I/ LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Thế giới trong những năm đầu thế kỷ XXI với sự phát triển mạnh mẽ, sâu
sắc trong rất nhiều lĩnh vực. Sự phát triển mạnh mẽ trên vừa tạo ra những tiền đề,
những khả năng để nhân loại vững tin bước vào tương lai, nhưng đồng thời nhân
loại cũng đã và đang gặp phải những thách thức mới trong các vấn đề kinh tế, xã
hội …
Sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước mở cửa để hội nhập với
cộng đồng thế giới trong nền kinh tế cạnh tranh quyết liệt đòi hỏi công tác giáo dục
nước ta phải có sự đổi mới sâu sắc và toàn diện nhằm đào tạo thế hệ trẻ thành
những người vừa tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại, vừa giữ gìn và phát
huy được bản sắc dân tộc, vừa có khả năng sáng tạo, có tình cảm và thái độ của
con người mới xã hội chủ nghĩa.
Thời đại cách mạng khoa học công nghệ ngày nay đang làm thay đổi nhanh
chóng và sâu sắc đến đời sống kinh tế và tinh thần của xã hội. Khoa học trở thành
một lực lượng sản xuất trực tiếp, là động lực cơ bản của sự phát triển kinh tế, xã
hội. Vì vậy, giáo dục và đào tạo trở thành nhân tố quyết định vị thế của mỗi quốc
gia trên trường quốc tế và sự thành đạt của mỗi con người trong cuộc sống.
Vật Lý là môn khoa học thực nghiệm. Mọi vấn đề đều bắt nguồn từ cái có
thực nên mọi tư duy đều xây dựng trên thực tế và khái quát ở mức độ cao hơn.
Chính vì vậy mà vấn đề đặt ra ở đây là làm thế nào để mọi tiết học, mỗi kiến thức
Vật Lý mới đều được các em tiếp nhận một cách tự nhiên, hứng thú và sáng tạo?
Nhận thức được tầm quan trọng của việc đổi mới phương pháp dạy học đối với
việc nâng cao chất lượng và hiệu quả đào tạo lớp công dân Việt Nam trong xã hội
Trang 1
A. MỞ ĐẦU
hiện đại và qua gần bốn năm áp dụng phương pháp mới trong dạy học Vật lý 9, tôi
mạnh dạn đưa ra những suy nghĩ và hiểu biết của mình để viết giải pháp “Nâng
cao chất lượng bộ môn Vật Lý lớp 9 ở trường THCS Bến Củi”.
II/ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU:
Trong quá trình thực hiện giải pháp này, tôi tập trung nghiên cứu việc tổ
chức dạy học nhằm phát huy tính tích cực học tập của học sinh. Giải pháp được
nghiên cứu đối với học sinh lớp 9A, 9B trường THCS Bến Củi.
III/ PHẠM VI NGHIÊN CỨU :
Giải pháp nghiên cứu chủ yếu ở chương “Điện Học” đối với học sinh lớp
9A, 9B trường THCS Bến Củi.
IV/ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU :
Nghiên cứu tài liệu: Tìm đọc các tài liệu về đổi mới phương pháp dạy học,
tài liệu chuyên môn qua đó chắt lọc các nội dung phù hợp với thực tế ở trường
mình để vận dụng vào tiết dạy.
Vận dụng: Soạn giảng và dạy theo phương pháp mới. Rút kinh nghiệm từng
tiết dạy, điều chỉnh cho phù hợp với đối tượng nghiên cứu .
Phương pháp điều tra: Tìm hiểu chất lượng bộ môn ở năm học trước, khảo
sát chất lượng đầu năm, thông qua giảng dạy thực tế theo dõi, kiểm tra sự tiến bộ
của học sinh.
So sánh, đối chiếu kết quả học tập của học sinh qua từng thời điểm.
Trang 2
I/ CƠ SỚ LÍ LUẬN:
Thực hiện Nghị Quyết 40 / QH10 của Quốc Hội, Chỉ thị số 14 / 2001 / CT-
TTg của Thủ Tướng Chính Phủ về đổi mới chương trình giáo dục phổ thông nhằm
vươn tới, đuổi kịp và hòa nhập với xu thế phát triển giáo dục trên thế giới.
Theo Nghị Quyết Hội Nghị lần thứ II của BCHTW khoá 8 về những giải
pháp chủ yếu trong giáo dục và đào tạo đã chỉ rõ: “Đổi mới mạnh mẽ phương pháp
Trang 3
B. NỘI DUNG
giáo dục – đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy
sáng tạo của người học, từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và phương
tiện hiện đại vào quá trình dạy học, đảm bảo điều kiện và thời gian tự học, tự
nghiên cứu của học sinh”.
Luật Giáo dục 2005 (Điều 5) qui định: “ phương pháp Giáo dục phải phát
huy tính tích cực, tự giác, chủ động, tư duy sáng tạo của người học, bồi dưỡng cho
người học năng lực tự học, khả năng thực hành, lòng say mê học tập và ý chí vươn
lên”.
Dựa vào chủ trương của Đảng và nhà nước về giáo dục: xây dựng trường
học thân thiện, học sinh tích cực.
Dựa vào lí luận kiểu dạy học “Hướng tập trung vào học sinh trên cơ sở hoạt
động của học sinh”. Những đổi mới đồng bộ về giáo dục THCS theo tư tưởng tích
cực hóa hoạt động học tập của học sinh đã đặt ra những yêu cầu bức thiết về đổi
mới phương pháp dạy học.
II/ CƠ SỞ THỰC TIỄN:
Vật lý là một môn học còn rất mới đối với học sinh cấp 2. Những kiến thức
Vật lý có nhiều ứng dụng trong thực tế đời sống, kĩ thuật, gần gũi với kinh nghiệm
hiểu biết của học sinh. Tuy nhiên, do học sinh chưa quen với lối tự làm việc, tự
học, nên các em thường tìm hiểu nội dung bài học một cách qua loa, sơ sài, chưa
có phương pháp học một cách khoa học, tích cực.
Nội dung chương trình Vật lý 9 tương đối nặng. Ở lớp 6 và 7 mức độ kiến
thức chỉ là khảo sát định tính các sự vật hiện tượng, chương trình vật lý 9 đòi hỏi
khả năng tư duy của học sinh cao hơn, tạo điều kiện phát triển các năng lực lên một
mức cao hơn và đặt ra những yêu cầu cao hơn đối với học sinh.
Căn cứù vào mục tiêu, nhiệm vụ dạy học bộ môn, căn cứ vào nội dung
chương trình Vật lý 9 và chất lượng thực tế của học sinh ở trường THCS Bến Củi,
Trang 4
tôi thấy việc tìm ra các giải pháp để nâng cao chất lượng bộ môn là yêu cầu cần
thiết.
III/ NỘI DUNG VẤN ĐỀ:
1. Thực trạng bộ môn :
Năm học 2008 – 2009 tôi được phân công giảng day môn Vật lý lớp 9A, 9B.
Qua việc tìm hiểu giáo viên bộ môn đã dạy lớp 8, giáo viên chủ nhiệm và kết
quả kháo sát chất lượng đầu năm, tôi nhận thấy:
Lớp TSHS Giỏi Khá TB Yếu Kém
9A 26 1 2 13 8 2
9B 26 2 3 14 6 1
Bến Củi là địa phương vùng sâu, đa số học sinh là con nông dân và công nhân
cạo mủ. Ngoài giờ học, các em còn phụ giúp cha mẹ nên quỹ thời gian học tập ít.
Đa số học sinh chưa có phương pháp học tập đúng đắn, không chuẩn bị trước bài
mới, ít tìm tòi, suy luận và thường thì thầy cô viết bảng bao nhiêu về nhà học bấy
nhiêu.
Nhiều học sinh nhút nhát, thụ động. Các thao tác thực hành, thí nghiệm chậm.
Kĩ năng làm bài tập rất hạn chế, tính toán chậm do phần bài tập định lượng chỉ
mới có từ chương trình Vật lý lớp 8 và tiết bài tập rất ít (6 tiết).
2. Vấn đề đặt ra :
Từ thực tế nêu trên, tôi nghĩ bản thân mỗi giáo viên phải có một định hướng tư
duy hoạt động của mình, nhất là trong việc thực hiện phương pháp dạy học đúng
đắn và tiến bộ. Điều quan trọng là phải lựa chọn phương pháp dạy học phù hợp với
từng bài giảng, từng đối tượng học sinh theo hướng tích cực nhất. Học sinh càng
được làm việc nhiều trong giờ học để tự chiếm lĩnh tiếp thu kiến thức, kĩ năng là
càng đạt yêu cầu. Muốn vậy, giáo viên phải nắm bắt trình độ, tâm lí của học sinh,
yêu cầu bài dạy và kĩ năng tổ chức lớp học để thiết kế, sắp đặt diễn biến giờ dạy
hợp lí. Giáo viên phải xác định mục tiêu bài dạy thật chắc chắn mới có cơ hội gợi
Trang 5
mở, dẫn dắt học sinh tìm tòi, trao đổi, đặt ra nhiều tình huống khác nhau để lí giải
phân tích trước khi đi đến kết luận. Tùy theo trình độ học sinh , tùy theo tính chất
của từng bài mà xác định phương pháp dạy học chứ không máy móc theo một mô
hình nhất định nào.
Dạy học sáng tạo, phát huy tiềm năng sáng tạo của học sinh là một vấn đề chiến
lược của Giáo dục và là một đòi hỏi bức bách đối với nhà trường hiện nay.
Đối với học sinh yếu, kém thì làm sao tổ chức cho các em làm việc tích cực
hơn? Đây là thực tế chung của học sinh vùng nông thôn, giáo viên không thể thực
hiện như đối với học sinh ở thị trấn, thị xã được. Giáo viên cần tổ chức để học sinh
làm việc theo những điều mà thầy cô yêu cầu, nên giao việc vừa sức, gợi ý từng
bước và có cách động viên, khuyến khích, tạo tình cảm thân thiện… để tránh gây
ra hiện tượng ngán học bộ môn.
3. Các giải pháp thực hiện :
a/ Tăng cường tính tích cực chủ động của học sinh trong học tập, rèn luyện
tư duy sáng tạo cho học sinh :
Aùp dụng phương pháp dạy học tích cực và khai thác các khía cạnh của các
phương pháp dạy học truyền thống nhằm phát huy tối đa tính tích cực, chủ động và
sáng tạo của học sinh trong quá trình học tập, nâng cao được chất lượng dạy
học.Tuy nhiên vấn đề cốt lõi là làm thế nào để tăng cường được tính tích cực, chủ
động và sáng tạo của học sinh trong quá trình học tập? Điều quan trọng trong dạy
học là tùy thuộc vào nội dung và điều kiện dạy học, giáo viên cần áp dụng những
phương pháp và kĩ thuật dạy học thích hợp để làm chuyển biến học sinh từ trạng
thái thụ động trong học tập sang trạng thái chủ động tích cực trong học tập.
Bằng nghệ thuật sư phạm của mình, giáo viên cần tạo ra các nhu cầu về tâm
lí và xã hội đối với việc học cho học sinh, cần liên hệ các nội dung học tại lớp với
những hoạt động hàng ngày để học sinh cảm thấy cần thiết và có hứng thú tham
gia tích cực vào quá trình tìm tòi, lĩnh hội kiến thức và vận dụng vào thực tế.
Trang 6
Vật lý là môn học có nhiều ứng dụng trong sản xuất, đời sống và là thành
tựu của ngành công nghệ thông tin nên giáo viên có nhiều cơ hội để gây hứng thú
cho học sinh trong quá trình tìm hiểu, khám phá ra những điều mới mẻ xung
quanh, tạo ra nhu cầu và hứng thú học tập cho học sinh.
Ví dụ:
Khi dạy các bài tìm hiểu về sự phụ thuộc của điện trở vào dây dẫn, thay vì
giáo viên thông báo cho học sinh nghe về điện trở phụ thuộc vào chiều dài, tiết
diện và vật liệu làm dây dẫn rồi ghi chép thụ động, thì ta cho học sinh thử nêu dự
đoán và dự kiến cách làm thí nghiệm kiểm tra. Thông qua các thí nghiệm, học sinh
sẽ rút ra sự phụ thuộc đó và có hiểu biết tại sao người ta thường dùng dây đồng
làm lõi dây dẫn điện, hoặc ở các đường dây chính phải dùng dây có tiết diện đủ lớn
…
Ở bài “Biến trở – Điện trở dùng trong kĩ thuật”: giáo viên cho học sinh
quan sát vật thật để nêu cấu tạo và hoạt động của biến trở; quan sát mạch điện ở
hộp angten, hộp số quạt … để thấy các điện trở dùng trong kĩ thuật…
Ở bài “Điện năng – Công của dòng điện”: giáo viên có thể chia lớp thành
các nhóm, thảo luận trao đổi để tìm hiểu xem các dụng cụ điện khi hoạt động biến
đổi điện năng thành những dạng năng lượng nào? Phần năng lượng nào được biến
đổi từ điện năng là có ích, là vô ích? Sau đó các tổ tự trình bày trước lớp và trao
đổi , thống nhất kết quả.
Với những phương pháp như vậy, giáo viên chỉ đóng vai trò là người hướng
dẫn, gợi ý, còn học sinh chủ động học tập trong quá trình học tập của mình.
Phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh, rèn luyện tư duy sáng tạo
trong giờ học thể hiện ở chỗ:
- Kích thích được óc tò mò khoa học, ham hiểu biết của các em bằng cách
tạo ra những tình huống có vấn đề. Đó là những câu hỏi thú vị gây hứng
thú học tập, tạo nhu cầu nhận thức cho học sinh.
Trang 7
- Giáo viên không thuyết trình liên miên mà dành “đất” cho hoạt động độc
lập cho học sinh bằng cách tăng cường vấn đáp tìm tòi, tạo ra các cuộc
tranh luận, thảo luận, chuyển dần từ kiểu dạy học truyền thụ kiến thức
sang dạy học giải quyết vấn đề.
- Đối với môn Vật lý thì có thể nói “Trăm nghe không bằng một thấy, trăm
thấy không bằng một làm”. Nếu không có sự trải nghiệm nhất định trong
thực tế thì lĩnh hội kiến thức không thể sâu sắc và bền chặt được. Hơn
nữa sự hiểu biết Vật lý không thể đạt được đơn thuần bằng suy diễn
lôgic. Chỉ có những quan sát và thực nghiệm mới cho phép kiểm tra được
sự đúng đắn của một nhận định về thế giới vì vậy giáo viên cần tạo điều
kiện cho học sinh tự chiếm lĩnh kiến thức thông qua hoạt động thực
nghiệm và cao hơn nữa cho học sinh tập dượt giải quyết vấn đề vật lý
trong thực tế.
- Phối hợp chặt chẽ những nổ lực cá nhân trong tự học với việc học tập
hợp tác trong nhóm.
- Sử dụng các thiết bị, phương tiện dạy học theo hướng phát huy tính tích
cực học tập của học sinh .
Ví dụ:
Ở bài “Sự phụ thuộc của cường độ dòng điện vào hiệu điện thế giữa hai
đầu dây dẫn”, giáo viên đặt câu hỏi mở “Từ kết quả thí nghiệm, hãy xét mối quan
hệ giữa cường độ dòng điện chạy qua đoạn mạch và hiệu điện thế đặt vào hai đầu
đoạn mạch đó?”. Ở câu hỏi này, đòi hỏi học sinh tư duy tìm ra sự phụ thuộc tỉ lệ
thuận và có khả năng bộc lộ sai sót cho rằng U phụ thuộc vào I. Thông qua đó giáo
viên phân tích điều chỉnh nhận xét của học sinh giúp các em hiểu đúng bản chất
của sự phụ thuộc đó.
Ở bài “Điện trở của dây dẫn – Định luật Ôm” : “Nếu sử dụng cùng một
hiệu điện thế đặt vào hai đầu các dây dẫn khác nhau thì cường độ dòng điện qua
Trang 8
chúng có như nhau không?”. Qua việc phân tích kết quả thí nghiệm, học sinh biết
được khái niệm và ý nghĩa điện trở của dây dẫn.
Ở bài “Đoạn mạch song song”, học sinh được chia thành nhóm để làm thí
nghiệm kiểm tra công thức tính điện trở tương đương của đoạn mạch. Qua đó tạo
hứng thú học tập bộ môn và khắc sâu kiến thức cho học sinh.
Ở bài “Sử dụng an toàn và tiết kiệm điện”, giáo viên có thể đặt câu hỏi:
“Theo em, chúng ta có thể dùng những biện pháp nào để sử dụng tiết kiệm điện
năng tiêu thụ trong gia đình?”. Như vậy, trước hết là gợi lên cho các em một vấn
đề quan trọng là phải tiết kiệm điện năng trong gia đình. Từ đó mỗi học sinh đều
phải suy nghĩ, liên hệ lại những biện pháp mà gia đình thường áp dụng để tiết kiệm
điện năng, và cũng có thể ở gia đình chưa hề đề cập đến vấn đề này thì các em phải
suy nghĩ để tìm ra các giải pháp. Các em sẽ trả lời theo những ý tưởng khác nhau,
sau đó sẽ chờ đợi giáo viên giải đáp tổng kết để rõ được những kiến thức mới quan
trọng và rất cần thiết trong cuộc sống hằng ngày. Như vậy sẽ kích thích được tính
tích cực và sự hứng thú của học sinh trong học tập.
b. Rèn luyện kĩ năng tự học cho học sinh :
Chương trình vật lý mới đòi hỏi mỗi học sinh có một thái độ học tập đúng
đắn và một phương pháp học tập khoa học thì hiệu quả tiết học càng cao.
Ngay từ tiết học đầu tiên, giáo viên cần tập cho các em thói quen cần thiết trong
học tập như:
- Chuẩn bị tốt bài học ở nhà, tập trả lời các câu hỏi theo sách giáo khoa.
- Mạnh dạn đưa ra những suy nghĩ, ý kiến của mình khi thảo luận, trao đổi
cùng các bạn.
- Làm đầy đủ các bài tập do giáo viên giao về nhà.
- Tham gia các thí nghiệm thực hành trên lớp với ý thức tự giác, kĩ luật.
- Chú ý nghe giảng, ghi chép các nội dung quan trọng của bài học.
Trang 9
- Làm sổ tay Vật Lý …
Muốn vậy, giáo viên phải có kế hoạch cụ thể cho mỗi bài giảng, giao việc vừa
sức, dành thời gian thỏa đáng cho bước hướng dẫn về nhà.
Qua tìm hiểu thực tế, tôi thấy khâu chuẩn bị ở nhà của học sinh thường bị coi
nhẹ, giáo viên không hướng dẫn cụ thể cho học sinh, chỉ dặn dò qua loa “Về học
bài và làm bài tập số 1,2,…”, nên việc chuẩn bị của học sinh ở nhà thường không
ăn khớp hoặc không liên quan gì đến hoạt động của thầy và trò trên lớp. Do đó, tôi
nghĩ ngay từ bước dặn dò, học sinh cần được hướng dẫn vào quỹ đạo cần thiết.
Điều này không hề mâu thuẩn gì với xu hướng bộc lộ của học sinh nếu giáo viên
biết khêu gợi đúng hướng.
Ví dụ:
Để chuẩn bị dạy bài “Công suất điện”, ở bước hướng dẫn về nhà của tiết
trước bao gồm:
- Ôn tập định luật Ôm trong đoạn mạch nối tiếp và đoạn mạch song để vận
dụng thành thạo vào giải bài tập.
- Làm bài tập 11.1 – 11.4 (SBT).
- Giáo viên hướng dẫn học sinh làm bài tập 11.4.
- Chuẩn bị trước bài “Công suất điện”:
+ Tìm hiểu số vôn, số Oát ghi trên vỏ bao bì các đồ dùng điện , thiết bị
điện có ở gia đình.
+ Các số ghi đó có ý nghĩa gì? Tại sao phải ghi các số đó trên mỗi dụng
cụ điện? học sinh soạn các câu trả lời vào vở bài tập dựa vào các câu
hỏi C có trong SGK
Để chuẩn bị bài “Điện năng – Công của dòng điện”, sau khi dặn học sinh
các nội dung cần học ở bài trước, làm bài tập củng cố, áp dụng, phần chuẩn bị bài
mới gồm:
Trang 10
+ Tìm 3 đồ dùng điện mà khi hoạt động thì dòng điện đã thực hiện công, 3
đồ dùng điện khi hoạt động dòng điện cung cấp nhiệt lượng. Những biểu hiện của
mỗi dụng cụ đó ?
+ Ôn tập công thức tính hiệu suất, công thức tính công suất đã học ở lớp 8.
+ Số đếm công tơ điện ở nhà em đo đại lượng điện nào? Trong tháng 10 gia
đình em sử dụng bao nhiêu số đếm (theo hóa đơn tiền điện)?
c. Rèn kĩ năng giải bài tập Vật lý cho học sinh :
Bài tập chương “Điện học” rất đa dạng, nhiều thể loại nên phương pháp giải
cũng rất phong phú. Việc rèn luyện cho học sinh biết cách giải bài tập một cách
khoa học, đảm bảo kết quả chính xác là một việc rất cần thiết. Nó không những
giúp học sinh nắm vững kiến thức mà còn rèn luyện kĩ năng suy luận lôgic, làm
việc khoa học có kế hoạch.Do đó ngay từ bài học đầu tiên giáo viên cần hướng dẫn
học sinh biết các bước cơ bản khi làm bài tập, tập cho các em cách lập luận có căn
cứ, sử dụng đúng ngôn từ vật lý.
Dạng bài tập định tính hay bài tập câu hỏi: Việc luyện tập, đào sâu kiến
thức và mở rộng kiến thức của học sinh về một vấn đề nào đó cần được bắt đầu từ
bài tập định tính. Đây là loại bài tập có khả năng trau dồi kiến thức và tạo hứng thú
học tập cho học sinh. Để giải quyết được bài tập định tính đòi hỏi học sinh phải
phân tích được bản chất của hiện tượng vật lý.
Bài tập định tính đơn giản, thường dùng để củng cố, khắc sâu khái niệm, định
luật… Ví dụ:
Với 3 dây dẫn có chiều dài như nhau, tiết diện như nhau, ở cùng điều
kiện. Dây thứ nhất bằng bạc có điện trở R
1
, dây thứ hai bằng đồng có điện trở R
2
,
dây thứ ba bằng nhôm có điện trở R
3
. hãy so sánh các điện trở của chúng?
(Muốn so sánh điện trở của các dây dẫn cùng chiều dài, tiết điện thì dựa vào yếu tố
điện trở suất do
ρ
nhôm
>
ρ
đồng
>
ρ
bạc
nên R
3
> R
2
> R
1
).
Trang 11
“Nếu hiệu điện thế U đặt vào hai đầu bóng đèn tăng liên tục, thì cường độ
dòng điện I qua bóng đèn đó cũng tăng liên tục”. Nói như vậy có hoàn toàn đúng
không? . Với câu hỏi này học sinh dễ nhầm lẫn khi vận dụng định luật Ôm là I tỉ lệ
thuận vối U, mà học sinh ít chú ý tới hiệu điện thế định mức và cường độ dòng
điện định mức của đèn – nếu vượt quá giới hạn định mức thì đèn có thể bị hỏng
như thế dòng điện không tăng liên tục.
Đối với bài tập định tính phức tạp thì việc giải bài tập này là giải một chuỗi
các câu hỏi định tính. Những câu hỏi này đòi hỏi học sinh phải dựa vào việc vận
dụng một định luật vật lý , một tính chất vật lý nào đó.Ví dụ:
Có hai dây dẫn một bằng đồng một bằng nhôm cùng chiều dài, cùng tiết
diện. Nếu mắc hai dây đó nối tiếp vào mạch điện thì khi có dòng điện đi qua, nhiệt
lượng tỏa ra ở dây nào lớn hơn?
-> Giáo viên cần đưa ra một số câu hỏi gợi ý phân tích giúp các em yếu,
trung bình có thể tìm ra cách giải , sau đó giáo viên đưa ra câu hỏi tổng hợp (Cùng
l,s R phụ thuộc
ρ
. Do
ρ
nhôm
>
ρ
đồng
nên R
nhôm
> R
đồng
; mắc nối tiếp thì I qua
hai dây như nhau; vận dụng công thức Q = I
2
Rt cùng I, t nên Q tỏa ra ở dây
nhôm lớn hơn).
Dạng bài tập tính toán:
Để làm tốt loại bài tập này, giáo viên cần hướng dẫn học sinh đọc kĩ đề, tìm
hiểu ý nghĩa thuật ngữ mới (nếu có), nắm vững các dữ kiện đâu là ẩn số phải tìm;
phân tích bắt đầu bằng việc tìm một định luật, qui tắc diễn đạt bằng một công thức
có chứa đại lượng cần tìm và một đại lượng khác chưa biết, tìm mối liên hệ giữa
những đại lượng chưa biết này với đại lượng đã biết trong bài, nghĩa là ta phân tích
một bài toán phức tạp thành nhiều bài toán đơn giản hơn.
Trong tiết bài tập, giáo viên phải lựa chọn bài tập đi từ dễ đến khó, từ đơn
giản đến phức tạp và học sinh nắm được các loại bài tập điển hình. Mỗi bài tập
phải là một mắc xích trong hệ thống bài tập, đóng góp một phần nào đó trong củng
Trang 12
cố hoàn thiện và mở rộng kiến thức. Các bài tập đã lựa chọn có thể sử dụng ở các
khâu khác nhau của quá trình dạy học: nêu vấn đề, hình thành kiến thức mới, củng
cố, hệ thống hóa kiến thức …
d. Kết hợp hài hòa các phương pháp dạy học trong bài dạy:
Trong dạy học Vật lý, giáo viên cần áp dụng nhiều phương pháp dạy học
khác nhau để đạt được các mục tiêu mà chương trình đặt ra. Tùy theo nội dung bài
học, đặc điểm vềø trình độ và năng lực nhận thức của học sinh, tùy theo điều kiện
về cơ sở vật chất và thiết bị dạy học mà giáo viên vận dụng, phối hợp các biện
pháp, các phương pháp dạy học khác nhau để đạt được mục tiêu ở mức cao nhất.
Để kích thích và duy trì hứng thú nổ lực của học sinh, giáo viên phải chuẩn
bị tạo ra những tình huống học tập nêu vấn đề. Giáo viên cần lựa chọn hình thức
hoạt động thích hợp cho học sinh , hướng dẫn giúp đỡ tạo điều kiện cho các em
thực hiện thành công những hoạt động đó.Thực tiễn cho thấy không một chiến
lược dạy học nào là vạn năng có thể áp dụng cho mọi môn học, bài học, cho mọi
học sinh để đạt được mục tiêu mong muốn. Giáo viên cần phải biết nhiều chiến
lược dạy học và áp dụng đúng lúc, đúng đối tượng thì mới đem lại hiệu quả.
Trong quá trình dạy học, có nhiều yếu tố xuất hiện không lường trứơc được.
Tuy vậy, người giáo viên có kinh nghiệm có thể dự đoán trước được đa số các tình
huống phổ biến có thể gặp. Bởi vậy, việc chuẩn bị một kế hoạch tỉ mỉ, chu đáo
luôn giúp giáo viên thể hiện được mục tiêu dạy học. Nếu chuẩn bị cẩn thận thì có
thể hạn chế được những tình huống bất ngờ gây ra sự lúng túng của giáo viên hoặc
có thể giải quyết một cách thận trọng, tránh những sai lầm đáng tiếc. Như vậy, có
thể nói chuẩn bị kỹ một kế hoạch dạy học là một điều kiện cơ bản đảm bảo cho sự
thành công của việc dạy học. Cần lưu ý rằng: theo cách dạy học bằng hoạt động,
giáo viên sẽ nói ít mà chú ý lắng nghe ý kiến của học sinh để có sự hướng dẫn và
điều chỉnh kịp thời. Bởi vậy trong giáo án nên ghi những dự kiến tình huống, dự
kiến về suy nghĩ, hành động của học sinh.
Trang 13
Để tổ chức cho học sinh làm việc trên lớp một cách chủ động, tích cực, đúng
hướng, giáo viên cần xây dựng một hệ thống câu hỏi, hướng dẫn học sinh quan sát
hiện tượng, phân tích kết quả thí nghiệm, vận dụng các kiến thức có liên quan….để
đi đến tri thức mới. Vai trò tổ chức của giáo viên thể hiện chủ yếu qua hệ thống
câu hỏi này. Các câu hỏi được sắp xếp thành hệ thống khái quát đến cụ thể, từ khó
đến dễ. Cách làm như vậy nhằm phát huy năng lực của mọi đối tượng học sinh:
Học sinh khá, giỏi trả lời các câu hỏi chung, khái quát; học sinh trung bình, yếu trả
lời các câu hỏi cụ thể, chi tiết. Các câu hỏi phải được chuẩn bị trước, kể cả hệ
thống câu hỏi gợi ý chi tiết. Câu hỏi phải được diễn đạt rõ ràng, ngắn gọn.
Sử dụng các câu hỏi phù hợp với trình độ học sinh. Một trong những biện
pháp tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh là đặt câu hỏi mở (nhiều phương
án trả lời). Câu hỏi mở phù hợp với trình độ học sinh thường làm không khí lớp
học sôi động và gây nhiều tình huống bất ngờ đối với giáo viên. Xử lí các tình
huống dạy học trên lớp thể hiện trình độ và nghệ thuật của giáo viên. Thực tế sử
dụng câu hỏi mở cho thấy các phương án học sinh đưa ra có thể ngoài dự kiến của
giáo viên. Do đó, khi thiết kế bài dạy, giáo viên nên dự kiến trước các phương án
trả lời của học sinh và cách xử lí các tình huống đó để hướng học sinh đến điều đã
dự kiến, trên cơ sở đó chỉnh lại câu hỏi cho phù hợp với trình độ thực tế của học
sinh lớp mình dạy. Nếu học sinh không nghĩ ra được câu trả lời thì cần chuẩn bị
những câu hỏi phụ dễ hơn dẫn dắt học sinh đi đến câu trả lời cần thiết. Những câu
trả lời ngoài dự kiến, giáo viên nên ghi lại để làm tư liệu giảng dạy cho lần sau.
Trong quá trình xử lí thông tin, giáo viên cần tạo điều kiện để nhiều học sinh
được trình bày những điều mình làm, mình quan sát , thường xuyên gọi học sinh
yếu, qua đó tập các em mạnh dạn đề xuất ý kiến, không ỷ lại vào bạn bè và chú ý
vào công việc hơn. Để tiết kiệm thời gian cần đặt câu hỏi rõ ràng, không nhắc lại
những điều học sinh đã nói, yêu cầu học sinh nhận xét, bổ sung câu trả lời của bạn.
Giáo viên phải biết khơi dậy những kiến thức có sẵn trong mỗi học sinh và sử dụng
Trang 14
có hiệu quả các phương tiện, thiết bị dạy học trong mỗi giờ học. Bài học được tổ
chức thành một chuỗi hoạt động tranh luận của học sinh thông qua các câu hỏi, bài
tập phù hợp. Dựa trên các ý kiến của học sinh, giáo viên phân tích và thống nhất
kiến thức.
Khi học sinh hoạt động nhóm, giáo viên quan sát, theo dõi và kịp thời giúp đỡ
các nhóm giải quyết vấn đề, trực tiếp giải đáp khi có ý kiến thắc mắc của nhóm;
phát hiện các nhóm hoạt động chưa có hiệu quả để kịp thời uốn nắn và điều chỉnh;
động viên, khuyến khích và khen ngợi nhằm tạo không khí phấn khởi giúp học
sinh tự tin trong học tập; xây dựng mối quan hệ thân thiện, hợp tác giữa thầy – trò,
trò – trò trong môi trường học tập an toàn.
Như vậy, giáo viên phải đồng thời là người tổ chức, ngưới cố vấn, người hướng
dẫn giúp học sinh trở thành người khám phá và nghiên cứu.
4. Kết quả :
Phải khẳng định đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích
cực của học sinh đã tạo ra môi trường học tập sôi động. Nó thúc đẩy con người linh
hoạt, sáng tạo trong việc giải quyết và khám phá cái mới. Đây không phải là nhận
thức một chiều nên việc nắm kiến thức của học sinh được diễn ra theo khả năng
biểu lộ tính tích cực của trí tuệ và lòng ham hiểu biết của học sinh.
Sau một học kì với sự nổ lực không ngừng của bản thân, từng bước áp dụng
các giải pháp đã đưa ra, tôi thấy học sinh có chuyển biến rõ rệt. Nếu trong các bài
học đầu tiên giáo viên còn mất nhiều thời gian để phân tích, hướng dẫn nên thường
hay bị cháy giáo án thì các bài học sau tiết học sôi nổi hơn, giờ học các em thấy
thoải mái hơn, mạnh dạn đề xuất ý kiến của mình, chủ động tìm hiểu bài, thao tác
thí nghiệm thành thạo, lập luận có căn cứ khoa học và vận dụng tốt vào thực tiễn.
Kết quả cuối học kì I năm học 2007 - 2008 là 50 / 68 học sinh đạt trung bình
trở lên (73, 5%), năm học 2008 - 2009 là 42 / 52 học sinh đạt trung bình trở lên
( 80,8 %).
Trang 15
Kết quả cụ thể:
Thời
điểm
Lớp TSHS Giỏi Khá TB Yếu Kém
Giữa
HKI
9A 26 2 (7,7%) 3(11,5%) 13(50,0%) 7(26,9%) 1(3,8%)
9B 26 3(11,5%) 4(15,4%) 14(53,9%) 5(19,2%) 0
HKI 9A 26 3(11,5%) 6(23,1%) 11(42,3%) 6(23,1%) 0
9B 26 5(19,2%) 9(34,6%) 8(30,8%) 4(15,4%) 0
1. Bài học kinh nghiệm :
Vấn đề đổi mới phương pháp dạy học là yêu cầu cấp thiết để góp phần nâng
cao chất lượng giáo dục. Song một chủ trương dù tiến bộ đến đâu thì khi đi vào
thực tế cũng vấp phải những khó khăn. Không ai phủ nhận tính tích cực của yêu
cầu đổi mới, nhưng biến nó thành hiện thực thì không phải là chuyện dễ hoàn
thành trong một sớm một chiều.
Trước những khó khăn của thực tiễn giáo dục, chúng ta phải đổi mới phương
pháp dạy học dần dần, phải chấp nhận một giải pháp quá độ mang tính cải tiến với
Trang 16
C. KẾT LUẬN
phương châm đổi mới là dạy học tạo điều kiện để học sinh “suy nghĩ nhiều hơn,
làm việc nhiều hơn, thảo luận nhiều hơn”. Và nhân tố quyết định trong công việc
đổi mới này là đội ngũ giáo viên chúng ta.
Mỗi giáo viên phải có kế hoạch đổi mới, chịu khó tìm tòi học tập, mạnh dạn
thực hiện đổi mới từ những kinh nghiệm tốt của bản thân và đồng nghiệp, đổi mới
từ một bài đến nhiều bài, khó một năm để dễ dàng trong nhiều năm sau.
Qua nhiều năm thực hiện giảng dạy theo phương pháp mới, nhờ sự nổ lực của
bản thân giáo viên, nhiều học sinh học tập tốt hơn, và có kết quả cao hơn. Giải
pháp nói chung có tính chất khả thi. Tuy vậy, còn một số khó khăn khi giảng dạy
như sau:
- Cơ sở vật chất còn rất thiếu thốn, nhiều dụng cụ thí nghiệm thiếu chính xác
chưa đáp ứng được việc thay đổi hình thức dạy học cho từng học sinh hoặc nhóm
học sinh. Khi chuyển tiết từ lớp này sang lớp khác giáo viên phải chuyển dụng cụ
thí nghiệm, hoặc tháo – lắp lại cái mới…mất nhiều thời gian.
- Cả thầy và trò còn bị ảnh hưởng thói quen dạy học truyền thống như thầy
thì sợ “cháy” giáo án, sợ không “trung thành” với sách giáo khoa, không an tâm
khi học sinh im lặng làm việc trong một thời gian, đôi khi còn ham giảng giải; học
sinh ít tìm hiểu các tài liệu tham khảo khác sách giáo khoa; còn một số em chưa
tích cực tự học.
- Trình độ học sinh không đồng đều trong một lớp. Do đó cũng dễ dẫn đến
học sinh khá – giỏi làm việc nhiều, còn các em yếu thì thụ động, trông chờ kết quả
của bạn.
2. Hướng phổ biến, áp dụng đề tài:
Các giải pháp mà tôi nêu ra đây chỉ là một phần nhỏ trong phương pháp dạy
học bộ môn Vật lý. Để giảng dạy thành công mỗi giáo viên cần kết hợp nhiều
phương pháp khác nhau sao cho phù hợp với đối tượng mà mình đang dạy nhưng
vẫn đảm bảo mục tiêu chung là phát huy tính tích cực của học sinh.
Trang 17
Giải pháp này áp dụng trong suốt năm học này và cả cho những năm học tiếp
theo, và có thể áp dụng cho các trường có cùng đối tượng.
3. Hướng nghiên cứu tiếp đề tài:
Sau nhiều năm giảng dạy, chắc hẳn chúng ta sẽ có nhiều kinh nghiệm khác để
duy trì và phát huy những hiệu quả đạt được. Bản thân tôi cần không ngừng học
tập và tìm hiểu để từng bước nâng cao chất lượng dạy học, tích cực nghiên cứu các
phương pháp đặc thù của bộ môn nhằm áp dụng thành công vào bài dạy của mình.
Trong năm học sau, nếu tiếp tục dạy Vật lý 9, tôi sẽ cố gắng nghiên cứu giải
pháp hình thành và phát triển kỹ năng làm bài tập Vật lý cho học sinh. Dù cố gắng
nhiều nhưng giải pháp này chắc chắn còn nhiều thiếu sót, rất mong được sự đóng
góp của hội đồng khao học để bài viết tốt hơn.
Người thực hiện
NGUYỄN THỊ DIỄM THÚY
Trang 18
Trang 19