Tải bản đầy đủ (.doc) (115 trang)

giải pháp mở rộng tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại nhtmcp công thương chi nhánh tỉnh thái bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (601.75 KB, 115 trang )

Khóa luận tốt nghiệp
MỤC LỤC
ơ
SV: Đinh Thị Ánh Lớp: TC14A
Khóa luận tốt nghiệp
DANH MỤC BẢNG BIỂU
BẢNG
SV: Đinh Thị Ánh Lớp: TC14A
Khóa luận tốt nghiệp
LỜI MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Qua hơn hai mươi năm thực hiện đổi mới với việc chuyển sang nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa và thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều
thành phần,các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam không ngừng phát triển, số
lượng doanh nghiệp tăng lên đáng kể ( chiếm khoảng 97% tổng số doanh nghiệp
đăng kí kinh doanh theo luật doanh nghiệp ). Các doanh nghiệp này ngày càng có
nhiều đóng góp quan trọng vào việc thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng, thúc đẩy sự
nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, giải quyết việc làm, cải thiện cán cân
thanh toán, làm cho nền kinh tế năng động và hiệu quả hơn, góp phần nâng cao thu
nhập và cải thiện đời sống của nhân (đóng góp khoảng 45% GDP, 20% ngân sách,
20% hàng hoá tiêu dùng và xuất khẩu cũng như giải quyết 26% lao động của xã hội
chủ yếu là nguốn lao động chưa qua đào tạo).
Cùng với việc đổi mới mô hình kinh tế, Việt Nam đã và đang tích cực, chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế và đã trở thành thành viên chính thức của Tổ Chức
Thương Mại quốc tế WTO. Trong quá trình hội nhập, Việt Nam đã và đang điều
chỉnh chính sách theo hướng tự do hoá và mở cửa, đổi mới cơ cấu kinh tế, cải cách
kinh tế - xã hội và điều đó đã tác động mạnh đến nền kinh tế nói chung và các
doanh nghiệp cũng như doanh nghiệp vừa và nhỏ nói riêng. Nhưng với đặc điểm
chung là bộ máy tổ chức gọn nhẹ, không đòi hỏi nhiều vốn đầu tư, linh hoạt thích
ứng nhanh với môi trường kinh doanh đầy biến động, … các doanh nghiệp vừa và
nhỏ đang ngày càng phát triển phù hợp với yêu cầu đổi mới ở nước ta hiện nay. Xác


định được tầm quan trọng của các doanh nghiệp vừa và nhỏ đối với phát triển kinh
tế đất nước và xu thế hội nhập kinh tế quốc tế nên trong những năm trở lại đây
Chính phủ đã có nhiều chính sách, giải pháp lớn nhằm phát huy đến mức cao nhất
hiệu quả hoạt động, sức cạnh tranh cũng như tiềm năng của loại hình doanh nghiệp
này (Chỉ thị số 40/2005/CT-TTg về việc tiếp túc đẩy mạnh công tác trợ giúp phát
triển DNVVN, Nghị định số 56/2009/NĐ-CP, quy định các chính sách trợ giúp và
quản lý Nhà nước về trợ giúp phát triển ), chính vì thế DNV&N ngày càng được
hưởng nhiều chính sách ưu đãi và bình đẳng hơn. Đặc biệt ở yếu tố liên quan đến sự
SV: Đinh Thị Ánh Lớp: TC14A
1
Khóa luận tốt nghiệp
tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp nhỏ và vừa là việc tiếp cận với những
nguồn vốn trong đó có nguồn vốn từ các NHTM là một kênh không thể thiếu đã
được mở thông thoáng hơn rất nhiều so với những năm trước đây. Nhiều ngân hàng
đã xác định cho vay các doanh nghiệp vừa và nhỏ là một bước chuyển đổi tích cực
trong cơ cấu tài sản. Tuy nhiên trong điều kiện nước ta hiện nay, năng suất và hiệu
quả kinh doanh chưa cao, vốn tự có của doanh nghiệp còn rất hạn chế, do hội nhập
yêu cầu phải đầu tư mở rộng sản xuất, xây dựng cơ sở hạ tầng, đổi mới công nghệ
nâng cao năng lực cạnh tranh thì vấn đề về vốn lại càng bức thiết hơn. Vốn vay
ngân hàng đã, đang và còn là nguồn vốn quan trọng để tăng cường đầu tư phát triển
của doanh nghiệp, nhưng do nhiều lý do khác nhau đặc biệt trong bối cảnh khủng
khoảng kinh tế toàn cầu, lạm phát đang diễn biến phức tạp, các doanh nghiệp nhất
là những doanh nghiệp vừa và nhỏ bị chèn lấn gặp rất nhiều khó khăn trong việc
tiếp cận thông tin và dịch vụ tài chính, vốn đầu tư để có thể vay và sử dụng vốn
ngân hàng một cách có hiệu quả nên phải thu hẹp sản xuất hay chỉ cầm cự cho qua
ngày : chỉ có 20% số DNV&N tiếp cận được với nguồn vốn của ngân hàng, tỷ lệ hồ
sơ vay vốn của DNV&N được chấp thuận cho vay chỉ vào khoảng 30-40% vì các
DNV&N khó đáp ứng đầy đủ điều kiện vay vốn của ngân hàng.
Đối với NHTMCP Công Thương Việt Nam nói chung và NHTMCP Công
Thương Thái Bình nói riêng nhận thức rõ được vai trò của các doanh nghiệp vừa và

nhỏ trong nền kinh tế, nắm bắt được chủ trương chính sách phát triển kinh tế của
Đảng và Nhà nước, những phương hướng chỉ đạo của ngân hàng Trung Ương, đồng
thời nắm bắt những cơ hội kinh doanh bằng việc phát hiện ra tiềm năng phát triển to
lớn của loại hình doanh nghiệp này cho nên trong những năm qua NHTMCP Công
Thương Thái Bình đã chú trọng đến việc mở rộng cho vay đối với doanh nghiệp
nhỏ và vừa coi đó là trọng tâm trong việc phát triển hoạt động kinh doanh của mình.
Tuy nhiên do những trở ngại từ điều kiện khách quan và những hạn chế trong bản
thân ngân hàng mà kết quả đôi khi chưa được như mong đợi,việc tìm ra giải pháp
nhằm thực hiện được mục tiêu mở rộng cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ
trở nên cần thiết không chỉ với bản thân ngân hàng, mà nó còn có ý nghĩa to lớn đối
với sự phát triển của DNV&N cùng toàn bộ nền kinh tế. Chính vì vậy sau một thời
gian xem xét, tìm hiểu, quan sát tình hình thực tế tại NHTMCP Công Thương Thái
Bình, nhận thấy rõ vai trò của tín dụng đối với DNV&N trong hoạt động NHTM
SV: Đinh Thị Ánh Lớp: TC14A
2
Khóa luận tốt nghiệp
cũng như bối cảnh Việt Nam hiện tại, em đã quyết định chọn đề tài “ Giải pháp mở
rộng tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại NHTMCP Công thương chi
nhánh tỉnh Thái Bình” làm khó luận tốt nghiệp cho mình.
2. Mục đích nghiên cứu
Xuất phát từ yêu cầu và tính cấp thiết của đề tài, luận văn nghiên cứu nhằm
đạt được các mục đích sau:
Thứ nhất, hệ thống và làm rõ hơn một số vấn đề cơ bản về tín dụng và mở
rộng tín dụng đối với DNVVN của NHTM.
Thứ hai, đánh giá thực trạng hoạt động tín dụng của NHTMCP Công Thương
Thái Bình cho các DNVVN và việc mở rộng loại hình tín dụng này.
Thứ ba, khóa luận đề xuất một số giải pháp và kiến nghị nhằm mở rộng tín
dụng đối với DNVVN tại NHTMCP Công Thương Thái Bình
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu vào tín dụng cho các DNVVN. Lấy thực tiễn tại

NHTMCP Công Thương Thái Bình trong ba năm 2009,2010 và 2011 làm cơ sở
minh chứng.
4. Phương pháp nghiên cứu
Khóa luận đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học để phân tích lý
luận giải thực tiễn : Phương pháp duy vật biện chứng, phương pháp duy vật lịch sử,
phương pháp phân tích hoạt động kinh tế, phương pháp tổng hợp thống kê…
5. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo thì khó luận gồm
ba chương:
Chương 1 : Lý luận chung về tín dụng ngân hàng và hoạt động tín dụng
ngân hàng đối với DNVVN
Chương 2 : Thực trạng mở rộng tín dụng đối với Doanh nghiệp vừa và
nhỏ tại NHTMCP Công Thương chi nhánh Thái Bình
Chương 3 : Giải pháp mở rộng tín dụng đối với Doanh nghiệp vừa và nhỏ
tại NHTMCP Công Thương chi nhánh Thái Bình
SV: Đinh Thị Ánh Lớp: TC14A
3
Khóa luận tốt nghiệp
CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ TÍN DỤNG NGÂN HÀNG VÀ
MỞ RỘNG TÍN DỤNG NGÂN HÀNG ĐỐI VỚI DOANH
NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ
1.1. Một số vấn đề cơ bản về DNVVN
1.1.1. Khái niệm
1.1.1.1. Khái niệm doanh nghiệp
Theo khoản 1 điều 4 của Luật doanh nghiệp năm 2005 quy đinh thì : Doanh
nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được
đăng kí kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt
động kinh doanh.
1.1.1.2. Khái niệm DNV&N

Nói đến doanh nghiệp người ta thường phân loại theo các tiêu chí lượng vốn,
số lao động bình quân một năm của nước đó. Cách phân loại thành doanh nghiệp lớn,
vừa và nhỏ hay siêu nhỏ đều mang tính chất tương đối. Ở mỗi nước, đều có tiêu chí
riêng để xác định DNV&N tuỳ thuộc vào từng nghành, từng thời kì và sự phát triển
nền kinh tế của từng nước. Tuy nhiên thì các DNV&N có quy mô vốn chủ sở hữu nhỏ,
số lượng lao động bình quân trung bình hàng năm ít hơn so với nền kinh tế.
Tại Việt Nam, theo nghị định số 56/2009/NĐ-CP ngày 30/06/2009 thì doanh
nghiệp nhỏ và vừa là cơ sở kinh doanh đã đăng ký kinh doanh theo quy định pháp
luật, được chia thành ba cấp: siêu nhỏ, nhỏ, vừa theo quy mô tổng nguồn vốn ( tổng
nguồn vốn tương đương tổng tài sản được xác định trong bảng cân đối kế toán của
doanh nghiệp) hoặc số lao động bình quân năm (tổng nguồn vốn là tiêu chí ưu tiên),
cụ thể như sau:
SV: Đinh Thị Ánh Lớp: TC14A
4
Khóa luận tốt nghiệp
Quy mô
Khu vực
Doanh
nghiệp siêu
nhỏ
Doanh nghiệp nhỏ Doanh nghiệp vừa
Số lao động
Tổng nguồn
vốn
Số lao động
Tổng nguồn
vốn
Số lao động
I. Nông, lâm nghiệp và thủy
sản

10 người trở
xuống
20 tỷ đồng
trở xuống
từ trên 10
người đến
200 người
từ trên 20 tỷ
đồng đến 100
tỷ đồng
từ trên 200
người đến 300
người
II. Công nghiệp và xây
dựng
10 người trở
xuống
20 tỷ đồng
trở xuống
từ trên 10
người đến
200 người
từ trên 20 tỷ
đồng đến 100
tỷ đồng
từ trên 200
người đến 300
người
III. Thương mại và dịch vụ
10 người trở

xuống
10 tỷ đồng
trở xuống
từ trên 10
người đến 50
người
từ trên 10 tỷ
đồng đến 50 tỷ
đồng
từ trên 50
người đến 100
người
Như vậy ở nước ta bất kì một doanh nghiệp nào đáp ứng đủ những tiêu chí
trên thì đều là DNV&N.
1.1.2. Đặc điểm của DNV&N
DNV&N là một loại hình doanh nghiệp nên nó mang đầy đủ đặc điểm của một
doanh nghiệp. Tuy nhiên nó cũng có một số đặc điểm riêng như sau:
1.1.2.1.Ưu điểm

DNV&N có thể hoạt động mà không cần phải đòi hỏi một lượng vốn lớn.
Thêm vào đó lĩnh vực sản xuất kinh doanh thường hướng tới phục vụ trực tiếp đời
sống xã hội, chủ yếu nhằm vào những sản phẩm có sức mua cao, nên có thể huy
động được các nguồn lực xã hội, các nguồn vốn tiềm ẩn ở dân cư do đó các
DNV&N có khả năng đầu tư rất đa dạng. Hơn nữa chu kì sản xuất kinh doanh ngắn,
diễn biến theo mùa nên tốc độ quay vòng vốn nhanh, từ đó mang lại hiệu quả kinh
tế cao cho doanh nghiệp.
 Cơ chế tổ chức - quản lý của DNV&N thường gọn nhẹ, tiết kiệm chi phí
quản lý nên hoạt động tương đối hiệu quả so với các loại hình doanh nghiệp còn lại.
Nhờ bộ máy tổ chức nhỏ, đơn giản, ít cấp bậc không phải thông qua nhiều khâu
trung gian nên có thể đưa ra quyết định nhanh chóng, kịp thời và hiệu quả đối với

những vấn đề liên quan đến sản xuất kinh doanh khiến cho kế hoạch có thể được
SV: Đinh Thị Ánh Lớp: TC14A
5
Khóa luận tốt nghiệp
xây dựng và điều chỉnh sát với các biến động thực tế trên thị trường cũng như phù
hợp với nguồn lực nội tại của doanh nghiệp như quy mô, vốn, nhân sự, trình độ kĩ
thuật….
 Các DNV&N rất năng động và có tính linh hoạt cao, dễ thích nghi với môi
trường kinh tế xã hội : Các doanh nghiệp này có thể sử dụng linh hoạt các loại máy
móc, thiết bị nội địa, có thể kết hợp cả những công nghệ truyền thống với công nghệ
hiện đại, sản xuất ra những sản phẩm có chất lượng trong điều kiện sản xuất không
thuận lợi. Với quy mô nhỏ, mô hình tổ chức quản lý đơn giản các DNV&N sẽ phản
ứng tốt với sự thay đổi của môi trường kinh doanh hơn các doanh nghiệp quy mô
lớn, bộ máy tổ chức cồng kềnh…họ có thể nhanh chóng chuyển hưởng kinh doanh
thay đổi mặt hàng sản xuất sao cho phù hợp với nhu cầu của thị trường mà vẫn tận
dụng được nguồn nguyên liệu và nhân lực tại chỗ.
 DNV&N tồn tại và phát triển ở mọi nghành nghề và hoạt động trong mọi
lĩnh vực của đời sống kinh tế-xã hội. Với quy mô nhỏ, các DNV&N có khả năng
nắm bắt được những yêu cầu nhỏ lẻ nhất mà doanh nghiệp lớn chưa chắc đã làm
được, do đó nó có thể tạo ra một lượng cung hàng hoá đáp ứng đầy đủ, kịp thời nhất
mọi nhu cầu tiêu dùng dù là nhỏ nhất của tất cả các tầng lớp xã hội.
1.1.2.2. Hạn chế
 Quy mô nhỏ, hạn chế về nguồn vốn : Đa phần các DNV&N có quy mô sản
xuất kinh doanh nhỏ và luôn trong tình trạng “ khát vốn “ cho đầu tư cải tiến máy
móc, trang thiết bị mới, mở rộng quy mô sản xuất,mua nguyên vật liệu…
 Hạn chế về trình độ quản lý và của nguồn nhân lực : Năng lực quản trị của
chủ DNV&N còn hạn hẹp theo thói quen điều hành kiểu gia đình. Theo thống kê
cho thấy, có tới hơn 56% chủ doanh nghiệp có trình độ học vấn từ trung cấp trở
xuống, chỉ có hơn 40% chủ doanh nghiệp có bằng đại học nhưng cũng ít trong số họ
được đào tạo kiến thức chuyên môn về kinh tế và quản trị doanh nghiệp, họ làm

việc chủ yếu dựa trên kinh nghiệm hoạt động lâu năm mà có nên việc lập phương
án kế hoạch kinh doanh còn thiếu tính chuyên nghiệp, khả năng thu thập và xử lý
các thông tin để tự điều chỉnh trong nền kinh tế thị trường đầy biến động còn hạn
chế
SV: Đinh Thị Ánh Lớp: TC14A
6
Khóa luận tốt nghiệp
+ Về đội ngũ lao động do quy mô nhỏ lại thiếu vốn nên hầu như các DNV&N
không có một chiến lược đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, phát triển nhân lực, thu
hút nhân tài như các doanh nghiệp lớn. Do vậy phần lớn đội ngũ lao động của các
doanh nghiệp này có tay nghề thấp, không đáp ứng được yêu cầu của công nghiệp
hoá, hiện đại hoá, khả năng tiếp cận công nghệ mới bị hạn chế ( Theo thống kê
trung bình số lao động trong các DNV&N tại Việt Nam là 40 lao động, nhiệu doanh
nghiệp 100% lao động chưa qua đào tạo nghề ở trường lớp nào ). Năng lực quản lý
yếu kém cùng thiếu lao động có tay nghế cao đã trở thành một trong những yếu tố
cản trở cho DNV&N phát triển, mở rộng quy mô, nâng cao uy tín trên thị trường.
 Khả năng cạnh tranh và tiếp cận thị trường kém: Khi gia nhập WTO, các
DNV&N vốn đã yếu không những phải chịu sức ép cạnh tranh của các doanh
nghiệp lớn trong nước mà còn phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt với các doanh
nghiệp nước ngoài, hàng hoá từ bên ngoài, trong đó có nhiều tập đoàn đa quốc gia
có quy mô khổng lồ. Sự cạnh tranh ấy có thể giúp doanh nghiệp vượt lên tất cả về
số lượng, chất lượng để phát triển lên, nhưng cũng có thể làm cho doanh nghiệp bị
phá sạn. Tuy nhiên hội nhập cũng tạo lập được môi trường kinh doanh thuận lợi
giúp các DNV&N phát triển, mở rộng thị trường, giao thương với nước ngoài, trao
đổi tiếp xúc với những công nghệ dây chuyền sản xuất tiên tiến hiện đại, học hỏi
kinh nghiệm về quản lý và kinh doanh nhưng cho đến nay sau 4 năm gia nhập các
doanh nghiệp vẫn còn non trẻ chưa tận dụng được tối đa những lợi thế đó, chưa
nhanh nhạy với các thông tin, chưa nắm rõ luật lệ, thiếu kĩ năng trong đàm phán kí
kết hợp đồng với đối tác nước ngoài.
 Hạn chế về công nghệ : Hạ tầng phục vụ cho sản xuất kinh doanh còn nhiều

hạn chế, máy móc thiết bị lạc hậu,làm cho hiệu quả sử dụng vốn thấp, chi phí đầu
vào cho sản xuất lớn. Hiện nay phần lớn công nghệ mà các DNV&N đang sử dụng
đã lạc hậu hàng chục năm ( nghành điện tử 15-20 năm, ngành cơ khí 20 năm, 70%
công nghệ nghành dệt may đã sử dụng được 20 năm ). Tỷ lệ đổi mới trang thiết bị
chậm trung bình hàng năm 5%-7% so với mức 20% của thế giới do vấp phải rào cản
về tiềm lực tài chính.
SV: Đinh Thị Ánh Lớp: TC14A
7
Khóa luận tốt nghiệp
1.1.3. Vai trò của DNV&N đối với sự phát triển của nền kinh tế ở Việt Nam
Mặc dù còn tồn tại những khuyết điểm hạn chế nhưng không thể phủ nhận
những đóng góp tích cực mà các DNV&N đã đem lại cho nền kinh tế trong nước,
sự phát triển của loại hình doanh nghiệp này cũng phù hợp với bối cảnh của nền
kinh tế xã hội nước ta vì thực tế Việt Nam vẫn còn là nước đang phát triển đang dần
đi lên thành một nước công nghiệp. Kể từ khi Luật doanh nghiệp có hiệu lực vào
ngày 01/01/2000, khu vực kinh tế tư nhân đặc biệt là các DNV&N trở thành khu
vực kinh tế năng động nhất. Với xuất phát là một nền kinh tế kém phát triển, sản
xuất nhỏ lẻ phổ biến nên các DNV&N chiếm một tỷ trọng đáng kể trong các loại
hình doanh nghiệp ở Việt Nam. Các DNV&N đã và đang trở thành một lực lượng
kinh tế quan trọng, góp phần vào mục tiêu tăng trưởng kinh tế và đóng góp vào
nguồn thu đáng kể cho Ngân sách Nhà nước. Trong thời gian qua các doanh nghiệp
vừa và nhỏ Việt Nam cùng với 133.000 hợp tác xã và 3 triệu hộ kinh doanh cá thể
đang đóng góp đến 60% GDP, đóng góp 40% ngân sách, 40% hàng hóa tiêu dùng
và xuất khẩu cũng như giải quyết 50% lao động của xã hội, hàng năm tạo ra khoảng
một triệu việc làm mới. Việc phát triển DNV&N sẽ góp phần đa dạng hoá các thành
phần kinh tế, góp phần đáng kể vào sự tăng trưởng GDP của đất nước, đẩy nhanh
tốc độ phát triển của nền kinh tế, tạo ra nhiều sản phẩm hàng hoá và dịch vụ đa
dạng. Vai trò của các DNV&N không chỉ thể hiện ở giá trị kinh tế nó tạo ra mà
quan trọng hơn nó còn giải quyết vấn đề thất nghiệp, xoá đói giảm nghèo, phát triển
kinh tế đồng đều giữa các vùng trong cả nước.

 Ngoài ra, DNV&N còn có vai trò quan trọng trong việc lưu thông hàng hoá,
cung ứng dịch vụ. Đơn giản vì hệ thống cửa hàng kinh doanh, thương mại vừa và
nhỏ đặt ở khắp các đường phố, khu công nghiệp, các tụ điểm dân cư thuận tiện cho
việc mua bán đã đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng một cách nhanh chóng.
 DNV&N có vai trò tích cực đối với sự phát triển kinh tế địa phương, khai
thác tiềm năng thế mạnh của từng vùng, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nhanh hơn. Các DNV&N có thể hoạt động ở khắp mọi nơi thậm chí cả những nơi
cơ sở hạ tầng chưa phát triển như vùng núi, hải đảo, nông thôn. Nhờ đó, doanh
nghiệp có thể khai thác rộng khắp các tài nguyên của từng vùng. Việc nhiều doanh
SV: Đinh Thị Ánh Lớp: TC14A
8
Khóa luận tốt nghiệp
nghiệp, chủ yếu là các DNV&N được thành lập tại các vùng nông thôn, vùng núi,
vùng sâu vùng xa sẽ góp phần trong việc chuyển dịch cơ cấu của nền kinh tế theo
hướng giảm tỷ trọng ngành nông nghiệp, tăng tỷ trọng ngành công nghiệp và dịch
vụ
 Giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế: các doanh nghiệp nhỏ và vừa
thường chiếm tỷ trọng lớn, thậm chí áp đảo trong tổng số doanh nghiệp (Ở Việt
Nam chỉ xét các doanh nghiệp có đăng ký thì tỷ lệ này là trên 95%). Vì thế, đóng
góp của họ vào tổng sản lượng và tạo việc làm là rất đáng kể.
 Giữ vai trò ổn định nền kinh tế: ở phần lớn các nền kinh tế, các doanh
nghiệp nhỏ và vừa là những nhà thầu phụ cho các doanh nghiệp lớn. Sự điều chỉnh
hợp đồng thầu phụ tại các thời điểm cho phép nền kinh tế có được sự ổn định. Vì
thế, DNV&N được ví là thanh giảm sốc cho nền kinh tế.
 Làm cho nền kinh tế năng động trong cơ chế thị trường: vì DNVVN có quy
mô nhỏ, sáng tạo trong kinh doanh, có sự kết hợp chuyên môn hoá và đa dạng hoá
mềm dẻo nên dễ điều chỉnh (xét về mặt lý thuyết) hoạt động.
 Tạo nên ngành công nghiệp và dịch vụ phụ trợ quan trọng: doanh nghiệp
nhỏ và vừa thường chuyên môn hóa vào sản xuất một vài chi tiết được dựng để lắp
ráp thành một sản phẩm hoàn chỉnh.

 Là trụ cột của kinh tế địa phương: nếu như doanh nghiệp lớn thường đặt cơ
sở ở những trung tâm kinh tế của đất nước, thì DNVVN lại có mặt ở khắp các địa
phương và là người đóng góp quan trọng vào thu ngân sách, vào sản lượng và tạo
công ăn việc làm ở địa phương.
 Các DNV&N là nơi ươm mầm các tài năng kinh doanh, là nơi đào tạo, rèn
luyện các nhà DN, giúp họ làm quen với môi trường kinh doanh. Bắt đầu từ kinh
doanh quy mô nhỏ và thông qua điều hành quản lý kinh doanh quy mô vừa và nhỏ,
một số nhà kinh doanh sẽ trưởng thành, có kinh nghiệm quản lý, biết đưa DN của
mình nhanh trúng phát triển.
1.1.4. Các nguồn huy động vốn của DNV&N
Nguồn tài chính của các DNV&N chủ yếu từ các nguồn :
 Vốn chủ sở hữu
SV: Đinh Thị Ánh Lớp: TC14A
9
Khóa luận tốt nghiệp
 Vốn vay
 Lợi nhuận giữ lại
 Nguồn khác
Thực tế hiện nay nhiều các DNV&N có số vốn góp ban đầu nhỏ hơn 10 tỷ
đồng và lợi nhuận không chia hàng năm cũng không nhiều nên để tăng nguồn vốn
thì bắt buộc phải chuyển sang tiếp cận nguồn vốn vay mà chủ yếu vay những chủ
thể sau :
1.1.4.1. Nguồn tài chính phi chính thức
- Vay từ người quen, người thân nhưng lượng vốn huy động không nhiều và
không có sẵn khi cần thiết.
- Vay từ người cho vay nặng lãi, mặc dù không cần tài sản thế chấp và có thể
đáp ứng đủ, kịp thời nhu cầu vay nhưng hình thức này lại có chi phí rất cao.
- Vay thông qua hình thức trả chậm, chiếm dụng vốn lẫn nhau giữa các doanh
nghiệp hoặc giữa các doanh nghiệp với nhà cung cấp các yếu tố đầu vào.
Trong việc tài trợ cho các DNV&N, các nguồn tài chính phi chính thức này có

một số lợi thế nhất định là khá linh hoạt, chi phí giao dịch thường thấp hơn, hơn nữa
giao dịch chủ yếu dựa trên cơ sở lòng tinh giữa những người đi vay và người cho
vay nên thường không có tài sản thế chấp. Tuy nhiên, nguồn tài chính này cũng bộc
lộ nhiều hạn chế như: quy mô cho vay nhỏ, ngắn hạn với chi phí phát sinh cao, chỉ
đủ để tài trợ cho những hoạt động mua sắm tài sản cố định có quy mô nhỏ và đầu tư
nhiều lần. Như vậy, các nguồn vốn này khó có thể đáp ứng được yêu cầu phát triển
DNV&N. Do đó, việc tiếp cận với các nguồn tài chính chính thức được xem là cần
thiết cho quá trình tăng trưởng và phát triển của các DNV&N.
1.1.4.2. Nguồn tài chính chính thức
- Nguồn tín dụng ưu đãi của Nhà nước thực hiện chủ yếu thông qua hoạt động
của Quỹ hỗ trợ phát triển và Ngân hàng chính sách xã hội.
- Nguồn tín dụng từ các TCTD hiện hành bao gồm các NHTM quốc doanh,
NHTM cổ phần, ngân hàng liên doanh và chi nhánh ngân hàng nước ngoài, các quỹ
tín dụng nhân dân và các công ty cho thuê tài chính. Để mở rộng sản xuất và phát
triển hoạt động kinh doanh, các DNVVN chủ yếu tiếp cận nguồn vốn tín dụng ngân
SV: Đinh Thị Ánh Lớp: TC14A
10
Khóa luận tốt nghiệp
hàng vì kênh vốn tín dụng ngân hàng là kênh trực tiếp quan trọng và là tổ chức
trung gian tạo điều kiện để DNNVV tiếp cận các nguồn vốn ưu đãi. Nhưng việc tiếp
cận nguồn vốn này cũng không phải dễ dàng. Theo điều tra về thực trạng DNV&N
của Cục phát triển Doanh nghiệp nhỏ và vừa - Bộ Kế hoạch và Đầu tư chỉ có 20%
các DNV&N có khả năng tiếp cận được nguồn vốn ngân hàng, còn lại các DNVVN
rất khó hoặc không thể tiếp cận được.
- Các chương trình tín dụng của các tổ chức và chính phủ nước ngoài như:
Quỹ phát triển DNVVN của cộng đồng châu Âu (SMEDF), tín dụng hỗ trợ của
ngân hàng hợp tác quốc tế Nhật Bản (JBIC), dự án phát triển khu vực Mêkông
(MPFD), hỗ trợ của công ty tài chính quốc tế IFC tại Việt Nam…
- Nguồn vốn huy động trên thị trường chứng khoán thông qua việc niêm yết và
phát hành trái phiếu, cổ phiếu. Tuy nhiên, hình thức huy động vốn này đối với

DNV&N rất khó khăn do chưa tạo dựng được uy tín trên thị trường, mặt khác
những điều kiện niêm yết, phát hành hết sức chặt chẽ mà các DNV&N khó có thể
đáp ứng được.
1.2. Tín dụng ngân hàng đối với DNVVN
1.2.1. Tín dụng ngân hàng
1.2.1.1. Khái niệm
Thuật ngữ tín dụng xuất phát từ chữ Latinh “ Credo “ có nghĩa là sự tin tưởng
tín nhiệm lẫn nhau hay nói cách khác đó là lòng tin, trong mối quan hệ tín dụng
người cho vay tin tưởng người đi vay sẽ hoàn trả cả vốn và lãi đúng thời hạn như
hai bên đã thoả thuận Hiểu theo nghĩa hẹp thì tín dụng là sự chuyển nhượng tạm
thời một lượng giá trị từ người sở hữu sang người sử dụng và sau một thời gian nhất
định được quay trở lại người sở hữu một lượng giá trị lớn hơn ban đầu, giá trị lớn
hơn đó được gọi là khoản lợi tức tín dụng. Còn hiểu theo nghĩa rộng tín dụng gồm
hai mặt: Huy động vốn và cho vay .
Như vậy tín dụng có thể hiểu một cách đơn giản : Tín dụng là quan hệ vay
mượn dựa trên nguyên tắc có hoàn trả .
Từ khái niệm về tín dụng có thể rút ra khái niệm về tín dụng ngân hàng như
sau : Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng phát sinh giữa các ngân hàng, các tổ
SV: Đinh Thị Ánh Lớp: TC14A
11
Khóa luận tốt nghiệp
chức tín dụng với các đối tác kinh tế - tài chính của toàn xã hội bao gồm doanh
nghiệp, các tầng lớp dân cư, tổ chức xã hội, cơ quan nhà nước được thực hiện dưới
hình thức vốn tín dụng bằng tiền bao gồm tiền mặt và bút tệ.
1.2.1.2. Đặc điểm của TDNH
 Hoạt động tín dụng được thực hiện dưới hình thức tiền tệ.
Do đặc tính về lĩnh vực nghành nghề kinh doanh là kinh doanh tiền tệ và dịch
vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để
cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán nên để tập trung được lượng vốn từ
nhiều chủ thể, cũng như phân phối đáp ứng nhu cầu về vốn cho các chủ thể kịp thời

và đầy đủ, ngân hàng vận dụng vốn dưới hình thái tiền tệ để phục cho hoạt động
kinh doanh của mình.
 Ngân hàng đóng vai trị là tổ chức trung gian trong quá trình huy động vốn
và cho vay
Khi thực hiện chức năng trung gian tín dụng, NHTM đóng vai trị là cầu nối
giữa người thừa vốn và người có nhu cầu về vốn. Với chức năng này, ngân hàng
vừa đóng vai trị là người đi vay, vừa đóng vai trị là người cho vay. Với tư cách là
người đi vay, ngân hàng nhận tiền gửi của các nhà doanh nghiệp, cá nhân hoặc phát
hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu để huy động vốn trong xã hội; với tư cách là
người cho vay, nó cung cấp tín dụng cho các nhà doanh nghiệp, cá nhân và hưởng
lợi nhuận là khoản chênh lệch giữa lãi suất nhận gửi và lãi suất cho vay, góp phần
tạo lợi ích cho tất cả các bên tham gia : người gửi tiền và người đi vay.
 Quá trình vận động và phát triển của tín dụng ngân hàng không hoàn toàn
phù hợp với quy mô phát triển sản xuất và lưu thông hàng hoá.
Xuất phát từ đặc điểm tín dụng ngân hàng được cấp dưới hình thức tiền tệ có
thể đáp ứng các nhu cầu khác nhau ngoài nhu cầu sản xuất và lưu thông hàng hoá,
giá trị của món tín dụng ngân hàng có thể không đồng nhất với giá trị mở rộng quy
mô sản xuất kinh doanh trong từng giai đoạn phát triển kinh tế.
 Tín dụng ngân hàng thúc đẩy quá trình tập trung và điều hồ vốn giữa các
chủ thể trong nền kinh tế.
Trong nền kinh tế thị trường,tín dụng ngân hàng đã trở thành loại tín dụng phổ
SV: Đinh Thị Ánh Lớp: TC14A
12
Khóa luận tốt nghiệp
biến, đáp ứng mọi nhu cầu bổ sung vốn của nền kinh tế, không chỉ đáp ứng nhu cầu
vốn ngắn hạn để dự trữ vật tư hàng hoá, trang trải chi phái sản xuất, thanh toán các
khoản nợ mà còn tham gia cấp vốn đầu tư trung và dài hạn đáp ứng nhu cầu về đầu
tư xây dựng cơ bản, cải tiến đổi mới kĩ thuật công nghệ, mua sắm tài sản cố định,…
Ngoài ra còn đáp ứng một phần nhu cầu tiêu dùng cá nhân.
1.2.1.3. Phân loại tín dụng ngân hàng

Phân loại cho vay là việc sắp xếp các khoản cho vay theo từng nhóm dựa trên
một số tiêu thức nhất định. Việc phân loại cho vay có cơ sở khoa học là tiền đề để
thiết lập các quy trình cho vay thích hợp nâng cao hiệu quả quản trị rủi ro tín dụng.
Phân loại cho vay dựa vào các căn cứ sau đây :
 Phân chia theo thời hạn cấp tín dụng
- Tín dụng ngắn hạn : Là loại tín dụng có thời hạn đến 12 tháng và được sử
dụng để bù đắp sự thiếu hụt vốn lưu động của các doanh nghiệp và các nhu cầu chi
tiêu ngắn hạn của cá nhân. Tín dụng ngắn hạn có đặc điểm: lãi suất thường thấp,
tính thanh khoản của món vay cao và có độ rủi ro thấp.
- Tín dụng trung hạn : Là loại tín dụng có thời hạn từ 1 đến 5 năm và được sử
dụng chủ yếu để đầu tư mua sắm tài sản cố định, cải tiến hoặc đổi mới thiết bị, công
nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh, xây dựng các dự án mới có quy mô nhỏ và thời
gian thu hồi vốn nhanh. Ngoài ra, cho vay trung hạn còn là nguồn hình thành vốn
lưu động thường xuyên của các doanh nghiệp, đặc biệt là những doanh nghiệp mới
thành lập. Tín dụng trung hạn có đặc điểm: lãi suất thường cao, tính thanh khoản
của món vay thấp và độ rủi ro tương đối cao.
- Tín dụng dài hạn : Là loại cho vay có thời hạn trên 5 năm và thời hạn tối đa
có thể lên đến 20-30 năm, một số trường hợp đặc biệt có thể lên đến 40 năm. Mục
đích của hình thức cấp tín dụng này là để đáp ứng các nhu cầu dài hạn như xây
dựng nhà ở, các thiết bị, phương tiện vận tải có quy mô lớn, xây dựng các xí nghiệp
mới phát triển sản xuất kinh doanh… Cho vay dài hạn có đặc điểm: lãi suất và độ
rủi ro rất cao, tính thanh khoản của món vay lại rất thấp.
 Phân chia theo mức độ tín nhiệm đối với khách hàng
- Tín dụng có tài sản đảm bảo : Là loại cho vay dựa trên cơ sở các bảo đảm
SV: Đinh Thị Ánh Lớp: TC14A
13
Khóa luận tốt nghiệp
như thế chấp hoặc cầm cố, hoặc phải có sự bảo lãnh của người thứ ba. Đối với các
khách hàng không có uy tín cao đối với ngân hàng, khi vay vốn đòi hỏi phải có bảo
đảm, sự bảo đảm này là căn cứ pháp lý để ngân hàng có thêm nguồn thứ 2 bổ sung

cho nguồn thu nợ thứ nhất thiếu chắc chắn. Tín dụng có tài sản đảm bảo được chia
thành tín dụng thế chấp và tín dụng cầm cố.
+ Tín dụng thế chấp là hình thức mà người nhận tài trợ phải chuyển các giấy
tờ chững nhận sở hữu hoặc sử dụng các tài sản đảm bảo sang cho ngân hàng nắm
giữ trong thời gian cam kết.
+ Tín dụng cầm cố là hình thức mà người nhận tài trợ của ngân hàng phải
chuyển quyền kiểm soát tài sản đảm bảo sang cho ngân hàng trong thời gian cam
kết.
- Tín dụng không có tài sản đảm bảo : Là loại cho vay không có tài sản thế
chấp, cầm cố hoặc có sự bảo lãnh của người thứ ba, mà việc cho vay chỉ dựa vào uy
tín của bản thân khách hàng. Đối với những khách hàng tốt, trung thực trong kinh
doanh, có khả năng tài chính mạnh, quản trị có hiệu quả thì ngân hàng có thể cấp tín
dụng dựa vào uy tín của bản thân khách hàng ( cũng có thể cấp theo chỉ định của
chính phủ ) mà không cần một nguồn thu nợ thứ hai bổ sung. Tổ chức tín dụng có
thể lựa chọn khách hàng vay để cấp tín dụng không có bảo đảm bằng tài sản khi cho
vay vốn để thực hiện các dự án đầu tư phát triển phương án sản xuất kinh doanh,
dịch vụ và đời sống đối với khách hàng vay đủ các điều kiện sau :
+ Có tín nhiệm với tổ chức tín dụng cho vay trong việc sử dụng vốn vay và trả
nợ đầy đủ, đúng hạn cả gốc và lãi.
+ Có dự án đầu tư, phương án sản xuất kinh doanh, dịch vụ khả thi, có hiệu
quả; hoặc có dự án đầu tư, phương án phục vụ đời sống khả thi, phù hợp với quy
định của pháp luật.
+ Có khả năng tài chính để thực hiện nghĩa vụ trả nợ.
+ Cam kết thực hiện biện pháp bảo đảm bằng tài sản theo yêu cầu của tổ chức
tín dụng nếu sử dụng vốn vay không đúng cam kết trong hợp đồng tín dụng; cam
kết trả nợ trước hạn nếu không thực hiện được biện pháp bảo đảm bằng tài sản.
+ Tổng mức cho vay và điều kiện cho vay không bảo đảm do Ngân hàng Nhà
SV: Đinh Thị Ánh Lớp: TC14A
14
Khóa luận tốt nghiệp

nước quy định.
 Phân chia theo mục đích sử dụng vốn
- Tín dụng sản xuất và lưu thông hàng hoá: Là loại tín dụng cấp cho các doanh
nghiệp, các chủ thể kinh doanh, hộ gia đình để tiến hành sản xuất và lưu thông hàng
hoá.
- Tín dụng tiêu dùng: Là loại tín dụng cấp cho các cá nhân để đáp ứng các nhu
cầu tiêu dùng như mua sắm các vật dụng đắt tiền, và các khoản cho vay để trang trải
cá chi phí thông thường của đời sống thông qua phát hành thẻ tín dụng.
 Phân chia theo đối tượng tín dụng
- Tín dụng vốn lưu động : Là loại tín dụng được sử dụng để hình thành vốn
lưu động cảu các tổ chức kinh tế, có nghĩa là cho vay bù đắp vốn lưu động thiếu hụt
tạm thời. Tín dụng vốn lưu động bao gồm: cho vay dự trữ hàng hoá, cho vay chi phí
sản xuất, cho vay để thanh toán các khoản nợ dưới hình thức chiết khấu kì phiếu.
- Tín dụng vốn cố định : Là loại tín dụng được sử dụng để hình thành tài sản
cố định, có nghĩa là để mua sắm tài sản cố định, cải tiến, đổi mới kĩ thuật, mở rộng
sản xuất, xây dựng các xí nghiệp và công trình mới.
 Phân chia theo phương thức hoàn trả
- Tín dụng trả góp: ngân hàng cho vay và khách hàng vay phải hoàn
trảdần vốn gốc và lãi theo định kỳ.
- Tín dụng phi trả góp: ngân hàng cho vay và khách hàng vay phải
hoàn trả toàn bộ vốn một lần khi đáo hạn.
- Tín dụng hoàn trả theo yêu cầu: là loại hình tín dụng của ngân hàng màviệc
thu nợ của ngân hàng được thực hiện theo yêu cầu hoàn trả của người đi vay trên cơ
sở khả năng của người đi vay và trong thời hạn hợp đồng đã thỏa thuận.
 Phân chia theo xuất xứ tín dụng
- Cho vay trực tiếp : Ngân hàng cấp vốn trực tiếp cho người có nhu cầu, đồng
thời người đi vay trực tiếp hoàn trả nợ vay cho ngân hàng.
- Cho vay gián tiếp : Là khoản cho vay được thực hiện thông việc mua lại các
khế ước hoặc chứng từ nợ đã phát sinh và còn trong thời hạn thanh toán. Các
NHTM cho vay gián tiếp theo các loại sau :

SV: Đinh Thị Ánh Lớp: TC14A
15
Khóa luận tốt nghiệp
+ Chiết khấu thương phiếu: Người thụ hưởng hối phiếu hoặc lệnh phiếu còn
trong thời hạn thanh toán có thể nhượng lại cho ngân hàng, trong trường hợp này
ngân hàng cấp cho khách hàng một khoản tiền bằng mệnh giá trừ đi lãi chiết khấu
và hoa hồng phí. Khi các chứng từ này đến hạn thanh toán người thụ lệnh phiếu
hoặc người phát hành lệnh phiếu có trách nhiệm thanh toán cho ngân hàng.
+ Mua các phiếu bán hàng tiêu dùng và máy móc nông nghiệp trả góp : Trong
điều kiện hiện nay các doanh nghiệp thương mại đang tìm mọi biện pháp cạnh tranh
trong việc tiêu thụ hàng hoá, trong đó bán chịu hàng hoá được coi là biện pháp để
mở rộng tiêu thụ hàng hoá có hiệu quả nhất. Tuy nhiên nguồn vốn của các doanh
nghiệp có hạn, vì vậy cần phải có nguồn tài trợ của ngân hàng thông qua nhượng lại
cá phiếu bán hàng trả góp.
+ Nghiệp vụ thanh tín hay còn gọi là mua các khoản nợ phải thu là một hình thức
tài trợ vốn ngắn hạn ( thực chất là hình thức tài trợ vốn lưu động cho các doanh nghiệp
+ Nghiệp vụ bảo lãnh : Ngân hàng thực hiện bảo lãnh cho khách hàng bằng uy
tín của mình. Đối với nghiệp vụ này ngân hàng không phải cung cấp bằng tiền,
nhưng khi người được bảo lãnh không thực hiện được nghĩa vụ theo hợp đồng thì
người bảo lãnh phải thay thế để thực hiện nghĩa vụ thanh toán.
1.2.2. Hoạt động TDNH đối với DNV&N
1.2.2.1. Đặc trưng của TDNH đối với DNV&N
Một là, nhu cầu về vốn tín dụng ngân hàng của các DNV&N là lớn. Vì hầu
hết DNV&N đều thiếu vốn để kinh doanh và mở rộng quy mô hoạt động, nên đều
có nhu cầu vay vốn ngân hàng cả về ngắn hạn và trung dài hạn.
Hai là, số lượng món vay nhiều nhưng giá trị của mỗi món vay không lớn, đối
tượng cho vay đa dạng, nhiều chủng loại nên chi phí của mỗi khoản vay lớn, dẫn
đến lãi suất cho vay cao và quản lý khó khăn.
Ba là, các DNV&N đều có nhu cầu vay vốn trung và dài hạn, với lãi suất thấp.
Bởi vì: hầu hết các DNV&N đếu ở tình trạng thiết bị, công nghệ lạc hậu. Do đó họ

đều có nhu cầu vay vốn trung và dài hạn để cải tạo cơ sở sản xuất, đổi mới thiết bị.
Tuy nhiên khả năng đáp ứng nhu cầu này của ngân hàng là có hạn vì không đủ
nguồn vốn đầu tư trung và dài hạn. Tình trạng chiếm dụng vốn lẫn nhau đã khiến
SV: Đinh Thị Ánh Lớp: TC14A
16
Khóa luận tốt nghiệp
cho không ít các DNV&N rơi vào tình trạng luôn bị thiếu vốn.
Bốn là, cho vay đối với DNV&N, ngân hàng thường gặp phải những trở ngại:
+ Thiếu tài sản thế chấp hoặc doanh nghiệp có tài sản thế chấp nhưng chưa có
đủ giấy tờ chứng minh quyền sở hữu hợp pháp
+ Báo cáo tài chính của DNV&N thường không đầy đủ, số liệu thiếu chính
xác, độ tin cậy không cao.
+ Khả năng lập các phương án, dự án sản xuất kinh doanh, dịch vụ của các
DNV&N còn hạn chế tính thuyết phục chưa cao.
+ Thị trường diễn biến phức tạp trong khi DNV&N có quy mô hoạt động nhỏ
và hiệu quả kinh doanh thấp nên dễ bị rủi ro.
1.2.2.2. Các hình thức cấp tín dụng của ngân hàng đối với DNV&N
Theo quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thì các Ngân hàng thương
mại căn cứ vào phương thức cho vay thoả thuận với khách hàng và áp dụng các
hình thức cho vay chủ yếu sau :
a. Cho vay ngắn hạn :
Tín dụng ngắn hạn của ngân hàng dành cho doanh nghiệp là loại cho vay có
thời hạn dưới một năm, thường được dựng để bổ sung vốn lưu động thiếu hụt tạm
thời, phát sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
 Cho vay từng lần : áp dụng cho khách hàng có nhu vầu vay vốn không
thường xuyên hoặc không có điều kiện để được cấp hạn mức thấu chi, mỗi lần vay
khách hàng phải lập hồ sơ theo quy định và ký hợp đồng tín dụng, mức cho vay căn
cứ vào phương án sản xuất kinh doanh, thời hạn cho vay xác định phù hợp với chu
kỳ sản xuất kinh doanh và khả năng trả nợ của khách hàng, mỗi món vay đều được
tách biệt thành các hồ sơ khác nhau. Các doanh nghiệp thường vay theo hình thức

này để bổ sung nhu cầu vốn lưu động phục vụ cho sản xuất kinh doanh mang tính
thời vụ.
 Cho vay thấu chi: Là phương thức tài trợ ngắn hạn trong đó ngân hàng cho
vay bằng cách cho phép khách hàng được rút tiền vượt quá số dư trên tài khoản
vãng lai ( tài khoản tiền gửi được phép dư nợ) trong phạm vi số tiền và thời hạn
nhất định, mức dư nợ tối đa trên tài khoản đó bằng với hạn mức tín dụng đã cam
SV: Đinh Thị Ánh Lớp: TC14A
17
Khóa luận tốt nghiệp
kết. Phương thức cho vay này được sử dụng nhằm đáp ứng toàn bộ nhu cầu thiếu
hụt vốn lưu động theo hạn mức tín dụng đã cam kết. Để được thấu chi khách hàng
phải làm đơn xin ngân hàng hạn mức thấu chi và thời gian thấu chi, các khoản chi
nếu quá hạn mức thấu chi thì sẽ phải chịu lãi phạt và bị đình chỉ sử dụng hình thức
này
Khi khách hàng có tiền nhập về tài khoản ngân hàng sẽ thu hồi nợ gốc và lãi
Số lãi phải trả = Lãi suất thấu chi * Thời gian thấu chi * Số tiền thấu chi
Thấu chi là hình thức tín dụng ngắn hạn, thủ tục đơn giản, linh hoạt, phần lớn
không có tài sản đảm bảo nên chỉ được áp dựng đối với khách hàng có độ tin cậy
cao, thu nhập đều đặn và kì thu nhập ngắn.
 Cho vay theo hạn mức tín dụng : là phương pháp cho vay để đáp ứng toàn bộ
nhu cầu thiếu hụt vốn lưu động theo hạn mức tín dụng đã cam kết. Hạn mức tín
dụng là giới hạn tối đa số tiền cho vay mà ngân hàng có thể cung cấp cho một khách
hàng trong một thời hạn nhất định. Ngân hàng xác định hạn mức tín dụng trên cơ sở
phân tích toàn diện các mặt hoạt động của doanh nghiệp và doanh nghiệp được sử
dụng một cách chủ động tiền vay trong hạn mức thỏa thuận đó. Thông thường, ngân
hàng định kỳ hạn trả nợ cuối cùng cho toàn bộ các khoản vay, không định kỳ hạn
trả nợ cho từng lần giải ngân. Các doanh nghiệp có quan hệ tín dụng thường xuyên,
trình độ quản trị tài chính tương đối tốt và doanh nghiệp được xếp hạng tín dụng
cao là những doanh nghiệp thường được áp dụng loại hình cho vay này.
 Chiết khấu : : là một nghiệp vụ tín dụng ngắn hạn, trong đó khách hàng

chuyển nhượng các giấy tờ có giá chưa đến hạn thanh toán cho ngân hàng để nhận
lấy một khoản tiền bằng mệnh giá trừ đi lợi tức chiết khấu và hoa hồng phí (nếu có).
Chiết khấu là một nghiệp vụ tín dụng ít rủi ro, khả năng thu hồi nợ là khá chắc chắn.
Tuy nhiên có thể phát sinh các giấy tờ có giá giả mạo, vì vậy các ngân hàng phải có
các biện pháp để hạn chế loại rủi ro này.
 Cho vay luân chuyển : Việc cho vay dựa trên luân chuyển của hàng hóa. Để
đề phòng sự thiếu vốn khi mua hàng, từ đầu kỳ Ngân hàng và doanh nghiệp đã có
thỏa thuận về phương thức vay, hạn mức tín dụng, nguồn cung cấp hàng hóa và khả
năng tiêu thụ. Ngân hàng và khách hàng đều phải nghiên cứu kế hoạch lưu chuyển
SV: Đinh Thị Ánh Lớp: TC14A
18
Khóa luận tốt nghiệp
hàng hóa để dự đoán dòng ngân quỹ trong thời gian tới.
Người cho vay cam kết khoản vay sẽ được trả cho người bán và moi khoản thu
bán hàng đều dung đẻ trả vào tài khoản tiền vay trước khi được trích trả lại vào tài
khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng.
Cho vay luân chuyển thường được áp dụng đối với các doanh nghiệp thương
nghiệp hoặc sản xuất kinh doanh có chu kỳ tiêu thụ ngắn ngày, có quan hệ vay
mượn thường xuyên với Ngân hàng.
Cho vay luân chuyển rất thuận tiện cho các khách hàng. Thủ tục vay chỉ cần
thực hiện 1 lần cho nhiều lần vay. Khách hàng được đáp ứng nhu cầu vốn kịp thời,
vì vậy việc thanh toán cho người cung cấp sẽ nhanh gọn. Nhưng nếu doanh nghiệp
gặp khó khăn trong tiêu thụ thì Ngân hàng cũng khó khăn trong việc thu hồi vốn do
thời hạn của khoản vay không được quy định rõ ràng.
 Cho vay trả góp: Trong phương thức này, doanh số cho vay không vượt qua số
tiền cho vay đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng, số tiền cho vay được trả thành
nhiều kỳ hạn đều nhau với tổng số tiền gốc và lãi của môi kì hạn bằng nhau, trong đó
số tiền trả lãi được tính trên dư nợ thực tế và số ngày thực tế của kì hạn trả nợ đó.
b. Cho vay trung, dài hạn
Nguồn vốn vay trung và dài hạn ngân hàng là nguồn vốn quan trọng, đáp ứng

các nhu cầu sau đây của doanh nghiệp:
- Nhu cầu về tài sản cố định và tài sản lưu động thường xuyên;
- Trả các khoản nợ hiện hữu;
- Thành lập doanh nghiệp mới hoặc mua lại doanh nghiệp đang hoạt động.
Trong đó tài trợ cho nhu cầu về tài sản cố định và tài sản lưu động thường
xuyên là chủ yếu nhất. Bao gồm:
 Cho vay theo dự án đầu tư: Đây là khoản tín dụng tài trợ cho việc đầu tư
mua sắm tài sản cố định hay xây dựng các công trình được dự tính sẽ mang lại thu
nhập trong tương lai. Thông thường các doanh nghiệp yêu cầu được vay một khoản
trọn gói dựa trên chi phí dự tính của dự án đã đề xuất và cam kết thanh toán khoản
vay làm nhiều lần.
 Cho vay hợp vốn: là hình thức cho vay trong đó một nhóm các tổ chức tài
SV: Đinh Thị Ánh Lớp: TC14A
19
Khóa luận tốt nghiệp
chính cùng liên kết lại để tập hợp vốn cho một khách hàng vay. Hình thức cho vay
này là cần thiết khi nhu cầu vay vốn của khách hàng vượt quá khả năng cho vay của
một tổ chức tài chính, khi người cho vay muốn phân tán tiền vay để hạn chế rủi ro;
đặc biệt đối với các tổ chức tài chính nhỏ, có trình độ nghiệp vụ chưa cao muốn
thông qua nghiệp vụ này để có thể tiếp cận, học hỏi kinh nghiệm, kỹ thuật cho vay
của các tổ chức tài chính lớn. Hơn nữa, đối với doanh nghiệp đi vay thì hình thức
cho vay này có thể đáp ứng ngay một lần nhu cầu vốn lớn, hạn chế chi phí về thời
gian và tiền bạc khi phải vay nhiều lần ở nhiều tổ chức tài chính.
1.2.2.3 Chính sách cho vay
Đối với mỗi khách hàng thì Ngân hàng đều có chính sách cho vay riêng biệt.
Xuất phát từ những đặc điểm riêng có của doanh nghiệp nhỏ và vừa Ngân hàng có
chính sách cho vay cụ thể dựa trên những tiêu chí cơ bản sau:
Đối tượng cho vay: là các doanh nghiệp
Lãi suất cho vay: Ngân hàng thương mại áp dụng lãi suất cho vay cố định đối
với từng món vay của Doanh nghiệp nhỏ và vừa. Lãi suất vay thường dựa vào lãi

suất thị trường có điều chỉnh. Tuy nhiên mỗi Ngân hàng sẽ có cách tính lãi khác
nhau.
Thời hạn vay: Tùy theo nhu cầu khách hàng, Ngân hàng sẽ thực hiện cho vay
ngắn hạn hay trung hạn, dài hạn đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Tuy nhiên
các món vay ngắn hạn thường được ưu tiên hơn đối với nhóm khách hàng này.
Phương thức cho vay: Đối với khách hàng là doanh nghiệp nhỏ và vừa thông
thường Ngân hàng chủ yếu cho vay theo phương thức cho vay từng lần và phương
thức cho vay theo hạn mức tín dụng.
Tài sản bảo đảm: Hoạt động cho vay mang tính rủi ro cao nên Ngân hàng
luôn yêu cầu phải có tài sản đảm bảo cho các khoản vay. Đối với doanh nghiệp nhỏ
và vừa do tiềm lực tài chính còn hạn chế, uy tín chưa cao nên khi vay vốn Ngân
hàng luôn luôn phải có tài sản đảm bảo đi kèm. Tài sản đảm bảo có thể là thuộc sở
hữu của doanh nghiệp hoặc bảo lãnh của bên thứ ba cho khách hàng là doanh
nghiệp nhỏ và vừa của Ngân hàng nhưng cũng có thể là tài sản được hình thành từ
vốn vay của Ngân hàng.
SV: Đinh Thị Ánh Lớp: TC14A
20
Khóa luận tốt nghiệp
1.2.2.4. Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với sự phát triển của DNV&N
Hiện nay 70-80% thậm chí 90% vốn cung cấp cho doanh nghiệp vẫn lệ thuộc
vào ngân hàng điều đó có thể thấy tín dụng ngân hàng có vai trò hết sức quan trọng
đối với sự tồn tại và phát triển của DNVVN.
 Tín dụng ngân hàng hỗ trợ cho sự ra đời và phát triển của các DNV&N;
tạo điều kiện cho doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh thường xuyên, liên
tục và mở rộng sản xuất kinh doanh.
Ngân hàng không những hỗ trợ cho DNV&N trong quá trình hoạt động và
phát triển mà còn hỗ trợ cho doanh nghiệp ngay từ khi mới hình thành và đi vào
hoạt động ban đầu. Nếu như không có sự hỗ trợ của ngân hàng thì các DNV&N sẽ
gặp rất nhiều khó khăn trong việc trang bị cơ sở vật chất, kỹ thuật cho hoạt động
sản xuất kinh doanh, thậm chí không thành lập được. Nhiều doanh nghiệp ra đời,

song do hạn chế về vốn nên không có khả năng sử dụng công nghệ, thiết bị hiện đại
dẫn đến hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh không cao, thiếu sức cạnh tranh và
khó đứng vững trên thương trường. Để có thể hoạt động thường xuyên liên tục các
DNV&N phải có đủ vốn để đáp ứng các nhu cầu cho sản xuất kinh doanh, tuy nhiên
nguồn vốn tự có của doanh nghiệp lại không thể đáp ứng được nhu cầu cần thiết. Vì
vậy vốn tín dụng ngân hàng là một giải pháp hữu hiệu. Tín dụng ngân hàng còn
giúp các DNV&N tái sản xuất mở rộng, phát triển các ngành nghề mũi nhọn.
 Tín dụng ngân hàng là nguồn tài trợ vốn cho hoạt động kinh doanh giúp
các DNV&N nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường.
Cạnh tranh là một quy luật tất yếu của nền kinh tế thị trường, muốn tồn tại và
đứng vững thì đòi hỏi các doanh nghiệp phải chiến thắng trong cạnh tranh. Đặc biệt
các DNV&N do có một số hạn chế nhất định nên việc chiếm lĩnh ưu thế trong cạnh
tranh trước các doanh nghiệp lớn trong nước và nước ngoài hết sức khó khăn. Xu
hướng hiện nay của các doanh nghiệp này là liên doanh liên kết, tập trung vốn đầu
tư và mở rộng sản xuất, trang bị kĩ thuật hiện để nâng cao chất lượng đa dạng hoá
các sản phẩm tăng khả năng cạnh tranh, nâng cao vị thế cho mính. Nhưng để có một
lượng vốn đủ lớn đầu tư cho sự phát triển trong khi vốn tự có lại hạn hẹp, khả năng
SV: Đinh Thị Ánh Lớp: TC14A
21
Khóa luận tốt nghiệp
tích luỹ thấp phải mất nhiều năm mới thực hiện được và khi đó các DNV&N khó có
khả năng nắm bắt được cơ hội kinh doanh trong nhịp đi thần tốc của nền kinh tế thị
trường. Như vậy để có thể đáp ứng kịp thời các DNV&N phải tiếp cận nguồn vốn
vay mà một trong số đó không thể thiếu là nguồn vốn từ các NHTM vừa an toàn
vừa nhanh chóng có vốn, khi yêu cầu về vốn đã được đáp ứng sức mạnh tài chính
của doanh nghiệp tăng lên thì mục địch chiếm lĩnh thị trường nâng cao sức cạnh
tranh không còn là nan giải đối với họ.
 Tín dụng ngân hàng góp phần hình thành cơ cấu vốn tối ưu cho doanh nghiệp.
Hiện nay để thực hiện các quyết định đầu tư, doanh nghiệp có thể sử dụng hai
nhóm nguồn vốn là vốn tự có và vốn đi vay. Tuy nhiên hiếm có doanh nghiệp nào

sử dụng vốn tự có để sản xuất kinh doanh là do khó khăn vì vốn tự có hạn hẹp, nên
nguồn vốn vay chinh là công cụ đòn bẩy để doanh nghiệp tối ưu hoá hiệu quả sử
dụng vốn. Nhưng nhu cầu vay vốn của doanh nghiệp không bao giờ được đáp ứng
tối đa mà quy mô của khoản vay còn tùy thuộc vào các điều kiện, các quy định vay
vốn của ngân hàng, của pháp luật… Mặt khác, nếu quy mô vốn vay quá lớn sẽ làm
tăng chi phí trả lãi dẫn đến tăng giá sản phẩm, ảnh hưởng đến lợi nhuận của doanh
nghiệp. Do vậy buộc doanh nghiệp phải xây dựng cơ cấu vốn tối ưu. Cơ cấu vốn tối
ưu là sự kết hợp hợp lý nhất các nguồn tài trợ cho hoạt động kinh doanh của một
doanh nghiệp nhằm mục đích tối đa hóa giá trị thị trường của doanh nghiệp tại mức
giá vốn bình quân rẻ nhất.
 Tín dụng ngân hàng tạo điều kiện cho các DNV&N tiếp cận nguồn vốn
nước ngoài.
Nếu chất lượng hoạt động tín dụng của ngân hàng tốt, các sản phẩm dịch vụ
cung cấp với chất lượng cao, sẽ góp phần tạo ra một cơ sở hạ tầng tài chính của nền
kinh tế vững mạnh, từ đó sẽ tăng cường thu hút vốn đầu tư nước ngoài trực tiếp,
gián tiếp cũng như các nguồn vốn hỗ trợ phát triển của các tổ chức nước ngoài. Và
như vậy, nguồn vốn để các DNVVN có thể tiếp cận sẽ ngày càng được mở rộng.
 Tín dụng ngân hàng góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của
DNV&N.
Đặc trưng của tín dụng ngân hàng không chỉ là tài trợ vốn mà còn phải đảm
SV: Đinh Thị Ánh Lớp: TC14A
22
Khóa luận tốt nghiệp
bảo hoàn trả gốc và lãi đúng hạn. Do vậy khi sử dụng vốn vay các doanh nghiệp
không phải chỉ thu hồi vốn đủ mà còn phải tìm mọi biện pháp sử dụng vốn sao cho
có hiệu quả nhất. Mặt khác, các ngân hàng chỉ cho vay khi đã thẩm định đầy đủ, kỹ
càng mọi yếu tố liên quan đến doanh nghiệp, trong đó đặc biệt là tính hiệu quả và
khả thi của phương án, dự án kinh doanh cần tài trợ vốn. Vì vậy, ngay từ khi thiết
lập phương án sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp đã phải nghiên cứu và phân
tích kỹ về phương án của mình để có thể tăng tính khả thi của phương án, tăng

cường sự tin tưởng của ngân hàng khi quyết định tài trợ. Ngoài ra trong quá trình
cấp tín dụng ngân hàng còn tư vấn giúp cho các doanh nghiệp có các quyết định đầu
tư tốt nhất, đem lại lợi nhuận cao nhất cho doanh nghiệp. Đồng thời công tác kiểm
tra định kỳ của các ngân hàng đã buộc các doanh nghiệp phải sử dụng vốn đúng
mục đích và hiệu quả, làm ăn đứng đắn, minh bạch, tuân thủ pháp luật
 Tín dụng ngân hàng góp phần bảo đảm hoạt động của doanh nghiệp diễn
ra liên tục, ổn định.
Trong nền kinh tế thị trường đòi hỏi các doanh nghiệp luôn phải cải tiến kĩ
thuật thay đổi chất lượng mẫu mã mặt hàng cho phù hợp với xu hướng nhu cầu của
khách hàng để tồn tại giữu vững phân đoạn thị trường của mình và ngoài ra còn để
mở rộng chiếm lĩnh sang thị trường mới. Muốn làm được điều đó thì nguồn tài
chình của doanh nghiệp phải thật mạnh nhưng trên thực tế không có một doanh
nghiệp nào có thể đảm bảo đủ 100% vốn cho nhu cầu sản xuất kinh doanh, hầu như
doanh nghiệp nào cũng phải dựng nguồn vốn đi vay mà chủ yếu chỉ có thể đi vay
các NHTM để cho hoạt động sản xuất của doanh nghiệp luôn đảm bảo liên tục ổn
định không bị đình trệ lỡ mất thời cơ kinh doanh.
 Tín dụng ngân hàng là công cụ để Nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế,
góp phần chống lạm phát, ổn định tiền tệ và giá cả, từ đó tạo ra môi trường kinh
doanh thuận lợi cho DNV&N.
Thông qua tín dụng ngân hàng, có thể kiểm soát được khối lượng tiền cung
ứng trong lưu thông, thực hiện yêu cầu của quy luật lưu thông tiền tệ. Với việc
cung ứng tín dụng cho các chủ thể trong nền kinh tế, ngân hàng đã góp phần mở
rộng khối lượng tiền cung ứng trong lưu thông, thực hiện việc dẫn dắt các luồng
SV: Đinh Thị Ánh Lớp: TC14A
23

×