận trả tiền vào tờ phiếu do người cung cấp hàng gửi
đến, hối phiếu đó đã được chuyển sang tay người thứ ba thì người đặt hàng
bắt buộc phải trả tiền cho người cầm phiếu này ngay cả trong trường hợp
người cung cấp hàng vi phạm hợp đồng không giao hàng cho người mua.
• Tính lưu thông của hối phiếu.
Hối phiếu có thể được chuyển nhượng một hay nhiều lần trong thời hạn
cuả nó. Sở dĩ có được đặc điểm này, bởi vì hối phiếu là lệnh đòi tiền của
người này đối với người khác, hối phiếu có một trị giá tiền nhất định, có một
thời hạn nhất định, thời hạn này thường là ngắn hạn và được người trả tiền
chấp nhận. Tóm lại nhờ vào tính trừu tượng và tính bắt buộc trả tiền của hối
phiếu, mà hối phiếu có được tính lưu thông.
* Các loại hối phiếu:
• Căn cứ vào thời hạn trả tiền của hối phiếu, người ta chia hối phiều làm ba
loại:
+ Hối phiếu trả tiền ngay: người trả tiền khi nhìn thấy hối phiếu này
do người cầm phiếu xuất trình thì phải trả tiền ngay cho họ.
+ Hối phiếu trả tiền sau một số ngày nhất định, thường từ 5-7 ngày:
người trả tiền khi nhìn thấy hối phiếu này do người cấm phiếu xuất trình thì
tiến hành ký chấp nhận trả tiền, sau đó từ 5-7 ngày thì trả tiền tờ hối phiếu đó.
+ Hối phiếu có kỳ hạn: sau một thời gian nhất định ghi trên hối phiếu,
người trả tiền hối phiếu phải trả tiền ghi trên hối phiếu, hoặc tính từ ngày chấp
nhận hối phiếu, ngày ký phát hối phiếu, hoặc tính từ một ngày khác quy định
cụ thể. Việc trả tiền cũng có thể phải thực hiện vào một ngày quy định cụ thể
trong tương lai.
• Căn cứ vào hối phiếu có kèm chứng từ hay không có thể được chia làm hai loại:
SVTH: Nguyễn Thị Mai Linh MSV: 0754010098
15

Trường Đại học Chu Văn An GVHD: T.S Nguyễn Thị Thanh Hồi
+ Hối phiếu trơn: Loại hối phiếu này được gửi đến đòi tiền người trả
tiền không có kèm theo điều kiện có liên quan đến việc trao chứng từ hàng
hoá . Trong thanh toán quốc tế, hối phiếu này được dựng để thu tiền cước phí
vận tải, bảo hiểm, hoa hồng v.v hoặc dựng để đòi tiền mua hàng của ngững
thương nhân nhập khẩu tin cậy.
+ Hối phiếu kèm chứng từ: loại hối phiếu này được gửi đến cho người
nhập khẩu có kèm theo chứng từ hàng hóa. Hối phiếu kèm chứng từ có hai
loại. Loại hối phiếu kèm chứng từ trả tiền ngay (Documents against payment -
viết tắt là D/P) và loại hối phiếu kèm chứng từ chấp nhận thanh toán
(Documents against acceptance - viết tắt là D/A).
• Căn cứ vào tính chất chuyển nhượng của hối phiếu có thể chia làm ba loại:
+ Hối phiếu đích danh: là loại hối phiếu ghi rõ tên người hưởng lợi hối
phiếu không kèm theo điều khoản theo lệnh. Ví dụ: hối phiếu ghi như sau
“Sau khi nhìn thấy hối phiếu này trả cho ông X một số tiền là ”. Hối phiếu
đích danh không chuyển nhượng được bằng thủ tục ký hậu theo luật định.
+ Hối phiếu theo lệnh: loại hối phiếu chi trả theo lệnh của người
hưởng lợi hối phiếu. Ví dụ ghi như sau: “Sau khi nhìn thấy hối phiếu này , trả
theo lệnh của ông X một số tiền là ”. Hối phiếu theo lệnh có thể được chuyển
nhượng bằng thủ tục ký hậu theo luật định. Đây là loại hối phiếu được sử
dụng rộng rãi trong thanh toàn quốc tế.
+ Hối phiếu trả cho người cầm phiếu( to bearer bill).
• Căn cứ vào người ký phát hối phiếu, người ta chia hối phiếu làm hai loại:
+ Hối phiếu thương mại là hối phiếu do người xuất khẩu ký phát đòi
tiền người nhập khẩu trong nghiệp vụ về thanh toán hàng hoá xuất khẩu hoặc
dịch vụ cung ứng.
+ Hối phiếu ngân hàng là hối phiếu do ngân hàng phát ra lệnh cho đại lý
của mình thanh toán một số tiền nhất định cho người hưởng lợi chỉ định trên
hối phiếu.
SVTH: Nguyễn Thị Mai Linh MSV: 0754010098

16
Trường Đại học Chu Văn An GVHD: T.S Nguyễn Thị Thanh Hồi
b. Séc trong thanh toán quốc tế:
Nếu như hối phiếu hình thành trên cơ sở của lưu thông hàng hoá thì séc
hình thành trên cơ sở lưu thông tín dụng ngân hàng.
Những người có tài khoản tiền gửi không kỳ hạn ở ngân hàng đều có thể
yêu cầu ngân hàng trích tiền của mình từ tài khoản đó để trả cho người khác.
Yêu cầu này được làm bằng văn bản dưới dạng hình mẫu nhất định, đó là séc
(cheque).
* Khái niệm:
Séc là một tờ mệnh lệnh trả tiền vô điều kiện do một khách hàng của
ngân hàng ra lệnh cho ngân hàng trích một số tiền nhất định từ tài khoản của
mình mở ở ngân hàng để trả cho người cầm séc.
Xuất phát từ khái niệm trên mà séc không chỉ là phương tiện chi trả được sử
dụng phổ biến trong thanh toán nội bộ mà còn được sử dụng trong thanh toán
quốc tế. Tuy nhiên việc thanh toán bằng séc phụ thuộc nhiều vào số dư tài
khoản của séc và thời hạn hiệu lực séc. Nhược điểm này khiến séc ít được sử
dụng hơn trong thanh toán so với hối phiếu.
* Các loại Séc:
+ Séc vô danh (cheque to bearer): Là loại séc không ghi tên người
hưởng lợi, chỉ ghi câu “Trả cho người cầm séc” (Pay to the bearer). Đối với
loại séc này, ai cầm được séc đều có thể lĩnh được tiền.
+ Séc đích danh (nominal cheque): Loại séc chỉ định rõ tên người được
hưởng và chỉ có người này mới được lĩnh tiền.
+ Séc theo lệnh (cheque to order): Loại séc ghi “trả theo lệnh” của người
hưởng lợi. Séc này được chuyển nhượng bằng hình thức ký hậu, vì vậy séc
theo lệnh được dựng phổ biến trong thanh toán quốc tế.

SVTH: Nguyễn Thị Mai Linh MSV: 0754010098
17

Trường Đại học Chu Văn An GVHD: T.S Nguyễn Thị Thanh Hồi
+ Séc gạch chéo (crossed cheque): Là loại séc trên mặt trước của nó có hai
gạch chéo song song với nhau từ góc này sang góc kia của tờ séc. Mục đích
của gạch chéo là dựng để chuyển khoản qua ngân hàng để không rút tiền mặt.
* Có hai loại gạch chéo:
Gạch chéo không tên và gạch chéo ghi tên.
Gạch chéo không tên còn gọi là gạch chéo thường (cheque crosed
generally) tức là giữa hai đường chéo song song không ghi tên ngân hàng lĩnh
hộ tiền. Với gạch chéo này thì ngân hàng nào cũng có thể nhận hộ tiền cho
người hưởng lợi.
Gạch chéo ghi tên còn gọi là gạch chéo đặc biệt (cheque crossed
specially) tức là giữa hai gạch chéo song song có ghi tên của ngân hàng lĩnh
hộ tiền cho người được hưởng lợi và chỉ có ngân hàng này mới lĩnh được tiền
mà thôi.
+ Séc chuyển khoản: Là loại séc mà ngân hàng phải trích tiền từ tài
khoản của con nợ sang tài khoản của chủ nợ. Séc chuyển khoản không thể
chuyển nhượng và không lấy được tiền mặt.
+ Séc xác nhận: Là loại séc được ngân hàng xác nhận việc trả tiền.
Mục đích của séc xác nhận là nhằm đảm bảo khả năng chi trả của tờ séc và
chống việc phát hành séc khống.
+ Séc du lịch: Là loại séc do ngân hàng phát hành và được trả tiền tại
bất cứ chi nhánh hay ở đại lý của ngân hàng đó ở trong hay ngoài nước.
c. Kỳ phiếu:
Ngược lại với hối phiếu, kỳ phiếu do người thụ trái viết ra để cam kết
hứa trả tiền cho người hưởng lợi. Với tính thụ động trong thanh toán, kỳ phiếu
trong thanh toán ít thông dụng hơn hối phiếu.
SVTH: Nguyễn Thị Mai Linh MSV: 0754010098
18
Trường Đại học Chu Văn An GVHD: T.S Nguyễn Thị Thanh Hồi
* Khái niệm:

Kỳ phiếu là một chứng từ cam kết trả tiền vô điều kiện do người lập hối
phiếu ký phát, trong đó người lập hối phiếu cam kết trả một khoản tiền nhất
định cho người hưởng lợi hoặc theo lệnh của người này trả cho một người thứ
ba theo quy định trong kỳ phiếu.
Đối với kỳ phiếu, luật không áp dụng thể thức chấp nhận và trong kỳ
phiếu người ký phát ra lệnh cho chính mình trả tiền cho người hưởng lợi.
d. Thư tín dụng (L/C).
* Khái niệm:
Thư tín dụng là một văn bản pháp lý trong đó ngân hàng mở L/C cam kết
trả tiền cho người xuất khẩu nếu họ xuất trình bộ chứng từ thanh toán phù hợp
với nội dung của L/C.
* Nội dung chủ yếu của thư tín dụng:
+ Số hiệu của thư tín dụng: Tất cả các thư tín dụng đều phải có số hiệu
riêng của nó, tác dụng của số hiệu là dựng để trao đổi thư từ, điện tín có liên
quan đến thư tín dụng.
+ Địa điểm mở thư tín dụng: Là nơi mà ngân hàng mở L/C cam kết trả
tiền cho người xuất khẩu.
+ Ngày mở L/C: Là ngày bắt đầu phát sinh cam kết của ngân hàng mở
L/C với người xuất khẩu, là ngày bắt đầu tính hiệu lực của L/C và nó là căn
cứ để người xuất khẩu kiểm tra xem người nhập khẩu có mở L/C đúng như
hạn quy định trong hợp đồng không.
+ Tên địa chỉ của những người có liên quan đến phương thức tín dụng
chứng từ như người nhập khẩu, người xuất khẩu hay người hưởng lợi, ngân
hàng mở L/C, ngân hàng thông báo, ngân hàng trả tiền, ngân hàng xác nhận.
SVTH: Nguyễn Thị Mai Linh MSV: 0754010098
19
Trường Đại học Chu Văn An GVHD: T.S Nguyễn Thị Thanh Hồi
+ Số tiền của thư tín dụng: Vừa được ghi bằng số vừa được ghi bằng chữ
và phải thống nhất nhau.Tên của đơn vị tiền tệ phải rõ ràng.
+ Thời hạn hiệu lực, thời hạn trả tiền và thời hạn giao hàng ghi trong thư

tín dụng, trong đó :
- Thời hạn hiệu lực của thư tín dụng là thời hạn mà ngân hàng mở L/C cam
kết trả tiền cho người xuất khẩu, nếu người xuất khẩu trình bộ chứng từ phù
hợp với những quy định trong L/C.
- Ngày giao hàng phải nằm trong thời hạn hiệu lực của L/C và không được
trùng với ngày hết hạn hiệu lực của L/C.
- Ngày mở L/C phải trước ngày giao hàng một thời gian hợp lý, ngày hết hạn
hiệu lực của L/C phải sau ngày giao hàng một thời gian hợp lý .
- Thời hạn trả tiền của L/C: là thời hạn trả tiền ngay hay trả tiền sau.
- Thời hạn giao hàng cũng được ghi trong L/C và được hợp đồng mua bán quy
định. Thời hạn giao hàng có quan hệ chặt chẽ với thời hạn mở L/C.
+ Những nội dung về hàng hoá như tên hàng, số lượng, trọng lượng giá
cả, quy cách, phẩm chất, bao bì, ký mã hiệu cũng được ghi vào thư tín dụng.
+ Những nội dung về vận tải, giao nhận hàng hoá như điều kiện cơ sở
giao hàng FOB, CIF, , nơi gửi và nơi giao hàng, cách vận chuyển và cách
giao hàng cũng được ghi vào thư tín dụng.
+ Những chứng từ mà người xuất khẩu phải xuất trình, đây là nội dung
then chốt của thư tín dụng.
+ Những điều khoản đặc biệt khác
+ Chữ ký của ngân hàng mở thư tín dụng.
* Các loại thư tín dụng thương mại:
Các loại thư tín dụng thường thấy trong thanh toán quốc tế :
- Thư tín dụng không thể huỷ bỏ: Là loại thư tín dụng sau khi đã được mở ra
và người xuất khẩu thừa nhận thì ngân hàng mở L/C không được sửa đổi, bổ
SVTH: Nguyễn Thị Mai Linh MSV: 0754010098
20
Trường Đại học Chu Văn An GVHD: T.S Nguyễn Thị Thanh Hồi
sung hoặc huỷ bỏ trong thời hạn hiệu lực của nó, trừ khi có sự thoả thuận khác
của bên tham gia tín dụng.
- Thư tín dụng không thể huỷ bỏ có xác nhận: Là loại thư tín dụng không thể

huỷ bỏ được một ngân hàng xác nhận đảm bảo trả tiền theo yêu cầu của ngân
hàng mở L/C.
- Thư tín dụng không thể huỷ bỏ miễn truy đòi: là loại L/C mà sau khi người
xuất khẩu đã được trả tiền thì ngân hàng mở L/C không còn quyền đòi lại tiền
người xuất khẩu trong bất cứ trường hợp nào.
- Thư tín dụng chuyển nhượng: Là thư tín dụng không thể huỷ bỏ, trong đó
quy định quyền của người hưởng lợi thứ nhất có thể yêu cầu ngân hàng mở
L/C chuyển nhượng toàn bộ hay một phần quyền thực hiện L/C cho một hay
nhiều người khác. L/C chuyển nhượng chỉ được chuyển một lần.
- Thư tín dụng tuần hoàn: Là loại L/C không thể huỷ bỏ sau khi sử dụng hoặc
đã hết hiệu lực thì nó lại tự động có giá trị như cũ và cứ như vậy nó tuần hoàn
cho đến khi nào tổng giá trị hợp đồng được thực hiện.
- Thư tín dụng giáp lưng: Sau khi nhận được L/C do người nhập khẩu mở cho
mình hưởng người xuất khẩu dựng L/C này để thế chấp mở một L/C khác cho
người hưởng lợi khác hưởng với nội dung gần giống như L/C ban đầu, L/C mở
sau gọi là L/C giáp lưng.
- Thư tín dụng đối ứng: Là loại thư tín dụng chỉ bắt đầu có hiệu lực khi thư tín
dụng đối ứng với nó đã mở ra.
- Thư tín dụng dự phòng
- Thư tín dụng thanh toán dần về sau.
Thư tín dụng có tính chất quan trọng, nó hình thành trên cơ sở của hợp đồng
mua bán nhưng sau khi thiết lập, nó lại hoàn toàn độc lập với hợp đồng mua bán.
Thư tín dụng là phương tiện rất quan trọng trong phương thức thanh toán tín
dụng chứng từ , không mở được thư tín dụng chứng từ thì phương thức này
không được xác lập và người bán không thể giao hàng cho người mua.
SVTH: Nguyễn Thị Mai Linh MSV: 0754010098
21
Trường Đại học Chu Văn An GVHD: T.S Nguyễn Thị Thanh Hồi
CHƯƠNG 2
HOẠT ĐỘNG THANH TOÁN

QUỐC TẾ TẠI NGÂN HÀNG VP BANK
I. Khái quát chung về ngân hàng VP BANK:
1.1. Quá trình hình thành và phát triển của VP Bank:
Ngân hàng Thương mại Cổ phần Việt Nam Thịnh Vượng (tên giao dịch
là VP Bank), tiền thân là ngân hàng Thương mại Cổ phần Các Doanh nghiệp
Ngoài Quốc Doanh Việt Nam được thành lập theo Giấy phép số 0042/NH-
GP do Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cấp ngày 12/08/1993 và giấy phép số
1535/QĐ- UB do Ủy ban Nhân dân Thành phố Hà Nội cấp ngày 04/09/1993.
Ngân hàng chính thức đi vào hoạt động kể từ ngày 10/09/1993.
Những năm từ 1994-1996 là giai đoạn phát triển năng động của VP
Bank. Trong giai đoạn này VP Bank đã đạt được những kết quả khả quan. Tỷ
suất lợi nhuận trên vốn cổ phần đạt 36% / năm trong năm 1995 và 1996, chất
lượng tín dụng đảm bảo và các hoạt động dịch vụ phát triển nhanh chóng. Tuy
nhiên VP Bank đã gặp phải một số khó khăn nhất định, một phần do cuộc
khủng hoảng kinh tế châu Á, tình hình cạnh tranh với các ngân hàng trên cùng
một địa bàn ngày càng gay gắt, một phần do những sai lầm chủ quan từ phía
ngân hàng. Vì thế thời gian tiếp theo từ 1997 đến 2001 là giai đoạn củng cố và
tạo tiền đề phát triển cho giai đoạn mới. Trong giai đoạn này VP Bank đã
nhận được sự hỗ trợ, giúp đỡ nhiệt tình của các cơ quan thuộc Chính phủ và
Ngân hàng Nhà nước trong việc khắc phục những khó khăn trong hoạt động
kinh doanh, vì thế tình hình VP Bank đã có nhiều biến chuyển thuận lợi và tạo
đà phát triển bền vững.
Năm 2000 đánh dấu một bước chuyển biến quan trọng trong quá trình
phát triển của VP Bank, đó là việc Hội đồng quản trị quyết định lựa chọn mục
tiêu chiến lược của VP Bank trong vòng 10 năm tới là xây dựng VP Bank trở
SVTH: Nguyễn Thị Mai Linh MSV: 0754010098
22

×