Tải bản đầy đủ (.doc) (139 trang)

một số bài văn mẫu bồi dưỡng tham khảo lớp 9

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (623.76 KB, 139 trang )

MỘT SỐ BÀI VĂN MẪU THAM KHO LP 9
1. Phân tích bài thơ Đồng chí của Chính Hữu
Ðồng chí là một bài thơ tiêu biểu của nhà thơ Chính Hữu và của thơ ca Việt Nam
hiện đại. Hễ nói tới thơ Chính Hữu là người ta không thể không nghĩ đến Ðồng chí.
Bài thơ được sáng tác vào năm 1948, sau chiến dịch Việt Bắc năm 1947, đánh
dấu sự xuất hiện cuả một nhà thơ mới trong thời kháng chiến chống thực dân Pháp.
Bài thơ lúc đầu dán ở báo tường đơn vị, sau in vào báo Sự thật, rồi được chép vào sổ
tay các cán bộ, chiến sĩ, được phổ nhạc, trở thành tải sản chung của mọi người.
Ðồng chí là bài thơ ca ngợi một tình cảm mới, quan hệ mới giữa người và người
trong cách mạng và kháng chiến. "Ðồng chí" trong ngôn ngữ sinh hoạt chính trị và đời
thường đã thành tiếng xưng hô quen thuộc, khi lý tưởng cách mạng đoàn kết, gắn bó
mọi người đã bắt rễ sâu vào đời sống. Nhưng mấy ai đã cảm nhận được nội dung
t/cảm phong phú mới mẻ chứa đựng trong hai tiếng ấy?
Ðể làm hiện lên nội dung mới lạ trong những từ ngữ quen thuộc, nhà thơ phải
dùng phép "lạ hóa". Không phải ngẫu nhiên mà bài thơ bắt đầu từ những cái khác biệt
và xa lạ. Ðây là lời của những người đồng chí tự thấy cái mới lạ của mình:
Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá
Anh với tôi hai người xa la
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau.
Mỗi người một quê, đất đai canh tác khác nhau, tập quán, phong tục hẳn là cũng
khác. Miền biển nước mặn, đất phèn. Vùng đồi trung du đất ít hơn sỏi đá. Những con
người tự nhận là xa lạ, cách nhau cả một phương trời và chẳng hẹn hò quen nhau. ấy
thế mà có một sức mạnh vô song, vô hình biến họ thành đôi tri kỷ:
Súng bên súng đầu gác bên đầu
Ðêm rét chung chăn thành đôi tri kỷ.
Ðó là cuộc sống và chiến đấu chung đã làm thay đổi tất cả. Hai dòng thơ chỉ có một
chữ "chung": "Ðêm rét chung chăn", nhưng cái chung đã bao trùm tất cả. "Súng bên
súng" là chung chiến đấu, "đầu sát bên đầu" thì chung rất nhiều: không chỉ là gần nhau
về không gian mà còn chung nhau ý nghĩ, lý tưởng. "Ðêm rét chung chăn" là một hình
ảnh thật cảm động và đầy ắp kỷ niệm. Những người từng kháng chiến ở Việt Bắc hẳn


không ai quên cái rét Việt Bắc và của vùng rừng núi nói chung. Hồi ấy nhà thơ Tố
Hữu từng viết: "Rét Thái Nguyên rét về Yên Thế, Gió qua rừng Ðèo Khế gió sang".
Cũng không ai quên được cuộc sống chung gắn bó mọi người: "Bát cơm sẻ nữa, chăn
sui đắp cùng". Ðắp chăn chung trở thành biểu tượng của tình thân hữu, ấm cúng, ruột
thịt. Những cái chung ấy đã biến những con người xa lạ "thành đôi tri kỷ"
Hai chữ "Ðồng chí" đứng riêng thành một dòng thơ là điều rất có ý nghĩa. Nhà thơ
hoàn toàn có thể viết thế này: "Ðêm rét chung chăn thành đôi đồng chí". "Ðồng chí"
và "tri kỷ" đều cùng một vần bằng, vần trắc, hai chữ hoàn toàn có thể thay thế nhau
mà không làm sai vận luật, mà bài thơ có thể rút ngắn được một dòng. Nhưng nếu viết
như thế thì hỏng. Ðêm rét chung chăn có nghĩa hai chữ "Ðồng chí" rộng lớn vô cùng.
1
"Tri kỷ" là biết mình và suy rộng ra là biết về nhau. "Ðồng chí" thì không phải chỉ biết
nhau, mà còn phải biết được cái chung rộng lớn gắn bó con người trên mọi mặt.
Hai chữ "Ðồng chí" đứng thành một dòng thơ đầy sức nặng suy nghĩ. Nó nâng
cao ý thơ đoạn trước và mở ra ý thơ các đoạn sau. "Ðồng chí" là cái có thể cảm nhận
mà không dễ nói hết.
Phần hai bài thơ nói đến tình cảm chung của những người đồng chí. Những câu thơ
chia thành "anh, tôi", nhưng giữa họ đều là chung cả. Ðoạn hai của bài thơ được mở
đầu bằng những dòng tâm sự nhớ nhà. Bây giờ họ chia sẻ với nhau những tình cảm
quê hương và gia đình. Ðối với các chàng trai áo nâu ra trận lần đầu nhớ nhà là nỗi
niềm thường trực:
Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay.
Ðối với người nông dân, làm ruộng là quan trọng nhất, những việc ấy đành nhờ
bạn thân làm hộ. Gian nhà tổ ấm cũng đành chịu hy sinh: "mặc kệ gió lung lay". Câu
thơ ngang tàng, đượm chất lãng mạn như muốn nâng đỡ con người vượt lên cái bất
đắc dĩ của hoàn cảnh. Thẻ hỏi ai có thể "mặc kệ" để cho gió làm xiêu đổ nhà mình?
Ðó là một thoáng tếu nhộn làm se lòng người. Hai dòng thơ đầy ắp nỗi nhớ, mặc dù
tới dòng thứ ba thì chữ "nhớ" mới xuất hiện" Giếng nước gốc đa
nhớ người ra lính

Người lính trong thơ Chính Hữu đã rất nhớ nhà, nhớ quê nhưng họ thương nhất vẫn
là người ở nhà nhớ họ, dõi theo tn tức của họ, những người ở nơi nguy hiểm. Hình ảnh
"giếng nước" là nơi dân làng gặp gỡ sáng sáng, chiều chiều. "Gốc đa" là nơi dân làng
nghỉ ngơi những khi trưa nắng. Những lúc ấy họ sẽ hỏi thăm những người trai ra trận.
Nhưng "giếng nước, gốc đa" cũng là nơi hò hẹn, tình tự lứa đôi: "Trăm năm dầu lỗi
hẹn hò, Cây đa bến cũa con đò khác đưa". Biết bao là nhớ nhung. Nhưng người lính
không nói là mình nhớ, chỉ nói ai khác nhớ. Ðó là cảnh mình tự vượt lên mình, những
dòng thơ nén tình riêng vì sự nghiệp chung, bằng những lời ý nhị, không một chút ồn
ào.
Bảy dòng cuối của đoạn thơ dành nói riêng về nỗi gian khổ. Cái gian khỏ của bộ
đội trong buổi đầu kháng chiến đã được nói đến rất nhiều.
Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi.
Trong kháng chiến, ở chiến khu, bệnh sốt rét cơn là phổ biến nhất. Hai câu thơ
nêu đủ các triệu chứng của bệnh sốt rét cơn. Những ai nhiễm bệnh, thoạt đầu cảm thấy
ớn lạnh, sau đó liền cảm thấy lạnh tới lúc người run cầm cập, đắp bao nhiêu chăn cũng
không hết rét, trong khi đó thì thân nhiệt lại lên cao tới 40, 41 độ người vã cả mồ hôi,
vã vì nóng và vì yếu. Phải trải qua bệnh này thì mới hiểu hết cái thật của câu thơ. Sau
cơn sốt đó là da xanh, da vàng, viêm gan, viêm lá lách…
Ngoài khổ về bệnh tật là khổ về trang bị. Những ngày đầu kháng chiến, chưa có đủ áo
quần đồng phục phát cho bộ đội. Người lính mang theo áo quần ở nhà đi chiến đấu,
khi rách thì và víu, có người còn không có kim chỉ để vá, lấy dây mà buộc túm chỗ
2
rách lại, người ta gọi đùa là "Vệ túm", ở đây "anh rách, anh vá" thông cảm nhau.
Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay.
"Miệng cười buốt giá" hẳn là cười trong buốt giá, vì áo quần không chống

được rét, mà cũng là nụ cười vượt lên trên buốt giá, mặc dù trời lạnh hẳn nụ cười cũng
khó mà tươi. Cũng có thể là nụ cười coi thường gian khổ. Nhà thơ không viết "nụ cười
buốt giá" mà viết "Miệng cười buốt giá" hẳn là vì từ "nụ cười" quá trừu tượng, vả lại,
nụ cười ở đây không buốt giá, mà nhà thơ thì muốn nói một cách cụ thể đến cái miệng
với đôi môi nhợt nhạt ấy.
"Chân không giày" cũng là một thực tế phổ biến, và cái nổi lên là tình thương
yêu đồng đội: "Thương nhau tay nắm lấy bàn tay", một hình ảnh hết sức ấm áp. Chỉ có
năm dòng thơ, tác giả đã vẽ lên chân dung "anh bộ đội Cụ Hồ" buổi đầu kháng chiến,
nghèo khổ, thiếu thốn nhưng tình đồng chí sưởi ấm lòng họ.
Nếu đoạn một nói về sự hình thành đồng chí, đoạn hai nói về tình cảm hiện đại,
thì đoạn ba nói về hành động chiến đấu của họ: Ðêm nay rừng hoang sương muối
Ðứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Ðầu súng trăng treo.
Từ nhận thức chung, tình cảm chung, bài thơ kết vào hành động. Thời gian,
không gian trở nên cụ thể, công việc cũng cụ thể, nhưng không vì thế mà sự việc thay
thế chất thơ. Câu kết bài thơ là một hình ảnh nổi tiếng cô đọng, giàu ý vị: đầu súng
trăng treo.
Một hình ảnh bất ngờ. "Súng" và "trăng" là hai vật cách xa nhau trong không
gian, lại chẳng có gì chung để liên tưởng. Hình ảnh này chỉ có thể là phát hiện của
người lính, súng lăm lăm trong tay chờ giặc, và bất ngờ thấy mặt trăng treo lửng lơ
trên đầu súng. Người không cầm súng không thể cảm thấy được. Rừng hoang sương
muối là rất buốt, những người lính rách rưới đứng cạnh bên nhau và trăng như cũng
đứng chung với người. Trăng là biểu trưng của trong sáng và mộng mơ. "Ðầu súng"
chiến đấu của người đồng chí có thêm mặt trăng đã mở ra biết bao liên tưởng phong
phú. Ðồng thời câu thơ bốn tiếng như cũng nén lại, dồn vào bên trong, tạo thành cái
kết không lời. Ðoạn một và hai toàn những lời tâm sự. Ðoạn cuối lại là bức tranh cổ
điển, hàm súc.
Ðồng chí là bài thơ rất tiêu biểu cho phong cách cô đọng, kiệm lời của nhà thơ
Chính Hữu.
2. Phân tích bài thơ bếp lửa của Bằng Việt

3
Trong cuộc đời, ai cũng có riêng cho mình những kỉ niệm của một thời ấu thơ
hồn nhiên, trong sáng. Những kỉ niệm ấy là những điều thiêng liêng, thân thiết nhất,
nó có sức mạnh phi thường nâng đỡ con người suốt hành trình dài và rộng của cuộc
đời. Bằng Việt cũng có riêng ông một kỉ niệm, đó chính là những tháng năm sống bên
bà, cùng bà nhóm lên cái bếp lửa thân thương. Không chỉ thế, điều in đậm trong tâm
trí của Bằng Việt còn là tình cảm sâu đậm của hai bà cháu. Chúng ta có thể cảm nhận
điều đó qua bài thơ “Bếp lửa” của ông.cảm sâu đậm của hai bà cháu. Chúng ta có thể
cảm nhận điều đó qua bài thơ “Bếp lửa” của ông.
Bằng Việt thuộc thế hệ nhà thơ trương thành trong kháng chiến chống Mĩ. Bài
thơ “ Bếp lưả” được ông sáng tác năm 1963 lúc 19 tuổi và đang đi du học ở Liên Xô.
Bài thơ đã gợi lại những kỉ niệm đầy xúc động về người bà và tình bà cháu, đồng thời
thể hiện lòng kính yêu, trân trọng và biết ơn của người cháu với bà, với gia đình, quê
hương, đ/n.
Tình cảm và những kỉ niệm về bà được khơi gợi từ hình ảnh bếp lửa. Ở nơi đất
khách quê người, bắt gặp hình ảnh bếp lửa, tác giả chợt nhớ về người bà:
“ Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa.”
Hình ảnh “chờn vờn” gợi lên những mảnh kí ức hiện về trong tác giả một cách
chập chờn như khói bếp. Bếp lửa được thắp lên, nó hắt ánh sáng lên mọi vật và toả
sáng tâm hồn đứa cháu thơ ngây. Bếp lửa được thắp lên đó cũng là bếp lửa của cuộc
đời bà đã trải qua “ biết mấy nắng mưa”. Từ đó, hình ảnh người bà hiện lên. Dù đã
cách xa nữa vòng trái đất nhưng dường như Bằng Việt vẫn cảm nhận được sự vỗ về,
yêu thương, chăm chút từ đôi tay kiên nhẫn và khéo léo của bà. Trong cái khoảnh khắc
ấy, trong lòng nhà thơ lại trào dâng một tình yêu thương bà vô hạn. Tình cảm bà cháu
thiêng liêng ấy cứ như một dòng sông với con thuyền nhỏ chở đầy ắp những kỉ niệm
mà suốt cuộc đời này chắc người cháu không bao giờ quên được và cung chính
t? đó, sức ấm và ánh sáng của tình bà cháu cũng như của bếp lửa lan toả toàn bài thơ.
Khổ thơ tiếp theo là dòng hồi tưởng cùa tác giả về những kỉ niệm của những năm

tháng sống bên cạnh bà. Lời thơ giản dị như lời kể, như những câu văn xuôi, như thủ
thỉ, tâm tình, tác giả như đang kể lại cho người đọc nghe về câu chuyện cổ tích tuổi
thơ mình. Nếu như trong câu chuyện cồ tích của những bạn cùng lứa khác có bá tiên,
có phép màu thí trong câu chuyện của băng Việt có bà và bếp lửa. Trong những năm
đói khổ, người bà đã gắn bó bên tác giả, chính bà là người xua tan bớt đi cái không khí
ghê rợn của nạn đói 1945 trong tâm trí đứa cháu. Cháu lúc nào cũng được bà chở che,
bà dẫu có đói cũng để cháu thiếu bữa ăn nào, bà đi mót từng củ khoai, đào từng củ sắn
đểâ cháu ăn cho khỏi đói:
“Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!”
Chính “mùi khói” đã xua đi cái mùi tử khí trên khắp các ngõ ngách. Cũng chính
cái mùi khói ấy đã quện lại và bám lấy tâm hồn đứa trẻ. Dù cho tháng năm có trôi qua,
4
những kí ức ấy cũng sẽ để lại ít nhiều ấn tượng trong lòng đứa cháu để rồi khi nghĩ lại
lại thấy “sống mũi còn cay”. Là mùi khói làm cay mắt người người cháu hay chính là
tấm lòng của người bà làm đứa cháu không cầm được nước mắt?
“ Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm bếp
Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!”
“Cháu cùng bà nhóm lửa”, nhóm lên ngọn lửa củasự sống và của tìng yêu bà
cháy bỏng của một cậu bé hồn nhiên, trong trắng như một trang giấy.Chính hình ảnh
bếp lửa quê hương, bếp lửa của tình bà cháu đó đã gợi nên một liên tưởng khác, một
hồi ức khác trong tâm trí thi sĩ thuở nhỏ. Đó là tiếng chim tu hú kêu. Tiếng tu hú kêu
như giục giã lúa mau chín, người nông dân mau thoát khỏi cái đói, và dường như đó
cũng là một chiếc đồng hồ của đứa cháu để nhắc bà rằng: “Bà ơi, đến giờ bà kể
chuyện cho cháu nghe rồi đấy!”. Từ “tu hú” được điệp lại ba lấn làm cho âm điệu cấu
thơ thêm bồi hồi tha thiết, làm cho người đọc cảm thấy như tiếng tu hú đang từ xa
vọng về trong tiềm thức của tác giả.Tiếng “tu hú” lúc mơ hà, lúc văng vẳng từ nững
cánh đồng xa lâng lâng lòng người cháu xa xứ. Tiiếng chim tu hú khắc khoải làm cho
dòng kỉ niệm của đứa cháu trải dài hơn, rộng hơn trong cái không gian xa thẳng của
nỗi nhớ thương.

Nếu như trong những năm đói kém của nạn đói 1945, bà là người gắn bó với tác
giả nhất, yêu thương tác giả nhất thì trong tám năm ròng của cuộc kháng chiến chống
Mĩ, tình cảm bà cháu ấy lại càng sâu đậm:
“Mẹ cùng cha bận công tác không về
Kêu chi hoài trên những cách đồng xa”
Trong tám năm ấy, đất nước có chiến tranh, hai bà cháu phải rời làng đi tản cư,
bố mẹ phải đi công tác, cháu vì thế phải ở cùng bà trong quãng thời gian ấy, nhưng
dường như đối với đứa cháu như thế lại là một niềm hạnh phúc vô bờ.? cùng bà, ngày
nào cháu cũng cùng bà nhóm bếp. Và trong cái khói bếp chập chờn, mờ mờ ảo ảo ấy,
người bà như một bà tiên hiện ra trong câu truyện cổ huyền ảo của cháu. Nếu như đối
với mỗi chúng ta, cha sẽ là cánh chim để nâng ước mơ của con vào một khung trời
mới, mẹ sẽ là cành hoa tươi thắm nhất để con cài lên ngực áo thì đoiá với Bằng Việt,
người bà vừa là cha, vừalà mẹ, vừa là cách chim, là một cành hoa của riêng ông. Cho
nên, tình bà cháu là vô cùng thiêng liêng và quý giá đối với ông. Trong những tháng
năm sống bên cạnh bà, bà không chỉ chăm lo cho cháu từng miếng ăn, giấc ngủ mà
còn là người thầy đầu tiên của cháu. Bà dạy cho cháu những chữ cái, những phép tính
đầu tiên. Không chỉ thế, bà còn dạy cháu những bài học quý giá về cách sống, đạo làm
người. Nững bài học đó sẽ là hành trang mang theo suốt quãng đời còn lại của cháu.
Người bà và tình cảm mà bà dành cho cháu đã thất sự một chỗ dựa vững chắc về cả
vật chất lẫn tinh thần cho đứa cháu be ùbỏng. Cho nên khi bây giờ nghĩ về bà, nhà thơ
càng thương bà hơn vì cháu đã đi rồi, bà sẽ ở với ai, ai sẽ người cùng bà nhóm lửa, ai
sẽ cùng bà chia sẻ những câu chuyện những ngày ở Huế, Thi sĩ bổng tự hỏi lòng
mình: “Tu hú ơi, chẳng đến ở cùng bà?”. Một lời than thở thể hiện nỗi nhớ mong bà
sâu sắc của đứa cháu nơi xứ ngươi. Chỉ trong một khổ thơ mà hai từ “bà”, “cháu” đã
5
được nhắc đi nhắc lại nhiều lấn gợi lên hình ảnh hai bà cháu sóng đôi, gắn bó, quấn
qúit không rời.
Chiến tranh, một danh từ bình thườnh nhưng sức lột tả của nó thì khốc liệt vô
cùng, nó đã gây ra đau khổ cho bao người, bao nhà. Và hai bà cháu trong bài thơ cũng
trở thành một nạn nhân của chiến tranh: gia đình bị chia cắt, nhà bị giặc đốt cháy rụi

“Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi
Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!’
Cuộc sống càng khó khăn, cảnh ngộ càng ngặt ngèo, nghị lứccủa bà càng bền
vững, tấm lòng ủa bà càng mênh mông. Qua đó, ta thấy hiện lên một người bà cần cù,
nhẫn nại và giàu đức hi sinh. Dù cho ngôi nhà, túp lều tranh của hai bà cháu đã bị đốt
nhẵn, nơi nương thân của hai bà cháu nay đã khong còn, bà dù có đau khổ thế nào
cũng không dám nói ra vì sợ làm đứa cháu bé bong của mình lo buồn. Bà cứng rắn, dắt
cháu vượt qua mọi khó khăn, bà không đứa con đang bận việc nước phải lo lắng
chuyện nhà. Điều đó ta có thể thấy rõ qua lới dặn của bà: “Mày có viết thư chớ kể này
kể nọ / Cứ bảo nhà vẫn đươc bình yên!”. Lới dăn của bà nôm na giản dị nhưng chất
chứa biết bao tình. Gian khổ, thiếu thốn, bao nỗi nhớ thương con bà đều phải nén vào
trong lòng để yên lòng người nơi tiền tuyến. Hình ảnh người bà không chỉ còn là
người bà của riêng cháu mà còn là một biểu tượng rõ nét cho nhữnh người phụ nữa
Việt Nam giàu đức hi sinh, thương con qúy cháu.
Kết thúc khổ thơ, Bằng Việt đã nâng hình ảnh bếp lửa trở thành hình ảnh ngọn,
một ngọn lửa:
“Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn,
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng”.
Hình ảnh ngọn lửa toả sáng trong câu thơ, nó có sức truyền cảm mạnh mẽ. Ngọn
lửa của tình yên thương, ngọn lửa của niềm tin, ngọn lửa ấm nồng như tình bà cháu,
ngọn lửa đỏ hồng si sáng cho con đường đứa cháu. Bà luôn nhắc cháu rằng: nơi nào có
ngọn lửa, nơi đó có bà, bà sẽ luôn ở cạnh cháu.
Những dòng thơ cuối bài cũng chính là những suy ngẫm về bà và bếp lửa mà nhà thớ
muốn gởi tới bạn đọc, qua đó cũng là nhữngbài học sâu sắc từ công việc nhó, lửa
tưởng chừng đơn giản:
“ Nhóm bếp lửa ấp iu, nồng đượm”
Một lấn nữa, hình ảnh bếp lửa “ ấp iu”, “nồng đượm” đã được nhắc lại ở cuối
bài thơ như một lần nữa khẳng định lại cái tình cảm sâu sắc của hai bà cháu.
“Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi”
Nhóm lên bếp lửa ấy, người bà đã truyền cho đứa cháu một tình yêu thương

những người ruột thịt và nhắc cháu rằng không bao giờ được quên đi những năm
tháng nghĩ tình, những năm tháng khó khăn mà hai bà cháu đã sống vơi nhau, những
năm tháng mà hai bà cháu mình cùng chia nhau từng củ sắn, củ mì.
“Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui”
“Nồi xôi gạo mới sẻ chung vui” của bà hay là lời răng dạy cháu luôn phải mở
lòng ra với mọi người xung quanh, phải gắn bó với xóm làng, đừng bao giờ có một lối
6
sống ích kỉ.
“Nhóm dậy cả những tâm tinh tuổi nhỏ”.
Bà không chỉ là người chăm lo cho cháu đấy đủ về vật chất mà c2n là người làm
cho tuổi thơ của cháu thêm đẹp. th6m huyền ảo như trong truyện. Người bà có trái tim
nhân hậu, người bà kì diệu đã nhóm dậy, khơi dậy, giáo dục và thức tỉnh tâm hồn đứa
cháu để mai này cháu khôn lớn thành người. Người bà kì diệu như vậy ấy, rất giản dị
nhưng có một sức mạnh kì diệu tứ trái tim, ta có thể bắt gặp người bà như vậy trong
“Tiếng gà trưa” của Xuân Quỳnh. Suốt dọc bài thơ, mười lấn xuất hiện hình ảnh bếp
lửa là mười lần tác giả nhắc tới bà.Âm điệu những dòng thơ nhanh mạnh như tình cảm
dâng trào lớp lớp sóng vỗ vao bãi biễn xanh thẳm lòng bà. Người bà đã là, đang là và
sẽ mãi mãi là người quan trọng nhất đối với cháu dù ở bất kì phương trời nào. Bà đã
trờ thành một người không thể thiếu trong trái tim cháu. Giờ đây, khi đang ở xa bà nửa
vòng trái đất, Bằng Việt vẫn luôn hướng lòng mình về bà:
“Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàu
Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?”
Xa vòng tay chăm chút cuả bà để đến vơí chân trơì mới, chính tình cảm cuả hai
bà chaú đã sươỉ ấm lòng tác giả trong cái muà đông lạnh giá cuả nước Nga. Đứa cháu
nhỏ cuả bà ngàu xưa giờ đã trưởng thành nhưng trong lòng vần luôn đinh ninh nhớ về
góc bếp, nới nắng mưa hai bà cháu có nhau. Đưá cháu sẽ không bao giờ quên và chẳng
thể nào quên được vì đó chính là nguồn cội, là nơi mà tuổi thơ cuả đưá chaú đã được
nuôi dưỡng để lớn lên từ đó.

3. Phân tích bài thơ "Con cò" của Chế Lan Viên

Con cò là hình ảnh quen thuộc với làng quê Việt Nam tự bao đời. Chính vì thế
mà từ lúc nào không biết, hình ảnh cò đã đi vào ca dao, dân ca Việt Nam một cách
bình thường nhưng lại mang ý nghĩa sâu sắc biểu trưng cho hình tượng người phụ nữ
Việt Nam chịu thương chịu khó. Và cũng có khi hình ảnh cò được mượn để ví cho
thân phận người phụ nữ thấp bé trước xã hội phong kiến lúc bấy giờ. Cảm nhận từ tình
mẹ thiêng liêng, cảm nhận vẻ đẹp sâu sắc của hình ảnh cò, tác giả Chế Lan Viên đã
mượn chất liệu là những bài ca dao, dân ca Việt Nam để dệt nên bài thơ "Con cò" ca
ngợi tình mẫu tử thiêng liêng và nỗi nhọc nhằn nuôi con khôn lớn của người phụ nữ,
người mẹ. Bài thơ đã nhanh chóng được mọi người biết đến và trở thành một trong
những tác phẩm tiêu biểu viết về tình mẹ.
Khổ thơ đầu được viết một cách nhẹ nhàng, êm, ái:
Con còn bế trên tay ….
Sữa mẹ nhiều, con ngủ chẳng phân vân.
Đúng là đứa trẻ còn quá bé bỏng để hiểu được thế nào là "con cò", "con
vạc", thế nhưng ngay từ giấc ngủ đầu nôi, người mẹ đã nhẹ nhàng đem cánh cò đến
với con bằng lời ru dịu dàng, nồng ấm. Điệp từ "con cò" được nhắc đi, nhắc lại ở câu
7
bốn đến câu tám của khổ thơ đầu như một điệp khúc ngân nga, nhịp nhàng. Người đọc
cảm nhận được trong thơ có nhạc. Nhạc điệu là lời ru của mẹ đối với con, là lời kể, tả
của mẹ về hình ảnh cò trong dân gian cho con nghe. Hình ảnh "con cò bay la, bay
lả", từ "cổng phủ" cho đến "Đồng Đăng" miêu tả hình ảnh cò thung dung bay lượn
một cách tự do trên khắp mọi nẻo quê hương, trở thành biểu tượng gắn bó với làng
quê Việt Nam. Hình ảnh cò "xa tổ", cò "ăn đêm", sợ gặp "cành mềm", sợ bị "xáo
măng" gợi hình ảnh cò lẻ loi một mình đi kiếm mồi trong đêm tăm tối có muôn vàn
cạm bẫy đang chực chờ phía trước. Phải chăng, tác giả muốn nhắc đến thân phận yếu
đuối của người phụ nữ và nỗi vất vả gian truân trong cuộc mưu sinh để nuôi con âm
thầm, khi bên ngoài xã hội còn nhiều cạm bẫy đang chực chờ. Mặc dù người mẹ biết
con mình còn quá bé bỏng trước cuộc đời. Nhưng mẹ muốn hát cho con nghe để con
hình thành tình yêu thương đối với những gì thuộc về quê hương, đất nước, hiểu được
tình thương bao la mà mẹ dành cho con. Bên cạnh đó, mẹ muốn con hãy yên tâm trước

cuộc đời, vì đã có mẹ chở che trong câu: "sữa mẹ nhiều, con ngủ chẳng phân vân".
Đọc đến đây, ta cảm động trước tình mẹ bao la, sâu sắc, vỗ về, chở che ta từ khi còn
tấm bé. Để rồi, khi ta từng bước trưởng thành, vẫn có mẹ bên cạnh xẻ chia:
Ngủ yên! Ngủ yên! Ngủ yên!
Trước hiên nhà và trong hơi mát câu văn.
Khổ thơ thứ hai có thể chia làm ba giai đoạn, tựu chung lại vẫn là ý
nghĩa của hình ảnh cò gắn bó mật thiết và trở nên người bạn đồng hành đối với cuộc
đời con trẻ từ lúc ấu thơ cho đến khi trưởng thành.
Đoạn đầu từ: Ngủ yên! Ngủ yên! Ngủ yên!
Cánh của cò, hai đứa đắp chung đôi.
Là mối tương quan mật thiết giữa cò với con trẻ trong suốt thời thơ ấu. Cò "đứng
ở quanh nôi", rồi cò "vào trong tổ"; còn có ngủ thì cò mới ngủ. Hình ảnh cò tới đây
không còn là hình ảnh con cò giản dị nữa, mà đã ẩn dụ cho hình tượng người mẹ chăm
sóc, vỗ về, ấp iu cho con từng miếng ăn, giấc ngủ. Khi con lớn hơn một chút thì tình
yêu mẹ dành cho con như thế nào? Đoạn thứ hai:
" Mai khôn lớn con theo cò đi học
Cánh trắng cò bay theo gót đôi chân"
Là hình ảnh đồng hành của người mẹ với con mình trong thời niên thiếu. Buổi ban
đầu chập chững bước vào cuộc đời, đứa trẻ cần lắm đôi tay dìu dắt của mẹ. Thế
nhưng, người mẹ sẽ không dìu dắt con mãi mãi, mà theo năm tháng, mẹ tập cho con tự
bước đi trên đôi chân chính mình. Có thể thấy: ban đầu, thì cò dắt con đi học. Nhưng
dần dà, cánh trắng cò chỉ bay theo gót chân con. Khi con đến giai đoạn niên thiếu, tình
thương của mẹ dành cho con đã có cách thể hiện khác. Mẹ không còn nâng niu con
nữa, mà chỉ đồng hành bên con, dõi theo mỗi bước chân con. Mẹ muốn con tự đi trong
cuộc đời bằng đôi chân của chính mình. Vì chỉ có thế, bước chân con mới vững chãi,
không sợ bị vấp ngã. Ta cảm nhận được tình mẹ vừa sâu sắc, lại vừa phong phú, cách
thể hiện đa dạng. Một lần nữa, ta hiểu thêm về mẹ, chợt nhận hối hận ra ta cũng đã có
lúc hiểu lầm về mẹ. Đoạn thứ ba nói lên hình ảnh cò-hình ảnh mẹ đã đi vào tiềm thức,
8
hóa nên tâm hồn phong phú cho con người khi trưởng thành:

Lớn lên! Lớn lên! Lớn lên….
Trước hiên nhà và trong hơi mát câu văn.
Cho dù lúc trưởng thành con có làm bất cứ nghề nghiệp gì, thì hình ảnh mẹ luôn
là nguồn cảm xúc dạt dào, là chất xúc tác giúp con thành công hơn trên bước đường
công danh sự nghiệp. Hình ảnh thân thương của mẹ trở nên ý nghĩa lớn lao với cuộc
đời mỗi người
Khổ thơ thứ ba thật giản dị mà lại gây nên xúc động với người đọc bởi lời mẹ
chân tình, tha thiết:
Dù được gần con……
Đi hết đời, lòng mẹ vẫn yêu con.
Phải chăng đây cũng chính là lời tự sự của tất cả những người mẹ có con cái đã
trưởng thành, có khung trời và lối đi riêng? Cho dù bất cứ nơi đâu, bất cứ hoàn cảnh
nào, mẹ vẫn dang rộng vòng tay yêu thương, vẫn là bến bờ, là điểm tựa cho con bởi:"
con dù lớn vẫn là con của mẹ". Thế nên "đi hết đời, lòng mẹ vẫn theo con". Có biết
bao nhiêu thứ tình cảm trên đời, nhưng có tình nào bao la, sâu sắc và vô tận như tình
mẹ dành cho ta.
Bài thơ được mở đầu bằng những câu hát ru và kết lại cũng bằng lời ru à ơi:
À ơi!
Quanh nôi.
Lời ru đến lúc này sao thắm đượm quá đỗi tình mẫu tử thiêng liêng của mẹ.
lại một lần nữa các cụm từ:"ngủ đi", "cánh cò, cánh vạc", "nôi" được nhắc lại
nhằm gợi về kỉ niệm tuổi thơ, nhắc nhớ về giấc ngủ đầu nôi cũng là dấu ấn thiêng
liêng trong tâm thức của mỗi người.
Chế Lan Viên đã sáng tác bài thơ này với một sự chiêm nghiệm sâu sắc về tình mẹ
con. Ông đã thể hiện niềm yêu kính đối với hình tượng người mẹ bằng giọng thơ nhẹ
nhàng, trau chuố
Tình mẹ, chắc có lẽ trong tâm thức mỗi con người đều cảm nhận được. Thế
nhưng, với bài thơ "Con Cò" của Chế Lan Viên, ta như được trãi nghiệm và hiểu thêm
một cách sâu sắc về ý nghĩa của tình mẹ trong cuộc đời của mỗi con người.



4. Phân tích bài thơ “Viếng lăng Bác” của Viễn Phương
Chủ tịch Hồ Chí Minh - vị cha già kính yêu của dân tộc Việt Nam – đã cống hiến
trọn đời mình vì sự nghiệp giải phóng đất nước. Người ra đi năm 1969, để lại biết bao
nỗi thương nhớ và xót xa cho Tổ quốc. Có nhiều nhà thơ đã viết bài thơ tưởng nhớ về
Bác, và “Viếng lăng Bác” của Viễn Phương là một trong những bài thơ xuất sắc nhất.
Chúng ta hãy cùng đến với bài thơ để cảm nhận được cảm xúc ấy.
“Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
9
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này”
Năm 1976, sau ngày đất nước ta được hoàn toàn giải phóng, lăng Bác được khánh
thành. Nhà thơ Viễn Phương từ NNam đã ra thăm lăng Bác. Cảm xúc dâng trào, nhà
thơ đã làm một bài thơ như một lời bộc bạch chân tình của hàng triệu người con
NNam với Bác. Đây là một bài thơ đặc sắc, giàu ý nghĩa, làm cho người đọc xúc động.
Hai khổ thơ đầu là những dòng cảm xúc ban đầu của nhà thơ khi được lần đầu đến
thăm lăng Bác: một chút tự hào, xen lẫn vui sướng, lẫn xúc động khi sắp đc kề cận bên
Ng` cha thân yêu của dtộc.Bằng những h/ả ẩn dụ giàu sức gợi, n/ngữ bình dị mà hàm
súc, tinh tế, đoạn thơ đã để lại trong lòng người đọc những cảm xúc vô cùng sâu sắc.
Hai khổ cuối bài thơ như những nốt nhạc du dương, trầm bổng, réo rắt như tấm
lòng tha thiết yêu mến của nhà thơ với Bác. Bằng những ngôn từ ẩn dụ đặc sắc,từ ngữ
bình dị mà giàu sức gợi, câu thơ đã khơi gợi trong lòng người đọc những rung động
sâu sắc và đáng quý.
Bài thơ được phân chia theo bố cục thời gian, và khổ thơ đầu tiên nói về cảm xúc của
tác giả khi nhìn thấy lăng Bác từ xa. “Con ở miền Nam ra
thăm lăng Bác”
Câu thơ đầu tiên thật ngắn gọn nhưng nó lại là một lời tâm sự chân tình của nhà
thơ cũng như hàng triệu người con miền Nam. Một tiếng “con” thật ấm áp, gần gũi,
thể hiện lòng kính yêu to lớn đối với Bác. Bác thật gần gũi với người dân, như là một
vị cha già của dân tộc. “Con ở miền Nam” - mấy tiếng ấy bao hàm một nỗi đau và một
niềm tự hào. Miền Nam gian khổ và anh hùng, miền Nam đi trước về sau, miền Nam

thành đồng Tổ quốc, miền Nam vừa chiến thắng kẻ thù hung bạo trở về trong đại gia
đình Việt Nam đây Bác ơi! Nhà thơ mong nhìn thấy Bác một lần sau khi đất nước đã
giải phóng nhưng thật đau xót, Bác đã không còn. Vì vậy, từ “viếng” đã được nhà thơ
thay bằng từ “thăm” để giảm nhẹ nỗi đau cũng như bày tỏ niềm tin rằng Bác vẫn sống
mãi.
“Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng”
Đập vào mắt nhà thơ là hình ảnh hàng tre xanh ngắt trước lăng Bác. Cây tre - biểu
tượng cho sự bất khuất, kiên cường nhưng giản dị, thanh cao của người dân Việt Nam
– đã để lại một dấu ấn đậm nét trong lòng tác giả trước khi bước vào lăng Bác. Hàng
tre bát ngát – Hàng tre xanh xanh – Hàng tre Việt Nam: hàng tre bao đời như một dấu
hịêu đặc biệt của dân tộc. Hàng tre trùm bóng mát rượi lên bao thế hệ cuộc đời, hàng
tre mang bao phẩm chất của con người Tổ quốc ta: dẻo dai, đoàn kết, bất khuất, kiên
cường. Ở Bác có tất cả những gì mà những con người Việt Nam từng có, cũng cái dấu
hiệu xanh tươi sự sống ấy, cũng cái kiên cường “đứng thẳng hàng” trong “bão táp
mưa sa” ấy. Dân tộc ta thật sự có sức sống mãnh liệt, cho dù những thử thách của
thiên nhiên, của lịch sử có khắc nghiệt cách mấy thì vẫn kiên cường chống chọi, và
vẫn cố gắng đứng thẳng chứ nhất quyết không chịu bị bẻ cong. Hàng tre đứng đó, bên
10
lăng Bác như ru giấc ngủ ngàn thu của Bác, gắn bó mãi mãi với Bác như dân tộc Việt
Nam vẫn kính trọng Bác mãi mãi.
Đến gần lăng Bác, xếp hàng vào viếng thì tác giả có thêm nhiều cảm xúc mới.
“Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ”
Hai câu thơ sinh động với nhiều hình ảnh gợi cảm được tạo nên từ những hình
ảnh thực và hình ảnh ẩn dụ sóng đôi với nhau. Một mặt trời thực đi qua trên lăng, là
mặt trời của tự nhiên, của muôn loài, soi sáng cho muôn loài, đem lại sức sống cho thế
giới. Từ mặt trời thật ấy, một mặt trời ẩn dụ khác hiện ra trong lăng, rất đỏ. Bác nằm
trong lăng với ánh sáng đỏ xung quanh như một mặt trời. Bác tồn tại vĩnh cửu trong

lòng mỗi người dân Việt Nam như sự tồn tại của một mặt trời thật. Bác soi sáng đường
cho dân tộc ta đi, cống hiến cả cuộc đời cho sự nghiệp giành độc lập của Tổ quốc. Bác
giúp nhân dân ta thoát khỏi kiếp sống nô lệ, trở thành một con người tự do để bây giờ
được hạnh phúc. Công lao của Bác đối với dân tộc ta cũng như mặt trời, to lớn không
kể xiết. Bác là một mặt trời. Cái ẩn dụ mặt trời ở đây không biết đã đủ nói về Bác
chưa ?. Không, nếu nói Bác là mặt trời thì phải nhấn mạnh thêm cho rõ cái đặc tính
của vầng mặt trời ấy: rất đỏ. Cái mặt trời đang tỏa sáng trên cao kia, cái mặt trời của
thiên nhiên, tượng trưng của nguồn nóng, nguồn sáng, nguồn sự sống ấy, không phải
bao giờ cũng nguyên vẹn thế đâu, không phải lúc nào cũng ấm nóng thế đâu! Vầng
mặt trời ấy có thể bị bóng đêm lấn át. Nhưng vầng mặt trời Bác Hồ của ta thì mãi mãi
đỏ thắm, mãi mãi là nguồn sưởi ấm, nguồn sáng soi đường cho con người Việt Nam.
Hôm nay có hai mặt trời chiếu rọi trên đường đời: một mặt trời tỏa sáng trước mặt,
một mặt trời tỏa sáng tâm hồn…Như mặt trời kia, Bác thuộc về vĩnh cửu. Bác sẽ sống
mãi trong lòng mỗi con người Việt Nam.
“Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân…”
Cùng với mặt trời đi qua trên lăng, ngày ngày dòng người vẫn đi qua lăng trong
thương nhớ. Điệp ngữ “ngày ngày” ý nói rằng nhân dân ta mãi luôn ghi nhớ công lao
to lớn của Bác, mãi mãi là như vậy. Nhịp thơ của đoạn chậm, diễn tả đúng tâm trạng
khi đứng xếp hàng trước lăng chờ đến lượt vào, ngậm ngùi tưởng nhớ đến Bác đã
khuất. Tuy vậy, nhịp thơ chầm chậm như bước chân người đi trong cuộc tưởng niệm
mà sao câu thơ vẫn không buồn ? Phải rồi. Chúng ta không làm cái việc tưởng niệm
bình thường với Bác như một người đã khuất. Dòng người đang đi đây là đang đi
trong cuộc hành trình ngợi ca vinh quang của Bác. Và tràng hoa vinh quang này không
phải được kết bằng những bông hoa bình thường như mọi tràng hoa vinh hiển khác
trên đời đâu. Tràng hoa đây là một hình ảnh ẩn dụ của tác giả, đó chính là những đoá
hoa thật sự của đời, là đàn con mà Bác đã cố công tạo nên suốt bảy mươi chín mùa
xuân Bác sống trên đời. Những bông hoa trong vườn Bác nay đã lớn lên, nở rộ ngát
hương kính dâng lên Bác.
Vào bên trong lăng Bác, thấy Bác đang nằm đó, nhà thơ lại một lần nữa cố giấu

tiếng nấc nghẹn ngào:
11
“Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền”
Khung cảnh bên trong lăng thật êm dịu, thanh bình. Lúc này, trước mặt mọi
người chỉ có hình ảnh Bác. Bác nằm đó trong giấc ngủ vĩnh hằng. Bác mất thật rồi
sao? Không đâu. Bác chỉ nằm đó ngủ thôi, Bác chỉ ngủ thôi mà! Suốt bảy mươi chín
năm cống hiến cho đất nước, bây giờ đất nước đã bình yên, Bác phải được nghỉ ngơi
chứ. Bao quanh giấc ngủ của Bác là một “vầng trăng sáng dịu hiền”. Đó là hình ảnh
ẩn dụ cho những năm tháng làm việc của Bác, lúc nào cũng có vầng trăng bên cạnh
bầu bạn. Từ giữa chốn tù đày, đến “cảnh khuya” núi rừng Việt Bắc, rồi “nguyên
tiêu”…Tuy vậy, Bác chưa bao giờ thảnh thơi để ngắm trăng đúng nghĩa. Khi thì
“trong tù không rựơu cũng không hoa”, khi thì “việc quân đang bận”. Chỉ có bây giờ,
trong giấc ngủ yên, vầng trăng ấy mới thật sự là vầng trăng yên bình, để Bác nghỉ ngơi
và ngắm. Trăng dịu hiền, soi sáng hình ảnh Bác. Nhìn Bác ngủ ở đấy thật bình yên,
nhưng có một sự thật dù đau lòng cách mấy ta vẫn phải chấp nhận: Bác đã thật sự ra đi
mãi mãi.
“Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim!”
Trời xanh bao la kia kéo dài đến vô tận, không bao giờ chấm dứt. Dù lí trí vẫn
luôn trấn an lòng mình rằng Bác vẫn sống đấy, vẫn còn dõi theo Tổ quốc mãi mãi như
màu xanh thanh bình trên nền trời Tổ quốc độc lập nhưng con tim ta vẫn nhói đau vì
một sự thật đau lòng. Một từ “nhói” của nhà thơ nói hộ ta nỗi đau đớn, nỗi đau vượt
lên mọi lí lẽ, mọi lập luận lí trí. Bác như trời xanh, Bác là mãi mãi, Bác vẫn sống trong
tâm tưởng mỗi chúng ta, Bác mãi hiện diện trên mỗi phần đất, mỗi thành quả, mỗi
phần tử tạo nên đất nước này. Nhưng mà Bác mất thật rồi, ta không còn có Bác trong
cuộc đời thường này. Mất Bác, cái thiếu vắng ấy liệu có thể nào bù đắp được? Tổ quốc
ta đã thật sự không còn Bác dõi theo từng bước chân, không còn được Bác nâng đỡ
mỗi khi vấp ngã. Bác ra đi, nỗi đau ấy liệu có từ ngữ nào diễn tả hết? Cả đàn con Việt
Nam luôn tiếc thương Bác, luôn nhớ về Bác như một cái gì đó thật vĩ đại, không thể

xoá nhoà. Dù Bác ra đi thật sự rồi nhưng những điều Bác đã làm vẫn sẽ đọng lại trong
tâm hồn, hình ảnh Bác vẫn tồn tại trường kì trong trái tim mỗi người dân Việt Nam.
Cuối cùng dẫu thương tiếc Bác đến mấy, cũng đến lúc phải rời lăng Bác để ra về.
Khổ thơ cuối như một lời từ biệt đầy xúc động:
“Mai về miền Nam thương trào nước mắt”
Ngày mai phải rời xa Bác rồi. Một tiếng “thương của miền Nam” lại vang lên, gợi
về miền đất xa xôi của Tổ quốc, một nơi từng có vị trí sâu sắc trong trái tim người.
Một tiếng “thương” ấy là yêu, là biết ơn, là kính trọng cuộc đời cao thượng, vĩ đại của
Người. Đó là tiếng thương của nỗi đau xót khi mất Bác. Thương Bác lắm, nước mắt
trào ra, thật đúng là tình thương của người Việt Nam, vô bờ bến và rất thật.
“Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này”
12
Cùng với nỗi niềm yêu thương vô hạn, tác giả nói lên muôn vàn lời tự nguyện.
Điệp ngữ “muốn làm” khẳng định mạnh mẽ những ước nguyện ấy. Ước chi ta có thể
biến hình thành những gì thân yêu quanh nơi Bác ngủ để mãi mãi được chiêm ngưỡng
Bác, cuộc đời và tâm hồn của Bác, để bày tỏ lòng ta với Bác. Một con chim nhỏ góp
tiếng hót làm vui những bình minh của Bác, một đóa hoa góp mùi hương làm thơm
không gian quanh Bác hay một cây tre trong hàng tre xanh xanh VN tỏa bóng mát dịu
dàng quê hương của Bác, tất cả đều làm Bác vui và ngủ an giấc hơn. Đây cũng chính
là nguyện ước chân thành, sâu sắc của hàng triệu con tim người Việt sau một lần ra
thăm lăng Bác. Bác ơi! Bác hãy ngủ lại bình yên nhé, chúng cháu về miền Nam tiếp
tục xây dựng Tổ quốc từ nền móng Bác đã tạo ra đây! Câu thơ trầm xuống để kết thùc,
ngừng lặng hòan toàn.
Về nghệ thuật, bài thơ Viếng lăng Bác có nhiều điểm nghệ thuật rất đặc sắc, giúp
biểu hiện thành công thêm về những giá trị nội dung. Bài thơ viết theo thể tám chữ,
trong có có xen một vài câu bảy và chín chữ. Nhiều hình ảnh trong bài thơ lấy từ ngoài
đời thực đã được ẩn dụ, trở thành một cách thể hiện cảm xúc thành kính của tác giả.
Nhịp thơ của bài linh hoạt, lúc nhanh là biểu hiện cho ước nguyện đền đáp công ơn

Bác, lúc chậm là lúc thể hiện lòng thành kính với Bác. Giọng điêu của bài trang trọng,
tha thiết, ngôn ngữ thơ bình dị mà cô đúc.
Bằng những từ ngữ, lời lẽ chân thành, giàu cảm xúc, nhà thơ Viễn Phương đã bày
tỏ được niềm xúc động cùng lòng biết ơn sâu sắc đến Bác trong một dịp ra miền Bắc
viếng lăng Bác. Bài thơ như một tiếng nói chung của toàn thể nhân dân Việt Nam,
biểu lộ niềm đau xót khi thấy Bác kính yêu ra đi. Qua bài thơ, tôi cảm thấy rằng đất
nước ta có hoà bình như ngày hôm nay một phần lớn là nhờ công lao của Bác, như vậy
chúng ta cần phải biết xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ta, để những công ơn to lớn của
Bác không bị bỏ phí.
5. Phân tích bài thơ “ Ánh trăng” của Nguyễn Duy
Trăng- hình ảnh giản dị mà quen thuộc, trong sáng và trữ tình. Trăng đã trở thành
đề tài thường xuyên xuất hiện trên những trang thơ của các thi sĩ qua bao thời đại. Nếu
như “ Tĩnh dạ tứ” cũa Lí Bạch tả cảnh đêm trăng sáng tuyệt đẹp gợi lên nỗi niềm nhớ
quê hương, “ Vọng nguyệt” của Hồ Chí Minh thể hiện tâm hồn lạc quan, phong thái
ung dung và lòng yêu thiên nhiên tha thiết của Bác thì đến với bài thớ “Ánh trăng” của
Nguyễn Duy, chúng ta bắt gặp hình ảnh vầng trăng mang ý nghĩa triết lí sâu sắc. Đó
chính là đạo lí “uống nước nhớ nguồn”.
Những sáng tác thơ của Nguyễn Duy sâu lắng và thấn đẫm cái hồn của ca dao, dân ca
Việt Nam . Thơ ông không cố tìm ra cái mới mà lại khai thác, đi sâu vào cái nghĩa tình
muôn đời của người Việt. “Ánh trăng” là một bài thơ như vậy.Trăng đối với nhà thơ
có ý nghĩa đặïc biệt: đó là vầng trăng tri kỉ, vầng trăng tình nghĩa và vầng trăng thức
tỉnh. Nó như một hồi chuông cảng tỉnh cho mỗi con người có lối sống quên đi quá
khứ.
Tác giả đã mở đầu bài thơ với hình ảnh trăng trong kí ức thuổi thơ của nhà thơ
13
và trong chiến tranh: “Hồi nhỏ sống với đồng
vầng trăng thành tri kỉ”
Hình ảnh vầng trăng đang được trải rộng ra trong cái không gian êm đềm và
trong sáng của thuổi thơ. Hai câu thơ với vỏn vẹn mười chữ nhưng dường như đã diễn
tả một cách khái quát về sự vận động cả cuộc sống con người. Mỗi con người sinh ra

và lớn lên có nhiều thứ để gắn bó và liên kết. Cánh đồng, sông và bể là nhưng nơi
chốn cất giữ bao kỉ niệm của một thời ấâu thơ mà khó có thể quên được. Cũng chính
nới đó, ta bắt gặp hình ảnh vầng trăng. Với cách gieo vần lưng “đồng”, “sông” và điệp
từ “ với” đã diễn tả tuổi thơ được đi nhiều, tiếp xúc nhiều và được hưởng hạnh phúc
ngắm những cảnh đẹp của bãi bồi thiên nhiên cũa tác giả.Tuổi thơ như thế không phải
ai cũng có được ! Khi lớn lên, vầng trăng đã tho tác giả vào chiến trường để “chờ giặc
tới’.Trăng luôn sát cách bên người lính, cùng họ trải nghiệm sương gió, vượt qua
những đau thương và khốc liệt của bom đạn kẻ thù. Người lính hành quân dưới ánh
trăng dát vàng con đường, ngủ dưới ánh trăng, và cũng dưới ánh trăng sáng đù, tâm sự
của những người lính lại mở ra để vơi đi bớt nỗi cô đơn, nỗi nhớ nhà. Trăng đã thật sự
trởø thành “tri kỉ” của người lính trong nhưng năm tháng máu lửa.
Khổ thơ thứ hai như một lời nhắc nhở về những năm tháng đã qua của cuộc đời
người lính gắn bó với thiên nhiên, đất nước hiền hậu, bình dị. Vầng trăng đù, người
bạn tri kỉ đó, ngỡ như sẽ không bao giờ quên được:
“Trần trụi với thiên nhiên
cái vầng trăng tình nghĩa”
Vần lưng một lần nữa lại xuất hiện: “trần trụi”, “hồn nhiên”, “thiên nhiên” làm cho
âm điệu câu thơ thêm liền mạch, dường như nguồn cảm xúc cũa tác giả vẫng đang tràn
đầy. Chính cái hình ảnh so sánh ẩn dụ đã tô đâm lên cái chất trần trụi, cái chất hồn
nhiên của người lính trong nhữnh năm tháng ở rừng. Cái vầng trăng mộc mạc và giản
dị đó là tâm hồn của những người nhà quê, của đồng, của sông. của bể và của những
người lính hồn nhiên, chân chất ấy. Thế rồi cái tâm hồn - vầng trăng ấy sẽ phài làm
quen với môt hoàn cảnh sống hoàn toàn mới mẻ:
“Từ hồi về thành phố
như người dưng qua đường”
Thời gian trôi qua cuốn theo mọi thứ như một cơn lốc, chỉ có tình cảm là còn ở
lại trong tâm hồn mỗi con người như một ánh dương chói loà. Thế nhưng con người
không thể kháng cự lại sự thay đổi đó.Người lính năm xưa nay cũng làm quen dần với
những thứ xa hoa nơi “ánh điện, cửa gương”. Và rồi trong chính sự xa hoa đó, người
lính đã quên đi người bạn tri kỉ của mình, người bạn mà tưởng chừng chẳng thể quên

được, “người tri kỉ ấy” đi qua ngõ nhà mình nhưng mình lại xem như không quen
không biết. Phép nhân hoá vầng trăng trong câu thơ thật sự có cái gì đó làm rung động
lòng người đoc bởi vì vầng trăng ấy chính là một con người.
Cũng chính phép nhân hoá đó làm cho người đọc cảm thương cho một “người
bạn” bị chính người bạn thân một thời của mình lãng quên. Sự ồn ã của phố phường,
những công việc mưu sinh và những nhu cầu vật chất thường nhật khác đã lôi kéo con
14
gười ra khỏi những giá trị tinh thần ấy, một phần vô tâm của con người đã lấn át lí trí
của người lính, khiến họ trở thành kẻ quay lưng với quá khứ. Con người khi được
sống đầy đủ về mặt vật chất thì thường hay quên đi những giá trị tinh thần, quên đi cái
nền tảng cơ bản củacuộc sống, đó chình là tình cảm con người. Nhưng rồi một tình
huống bất ngờ xảy ra buộc ngươi lính phải đối mặt:
“Thình lình đèn điện tắt
đột ngột vầng trăng tròn”
Khi đèn điện tắt, cũng là khi không còn được sống trong cái xa hoa, đầy đủ về
vật chất, người lính bỗng phải đối diện với cái thực tại tối tăm. Trong cái “thình lình”,
“đột ngột” ấy, người lính vôi bật tung cửa sổ và bất ngờ nhận ra một cái gì đó. Đó
chẳng phải ai xa lạ mà chính là người bạn tri kỉ năm xưa của mình đây hay sao? Con
người ấy không hề biết được rằng cái người bạn tri kỉ, tình nghĩa, người bạn đã bị anh
ta lãng quên luôn ở ngoài kia để chờ đợi anh ta. “Người bạn ấy” không bao giờ bỏ rơi
con người, không bao giờ oán giận hay trách móc con người vì họ đã quên đi mình.
Vầng trăng ấy vẫn rất vị tha và khoan dung, nó cũng sẵn sàng đón nhận tấm lòng của
một con người biết sám hối, biết vươn lên hoàn thiện mình. Cuộc đời mỗi con người
không ai có thể đóan biết trước được. Không ai mãi sống trong một cuộc sống yên
bình mà không có khó khăn, thử thách. Cũng như một dòng sông, đời người là một
chuỗi dài với những qunh co, uốn khúc . Và chính trong những khúc quanh ấy, những
biến cố ấy, con người mới thật sự hiểu được cái gì là quan trọng, cái gì sẽ gắn bó với
họ trong suốt hành trình dài và rộng của cuộc đới. Dường như người lính trong bài thơ
đã hiểu được điều đó!
“Ngửa mặt lên nhìn mặt

như là sông là rừng”
Khi người đối mặt với trăng, có cái gì đókhiến cho người lính áy náydù cho
không bị quở trách một lời nào. Hai từ “mặt” trong cùng một dòng thô: mặt trăng và
mặt người đang cùng nhau trò chuyện . Người lính cảm thấy có cái gì “rưng rưng” tự
trong tận đáy lòng và dường như nước mắt đang muốn trào ra vì xúc động trước lòng
vị tha của người bạn “tri kỉ” của mình . Đối mặt với vầng trăng, bỗng người lính cảm
thấy như đang xem một thước phim quay chậm về tuổi thơ của mình ngày nào, nới có
“sông” và có “bể” .Chính những thước phim quay chậm ấy làm người lính trào dâng
nhưng nỗi niềm và ngững giọt nước mắt tuôn ra tự nhiên, không chút gượng ép nào!
Những giọt nước mắt ấy đã phần nào làm cho người lính trở nên thanh thản hơn, làm
tâm hồn anh trong sáng lại. Một lần nữa những hình tượng trong tuổi thơ và chiến
tranh được láy lại làm sáng tỏ những điều mà con người cảm nhận được. Cái tâm hồn
ấy, cái vẻ đẹp mộc mạc ấy không bao giờ bị mất đi, nó luôn lặng lẽ sống trong tâm
hồn mỗi con người và nó sẽ lên tiếng khi con người bị tổn thương. Đoạn thơ hay ở
chất thơ mộc mạc, chân thành, ngôn ngữ bình dị mà thấm thía, những hình ảnh đi vào
lòng người.
Vầng trăng trong khổ thớ thứ ba đã thực sự thức tỉnh con người:
“Trăng cứ tròn vành vạnh
15
kề chi người vô tình
ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình”
Khổ thơ cuối cùnh mang tính hàm súc độc đáo và đạt tới chiều sâu tư tưởng và
triết lí. “Trăng tròn vành vạnh” là vẻ đẹp của trăng vẫn viên mãn, tròn đầy và không
hề bị suy suyển dù cho trải qua biết bao thăng trầm. Trăng chỉ im lặng phăng phắc,
trăng không nói gì cả, trăng chỉ nhìn, nhưng cái nhìn đó đủù khiến cho con người giật
mình. Ánh trăng như một tấm gương để cho con người soi mình qua đó, để con người
nhận ra mình để thức tỉnh lương tri. Con người có thể chối bỏ, có thể lãng quên bất cứ
điều gì trong tâm hồn anh ta . Nhưng dù gì đi nũa thì những giá trị văn hoá tinh thần
của dân tộc cũng luôn vậy bọc và che chở cho con người.

“Ánh trăng” đã đi vào lòng người đọc bao thế hệ như một lời nhắc nhở đối
với mỗi người: Nếu ai đã lỡ quên đi, đã lỡ đánh mất những giá trị tinh thần qúy giá thì
hãy thức tỉnh và tìmlại những giá trị đó. còn ai chưa biết coi trọng những giá trị ấy thì
hãy nâng niu những kí ức quý giá của mình ngay từ bây giờ, đừng để quá muộn. Bài
thơ không chỉ hay về mắt nội dung mà cón có những nét đột phá trong nghệ thuật. Thể
thơ năm chữ được vận dụng sáng tạo, các chữ đầu dòng thơ không viết hoa thể hiện
những cảm xúc liền mạch của nhà thơ. Nhịp thơ biến ảo rất nhanh, giọng điệu tâm tình
dã gấy ấn tượng mạnh trong lòng người đọc.

6. Phân tích bài thơ : Mùa xuân nho nhỏ
Giây phút đầu tiên khi năm mới gõ cửa, hãy hòa mình vào những vẻ đẹp của
mùa xuân qua bài thơ “Mùaxuân nho nhỏ” của nhà thơ Thanh Hải - Mùa xuân đã về
trên đất nước Việt Nam tươi đẹp của chúng ta. Đâu đây dặt dìu lời ca êm dịu :
Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Tôi đưa tay tôi hứng
Mùa xuân xứ Huế thơ mộng hiển hiện trước mắt ta. Chỉ một bông hoa tím mỏng
manh, mọc giữa dòng sông Hương xanh biếc mà sao sức sống lại dồi dào mãnh liệt
đến vậy ? Và cũng chỉ một con chim chiền chiện cất lời, mà sao tiếng hót vang xa bay
bổng đến thế ? Từng giọt âm thanh tiếng chim thả vào không gian, hội tụ tất cả ánh
sáng, sự thanh khiết trong lành của đất trời mùa xuân nên nó cứ long lanh, long lanh.
Không cầm lòng được, nhà thơ bất chợt đưa tay ra hứng lấy âm thanh ấy, những mong
nắm bắt điều diệu kỳ của thiên nhiên tươi đẹp trên quê hương. Sự chuyển đổi cảm giác
trong ông diễn ra thật nhanh chóng, bất ngờ, mà cũng thật tinh tế. Rồi ông đưa mắt
nhìn những chồi non lộc biếc đậu trên vành lá ngụy trang của người ra trận, trải dài
theo bước chân người ra đồng, trên khắp đất nước mình. Mặc dù chúng ta vừa ngưng
nghỉ tiếng súng ở hai đầu biên cương. Mặc dù thời bao cấp vẫn in hằn dấu vết trong
mỗi gia đình Việt Nam. Nhưng thành quả chiến đấu và lao động suốt 4.000 năm lịch
sử đã ngời ngời trong mùa xuân 1980 ấy:
16

Đất nước như vì sao
Cứ đi lên phía trước
Bằng sự mẫn cảm, bằng niềm tin son sắt, Thanh Hải đã nhận ra sức sống bền bỉ
và tư thế luôn vững vàng thăng tiến của dân tộc ta. Đến hôm nay, mùa xuân 2006 đã
về, ta càng khẳng định rằng điều Thanh Hải dự báo từ 26 năm trước đã, đang và mãi
mãi là hiện thực trên Tổ quốc thân yêu của chúng ta. Đáng trân trọng biết bao, tấm
lòng của một người con đất Việt ! Khi đang lâm bệnh nặng, sắp từ giã cõi đời, còn
phải sống trong thiếu thốn khó khăn, ông vẫn có những cảm nhận vô cùng tươi trẻ về
thiên nhiên, về đất nước, về cuộc sống.
Từ niềm say sưa trước mùa xuân thiên nhiên và cuộc sống trên đất nước, Thanh
Hải đã chân thành bộc lộ ước nguyện của bản thân: Ta làm con chim hót
Dù là khi tóc bạc.
Tuy đó là ước nguyện khiêm nhường, muốn hóa thân làm những thứ bé nhỏ : Một
con chim, một cành hoa, một nốt trầm, một mùa xuân nho nhỏ để “lặng lẽ dâng cho
đời”. Nhưng đó là ước nguyện rất tự nhiên, đẹp đẽ, sáng trong như thiên nhiên tươi
đẹp, trong sáng (con chim, cành hoa), rất bền bỉ, thiết tha Dù là tuổi hai
mươi
Dù là khi tóc bạc.
Đó cũng là ước nguyện hết sức chân thành của Thanh Hải. Bởi vì cả cuộc đời ông
đã bám trụ ở quê hương (vùng Thừa Thiên Huế) cùng đồng bào, đồng chí đánh giặc
qua hai cuộc kháng chiến ác liệt trường kì. Từ vùng đất này, những bài thơ “Mồ anh
hoa nở”, “Cháu nhớ Bác Hồ” của ông đã có sức lay động sâu xa tâm hồn bao bạn đọc.
Rồi đến giờ phút cuối cùng, ông vẫn như con tằm rút ruột nhả tơ, dâng cho đời “mùa
xuân nho nhỏ” thiết tha nồng thắm từ đáy tâm can. Những “nốt trầm” ấy sao mà “xao
xuyến”, sao mà đắm say!
à bạn ơi, bạn có thấy Thanh Hải đã nói hộ chúng ta ước nguyện của mỗi người bằng
cách chuyển đổi đại từ “tôi” sang “ta” đó không?
Bài thơ của Thanh Hải đề cập đến vấn đề nhân sinh quan. Sống có ích, sống
đẹp là có cống hiến cho đời. Vậy mà nó không hề khô cứng như lời giáo huấn đạo lý.
Bởi vì, tác giả đã nói bằng cảm xúc thực, bằng những điều tâm niệm chân thành, thiết

tha, bằng giọng thơ nhẹ nhàng và hình ảnh thơ bình dị. Chính vì thế những dòng thơ
của ông thấm sâu vào lòng người, thức tỉnh những ước nguyện, những cách sống đẹp
của mỗi con người.Mùa xuân nay đi trong dìu dặt lời ca :
Mùa xuân ta xin hát…dặm tình
Ta lại thấy nhớ Thanh Hải - nhớ một “Mùa xuân nho nhỏ” của dân tộc VN thiết tha!
7. Phân tích bài thơ : Sang thu-Hữu Thỉnh
Cũng như mùa xuân, mùa thu luôn là đề tài gợi nhiều cảm xúc cho các thi nhân.
Mỗi người lại có cách nhìn cách miêu tả rất riêng, mang đậm dấu ấn cá nhân của
mình. Có nhà thơ, mùa thu là dáng liễu buồn, là màu áo mờ phai, là tiếng đạp lá vàng
cuả con nai ngơ ngác. Hữu Thỉnh cũng góp vào tuyển tập thơ mủa thu của dân tộc 1
17
cái nhìn mới mẻ. Ông là nhà thơ viết nhiều, viết hay về những con người, cuôc sống ở
nông thôn, về mùa thu. Những vẩn thơ thu của ông mang cảm xúc bâng khuâng vương
vấn trước đất trời trong trẻo đang chuyển biến nhẹ nhàng. Điều này thể hiện rõ qua bài
"Sang thu" đc ông sáng tác cuối năm 1977.
Bài thơ diễn tả tâm trạng ngỡ ngàng trườc cảnh đất trời đanmg chuyển biến giao
mùa từ hạ sang thu. Không như những nhà thơ khác, cảm nhận mùa thu qua sắc vàng
của hoa cúc, của lá ngô đồng hay qua tiếng lá vàng rơi xào xạc. Hữu Thỉnh đón nhận
mùa thu với 1 hương vị khác: hương ổi.
" Bỗng nhận ra hương ổi, Phả vào trong gió se"
"Bỗng nhận ra" là 1 trạng thái chưa đc chuẩn bị trứơc, như là vô tình, sững sốt để
cảm nhận, giữa những âm thanh, hương vị và màu sắc đặc trưng của đất trời lúc sang
thu. Nhà thơ nhận ra tín hiệu của sự chuyển mùa từ ngọn gió nhè nhẹ, lành lạnh se khô
mang theo hương ổi. "Phả" là 1 động từ mang ý tác động được dùng như 1 cách khẳng
định sự xuất hiện của hơi thu trong ko gian: "hương ổi", một mùi hương ko dễ nhận ra,
bởi hương ổi ko fải là một mùi hương thơm ngào ngạt, nồng nàn mà chỉ là 1 mùi
hương thoảng đưa êm dịu trong gió đầu thu, nhưng cũng đủ để đánh thức những cảm
xúc trong lòng người.
Không chỉ cảm nhận mùa thu bằng khứu giác, xúc giác mà nhà thơ còn cảm nhận
màn sương thu trong phút giao mùa. Màn sương hình như cũng muốn tận hưởng trọn

vẹn kh/khắc vào thu nên chùng chình chưa muốn dời chân.
"Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về"
Từ láy tương hình "chùng chình" gợi cảm giác về sự lưu luyến ngập ngừng, làm
ta như thấy 1 sự dùng dằng, gợi cảnh thu sống động trong tĩnh lặng, thong thả, yên
bình. "Chùng chình" là sự quãng ngắt nhịp nhàng, chuyển động chầm chậm hay cũng
chinh là sự rung động trong tâm hồn nhà thơ? Một chút ngỡ ngàng, một chút bâng
khuâng, nhà thơ phát hiện ra vẻ đẹp rất riêng của ko gian mùa thu. "Hình như" là 1 từ
tình thái diễn tả tâm trạng của tác giả khi phát hiện sự hiện hữu của mùa thu. Sự góp
mặt của màn sương buổi sáng cùng với hương ổi đã khiến cho nhà thơ giật mình thản
thốt. Không phải là những h/ả đã trở nên ước lệ nữa mà là 1 chi tiết thật mới mẻ, bất
ngờ. Có lẽ với HThỉnh, làn hương ổi rất quen với người VN, mà rất lạ với thơ được tác
giả đưa vào 1 cách hết sức tự nhiên.Rồi mùa thu được quan sát ở những không gian
rộng hơn, nhiều tầng bậc hơn.
"Sông được lúc dềnh dàng sang thu"
Nếu ở khổ 1, mùa thu mới chỉ là sự đoán định với ít nhiều bỡ ngỡ, thì ở khổ thơ
này, tác giả đã có thể khẳng định: thu đến thật rồi. Thu có mặt ở khắp nơi, rất hiện
hình, cụ thể Dòng sông ko còn cuôn cuộn dữ dội như những ngày mưa lũ mùa hạ mà
trôi một cách dềnh dàng, thanh thản. Mọi chuyển động dường như có phần chậm lại,
chỉ riêng loài chim là bắt đầu vội vã. Trời thu lạnh làm cho chúng phải chuẩn bị những
chuyến bay chống rét khi đông về. Phải tinh tế lắm mới có thể nhận ra sự bắt đầu vội
vã trong những cánh chim bay bởi mùa thu chỉ vửa mới chớm, rất nhẹ nhàng, rất dịu
18
dàng. Điểm nhìn của nhà thơ đuợc nâng dần lên từ dòng sông, rồi tới bầu trời cao
rộng.
"Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu"
Cảm giác giao mùa đc Hữu Thỉnh diễn tả thật thú vị. Đây là 1 phát hiện rất mới và
độc đáo của ông. Mùa thu mới bắt đầu vì thế mây mùa hạ mới thảnh thơi, duyên dáng
"vắt nửa mình sang thu". Đám mây như 1 dải lụa mềm trên bầu trời đang còn là mùa

hạ, nửa đang nghiêng về mùa thu. Bức tranh chuyển mùa vì thế càng trở nên sinh động
và giàu sức biểu cảm.
Ở khổ cuối, khoảnh khắc giao mùa ko còn được nhà thơ diễn tả bằng cảm nhận trực
tiếp mà bằng sự suy ngẫm, chiêm nghiệm. " Vẫn còn bao nhiêu nắng đứng
tuổi"
Nắng cuối hạ vẫn còn nồng, còn sáng nhưng đang nhạt dần. Những ngày giao mùa
này đã vơi đi những cơn mưa rào ào ạt. Vẫn là nắng, vẫn là mưa, sấm như mùa hạ
nhưng mức độ đã khác rồi. Lúc này, những tiếng sấm bất ngờ cùng những cơn mưa
rào ko còn nhìu nữa. Hai câu thơ cuối gợi cho ta nhìu suy nghĩ, liên tưởng thú vị.
Giọng thơ trầm hẳn xuống, câu thơ ko đơn thuần chỉ là gượng kể, là sự cảm nhận
mà còn là sự suy ngẫm, chiêm nghiệm. Cụm từ "hàng cây đứng tuổi" gợi cho người
đọc nhiều liên tưởng. Đời người như 1 loài cây, cũng non tơ, trưởng thành rồi già cỗi.
Phải chăng, cái đứng tuổi của cây chính là cái đứng tuổi của đời người. Hình ảnh vừa
có ý nghĩa tả thực, vừa có ý nghĩa biểu tượng. Vẻ chính chắn, điềm tĩnh của hàng cây
trc sấm sét, bão giông vào lúc sang thu cũng chính là sự từng trải, chính chắn của con
người khi đã đứng tuổi. Phải chăng mùa thu của đời người là sự khép lại những ngày
tháng sôi nổi bồng bột của tuổi trẻ, để mở ra một mùa mới, một không gian mới thâm
trầm, điềm đạm, vững vàng hơn.Ở tuổi "sang thu", con người ko còn bất ngờ trc
những tác động bất thường của ngoại cảnh,của cuộc đời.
Xưa nay, màu thu thường gắn liền với hình ảnh lá vàng rơi ngoài ngõ, lá khô kêu
xào xạc VÀ ta ngỡ như chỉ những sự vật ấy nới chính là đặ điểm của mùa thu.
Nhưng đến với "Sang thu" của HT,người đọc chợt nhận ra 1 làn hương ổi, một màn
sương, 1 dòng sông, 1 đám mây, 1 tia nắng. Những sự vật gần gũi thế cũng làm nên
những đường nét riêng của mùa thu VN và chính điều này đã làm nên sức hấp dẫn của
"Sang thu".
Bài thơ kết câu theo 1 trình tự tự nhiên. Đó cũng là diễn biến mạch cảm xúc của tác
giả vào lúc sang thu. Bài thơ gợi cho ta hình dung 1 bức tranh thiên nhiên tươi đẹp vào
thời điểm giao mùa hạ-thu ở vùng nông thôn Bắc Bộ. Câu thơ của HT như có 1 chút gì
đó thăng trầm, kín đáo, rất hợp với cách nghĩ, cách nói của nguời thôn quê. Bài thơ
giúp ta cảm nhận được tình cảm thiết tha, tâm hồn tinh tế của nhà thơ giàu lòng yêu

thiên nhiên của nhà thơ.
Bài thơ ngắn với thể thơ 5 chữ mộc mạc, ngôn ngữ giản dị mà ý nghĩa sâu sắc, hình
ảnh đơn sơ mà gợi cảm. HT đã phát họa 1 bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp bằng nhìu
19
cảm xúc tinh nhạy. Đọc thơ HT ta càng cảm thấy yêu quê hương đất nước hơn, càng
cảm thấy mình cần phải ra sức góp phần xây dựng quê hương ngày càng giàu đẹp.
8. Phân tích bài thơ “Kh<c hát ru những em b? l@n trên lưng mA”
Bài thơ Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ của Nguyễn Khoa Điềm ra đời ngay tại chiến
khu Trị – Thiên, trong những ngày kháng chiến chống Mĩ đang dần đến thắng lợi nhưng vẫn còn vô
cùng gian khổ. Nhà thơ đã tận mắt chứng kiến hình ảnh những bà mẹ Tà-ôi giã gạo nuôi bộ đội đánh
Mĩ, để cảm xúc từ hiện thực thăng hoa thành những vần thơ có sức lay động mãnh liệt. Bài thơ “thể
hiện tình yêu thương con gắn với lòng yêu nước, với tinh thần chiến đấu của người mẹ miền tây
Thừa Thiên bằng những khúc ru nhịp nhàng, mang giọng điệu ngọt ngào trìu mến”.
Không phải ngẫu nhiên khi phổ nhạc bài thơ này, nhạc sĩ Trần Hoàn đã đặt lại tựa đề là Lời ru
trên nương, bởi lẽ chính những lời ru đã làm thành cấu tứ của bài thơ, dẫn dắt ta vào một thế giới
mang đậm bản sắc riêng của người Tà-ôi. Bài thơ như là minh chứng của tấm lòng đồng bào dân tộc
một lòng tin theo Đảng, , thương con thương bộ đội, thương yêu núi rừng nương rẫy làng bản,
thương đất nước. Tình thương thành điệp khúc xuyên suốt theo nhịp chày của mẹ :
Em cu Tai ngủ trên lưng mẹ ơi
Em ngủ cho ngoan đừng rời lưng mẹ
Có lẽ đây là lời của nhà thơ, hàm chứa bao trìu mến dành cho chú bé Tà-ôi như muốn góp thêm
bao thương mến hoà cùng khúc ru của mẹ. Người mẹ chống Pháp và người mẹ chống Mĩ có những
điểm tương đồng trong công việc. Nhưng ở Nguyễn Khoa Điềm, hình ảnh thơ này không xuất phát
từ nỗi nhớ mà được cất lên ngay giữa hiện thực chống Mĩ. Nét đẹp của hình tượng được khơi lên từ
tính chất công việc “Mẹ giã gạo mẹ nuôi bộ đội”. Người mẹ được khắc hoạ trong từng chi tiết sống
động nhất, nổi bật với tứ thơ thật đẹp :
Nhịp chày nghiêng, giấc ngủ em nghiêng.
Tưởng như trong động tác của mẹ cũng đã ngân lên nhịp điệu ru ngọt ngào và nhịp đưa em đều đặn
an bình như trên một cánh võng êm. Tác giả hoàn toàn không thi vị hoá mà bằng ngòi bút tả thực
giúp người đọc nhận ra : mồ hôi mẹ nóng hổi, vai mẹ gầy – bao vất vả như đọng cả trên đôi vai mẹ.

Mỗi khúc ru hiện lên hình ảnh mẹ trong nhiều tư thế cũng như công việc khác nhau : giã gạo, tỉa bắp,
chuyển lán, đạp rừng… như hoàn chỉnh bức chân dung lao động khoẻ khoắn cũng như niềm hân
hoan được hoà vào những công việc kháng chiến.
Không những thế, qua những hình ảnh này, ta còn hình dung một nhịp sống bình thản của những
người dân và cán bộ chiến sĩ ở chiến khu chống Mĩ. Mặc dù, trong thực tế, đây là nơi hứng chịu rất
nhiều bom đạn kẻ thù và luôn phải đương đầu với những cuộc hành quân lùng sục “tìm và diệt”, càn
quét hòng xóa sạch dấu tích của vùng chiến khu đầu mối Bắc – Nam này. Cuộc sống khó khăn thiếu
thốn đòi hỏi phải tự cấp tự túc, tăng gia sản xuất, bảo đảm nuôi quân đánh giặc. Hình ảnh người mẹ
giã gạo khiến ta lại liên tưởng đến những nhịp chày trong bài hát Tiếng chày trên sóc Bom Bo của cố
nhạc sĩ Xuân Hồng. Ở đâu cũng vậy, khi cách mạng được bao bọc, chăm chút bằng tất cả tình cảm
yêu nước của nhân dân, khi biết dựa vào dân thì không sức mạnh tàn bạo nào của kẻ thù có thể khuất
phục.
Gạo dành để nuôi quân, mẹ lại lên nương tỉa bắp, cùng với a-kay. Đàng sau hành động đó ẩn chứa vẻ
đẹp của sự hi sinh, nhường cơm sẻ áo cho người cách mạng. Lòng mẹ bao dung lại được cảm nhận
bằng bao tình cảm thương mến của nhà thơ : Lưng núi thì to mà lưng mẹ nhỏ
Em ngủ ngoan em đừng làm mẹ mỏi
Mặt trời của bắp thì nằm trên đồi
Mặt trời của mẹ, con nằm trên lưng
Lời thơ thật dịu dàng như ru sâu thêm giấc ngủ cho em cu Tai, như muốn sẻ chia những vất vả
nhọc nhằn trong công việc của mẹ. Không gian mênh mang của vùng núi rừng tây Thừa Thiên như
mở ra với ánh mặt trời lan toả khắp núi đồi. Nổi bật giữa khung cảnh là người mẹ Tà-ôi với công
việc cần mẫn. Nhưng mẹ không hề đơn độc chính vì có mặt trời của mẹ – em cu Tai đang ngon giấc.
20
Với cách ví von đặc sắc này, nhà thơ đã tạo nên liên tưởng về mối quan hệ mật thiết của con người
với núi rừng, nương rẫy. Không có tình cảm gắn bó, không thể tạo được liên tưởng thú vị giữa hạt
bắp với con nằm trên lưng. Mặt trời không gợi ra cảm giác về độ nóng, độ chói mà trở thành hình
tượng biểu trưng cho nguồn sống mạnh mẽ. Mặt trời của bắp đem lại hạt mẩy hạt chắc. Mặt trời của
mẹ – em cu Tai là hạnh phúc, nguồn sống của mẹ. Những chú bé Tà-ôi được tắm trong ánh sáng sẽ
trở nên vạm vỡ săn chắc, ánh mặt trời hào phóng ban tặng cho mẹ những đứa con khoẻ mạnh của núi
rừng. Hình tượng sáng tạo của Nguyễn Khoa Điềm đã đem lại những rung cảm thẩm mĩ đặc biệt.

Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ của Nguyễn Khoa Điềm đã tạo được những cảm
xúc đồng điệu với bao người con miền Nam anh dũng thời chống Mĩ, nói lên trọn vẹn vẻ đẹp và tâm
tư của người dân tộc miền tây Thừa Thiên trung dũng kiên cường, thủy chung với cách mạng. Cảm
xúc bình dị trong sáng với hình tượng người mẹ đã làm nên sức hấp dẫn riêng của tác phẩm. Từ ngôn
ngữ đến hình ảnh thơ đều đậm chất dân tộc, đem đến cho người đọc những cảm nhận đặc biệt thương
mến cùng hoà theo lời ru cho giấc ngủ thanh bình của em bé Tà-ôi. Bài thơ toát lên tinh thần lạc
quan cách mạng, kết đọng những ân tình sâu lắng của nhà thơ về nhân dân đất nước cũng như niềm
tin vào thắng lợi cuối cùng của cuộc kháng chiến chống Mĩ.
Từ “Những ngôi sao xa xôi” của Lê Minh Khuê, hãy viết bài văn có tiêu đề :
“Tình yêu đất nước và chiến tranh chống Mĩ”.
Bài làm mẫu
Bác Hồ đã từng viết “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền
thống quý báu của dân tộc ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh
thần ấy lại sôi nổi, nó kết lại thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn nó lướt qua
mọi sự hiểm nguy, khó khăn ,nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước".
Chính lòng yêu nước nồn nàn là động lực để con người Việt Nam làm nên lịch sử.
Tinh thần yêu nước đã trở thành một giai điệu xuyên suốt bài ca cuộc đời của biết bao
thế hệ người Việt Nam anh hùng. Đọc truyện nhắn “Những ngôi sao xa sôi của Lê
Minh Khuê", ta càng nhìn thấy rõ hơn trong hiện thực khốc liệt của chiến tranh vẫn
toả sáng bao phẩm chất cao đẹp của thế hệ trẻ Việt Nam – những con người sống vì lí
tưởng cách mạng mà tiêu biểu là ba cô gái thanh niên xung phong Phương Định, Thao
và Nho.
Chúng ta hoàn toàn tự hào với tư cách là thế hệ con cháu đời sau ngưỡng vọng
về quá khứ lịch sử của cha ông. Từ những buổi ngày xưa Thánh Gióng nhổ tre đánh
giặc đến hai cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc Kháng chiến chống Pháp và
chống Mĩ, Người dân Việt Nam trong bất cứ hoàn cảnh lịch sử nào cũng mang tinh
thần yêu nước, đánh giặc mạnh mẽ.
Truyện ngắn “Những ngôi sao xa xôi” kể về một tổ trinh sát mặt đường gồm ba
cô thanh niên xung phong : Phương Định, Thao và Nho. Họ hoạt động tại một trọng
điểm trên tuyến đường Trường sơn 559 trong kháng chiến chống Mĩ .

21
Công việc được giao của các cô là ngồi quan sát địch ném bom, khi có bom nổ
thì chạy lên đo khối lượng đất lấp vào hố bom, đếm bom chưa nổ và nếu cần thì phá
bom. Đây là nhiệm vụ hết sức nguy hiểm vì thường xuyên phải chạy trên cao điểm
ngay cả ban ngày – lúc mà máy bay địch có thể ập đến bất cứ lúc nào. Đấy là còn chưa
kể đến chuyện các cô phải làm việc cùng với những quả bom, hành động như đùa cợt
cùng thần chết bởi “Hắn ta lẩn trong ruột của quả bom”. Cuộc sống chiến đấu của ba
cô gái trẻ nội trọng điểm giữa chiến trường dù khắc nghiệt và muôn vàn nguy hiểm
song các cô vẫn vui tươi hồn nhiên, lãng mạn gắn bó với nhau dù mỗi người một tính
cách.
Phương Định là một cô gái trẻ Hà Nội giàu cảm xúc, thích mơ mộng, thích hát
và hát rất hay. Cô đã tự nhận xét về mình “Tôi là một cô gái khá. Hai bím tóc dày,
tương đối mền, một cái cổ cao, kiêu hãnh như loài hoa loa kèn, còn mắt tôi thì các ảnh
lái xe bảo : cô có cái nhìn sao mà xa xăm !” Đôi mắt dài dài, màu nâu, hay nheo lại
như chói nắng ấy của Phương Định đã khiến không biết bao anh lính lái xe đêm ngày
khắc khoải hy vọng với tâm hồn giàu tình cảm, Phương Định luôn nhớ nhung giữ
gìn những ký ức thân thuộc êm đềm thủa ấu thơ ở quê hương với người mẹ kính yêu
vốn rất chiều cô con gái cưng.
Chị Thao lớn tuổi hơn nên có suy nghĩ chín chắn và thiết thực hơn về tương lai
của mình. Thái độ bình tĩnh và quyết liệt hơn về tương lai của mình. Thái độ đó trong
công việc của chị khiến ai cũng phải khâm phục “Chị thích nhai bánh bích quy và thêu
chỉ màu sặc sỡ vào áo lót của mình. Chị lại hay tỉa đôi lông mày, tỉa nhỏ như cái tăm”.
Song chị Thao rất sợ nhìn thấy máu và vắt. Còn Nho là người ít tuổi nhất trong ba chị
em nên được chiều chuộng và nhường nhịn. Cô là một người bướng bỉnh, mạnh mẽ và
thích thêu chỉ màu loè loẹt lên khăn gối.
Trong một lần phá bom, Nho bị thương và đã được chị Thao cùng Phương Định
chăm sóc rất ân cần. Câu chuyện kết thúc bằng một trận mưa đá bất ngờ trên cao điểm
khiến các cô hết sức vui thích.
Ba nữ thanh niên xung phong trong truyện ngắn “Những ngôi sao xa xôi” thật
đáng để người đọc khâm phục. Tuổi còn trẻ, các cô có quyền được yêu, được mơ

mộng về hạnh phúc riêng tư song khi đất nước xảy ra chiến tranh, các cô đã sẳn sàng
sung phong đi chiến đấu bảo vệ tổ quốc, chiến đấu vì lý tưởng và cách mạng, vì miền
Nam ruột thịt đang ngập trong đau thương. Hoàn cảnh chiến đấu của các cô thật đáng
sợ và nguy hiểm : “Con đường bị đánh loét, mầu đất đỏ, trắng lẫn lộn. Hai bên đường
không có lá xanh. Chỉ có những thân cây bị tước khô cháy. Những cây nhiều rễ nằm
lăn lóc. Những tảng đá to. Một vài thùng xăng hoặc thành ô tô méo mó, han gỉ nằm
trong đất”. Đã thế công việc được giao của các cô còn nguy hiểm bội phần. ấy thế mà
bất chấp tất cả, ba cô gái vẫn chiến đấu với tinh thần “Quyết tử cho Tổ quốc quyết
sinh”. Sống trong hiện thực khốc liệt của chiến tranh các cô vẫn mỉm cười trên khốn
khó, vẫn mơ mộng, vẫn yêu đời và tình đồng chí, đồng đội lại càng keo sơn gắn bó
hơn bao giờ hết. Chứng kiến cuộc sống và tinh thần chiến đấu của ba cô thanh niên
22
xung phong ta lại bồi hồi nhớ lại từng vần thơ thiết tha của Chính Hữu trong kháng
chiến chống Pháp.
áo anh rách vai
Quần tôi vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay
Hay giọng thơ hóm hỉnh, ngang tàng, rực cháy quyết tâm của những người lính
lái xe trong bài thơ “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật:
Không có kính rồi xe không có đèn
Không có mui xe, thùng xe có xước
Xe vẫn chạy vì Miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim
Thật khâm phục biết bao những anh bộ đội, những cô thanh niên xung phong
sẵn sàng bỏ qua lợi ích riêng tư để chiến đấu vì Tổ quốc !
Chúng ta hôm nay với tư cách là lớp trẻ Việt Nam ngưỡng vọng về quá khứ lại
càng hiểu sâu sắc hơn về cuộc sống chiến đấu gian khổ trong chiến tranh của những
chiến sỹ năm xưa. Vẫn vang vọng mãi trang nhật kí “Có lửa” như “Nhật kí Đặng Thuỳ

Trâm” Hay “Mãi mãi tuổi hai mươi” của Nguyễn Văn Thạc Hai cuộc kháng chiến
thần thánh của dân tộc đã tô điểm thêm cho con người Việt Nam biết bao phẩm chất
cao đẹp, họ là những người con yêu nước, căm thù giặc sâu sắc, biết hy sinh tình cảm
cá nhân vì quê hương, bất chấp gian khổ khó khăn vẫn hôn gan dạ, dũng cảm, lạc quan
yêu đời. Mọi vết thương của chiến tranh dường như được chữa lành nhờ hơi ấm của
tình đồng đội keo sơn.
2. Vẻ đẹp của các nhân vật nữ trong truyện Những ngôi sao xa xôi của Lê Minh Khuê.
Bài làm mẫu
Đường Trường sơn - đông nắng, tây mưa ; một cái tên thôi cũng gợi cho ta về
một thời lửa cháy, gợi hình ảnh đoàn quân cha trước con sau cùng hát khúc quân hành,
gợi những đoàn xe ra trận vì Miền Nam thân yêu. Viết về những nẻo đường Trường
Sơn trong những năm đánh Mĩ, không chỉ có những bài thơ, bài ca ca ngợi những
chiến sĩ lái xe hay những cô gái mở đường trong trang thơ của Lâm Thị Mĩ Dạ mà còn
có những câu chuyện đầy cảm phục viết về những cô gái thanh niên xung phong,
những cô trinh sát mặt đường, những cô chuyên phá bom nổ chậm mở đường cho xe
qua. Những cô gái trẻ ấy đã được Lê Minh Khuê (một cây bút nữ xuất sắc của mảnh
đất Xứ Thanh) kể lại và khắc hoạ chân dung tâm hồn tính cách. Ba cô gái trẻ là những
ngôi sao xa xôi trên cao điểm Trường Sơn.
Ba cô thanh niên xung phong : Thao, Nho và Phương Định biên chế thành một
tổ trinh sát mặt đường - cái tên gợi sự khát khao làm nên những sự tích anh hùng. Tổ
trưởng là Thao, lớn tuổi hơn một chút so với Nho và Phương Định. Nhiệm vụ chính
của họ là quan sát địch ném bom, đo khối lượng đất đá cần san lấp, đánh dấu vị trí các
quả bom chưa nổ và phá bom. Công việc của họ hết sức nguy hiểm vì thường xuyên
23
phải chạy trên cao điểm giữa ban ngày và máy bay địch có thể ập đến bất cứ khi nào.
Đặc biệt phải đối mặt với thần chết trong mỗi lần phá bom, công việc ấy diễn ra hàng
ngày, thậm chí là năm lần trong ngày. Nơi ở của họ là một cái hang đá mát lạnh, ngay
dưới chân cao điểm, cách xa đơn vị. Cuộc sống và chiến đấu của ba cô gái trẻ giữa
chiến trường, dù rất khắc nghiệt, nhưng họ vẫn bình thản, tươi vui, hồn nhiên và
không kém phần lãng mạn. Đặc biệt họ rất yêu thương nhau, gắn bó với nhau trong

tình đồng đội keo sơn, dù cho mỗi người một cá tính. Đặc biệt họ là những người có
trách nhiệm tự giác rất cao, quyết tâm hoàn thành mọi nhiệm vụ được phân công bởi
công việc của họ không hề đơn giản. Công việc ấy đòi hỏi ở họ phải bình tĩnh, dũng
cảm, khôn ngoan, nhạy cảm và kháo léo, đòi hỏi kinh nghiệm và sẵn sàng hy sinh,
không quản khó khăn gian khổ bởi chẳng có ai biết được quả bom câm lặng có khi
đang ấm nóng dần lên, nằm chềnh ềnh ra đó và có thể nổ bất cứ lúc nào. Đố là những
phẩm chất cao đẹp, bình dị, hồn nhiên của ba cô gái thanh niên xung phong, tuy nhiên
mỗi người lại có những vẻ đẹp riêng của mình.
Chị Thao lớn tuổi hơn nên dự tính tương lai cũng thiết thực hơn, có ít nhiều
từng trãi nên không dễ dàng hồn nhiên, mơ mộng nhưng rất thích hát và ghi chép bài
hát. Trong công việc rất bình tĩnh và quyết liệt vậy mà rất sợ máu và vắt. Những khi
biết rằng cái sắp tới sẽ không êm ả chị lại tỏ ra bình tĩnh bằng cách móc bánh bích quy
trong túi và thong thả nhai. áo lót của chị cái nào cũng thêu chỉ màu chị hay tỉa đôi
lông mày của mình, tỉa nhỏ như cái tăm nhưng ai cũng phải gờm chị : cương quyết,
táo bạo.
Còn Nho lại là cô gái khác, có lúc bướng bỉnh, mạnh mẽ ; có lúc lầm lì cực
đoan. Mỗi khi Nho tắm, trông cô như một que kem trắng mát lạnh, cái cổ tròn và
những cúc áo nhỏ nhắn. Cứ quần áo ướt, Nho ngồi đòi ăn kẹo. Đặc biệt cô có sở thích
thêu hoa rực rỡ, loè loẹt trên khăn gối. trong một lần phá bom Nho bị thương, chị
Thao và Định hết lòng chăm sóc. Định rửa cho Nho bằng nước đun sôi trên bếp than.
Bông băng trắng, pha sữa vào một cái ca sắt cho Nho. Còn chị Thao thể hiện rõ sự
quan tâm của mình qua câu nói : "Cho nhiều đường vào, pha đặc". Tình cảm quay
cuồng trong chị. "Chị cứ đưa mắt nhìn Nho, lấy tay sửa cái cổ áo, cái ve áo và tóc nó.
Chị không khóc đó thôi, chị không ưa cả nước mắt". Qua việc Nho bị thương, chúng
ta thấy rõ được tình cảm mà các cô đã dành cho nhau, đã gắn bó với nhau sâu sắc đến
mức nào.
Nhân vật chính cũng là nhân vật kể chuyện là Phương Định. Phương Định là cô
gái Hà Nội trẻ trung và xinh xắn. Hai bím tóc dày tương đối mềm, cái cổ cao, kiêu
hãnh như đài hoa loa kèn. Các anh lái xe thường bảo : "cô có cái nhìn sao mà xa
xăm". Xa đến đâu mặc kệ, nhưng tôi thích ngắm mắt tôi trong gương. Nó dài dài, màu

nâu, hay nheo lại như chói nắng. Vốn là một nữ sinh hồn nhiên nhưng do hoàn cảnh
chiến tranh, cô vào chiến trường. Giữa cuộc sống khắc nghiệt và muôn vàn nguy hiểm,
cô vẫn giữ được sự trong sáng trong suy nghĩ, lối sống cả trong công việc. Cô có tâm
hồn trong sáng, vô tư, giàu mộng mơ, thích ca hát, hay hoài niệm về một thời học sinh
ngây thơ bên mẹ, trong căn phòng nhỏ ở một đường phố nhỏ yên tĩnh trong những
24
ngày trước chiến tranh. Những kỉ niệm êm đềm ấy sống lại trong trí nhớ của Định,
giữa chiến trường dữ dội làm dịu mát tâm hồn cô. Vào chiến trường đã ba năm, Định
đã quen với đạn bom, hiểm nguy, vượt qua bao gian lao vẫn không làm mất đi ở cô cái
hồn nhiên, vô tư lự. Cô giàu cảm xúc và thường làm điệu trước những anh lính trẻ.
Thực ra trong những suy nghĩ của cô, những người đẹp nhất, thông minh, can đảm và
cao thượng nhất là những người mặc quân phục, có ngôi sao trên mũ. Định rất yêu
mến và gắn bó với đồng đội của mình. Khi chị Thao ngã vội đỡ chị dậy, chăm sóc Nho
khi bị thương, cô cảm phục tất cả các chiến sĩ mà cô đã gặp trên tuyến đường Trường
Sơn. Đồng thời Phương Định cũng là cô gái rất kín đáo trong tình cảm. Có lẽ điều
đáng quí nhất ở Phương Định chính là tinh thần, trách nhiệm với công việc. Mỗi lần đi
phá bom, cô đều xung phong đi, cô luôn đứng trong tư thế sẵn sàng, chấp nhận gian
khổ, hi sinh, có lòng dũng cảm không quản khó khăn, luôn bình tĩnh tự tin trước mọi
tình huống. Những phẩm chất cao đẹp của Phương Định, của Thao, Nho đã được khắc
hoạ bằng sự am hiểu tâm lí giới tính của Lê Minh Khuê. Thành công về xây dựng
nhân vật còn được đóng góp bởi ngôn ngữ trần thuật tự nhiên, hấp dẫn dưới ngôi kể
thứ nhất, những câu ngắn, nhịp nhanh, giọng điệu gắn liền với ngôn ngữ đời thường,
vừa trẻ trung vừa giàu nữ tính. Từng là Thanh niên xung phong nên có lẽ Lê Minh
Khuê mới hiểu biết sâu sắc công việc và đời sống tình cảm tâm hồn của những nữ
thanh niên xung phong đến như vậy. Truyện khép lại khi một trận mưa đá bất ngờ đổ
xuống cao điểm khiến các cô gái trẻ hết sức vui thích.
Truyện Những ngôi sao xa xôi của Lê Minh Khuê đã làm nổi bật tâm hồn trong
sáng, giàu mộng mơ, tinh thần dũng cảm, cuộc sống chiến đấu đầy gian khổ, hy sinh
nhưng rất hồn nhiên, lạc quan của những cô gái thanh niên xung phong trên tuyến
đường Trường Sơn. Đó cũng chính là những hình ảnh đẹp, tiêu biểu của thế hệ trẻ Việt

Nam trong thời kì kháng chiến chống Mĩ. Nhân vật trong Những ngôi sao xa xôi chính
là Đặng Thuỳ Trâm và Nguyễn Văn Thạc ngoài đời. Họ đã góp một mùa xuân nho
nhỏ của mình vào mùa xuân lớn của dân tộc. Vì thế hệ trẻ Việt Nam ngày hôm nay
phải sống cho đẹp, cho có ích để bao xương máu của những anh hùng, liệt sĩ đã không
đổ xuống vô ích, để đất nước Việt Nam ngày càng tươi đẹp hơn.
Có ý kiến cho rằng một trong những thành tựu quan trọng của Thơ M@i (1932 -
1945) là đã cải biến câu thơ điệu ngâm cổ điển thành câu thơ điệu nói hiện đại.
Bằng hiểu biết của mình em hãy làm sáng tỏ ý kiến trên.
“Có ý kiến cho rằng một trong những thành tựu quan trọng của Thơ Mới (1932 -
1945) là đã cải biến câu thơ điệu ngâm cổ điển thành câu thơ điệu nói hiện đại”. Nhận
định này đúng. Nhưng, cần phải thêm hai chữ: “bước đầu”. Thơ Mới chỉ bước đầu làm
25

×