Tải bản đầy đủ (.doc) (96 trang)

áp dụng chuẩn mực basel i, ii vào hoạt động quản trị rủi ro tín dụng tại ngân hàng tmcp kỹ thương việt nam thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (575.57 KB, 96 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ toàn cầu khiến hàng loạt ngân hàng phá
sản đã cho thấy vai trò quan trọng của giám sát ngân hàng và nâng cao chất lượng
các yếu tố vốn cũng như quản lý các rủi ro của ngân hàng thương mại. Ngày
12/09/2010, hội đồng các Ngân hàng trung ương và nhà giám sát tài chính của các
nước phát triển đã nhóm họp tại Basel (Thụy Sỹ) để đưa ra khung về giám sát hoạt
động ngân hàng với tên gọi Basel III. Ủy ban Basel cũng đã công bố bộ tiêu chuẩn
an toàn vốn tối thiểu mới áp dụng cho các ngân hàng thương mại khắt khe hơn
nhằm tạo nên lớp đệm vững chắc cho hệ thống ngân hàng trước các cuộc khủng
hoảng hay chu kỳ kinh tế.
Từ 01/01/2011, cánh cửa thị trường Việt Nam đã hoàn toàn mở cửa cho các
ngân hàng nước ngoài theo đúng cam kết trong lộ trình gia nhập WTO. Mở cửa thị
trường tài chính sẽ mang lại cho nền kinh tế Việt Nam nói chung và hệ thống ngân
hàng nói riêng nhiều lợi ích nhưng cũng không ít rủi ro nhất là trong bối cảnh các
định chế tài chính Việt Nam còn yếu về năng lực tài chính cũng như quản trị kinh
doanh, nhất là về thanh tra giám sát rủi ro và xử lý nợ xấu. Bên cạnh đó là các điều
kiện về môi trường vĩ mô, hạ tầng kỹ thuật, cơ chế chính sách còn nhiều hạn chế sẽ
là nguy cơ cho phát triển bền vững của hệ thống tài chính Việt Nam. Trong khi đó,
sự hiện diện của các ngân hàng nước ngoài với năng lực tài chính khổng lồ và kinh
kiệm quản trị dày dặn thực sự là thách thức cho toàn bộ hệ thống ngân hàng Việt
Nam nói chung. Vì thế việc áp dụng chuẩn mực Basel vào hoạt động quản trị rủi ro
và giám sát ngân hàng tại Việt Nam là điều tất yếu. Tuy nhiên, hiện nay Việt Nam
vẫn chưa có lộ trình cụ thể cho việc áp dụng chuẩn mực Basel khiến các ngân hàng
thương mại gặp nhiều vướng mắc.
Là một ngân hàng hàng đầu Việt Nam với bộ máy quản trị tiên tiến, nguồn
nhân lực chất lượng cao, hệ thống công nghệ thông tin hiện đại và nhận được sự tư
vấn từ đối tác chiến lược HSBC, Techcombank đã không ngừng lớn mạnh với quan
điểm nhất quán là phát triển bền vững bằng cách nâng cao chất lượng quản trị rủi
1
ro, nhất là rủi ro tín dụng bởi hoạt động tín dụng chiếm tới 60% lợi nhuận của ngân


hàng và rủi ro tín dụng là rủi ro nguy hiểm và thường gặp nhất. Dưới sự tư vấn của
các chuyên gia từ HSBC, Techcombank đã xây dựng một mô hình quản trị rủi ro
hiện đại tuân theo các chuẩn mực Basel. Tuy nhiên, cũng như các ngân hàng thương
mại tại Việt Nam, Techcombank còn gặp không ít khó khăn trong quá trình áp dụng
cần được giải quyết.
Vì sự cấp thiết nêu trên, em chọn: “Áp dụng chuẩn mực Basel I, II vào
hoạt động quản trị rủi ro tín dụng tại ngân hàng TMCP Kỹ thương Việt Nam :
thực trạng và giải pháp” làm đề tài nghiên cứu khóa luận.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Bài viết nghiên cứu các lý thuyết về rủi ro tín dụng, quản trị rủi ro tín dụng
và các quy định của chuẩn mực Basel về hoạt động quản trị rủi ro tín dụng, đặc biệt
là chuẩn mực Basel I, II.
Dựa trên cơ sở lý thuyết đó, tìm hiểu về thực trạng ứng dụng chuẩn mực
Basel I, II vào hoạt động quản trị rủi ro tín dụng của toàn hệ thống ngân hàng
thương mại Việt Nam nói chung và Techcombank nói riêng. Từ đó phân tích những
hạn chế và nguyên nhân của nó mà hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam và
Techcombank gặp phải trong quá trình áp dụng
Từ những đánh giá trên và định hướng của ngân hàng nhà nước,
Techcombank, bài viết đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao khả năng áp dụng
chuẩn mực Basel I, II vào hoạt động quản trị rủi ro tín dụng của Techcombank và
hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam.
3. Phạm vi nghiên cứu
Khóa luận chủ yếu phân tích những nội dung liên quan đến quản trị rủi ro tín
dụng được quy định trong chuẩn mực Basel II và việc áp dụng 3 trụ cột, 17 nguyên
tắc của Basel II vào hoạt động rủi ro của Techcombank và hệ thống ngân hàng
thương mại Việt Nam từ năm 2005. Đây là thời điểm Việt Nam phải sửa đổi các
văn bản pháp luật để gia nhập WTO, đây cũng là thời điểm Techcombank cùng với
đối tác chiến lược HSBC xây dựng và đổi mới hệ thống quản trị, kinh doanh trong
ngân hàng.
2

4. Phương pháp nghiên cứu
Bài viết chủ yếu được nghiên cứu dựa trên phương pháp nghiên cứu khoa
học, tổng hợp, so sánh, đối chiếu, thống kê, chọn lọc các tài liệu, sách báo, website
của ngân hàng nhà nước và ngân hàng thanh toán quốc tế, kết hợp với tìm hiểu
thực tế tại ngân hàng Techcombank, đồng thời tham khảo các ý kiến của lãnh đạo
ngân hàng.
5. Kết cấu khóa luận
Bố cục của khóa luận được chia làm ba chương chính (ngoài phần mở đầu và
kết luận)
- Chương I :Cơ sở lý luận về quản trị rủi ro tín dụng và các quy định về
quản trị rủi ro tín dụng theo chuẩn mực Basel
- Chương II : Thực trạng áp dụng chuẩn mực Basel I, II vào hoạt động
quản trị rủi ro tín dụng tại ngân hàng TMCP Kỹ thương Việt Nam.
- Chương III : Giải pháp nâng cao việc áp dụng chuẩn mực Basel I, II vào
hoạt động quản trị rủi ro Basel I, II vào hoạt động quản trị rủi ro tín dụng tại ngân
hàng TMCP Kỹ thương Việt Nam
Cuối cùng, em xin chân thành cảm ơn TS Hoàng Xuân Bình – giảng viên
trường đại học Ngoại Thương đã hướng dẫn em hoàn thành bài khóa luận này.
3
CHƯƠNG I : CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN TRỊ RỦI RO
TÍN DỤNG VÀ CÁC QUY ĐỊNH VỀ QUẢN TRỊ RỦI RO TÍN
DỤNG THEO CHUẨN MỰC BASEL I, II
1.1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ RỦI RO TÍN DỤNG VÀ QUẢN TRỊ RỦI
RO TÍN DỤNG TRONG KINH DOANH NGÂN HÀNG
1.1.1 Rủi ro tín dụng đối với ngân hàng thương mại
1.1.1.1 Khái niệm
Nguồn tiền của các ngân hàng thương mại (NHTM) đang thay đổi mạnh mẽ
do gia tăng cạnh tranh trong hệ thống ngân hàng, giữa các ngân hàng với các tổ
chức tài chính khác dưới sự ảnh hưởng của hội nhập kinh tế quốc tế, nguồn vốn do
ngân hàng huy động được ngày càng di chuyển một cách dễ dàng từ ngân hàng này

sang ngân hàng khác, từ quốc gia này sang quốc gia khác chính là những nguyên
nhân gây ra rủi ro cho ngân hàng.
Trên thực tế, các ngân hàng phải đối mặt với rất nhiều rủi ro khác nhau như
rủi ro tín dụng, rủi ro thị trường, rủi ro thanh khoản, rủi ro hoạt động trong đó, rủi
ro tín dụng (RRTD) là thường gặp và nguy hiểm nhất. “Rủi ro tín dụng là một rủi
ro phát sinh trong quá trình cấp tín dụng của ngân hàng, biểu hiện trên thực tế qua
việc khách hàng không trả được nợ hoặc trả nợ không đúng hạn cho ngân
hàng”(Phan Thị Cúc, 2009). Khi đó, một bên vay hay đối tác của ngân hàng thất
bại trong việc thực hiện các nghĩa vụ theo các điều khoản đã thỏa thuận. RRTD xảy
ra trong nhiều hoạt động mang tính chất tín dụng như khâu huy động vốn, cho vay,
bảo lãnh, cho thuê tài chính của ngân hàng.
1.1.1.2 Nguyên nhân gây rủi ro tín dụng
Trong quan hệ tín dụng có hai đối tượng tham gia là ngân hàng cho vay và
người đi vay. Nhưng người đi vay sử dụng tiền vay trong một thời gian, không gian
cụ thể, tuân theo sự chi phối của những điều kiện cụ thể nhất định mà ta gọi là môi
trường kinh doanh, và đây là đối tượng thứ ba có mặt trong quan hệ tín dụng.
RRTD xuất phát từ môi trường kinh doanh gọi là rủi ro do nguyên nhân khách
4
quan. Rủi ro xuất phát từ người vay và ngân hàng cho vay gọi là rủi ro do nguyên
nhân chủ quan.
a. Nguyên nhân chủ quan
 Nguyên nhân từ phía khách hàng
Thứ nhất, do rủi ro đạo đức và lựa chọn đối nghịch xuất hiện trên thị trường
tài chính (Fredic S.Mishkin, 2007). Rủi ro đạo đức xảy ra do thông tin không cân
xứng tạo ra sau khi giao dịch diễn ra. Khách hàng sử dụng vốn vào những hoạt
động không tốt (thiếu đạo đức) xét theo quan điểm của ngân hàng, làm giảm khả
năng món vay được trả đúng hạn. Hoặc khách hàng cố tình không trả nợ cho ngân
hàng, gây khó khăn cho ngân hàng trong việc thu hồi vốn. Sự lựa chọn đối nghịch là
chính khách hàng có thể nhận thấy khả năng vỡ nợ là rất cao, nhưng vẫn quyết tâm
đi vay bởi vì những dự án của họ có rủi ro càng cao thì lợi nhuận thu được càng cao

nếu nó thành công. Những người đi vay này lại là những người sẵn sàng chấp nhận
mọi điều kiện của khoản vay, tuy nhiên, họ lại là những người ít được mong đợi cho
vay nhất bởi vì khả năng không hoàn trả được khoản nợ vay là rất lớn.
Thứ hai, tình hình tài chính doanh nghiệp thiếu minh bạch, yếu kém. Vấn đề
thông tin không được minh bạch là hiện trạng chung của các doanh nghiệp tại Việt
Nam. Trong khi đó, kế toán doanh nghiệp còn mập mờ, chưa tuân thủ một cách
nghiêm túc các quy định của pháp luật. Các báo cáo tài chính thường chỉ mang tính
hình thức để đối phó với các cơ quan chức năng chứ chưa phản ánh một cách trung
thực tình hình doanh nghiệp đó, thông tin mà ngân hàng có được để thẩm định dự
án chưa sát thực. Cũng chính vì vậy mà các ngân hàng thường xem trọng phần tài
sản thế chấp như một điểm tựa để phòng chống RRTD.
Thứ ba, khách hàng thường có quan hệ tín dụng với rất nhiều ngân hàng và
tổ chức tín dụng khác nên khó theo dõi được dòng tiền và dễ dẫn đến khả năng mất
tính thanh khoản hệ thống. Khi khách hàng có nguy cơ vỡ nợ với một ngân hàng, sẽ
kéo theo RRTD với các ngân hàng khác.
 Nguyên nhân từ phía ngân hàng
Thứ nhất, các thông tin để đánh giá khách hàng như: các số liệu thống kê,
báo cáo tài chính, thông tin dự án mà ngân hàng có được không đầy đủ và chính
5
xác, dẫn đến những đánh giá sai lệch về hiệu quả, thời hạn cho vay và trả nợ của dự
án xin vay. Bên cạnh đó, việc chạy theo chỉ tiêu doanh số mà có thể xem nhẹ chất
lượng khoản vay, cộng với sự yếu kém trong năng lực và phẩm chất của một số cán
bộ ngân hàng càng làm tăng nguy cơ có RRTD.
Thứ hai, quá trình giám sát trong và sau khi cho vay chưa được chú trọng.
Các ngân hàng thường có thói quen tập trung cho công việc thẩm định trước khi cho
vay mà lơi lỏng quá trình kiểm tra, giám sát vốn được thực hiên như thế nào sau khi
vay. Nếu khách hàng cố tình sử dụng vốn sai mục đích, hay cố tình vay mặc dù biết
ít có khả năng trả được nợ nhưng ngân hàng không kịp thời có thông tin, sẽ bị tổn
thất nặng nề. Bởi vậy, cho dù các quan hệ tín dụng bị ràng buộc bởi các hợp đồng
và phải tuân theo các quy định của pháp luật, tuy nhiên, các ngân hàng cần quản lý

một cách chủ động khoản cho vay của mình để đảm bảo có thể thu hồi cả gốc và lãi
khi đúng hạn.
Thứ ba, việc quá tin tưởng vào tài sản thế chấp, bảo lãnh, bảo hiểm, coi đó
như là vật đảm bảo chắc chắn cho sự thu hồi cả gốc và lãi. Nhiều ngân hàng cho
rằng đảm bảo tín dụng là một hình thức cho vay có khả năng khắc phục được rủi ro
hoặc ít xảy ra, hạn chế được rủi ro. Tuy nhiên, tính thanh khoản của các tài sản đảm
bảo hoặc cầm cố là rất thấp, do vậy các tổn thất tín dụng là không thể tránh khỏi.
Nếu khách hàng không trả được nợ hoặc trả nợ không đúng thời hạn, ngân hàng
phải rao bán, hóa giá các tài sản đảm bảo này với giá thấp, gây thiệt hại cho chính
ngân hàng mình.
Thứ tư, thiếu bộ phận chuyên trách theo dõi, quản lý rủi ro, quản lý hạn mức
tín dụng. Một ngân hàng luôn có rất nhiều chi nhánh và phòng giao dịch. Tín dụng
ngân hàng lại là hoạt động thường xuyên và chủ yếu của ngân hàng. Bởi vậy, nếu
thiếu một hệ thống chuyên trách thường xuyên theo dõi và kiểm tra, có thể sẽ gây
rủi ro cho cả hệ thống ngân hàng đó. Việc kiểm soát nội bộ trong các ngân hàng vẫn
còn rất lỏng lẻo. Những sai phạm trong hợp đồng tín dụng, trong quá trình giải ngân
và sau giải ngân không được phát hiện kịp thời và xử lý nghiêm túc dẫn đến thiệt
hại cho ngân hàng mà nguy hiểm hơn là đổ vỡ và phá sản. Mặc dù các tổ chức tín
dụng trong đó có ngân hàng hoạt động dưới sự thanh tra kiểm soát của ngân hàng
6
nhà nước (NHNN), tuy nhiên kiểm tra nội bộ có điểm mạnh hơn so với thanh tra
NHNN đó là tính kịp thời và sâu sát.
Thứ năm, sự phối hợp giữa các ngân hàng còn lỏng lẻo và thiếu thông tin
chung. Trong một ngân hàng, một rủi ro xảy ra kéo theo các rủi ro khác, trong hệ
thống ngân hàng, sự sụp đổ của một ngân hàng này sẽ ảnh hưởng xấu đến ngân
hàng khác, nhất là trong trường hợp khách hàng vay của nhều ngân hàng như đã nói
ở trên. Tuy nhiên, các ngân hàng chưa có hệ thống quản lý khách hàng chung, các
thông tin về khách hàng cũng không đầy đủ, làm gia tăng RRTD.
b. Nguyên nhân khách quan
Thứ nhất, sự thay đổi của môi trường tự nhiên như thiên tai, dịch bệnh, bão

lụt gây tổn thất cho khách hàng vay vốn kinh doanh. Trong trường hợp này các
ngân hàng thường phải gia hạn thời gian trả nợ để khách hàng có thể ổn định hoạt
động sản xuất kinh doanh sau thiệt hại.
Thứ hai, sự biến động của thị trường thế giới và thị trường trong nước ảnh
hưởng đến kết quả kinh doanh của khách hàng, dẫn đến việc mất khả năng trả nợ
của doanh nghiệp. Lạm phát gia tăng, giá cung tăng, lãi suất tăng khiến doanh
nghiệp khó tiếp cận nguồn vốn vay, giảm quy mô sản xuất kinh doanh. Các cuộc
khủng hoảng kinh tế khu vực hay thế giới như khủng hoảng kinh tế khu vực từ Thái
Lan 1997 hay thế giới 2008 bắt đầu từ Mỹ càng ảnh hưởng xấu đến các doanh
nghiệp, nhất là trong thời kỳ hội nhập sâu rộng như hiện nay.
Thứ ba, môi trường pháp lý chưa thuận lợi và sự kém hiệu quả của các cơ
quan pháp luật địa phương. Các văn bản pháp luật, dưới luật về ngân hàng và các tổ
chức tín dụng đã được ban hành. Tuy nhiên, việc triển khai xuống các cấp còn chậm
trễ và còn nhiều bất cập, dẫn đến sự lúng túng của các ngân hàng trong việc xử lý
nợ, xử lý tài sản đảm bảo, Bên cạnh đó là sự thanh tra kiểm soát của cơ quan chức
năng chưa kịp thời và chặt chẽ. Sự sụp đổ của các ngân hàng những năm 1980,
khủng hoảng kinh tế năm 2007 Mỹ đã khiến nhiều ngân hàng ngân hàng phá sản mà
nguyên nhân chính của nó là sự lơi lỏng kiểm soát, do đó các ngân hàng đua nhau
vượt rào tín dụng, cho vay dưới chuẩn, chứng khoán hóa các khoản nợ vay, làm rối
loạn thị trường tài chính.
7
Thứ tư, hệ thống thông tin tín dụng (TTTD) còn bất cập. Đây chính là thách
thức cho hệ thống ngân hàng trong việc mở rộng và kiểm soát tín dụng trong nền
kinh tế thiếu hệ thống thông tin tương xứng. Như đã nói ở trên, thông tin từ khách
hàng chưa chắc đã đầy đủ và đúng thực tế, nên các ngân hàng còn phải tìm hiểu
khách hàng của mình qua các kênh thông tin khác. Nếu các ngân hàng cố gắng chạy
theo thành thích, mở rộng tín dụng mà không có được thông tin đầy đủ sẽ gia tăng
nợ xấu cho hệ thống ngân hàng và RRTD.
1.1.1.3 Hậu quả của rủi ro tín dụng
Thứ nhất, đối với ngân hàng : Hoạt động tín dụng chiếm tới 60 % hoạt

động của ngân hàng, bởi vậy hoạt động này các phát triển thì ngân hàng thu được
nhiều lợi nhuận, thu nhập của ngân hàng tăng. Ngân hàng sẽ tìm kiếm được lợi
nhuận từ chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất tiền gửi, hoặc hoa hồng môi
giới. Đây chính là cơ sở để tồn tại và phát triển NHTM. Có thể khằng định rằng, tín
dụng là một trong những nghiệp vụ quan trọng nhất trong kinh doanh ngân hàng, nó
quyết định sự tồn tại và phát triển của ngân hàng, đồng thời là cơ sở để thực hiện
các chức năng khác. Bởi vậy, khi gặp RRTD, trước hết là lợi nhuận của ngân hàng
bị giảm sút. Ngân hàng không thu hồi được vốn tín dụng đã cấp và lãi cho vay,
trong khi vẫn phải trả vốn gốc và lãi cho những khoản tiền huy động khi đến hạn
thanh toán. Như đã phân tích, rủi ro có tính hệ thống, mà nhất là khi RRTD xảy ra
sẽ kéo theo rủi ro thanh khoản do mất niềm tin của khách hàng gửi tiền và các nhà
đầu tư. Từ rủi ro của một ngân hàng kéo theo rủi ro của cả hệ thống, khiến toàn bộ
các ngân hàng có thể sụp đổ ngay bất cứ lúc nào. Sau khủng hoảng tài chính năm
1997, Thái Lan phải cho đóng cửa 58 chi nhánh ngân hàng và công ty tài chính, tỷ
lệ nợ xấu lên đến 15%. Có thể nhìn thấy rõ nhất ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng
tín dụng ở Mỹ cuối năm 2007, hàng loạt tổ chức tài chính, ngân hàng bị thiệt hại
nặng nề, các ngân hàng trung ương của các cường quốc như Mỹ, EU, Nhật Bản đã
phải đồng loạt bơm tiền vào hệ thống ngân hàng nhằm cứu vãn nguy cơ sụp đổ toàn
bộ hệ thống do tính thanh khoản của các ngân hàng đã trở nên quá tồi tệ.
Thứ hai, đối với nền kinh tế : Hoạt động tín dụng ngân hàng nổi lên như
một mắt xích trọng yếu trong hoạt động của nền kinh tế hiện đại. Nó có một vai trò
8
cực kỳ quan trọng, với vị trí là trung gian tài chính của nền kinh tế, thông qua các
nguồn lực xã hội được phân bổ sử dụng một cách hợp lý và có hiệu quả. Tín dụng
ngân hàng góp phần lưu thông tiền tệ, hàng hóa, điều tiết thị trường, kiểm soát giá
trị đồng tiền, cùng với chính sách tiền tệ điều tiết nền kinh tế vĩ mô và thúc đẩy quả
trình mở rộng giao lưu kinh tế giữa các nước. Khi RRTD xảy ra, không những
chính ngân hàng đó bị ảnh hưởng mà còn dẫn đến những hậu quả khôn lường cho
nền kinh tế. Vẫn là nhìn từ cuộc khủng hoảng tín dụng ở Mỹ, đây chính là nguyên
nhân gây nên khủng hoảng kinh tế toàn cầu, sản xuất khắp nơi bị đình trệ, thất

nghiệp gia tăng. Tính đến tháng 9/2008, sản xuất trong toàn nước Mỹ sụt giảm
mạnh nhất trong vòng 34 năm qua. Từ quý 2/2008, nhiều quốc gia trong khối EU
như Anh, Pháp đều đạt mức tăng trưởng âm. Tốc độ tăng trưởng của toàn khu vực
đồng tiền chung EURO quý 2/2008 chỉ đạt - 0.2% và trong toàn EU là 0%. Tiếp đến
là Nhật Bản, Nga, Trung Quốc và trầm trọng hơn cả là các nước đang phát triển
trong đó có Việt Nam đang phải hứng chịu những ảnh hưởng vô cùng tiêu cực
(Nguyễn Thị Quy, 2009).
1.1.2 Quản trị rủi ro tín dụng của các ngân hàng thương mại
1.1.2.1 Khái niệm về quản trị rủi ro tín dụng
Như đã phân tích, RRTD gây ra hậu quả khôn lường đối với ngân hàng và
nền kinh tế, trong khi đó hoạt đông tín dụng có vai trò hết sức quan trọng, vậy làm
thế nào để giảm thiểu RRTD, đảm bảo cho ngân hàng tăng trưởng và phát triển bền
vững? Các ngân hàng sẽ xây dựng cho mình một mô hình quản lý, gọi là quản trị rủi
ro để đảm nhiệm chức năng này. Quản trị rủi ro là “quá trình tiếp cận rủi ro một
cách khoa học, toàn diện và có hệ thống nhằm nhận dạng kiểm soát phòng ngừa, và
giảm thiểu những tổn thất, mất mát, những ảnh hưởng bất lợi của rủi ro”(Phan Thị
Cúc, 2009).
Dựa trên định nghĩa này, quản trị RRTD chính là việc sử dụng các biện pháp
khác nhau để xác định rủi ro, dự báo mức tổn thất có thể xảy ra và đưa ra các biện
pháp khác nhau để giảm thiểu mức độ của RRTD. Quản trị RRTD ngày càng trở
thành nhu cầu cấp thiết bởi vì sự tồn tại và phát triển của một ngân hàng phụ thuộc
đáng kể vào chất lượng tín dụng. Tuy nhiên, do sức hấp dẫn của lợi nhuận cộng với
9
sự lỏng lẻo trong chính sách và hoạt động thanh tra kiểm soát, hầu hết các NHTM
đều có xu hướng mạo hiểm vi phạm các nguyên tắc an toàn, thậm chí là bất chấp
các cảnh báo về rủi ro, do đó RRTD ngày càng gia tăng nhất là trong xu thế toàn
cầu hóa hiện nay. Bởi vậy, việc nghiên cứu để tìm ra một mô hình quản trị RRTD
hài hòa giữa các yếu tố bên trong NHTM và các yếu tố bên ngoài như tình hình
kinh tế, xu hướng phát triển chung của toàn hệ thống NHTM trong nước và thế giới
là mối quan tâm hàng đầu của các NHTM hiện nay.

1.1.1.2 Quy trình quản trị rủi ro tín dụng và kinh nghiệm của một số NHTM trên
thế giới
Hiện nay, hầu hết các NHTM trên thế giới đều thực hiện quy trình quản trị
RRTD theo các bước: nhận biết rủi ro, đo lường rủi ro, quản lý rủi ro, kiểm soát và
xử lý rủi ro.
• Nhận biết rủi ro : Bước đầu tiên để có quản trị RRTD hiệu quả là
phải nhận biết và xác định được RRTD có thể gặp phải thông qua phân tích
đặc thù của các sản phẩm, dịch vụ và các quy trình hoạt động xem xét trên cả
hai góc độ là từ phía khách hàng và ngân hàng.
Từ phía khách hàng : Ngân hàng cần nhận biết một cách kịp thời rủi ro khi
khách hàng có những dấu hiệu khó đòi nợ, tình hình tài chính xấu.
Từ phía ngân hàng : RRTD được thể hiện qua quy mô tín dụng, cơ cấu tín
dụng, nợ xấu và dự phòng rủi ro. Khi các yếu tố này có xu hướng mất cân bằng như
: quy mô tín dụng tăng quá nhanh vượt quá khả năng quản lý của ngân hàng, cơ cấu
tín dụng tập trung quá vào một ngành, một lĩnh vực, các chỉ tiêu nợ quá hạn, nợ xấu
tăng nhanh và vượt ngưỡng cho phép, dự phòng RRTD được sử dụng hết thì ngân
hàng đang đứng trước nguy cơ gặp RRTD.
Vì vậy, có thể nhận biết sớm RRTD thông qua danh mục tín dụng của ngân
hàng, quá trình phân tích đánh giá khách hàng. Các ngân hàng trên thế giới luôn chú
trọng đến việc quản trị hệ thống thông tin tín dụng (TTTD) nhằm hỗ trợ đắc lực cho
khâu thẩm định khách hàng, phòng ngừa RRTD từ khâu thẩm định hồ sơ.
Tại Singapore : Hiệp hội ngân hàng tổ chức và quản lý TTTD từ các thành
viên, hỗ trợ thông tin về khoản tín dụng lớn
10
Tại Hồng Kông: Ngân hàng HSBC đảm bảo tổ chức tập trung hóa các TTTD
liên quan đến khách hàng và giao dịch tín dụng, không những áp dụng cho công tác
đánh giá rủi ro mà còn hỗ trợ cho công tác cấp tín dụng tự động.
• Đo lường rủi ro
Các phương pháp chủ yếu thường được các ngân hàng áp dụng đó là đo
lường rủi ro danh mục và đo lường rủi ro khoản vay. Theo cách đo lường rủi ro

danh mục, các ngân hàng trên thế giới thường sử dụng mô hình VAR
1
- Value At
Rick) hoặc mô hình xếp hạng nợ. Còn đo lường rủi ro khoản vay được thực hiện
theo phương pháp chủ quan hoặc khách quan. Cụ thể, phương pháp chủ quan thông
qua việc đánh giá các giả thiết bằng kinh nghiệm của cá nhân, suy luận của cán bộ
đánh giá, và mô hình cho điểm tín dụng. Phương pháp khách quan dựa vào các mô
hình tín dụng nội bộ tính xác suất vỡ nợ của khách hàng. Hiện nay, hầu hết các
NHTM Việt Nam thực hiện đo lường rủi ro theo phương pháp thứ hai này.
• Quản lý RRTD
Sau khi đo lường đươc rủi ro, vấn đề cơ bản là quản lý các rủi ro đó như thế
nào. Hiện nay các ngân hàng trên thế giới đang áp dụng các cách chủ yếu là:
Quản lý rủi ro bằng nguyên tắc tín dụng thận trọng : Các ngân hàng đưa ra
những quyết định nghiêm ngặt như: các ngân hàng Columbia giới hạn cho vay
khách hàng liên quan đến 10% vốn tự có, mở rộng 25 % nếu có tài sản đảm bảo tốt,
Thái Lan giới hạn đầu tư ở mức 10% vốn khách hàng vay và 20% vốn ngân hàng.
Quản lý rủi ro bằng biện pháp hạn mức cho vay : Phòng ngừa rủi ro do tín
dụng tập trung là hoạt động thường xuyên của ngân hàng các nước trong việc quản
lý danh mục tín dụng của mình. Biện pháp sử dụng là đặt ra các hạn mức cho vay
dựa trên vốn tự có của ngân hàng đối với nhóm khách hàng vay riêng lẻ hay nhóm
khách hàng vay. các ngân hàng Hồng Kông, Hàn Quốc, Singapore đều giới hạn cho
vay khách hàng bán lẻ ở mức 25 % vốn tự có của ngân hàng, ngân hàng Columbia
đặt ra giới hạn vay ở mức 40% giá trị ròng của khách hàng vay.
1
Mô hình VAR đo lường giá trị thị trường của khoản vay thiên vào hai hướng là tính được xác suất không
thu hồi được nợ và tính được xác suất vỡ nợ và chất lượng tin dụng khách hàng giảm.
11
Quản lý RRTD thông qua việc đưa ra định hướng chính sách cấp tín dụng
và chính sách tín dụng. Các chính sách tín dụng phải hợp lý, phù hợp với thực tế
của tình hình kinh tế và bảo vệ được quyền lợi lâu dài của ngân hàng mà không kìm

hãm tăng trưởng kinh doanh. HSBC đã tham gia xây dựng và duy trì một chính sách
tín dụng với những tiêu chuẩn tín dụng cao nhất có thể áp dụng trong hoạt động
kinh doanh của ngân hàng, đảm bảo các chính sách này đề cập đầy đủ các khía cạnh
rủi ro và lợi nhuận. Điều này đã được Techcombank học hỏi và áp dụng trong mô
hình quản trị RRTD của mình.
• Kiểm soát và xử lý RRTD
Công việc trọng tâm của công tác quản trị RRTD là kiểm soát RRTD. Các
biện pháp kiểm soát rủi ro như: né tránh rủi ro, ngăn ngừa tổn thất, giảm thiểu tổn
thất, quản trị thông tin….Kiểm tra và giám sát các hoạt động thường xuyên được
thực hiện trước khi cho vay, trong khi vay và sau khi cho vay. Tham gia quá trình
này bộ phận kiểm soát của ngân hàng bao gồm bộ phận kiểm soát, kiểm tra nội bộ,
quản lý tín dụng còn có sự thanh tra kiểm soát của ngân hàng trung ương và các cơ
chế giám sát bên ngoài khác như các cơ quan kiểm toán độc lập, ủy ban tài chính và
sự giám sát của thị trường. Cần chú ý rằng chi phí kiểm soát cao có thể giảm thiểu
RRTD tối đa nhưng hiệu quả lại thấp, ngược lại chi phí cho các thủ tục kiểm soát
thấp có thể đem lại lợi nhuận cao nhưng rủi ro cũng có thể cao. Các nhà quản trị
phải tìm ra sự cân bằng tối ưu giữa chi phí cho các thủ tục kiểm soát và lợi ích đem
lại từ các thủ tục đó, từ đó lựa chọn các thủ tục kiểm soát rủi ro phù hợp.
Nếu khoản nợ vay bị xét vào diện quá hạn hay có vấn đề, hoạt động kiểm
soát sau cho vay còn bao gồm hoạt động xử lý nợ. Đối với các khoản nợ, các
NHTM thường sử dụng dự phòng RRTD để xử lý nợ do có tính chủ động cao và
nhanh chóng. Hình thức này sẽ làm tăng chi phí và ảnh hưởng đến kết quả kinh
doanh của ngân hàng trong trường hợp vốn cho vay không thu hồi được.
Tuy nhiên, việc phân bổ nguồn lực và đề cao vị trí của các bước, hệ thống
NHTM Việt Nam có những nét khác biệt so với các NHTM trên thế giới, chưa đặt
cao vai trò của kiểm soát sau và xử lý RRTD.
12
Như vậy, với một quy trình chung như trên, mỗi ngân hàng tìm cho mình
một mô hình quản trị rủi ro và triển khai nó. Mỗi mô hình có những nét riêng biệt,
hài hòa giữa đặc điểm của thị trường và ngân hàng nhằm mang lại lợi nhuận tối đa

cho ngân hàng trên cơ sở giảm thiểu rủi ro. Mỗi ngân hàng sẽ phân tích điều kiện cụ
thể của mình về tài chính, nhân sự, công nghệ và hệ thống quản trị và cả yếu tố vĩ
mô bên ngoài để kết hợp ba cách thức lại nên một mô hình sao cho đạt hiệu quả tốt
nhất. Xin đưa ra một số dạng mô hình quản trị RRTD tổng thể mà các ngân hàng
trên thế giới lựa chọn và áp dụng.
Bảng 1.1: Mô hình quản lý rủi ro tổng thể của các ngân hàng trên thế giới
DẠNG MÔ HÌNH ĐẶC ĐIỂM MÔ HÌNH ĐIỀU KIỆN ÁP DỤNG
Dạng kết hợp 1
Mô hình là sự kết hợp giữa
- Mô hình đo lường định tính
- Mô hình quản lí rủi ro tập
trung
- Mô hình quản lí rủi ro kép
- Năng lực tài chính mạnh
- Công nghệ và hệ thống
thông tin hiện đại tập trung
- Nhân sự có trình độ cao
- Hệ thống quản trị hiện đại có
sự phân quyền rõ ràng
- Thị trường tài chính phát
triển
Dạng kết hợp 2
Mô hình là sự kết hợp giữa
- Mô hình đo lường định tính
- Mô hình tố chức quản lí rủi
ro phân tán
- Mô hình kiếm soát rủi ro
đơn
- Năng lực tài chính yếu kém
- Công nghệ và hệ thống

thông tin không tập trung, lạc
hậu
- Nhân sự có trình độ kém,
chuyên môn thấp
- Hệ thống quản trị hiện đại
chưa có sự phân quyền rõ ràng
Dạng chuyển đổi
Mô hình là sự kết hợp giữa
- Mô hình đo lường định tính
hoặc định lượng hoặc cả hai
- Mô hình tổ chức quản lí rủi
ro hoặc phân tán hoặc tập
trung hoặc cả hai
- Mô hình kiểm soát rủi ro
đơn hoặc kép
- Năng lực tài chính đang
trong quá trình củng cố
- Công nghệ và hệ thông
thông tin đang trong quá trình
chuyển đổi nâng cấp
- Nhân sự đang được quan
tâm và đào tạo
- Hệ thống quản trị đang thay
đổi theo hướng tập trung
- Thị trường tài chính trong
giai đoạn phát triển và chuyển
đổi
13
Nguồn : Lê Thị Huyền Diệu b, 2010, “Kinh nghiệm xây dựng mô hình quản trị
rủi ro tín dụng tại một số NHTM trên thế giới”.

Tại những ngân hàng có năng lực tài chính mạnh và khả năng cạnh tranh
toàn cầu như ANZ, Citibank, mô hình QLRR dạng kết hợp 1 được áp dụng. Đối
chiếu các điều kiện về thị trường, pháp luật và bản thân ngân hàng đều được thỏa
mãn. Bên cạnh đó là hệ thống pháp luật cực kỳ nghiêm ngặt, các văn bản pháp luật
vừa được ban hành chặt chẽ vừa mang tính thực tế, có thể áp dụng dễ dàng vào cuộc
sống và đặc biệt có các chế tài hết sức chặt chẽ về vấn đề công bố thông tin, theo đó
các cổ đông và thị trường có thể giám sát chặt chẽ ngân hàng. Hầu hết các chi
nhánh của ANZ, Citibank đều kết nối với hệ thống thông tin với hội sở chính trên
nền tảng công nghệ cao, có hệ thống xử lí dữ liệu tự động hóa, tính bảo mật cao, xử
lí thông tin tập trung. Nhân sự thuộc bộ phận tín dụng và quản trị RRTD có đầy đủ
kiến thức và nhận thức về quản lí RRTD, về Basel I, II; am hiểu về công nghệ và kỹ
thuật đo lường; nắm vững những quy định của pháp luật về công bố thông tin; riêng
cán bộ kiểm tra nội bộ còn tường tận về về kế toán và quản lí RRTD. Trên cơ sở đó,
hoạt động tín dụng làm 3 bộ phận: bộ phận kinh doanh và quan hệ khách hàng, bộ
phận quản lí rủi ro, bộ phận quản lí nợ. Hệ thống thông tin tập trung tại Hội sở
chính, các khoản vay lớn thì được quyết định cuối cùng bởi Ủy ban quản lý rủi ro
và hội đồng quản lý rủi ro. Hệ thống xếp hạng tín dụng của ANZ, Citibank được
thiết kế tham khảo tổ chức đánh giá mức tín nhiệm Standard & Poor và tuân thủ các
quy tắc nghiêm chặt của Basel II.
Theo dõi bảng trên, có thể nhận thấy rằng mô hình dạng kết hợp 1 là ưu việt
nhất thì mô hình dạng kết hợp 2 lại là mô hình mang tính sơ khai nhất khi các ngân
hàng mới bắt tay vào hoạt động quản lí RRTD. Bởi vậy, các ngân hàng chỉ có thể
đo lường rủi ro theo phương pháp định tính dựa trên hệ thống chuyên gia và phân
tích theo kiểu cổ điển. Quản trị RRTD mới chỉ thực hiện riêng lẻ tại từng chi nhánh
và bộ phận, theo khoản vay chứ chưa xây dựng được rủi ro danh mục và đang trong
bước đầu xây dựng hệ thống phần mềm để quản lí thông tin khách hàng. Việc kiểm
soát RRTD đơn thuần chỉ diễn ra đơn thuần giữa các cơ quan thanh tra của NHNN
và bộ phận kiểm soát của NHTM, do đó tính kiểm tra chéo không cao, hiệu quả
14
giám sát rủi ro thấp. Mô hình này được áp dụng tại các nước đang phát triển, khi mà

chưa hội tụ đủ các yếu tố trong và ngoài. Chính vì vậy, hiện nay phần lớn các ngân
hàng ở các nước đang phát triển trong đó có các NHTM Việt Nam đang bắt tay vào
việc chuẩn hóa hoạt động quản trị RRTD áp dụng mô hình dạng kết hợp 2 sau đó
tiến tới mô hình dạng chuyển đổi nhằm nâng cao hiệu quả quản trị RRTD phù hợp
nhất với các điều kiện của chính ngân hàng và thị trường.
Mô hình dạng chuyển đổi thường được các ngân hàng tại các nước đang phát
triển khi mà các ngân hàng đó đang có nhiều nỗ lực đổi mới trong hoạt động quản
trị RRTD. Họ sẽ nỗ lực từng bước để hoàn thiện, hội tụ đủ các yếu tố trong và ngoài
để tiến tới mô hình dạng kết hợp 1. Một trong những điển hình tiêu biểu áp dụng
mô hình chuyển đổi này là Bangkok bank. Bangkok bank chịu ảnh hưởng xấu của
cuộc khủng hoảng 1997 – 1998; hệ thống công nghệ đang trong giai đoạn được đầu
tư và nâng cấp. Trong khi đó, hệ thống ngân hàng tại Thái Lan đã bắt đầu quan tâm
đến việc đào tạo có hệ thống các chuyên gia trong lĩnh vực tín dụng, nhiều ngân
hàng có văn hóa quản lí, chia sẻ rủi ro tốt; hệ thống quản trị cũng đang trong giai
đoạn hoàn thiện và chuyển đổi tiến tới xu hướng chuyển quyền lực tập trung vào
hội đồng quản trị. Ngoài ra, tình hình chính trị, xã hội của Thái Lan tồn tại nhiều bất
ổn và ảnh hưởng tới sự phát triển kinh tế. Như vậy, nhận thức được đầy đủ các yếu
tố trong và ngoài đến sự phát triển của mình, Bangkok bank đã khá thành công với
mô hình quản trị RRTD dạng chuyển đổi. Bên cạnh việc sử dụng mô hình định tính
nhằm đánh giá về khách hàng, Bangkok bank còn kết hợp với các phương pháp
chuyên gia, phân tích tín dụng cổ điển, cho điểm tín dụng để đo lường rủi ro tín
dụng.
Như vậy, mỗi ngân hàng thương mại đều cố gắng để lựa chọn cho mình một
mô hình phù hợp nhất để tiến tới mô hình đạt chuẩn quốc tế. Sự kết hợp các phương
thức quản lý rủi ro rất đa dạng và có thể thay đổi khi điều kiện thị trường biến động.
Đây chính là những kinh nghiệm quý báu mà các NHTM Việt Nam nói chung cũng
như Techcombank nói riêng được thừa hưởng của những người đi trước với kinh
nghiệm quản trị RRTD hàng trăm năm của các NHTM trên thế giới.
1.2 Những nội dung về quản trị rủi ro tín dụng theo chuẩn mực Basel
15

1.2.1 Lịch sử ra đời của Ủy ban Basel
Ngân hàng Thanh toán quốc tế (Bank for International Settlements) được
thành lập vào năm 1930. Đây là tổ chức tài chính quốc tế lâu đời nhất trên thế giới
và là trung tâm hợp tác chủ yếu cho các NHTW. Trong những năm 1970 và 1980,
vấn đề được chú trọng là quản lý vốn chảy qua biên giới sau các cuộc khủng hoảng
dầu và cuộc khủng hoảng nợ quốc tế. Cuộc khủng hoảng năm 1970 gây hỗn loạn thị
trường tiền tệ quốc tế và sự sụp đổ của hàng loạt các ngân hàng, cũng đặt ra vấn đề
giám sát điều tiết của hoạt động ngân hàng quốc tế. Trong bối cảnh này, Ủy ban
Basel về giám sát ngân hàng (BCBS) đã được thành lập bởi các Thống đốc NHTW
của nhóm G - 10 vào cuối năm 1974, họp thường xuyên bốn lần một năm.
BCBS là một diễn đàn hợp tác và trao đổi thường xuyên về các vấn đề liên
quan đến giám sát hoạt động ngân hàng. Mục tiêu của nó là để tăng cường sự hiểu
biết về các vấn đề chính trong giám sát và nâng cao chất lượng giám sát ngân hàng
trên toàn thế giới. Ủy ban khuyến khích liên hệ và hợp tác giữa các thành viên và cơ
quan giám sát ngân hàng khác nhau. Ủy ban báo cáo cho các thống đốc NHTW và
thủ trưởng các cơ quan giám sát của các nước thành viên. BCBS không phải là một
cơ quan chính thức giám sát siêu quốc gia, và kết luận của ủy ban không có hiệu lực
pháp lý, thay vào đó là sự mở rộng các tiêu chuẩn giám sát, hướng dẫn và khuyến
nghị với mong muốn rằng các cơ quan, cá nhân sẽ thực hiện các bước để thực hiện
chúng thông qua luật định hoặc bằng cách khác - sao cho phù hợp nhất với hệ thống
của quốc gia của họ. Bằng cách này, BCBS khuyến khích hội tụ đối với phương
pháp tiếp cận chung và các tiêu chuẩn chung mà không cần cố gắng hài hòa hóa chi
tiết các quy định giám sát của các nước thành viên. Một mục tiêu quan trọng trong
công việc của Ủy ban là thu hẹp khoảng cách giám sát quốc tế trên hai nguyên lý cơ
bản là: không ngân hàng nước ngoài nào được thành lập mà thoát khỏi sự giám sát;
và việc giám sát phải tương xứng. Quan điểm của BCBS là : “Sự yếu kém trong hệ
thống ngân hàng của một quốc gia, dù là phát triển hay đang phát triển, có thể
đe dọa đến sự ổn định về tài chính trong cả nội bộ quốc gia đó và trên trường
quốc tế”( BSBC a, 2010). Cụ thể hóa quan điểm này, Ủy ban Basel đã ban hành
một loạt các văn bản từ năm 1975, và đến năm 1988, Ủy ban đã quyết định giới

16
thiệu một hệ thống đo lường vốn thường được gọi là chuẩn mực về vốn Basel. Hệ
thống này cung cấp cho việc thực hiện khuôn khổ một đo lường rủi ro tín dụng với
một tiêu chuẩn vốn tối thiểu 8% vào cuối năm 1992. Từ năm 1988, khuôn khổ này
đã được dần dần giới thiệu không chỉ ở các quốc gia thành viên mà còn ở hầu như
tất cả các nước khác với các ngân hàng hoạt động quốc tế. Các tiêu chuẩn mà BCBS
xây dựng trên thực tế đã và đang trở thành những tiêu chuẩn mang tính thông lệ
quốc tế, đóng vai trò quan trọng trong hoạt động giám sát ngân hàng.
1.2.2 Chuẩn mực Basel I
1.2.2.1 Nội dung cơ bản của chuẩn mực Basel I
Năm 1988, BCBS đã phê duyệt chuẩn mực về vốn Basel. Ban đầu, Basel I
chỉ được áp dụng với các nước G10, sau này đã được áp dụng trên 120 quốc gia.
Mục tiêu cơ bản của Basel I :
• Tạo ra một khung mới để tăng cường tính hợp lý và ổn định của hệ thống
ngân hàng quốc tế.
• Tạo ra một khung pháp lý công bằng và có mức độ nhất quán cao trong
ứng dụng giữa các ngân hàng khác nhau nhằm giảm bớt sự cạnh tranh bất bình đẳng
của các ngân hàng quốc tế.
Basel ra đời dựa trên hai trụ cột chính :
• Vốn tự có của ngân hàng
• Tài sản có điều chỉnh theo trọng số rủi ro
a) Các thành phần cấu tạo vốn
Đối với một NHTM, chất lượng vốn và quản trị vốn có ý nghĩa rất quan
trọng. Để bảo vệ ngân hàng và các khách hàng khỏi những rủi ro, giảm thiểu khả
năng phá sản, một ngân hàng cần phải nắm một lượng vốn nhằm cung cấp một vùng
đệm khỏi sự thâm nhập của lỗ. Vốn tự có thể hiện sức mạnh tài chính của ngân
hàng, cung cấp khả năng sẵn sàng gia nhập vào thị trường tài chính, bảo vệ ngân
hàng khỏi những vấn đề liên quan đến tính thanh khoản.
Thành tựu cơ bản của Basel I là đã đưa ra được định nghĩa mang tính chất
quốc tế chung nhất về vốn và tỷ lệ an toàn về vốn của ngân hàng. Theo đó, vốn của

ngân hàng được chia làm hai loại.
17
Vốn cấp một – Vốn cơ bản (Tier 1): Đây được coi là yếu tố chủ chốt của
vốn ngân hàng, tạo ra sức mạnh giúp ngân hàng đối phó với những rủi ro tài chính
có thể xảy ra. Bao gồm: vốn thành viên/vốn cổ phần chung, các khoản dự trữ công
khai (chủ yếu được trích từ nguồn lợi nhuận sau thuế của ngân hàng).
Vốn cấp hai – Vốn bổ sung (Tier 2) : Các khoản dự trữ không công khai,
các khoản dự trữ định giá lại tài sản, dự phòng chung/dự trữ đối với các tổn thất
khoản vay chung, các công cụ vốn lai tạp (nợ/vốn tự có), nợ lệ thuộc.
Theo chuẩn mực Basel I thì Tổng vốn = Vốn cấp 1 + Vốn cấp 2.
b) Trọng số rủi ro
Basel I ban đầu mới chỉ đề cập đến RRTD, và tùy theo mỗi tài sản mang một
trọng số rủi ro. Việc áp dụng trọng số rủi ro trong tính toán tỷ lệ an toàn vốn tối
thiểu cung cấp cơ sở so sánh trên phạm vi quốc tế công bằng giữa các hệ thống
ngân hàng có cơ cấu tổ chức khác nhau, cho phép đo lường rủi ro nội bảng một cách
dễ dàng hơn, giúp NHTM không ngại nắm giữ tiền mặt hoặc các tài sản có độ thanh
khoản cao.
Công thức 1.1 : Tài sản điều chỉnh rủi ro trong Basel I
RWA
Basel I
= Tài sản x Trọng số rủi ro
Trong đó : RWA là Rick Weight Asset : Tài sản “có” điều chỉnh rủi ro
Nguồn : Nguyễn Văn Hiệu, 2010, “Nâng tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu theo BASEL 3-
lộ trình củng cố bức tường an ninh tài chính- ngân hàng”
Theo Basel I, hệ số rủi ro của tài sản có rủi ro được chia làm 4 mức là 0%,
20%, 50%, và 100% theo mức độ rủi ro của từng loại tài sản. Năm 1996, theo sự
phát triển của thị trường, năm 1996 chuẩn mực Basel đã được sửa đổi, có tính đến
rủi ro thị trường chuẩn mực Basel I được sửa đổi có tính đến rủi ro thị trường. Rủi
ro thị trường có thể tính theo hai phương thức hoặc là bằng mô hình Basel tiêu
chuẩn hoặc bằng các mô hình nội bộ của ngân hàng. Những mô hình nội bộ này chỉ

có thể sử dụng được nếu ngân hàng thỏa mãn các tiêu chuẩn định tính và định lượng
được quy định trong Basel.
c) Tỷ lệ an toàn tối thiếu – “ Tỉ lệ Cook”
18
Theo quy định của Basel I, các ngân hàng cần xác định được tỷ lệ vốn tối
thiểu (Capital Adequacy Ratio – CAR) đạt tối thiểu 8%. Đây là biện pháp dự phòng
bắt buộc đảm bảo rằng các ngân hàng có khả năng khắc phục tổn thất mà không ảnh
hưởng đến lợi ích của người gửi tiền.
Công thức 1.2 : Tỷ lệ vốn tối thiểu trong Basel I
Tổng vốn
Tỷ lệ vốn tối thiểu (CAR) =

8%
Tài sản có điều chỉnh rủi ro
Theo đó :
Mức vốn tốt : CAR > 10 %
Mức vốn hợp lý : CAR >8%
Thiếu vốn : CAR <8%
Thiếu vốn rõ rệt : CAR <6%
Thiếu vốn trầm trọng : CAR <2%
Nguồn : Nguyễn Văn Hiệu, 2010, “Nâng tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu theo BASEL 3-
Lộ trình củng cố bức tường an ninh tài chính- ngân hàng”
1.2.2.2 Những hạn chế của Basel I
Sự ra đời của Basel I giúp quản trị ngân hàng hiệu quả hơn. Nhưng với xu
thế phát triển kinh tế toàn cầu hóa của thế giới, Basel I mặc dù qua nhiều lần sửa
chữa bổ sung vẫn còn nhiều hạn chế.
Thứ nhất, chưa phân loại rủi ro chi tiết cho các khoản cho vay
Basel I đã đặt ra các mức tỷ trọng rủi ro khác nhau giữa các khoản vay của
chính phủ và NHTW của các nước trong khối OECD và ngoài khối OECD, trong
khi đó các khoản vay của các doanh nghiệp đều áp dụng một mức tỷ trọng chung là

100% mà không dự trên cơ sở định mức tín nhiệm của doanh nghiệp. Trọng số rủi
ro cũng chưa chi tiết cho rủi ro theo đối tác hay đặc điểm của các khoản tín dụng.
Thứ hai, chưa tính đến các rủi ro khác ngoài rủi ro tín dụng
19
Mặc dù năm 1996, Basel I sửa đổi đã đề cập đến rủi ro thị trường nhưng
chưa đầy đủ. Trong khi đó, các loại rủi ro khác như rủi ro hoạt động, rủi ro quốc
gia, rủi ro ngoại hối thì chưa được đề cập đến.
Thứ ba, chưa tính đến lợi ích của đa dạng hóa hoạt động
Các lý thuyết mới chỉ ra rủi ro sẽ giảm thông qua đa dạng hóa danh mục đầu
tư, tuy nhiên quy định về vốn tối thiểu không khác biệt giữa một ngân hàng có hoạt
động kinh doanh đa dạng và một ngân hàng kinh doanh tập trung. Một khoản nợ
riêng lẻ yêu cầu một lượng vốn giống như một danh mục đầu tư được đa dạng hóa,
nghĩa là không có gì khác nhau giữa việc cho vay một khoản 1000 USD và 1000
khoản 1 USD, trong khi đó thực tế thì 1000 khoản 1 USD có rủi ro ít hơn.
Thứ tư, chưa bắt kịp với sự phát triển của các công cụ tài chính mới như
chứng khoán hóa các khoản nợ và công cụ tài chính phái sinh
Để khắc phục những hạn chế nêu trên, trước bối cảnh kinh tế thế giới ngày
càng biến động mạnh mẽ, nhằm đáp ứng đảm bảo sự an toàn và hiệu quả cho các
ngân hàng, BCSS đã soạn thảo chuẩn mực mới Basel II, được chính thức ban hành
vào tháng 6 năm 2004.
1.3.1 Chuẩn mực Basel II
Basel II ra đời tạo một bước hoàn thiện hơn trong xác định tỷ lệ an toàn vốn
khuyến khích các ngân hàng thực hiện các phương pháp quản trị rủi ro tiên tiến hơn.
Ngoài ra, Basel II còn đưa ra các phương án lựa chọn, cho phép quyền tự quyết rất
lớn trong hoạt động giám sát ngân hàng.
Basel II được cấu trúc theo 3 trụ cột như sau:
•Quy định về vốn tối thiểu
•Quy trình kiểm tra giám sát
•Kỷ luật thị trường
1.3.1.1 Nội dung của hiệp ước Basel II

• Trụ cột thứ nhất : Yêu cầu vốn tối thiểu
Yêu cầu vốn tối thiểu vẫn giữ nguyên là 8%, các tính tỷ lệ an toàn vốn sẽ
được đề cập rõ hơn ở công thức 1.3. Ngoài ra, Basel II đã đưa thêm các cách tiếp
cận mới về rủi ro tín dụng, rủi ro thị trường và rủi ro hoạt động.
20
Hình 1.1 : Yêu cầu vốn tối thiểu và các cách tiếp cận
Nguồn: Tác giả tổng hợp từ “Sự thống nhất quốc tế về đo lường và các tiêu chuẩn
vốn”, 2006.
21
Yêu cầu
vốn tối
thiểu
Rủi ro
thị
trườn
g
Rủi ro
hoạt
động
Rủi ro
tín
dụng
Tài sản có rủi ro (RWA) được áp
dụng các hệ số rủi ro khác nhau do
tổ chức xếp hạng quy định
Tài sản rủi ro (RWA) được tính
dựa trên những dữ liệu nội bộ về
PD và LGD nhưng cách tính phức
tạp hơn
Vốn được tính dựa trên tỷ lệ % cố

định (15 %) trên bình quân tổng
thu nhập dương của các năm trong
3 năm trước đó
Vốn được tính tương tự như
phương pháp cơ bản nhưng chia
thành 8 nhóm với tỷ lệ % tương
ứng các nhóm
Vốn được tính trên hệ thống nội bộ
đánh giá rủi ro hoạt động của ngân
hàng
Vốn được tính với từng yếu tố rủi
ro : rủi ro lãi suất, rủi ro trạng thái
vốn, rủi ro tỷ giá, rủi ro hàng hóa
Xác định được giá trị VaR của mỗi
giao dịch, của các danh mục và của
toàn bộ ngân hàng
PP Chuẩn
PP Nội bộ
nâng cao
(A- IRB)
PP Cơ bản
(BIA)
PP Chuẩn
(TSA)
PP Nâng
cao
PP Chuẩn
PP Mô
hình nội bộ
(MBA)

PP Nội bộ
cơ bản
(F- IRB)
Tài sản có rủi ro (RWA) được tính
dựa trên dữ liệu nội bộ về xác suất
nội bộ về xác suất vỡ (PD) và tổn
thất ước tính ( LGD)
Theo những sửa đổi của Basel I và quy định của Basel II thì ngoài vốn cấp 1
và cấp 2 đã nêu ở trên, theo sự thận trọng của mỗi quốc gia, các ngân hàng cũng có
thể sử dụng vốn cấp 3, cấu tạo từ nợ lệ thuộc ngắn hạn nhằm đáp ứng các yêu cầu
vốn đối với rủi ro thị trường. Theo đó, các hạn mức và ràng buộc được quy định:
• Tổng vốn cấp hai không được quá 100% vốn cấp 1
• Nợ có thời hạn lệ thuộc bằng 50% vốn cấp 1
• Vốn cấp 3 giới hạn đến 250% vốn cấp 1
• Dự phòng chung tối đa bằng 1,25 % tài sản điều chỉnh rủi ro
Nguồn: “Sự thống nhất quốc tế về đo lường và các tiêu chuẩn vốn”, 2006
• Trụ cột thứ hai : Quy trình giám sát ngân hàng
Trụ cột 2 của Basel II đưa ra các nguyên tắc chủ chốt của việc kiểm tra giám
sát, hướng dẫn quản lý rủi ro, tính minh bạch và khả năng tính được về giám sát do
Ủy ban tạo ra với định hướng theo các rủi ro ngân hàng bao gồm sự hướng dẫn có
liên quan đến cách xử lý về rủi ro lãi suất trong sổ ngân hàng, RRTD, rủi ro hoạt
động, thông tin liên lạc và tăng cường sự hợp tác qua biên giới.
Ủy ban đã xác định bốn nguyên tắc chủ chốt về kiểm tra giám sát mà sự thực
hiện chúng đã phác họa trong hướng dẫn giám sát chiều sâu do BSBC phát triển,
dựa trên 25 nguyên tắc lõi đối với việc giám sát hiệu quả hoạt động ngân hàng. Các
nguyên tắc lõi này được đưa ra ở phụ lục I.
 Nguyên tắc 1 : Các ngân hàng cần có một quá trình đối với việc đánh giá
tính đủ vốn tổng thể của họ trong quan hệ với bình diện rủi ro và chiến lược duy trì
các mức độ vốn.
 Nguyên tắc 2 : Các tổ chức giám sát cần kiểm tra và đánh giá các đánh

giá tính đủ vốn nội bộ và chiến lược của các ngân hàng cũng như khả năng giám sát
của họ để thanh tra và khẳng định sự tuân thủ các tỷ lệ vốn điều chỉnh. Các tổ chức
giám sát cần thực hiện hành động giám sát phù hợp nếu các ngân hàng không thỏa
mãn với kết quả của quá trình này.
22
 Nguyên tắc 3 : Các tổ chức giám sát cần kỳ vọng các ngân hàng hoạt
động trên các tỷ lệ vốn điều chỉnh tối thiểu và cần có khả năng yêu cầu các ngân
hàng phải nắm giữ vốn ở mức vượt trên mức tối thiểu.
 Nguyên tắc 4 : Các tổ chức giám sát sẽ tìm cách thâm nhập vào những
giai đoạn đầu tiên để ngăn cản mức vốn giảm xuống dưới mức tối thiểu, và có thể
yêu cầu sửa đổi ngay lâp tức nếu mức vốn không được duy trì trên mức tối thiếu.
• Trụ cột thứ ba : Kỷ luật thị trường
Mục đích của trụ cột thứ ba là bổ sung cho các yêu cầu vốn tối thiểu và quá
trình kiểm tra giám sát. Ủy ban đưa ra nguyên tắc minh bạch chung là các ngân
hàng cần có chính sách về minh bạch được hội đồng quản trị thông qua. Ủy ban
cũng khuyến khích hướng đến nguyên tắc thị trường bằng việc phát triển một bộ các
yêu cầu minh bạch, cho phép người tham gia thị trường đánh giá các thông tin chủ
chốt về phạm vi áp dụng, mức vốn, các nhiễm rủi ro, các quá trình đánh giá rủi ro
và sau đó là mức đủ vốn của định chế. Kỷ luật thị trường có thể góp phần cho môi
trường hoạt động ngân hàng an toàn và lành mạnh. Trên nền tảng đó, các tổ chức
giám sát có thể yêu cầu ngân hàng phải cung cấp thông tin trong các báo cáo điều
hành. Thêm vào đó, các minh bạch ở trụ cột 3 này không yêu cầu phải được kiểm
toán bởi tổ chức kiểm toán bên ngoài trừ khi được các yêu cầu khác từ người tạo
dựng các tiêu chuẩn hạch toán, các tổ chức điều hành chứng khoán hoặc các cơ
quan khác.
1.3.1.2 Những nội dung cơ bản liên quan đến quản trị rủi ro tín dụng được quy
định trong chuẩn mực Basel II
a. Sử dụng trọng số rủi ro tín dụng tương ứng với mỗi loại tài sản có để tính
toán yêu cầu vốn tối thiểu
Tương tự như Basel I, Basel II vẫn quy định mức vốn an toàn tối thiểu là

8%, được xác định bằng cách lấy tổng vốn chia cho tài sản có điều chỉnh rủi ro.
Tuy nhiên ở mẫu số đã tính thêm rủi ro thị trường và rủi ro hoạt động.
Công thức 1.3 : Tỷ lệ an toàn vốn theo Basel II
Tổng vốn
23
Tỷ lệ vốn tối thiểu =

8%
RWA
Rủi ro tín dụng
+ (K
Rủi ro hoạt động
* 12,5)
+ (K
Rủi ro thị trường
*12,5)
Trong đó, tổng vốn : xác định tương tự như trong Basel I;
K : yêu cầu tối thiểu đối với từng loại rủi ro
Nguồn : “ Sự thống nhất quốc tế về đo lường và các tiêu chuẩn vốn”, 2006
b. Các phương pháp đo lường rủi ro tín dụng
 Rủi ro tín dụng – Phương pháp chuẩn hóa ( Standardized Approach)
Phương pháp này, các ngân hàng tính trọng số RRTD áp dụng với khách
hàng dựa trên kết quả đánh giá hệ số tín nhiệm của một tổ chức tín dụng độc lập. Ở
đây sử dụng đánh giá của Standard and Poor’s, nhưng các đánh giá của một số tổ
chức xếp hạng tín dụng độc lập khác cũng được sử dụng một cách ngang bằng.
Bảng 1.2: Trọng số rủi ro tín dụng theo phương pháp chuẩn hóa
Hệ số rủi ro đối với khoản
cho vay
BASEL
I

BASEL II
AAA
đến
AAA-
A+
đến
A-
BBB
+ đến
BBB-
BB+
đến
BB-
B+
đến
B-
Dưới
B-
Không
xếp
hạng
Đối với quốc gia, NHTW
0 20 50 100 100 150 100
Đối với BIS, IMF, ECB,
EC, MDB
s
0 0
Đối với NH và
nhà bảo hiểm
Lựa chọn 1

0 20 50 100 100 100 150 100
Lựa chọn 2
20 20 50 50 100 100 150 50
Đối với NH và công ty bảo
hiểm (cho vay từ 3 tháng trở
xuống)- Lựa chọn 2
20 20 20 50 50 150 20
Đối với doanh nghiệp
20 50 100 100 150 150 100
Đối với hàng hóa bán lẻ như
thẻ tín dụng, công ty tư nhân
100
Đối với tài sản cầm cố
50
Đối với cho vay BĐS
100
Đối với tài sản có rủi ro cao
Đối với tài sản khác
24
Đối với tiền mặt
Nguồn: Tác giả tổng hợp từ “ Sự thống nhất quốc tế về đo lường và các tiêu chuẩn
vốn”, 2006
Lựa chọn 1 : Trọng số rủi ro do các ngân hàng tự ấn định
Lựa chọn 2 : Trọng số rủi ro do các tổ chức xếp hạng tín dụng bên ngoài ấn định
Ngoài ra, đối với những loại rủi ro cao sẽ được áp dụng trọng số rủi ro tỷ lệ
150% hoặc cao hơn như : các khoản vay đối với chính quyền, các ngân hàng, các
công ty chứng khoán được đánh giá là dưới B-, các khoản vay nợ quá hạn theo quy
định của Basel II,
 Phương pháp xếp hạng tín dụng nội bộ (the interal tatings- based
approach – IRB)

Ngoài phương pháp chuẩn, Basel II còn cho phép các ngân hàng có thể thực
lựa chọn phương pháp đánh giá xếp hạng tín nhiệm nội bộ để xác định dư nợ của
khách, xác suất vỡ nợ, kỳ đáo hạn hiệu dụng, tỷ trọng tổn thất tín dụng, từ đó tính
toán tài sản có rủi ro tín dụng. Theo đó, phương pháp IRB quy định các thành phần
rủi ro bao gồm : xác suất khách hàng không trả được nợ (Probability of Default –
PD), mức độ tổn thất trong trường hợp không thu được nợ (Loss given Default –
LGD), tổng dư nợ của khách hàng tại thời điểm khách hàng không trả được nợ
( Exposure at Default – EAD), thời hạn cho vay hiệu quả (Effective Maturity – M).
Các tiếp cận IRB được dựa trên các đo lường tổn thất không kỳ vọng (UL) và tổn
thất kỳ vọng (EL). Đối với loại tổn thất dự kiến, NHTM cần trích lâp dự phòng để
bù đắp rừ nguồn chênh lệch kinh doanh tạo ra. Đối với tổn thất không dự kiến,
chuẩn mực Basel II quy định một mức tính toán an toàn tối thiểu theo từng tiêu chí
xác suất khách hàng không trả được nợ, mức độ tổn thất trong trường hợp không
thu được nợ, tổng dư nợ của khách hàng tại thời điểm khách hàng không trả được
nợ của từng nhóm tài sản có rủi ro hay giá trị rủi ro.
Tài sản “ Có “ rủi ro được xác định cho từng hình thức cho vay, cụ thể được
chia thành 5 nhóm : công ty, chính quyền, ngân hàng, bán lẻ, vốn tự có.
Công thức 1.4 : Tài sản “Có” điều chỉnh rủi ro
RWA = K* 12, 50* EAD
25

×