Chuyên đề cuối khóa Học viện tài chính
SV: Bựi Văn Thắng Lớp: CQ45/17.01
1
MỤC LỤC
Lời nói đầu 4
Chương 1: 6
lý luận chung về công ty chứng khoán và hoạt động kinh doanh của công
ty chứng khoán. 6
1.1. Những vấn đề chung về công ty chứng khoán. 6
1.1.1. Công ty chứng khoán và vai trò của công ty chứng khoán trên thị
trường chứng khoán. 6
1.1.1.1. Công ty chứng khoán. 6
1.1.1.2. Vai trò của công ty chứng khoán trên thị trường chứng khoán. . 11
1.1.2. Hoạt động kinh doanh của công ty chứng khoán. 13
1.1.2.1. Các nghiệp vụ kinh doanh chủ yếu 13
1.1.2.2. Các nghiệp vụ phụ trợ. 21
1.1.2.3. Mối liên hệ giữa các hoạt động của công ty chứng khoán. 22
1.2. Các chỉ tiêu đánh giá hoạt động và hiệu quả hoạt động của công ty
chứng khoán. 22
1.2.1. Nhóm các chỉ tiêu định lượng. 23
1.2.1.1. Các chỉ tiêu đánh giá về hoạt động. 23
1.2.1.2. Nhóm các chỉ tiêu sinh lời. 25
Chỉ tiêu hệ số gia tăng hiệu quả vốn chủ sở hữu phản ánh một đồng vốn
chủ sở hữu tăng thêm thì đem lại thêm bao nhiêu đồng lợi nhuận sau
thuế. Nếu một CTCK có chỉ tiêu này tăng trưởng qua các năm tức là hiệu
quả sử dụng vốn chủ sở hữu ngày càng tăng, và mỗi một đồng vốn chủ sở
hữu bỏ thêm vào hoạt động kinh doanh lại đem lại nhiều đồng lợi nhuận
hơn. 28
1.2.2. Nhóm các chỉ tiêu định tính. 28
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả hoạt động kinh doanh của công
ty chứng khoán. 30
1.3.1. Các nhân tố chủ quan. 30
Chuyên đề cuối khóa Học viện tài chính
SV: Bựi Văn Thắng Lớp: CQ45/17.01
2
1.3.2. Các nhân tố khách quan. 32
Chương 2: 36
Thực trạng hoạt động kinh doanh chứng khoán tại công ty Cổ PHầN
chứng khoán NAVIBANK. 36
2.1. Vài nét cơ bản về công ty cổ phần chứng khoán NAVIBANK. 36
2.1.1. Sơ lược lịch sử hình thành và phát triển. 36
2.1.2. Cơ cấu tổ chức bộ máy nguyên tắc hoạt động. 37
2.1.2.1. Cơ cấu tổ chức và nhân sự 37
2.1.2.2. Chức năng,nhiêm vụ của các phòng của NVS 38
2.1.2.3 Nguyên tắc hoạt động 42
2.2. Thực trạng hiệu quả hoạt động kinh doanh chứng khoán tại NVS. . 43
2.2.1. Hoạt động Môi giới. 43
2.2.1.1. Quy trình hoạt động môi giới tại NVS 43
2.2.1.2. Thực trạng hoạt động Môi giới tại NVS. 44
2.2.2. Hoạt động đầu tư chứng khoán, góp vốn 45
2.2.3. Hoạt động tư vấn tài chính. 45
2.2.4.Các hoạt động khác 46
2.2.5 Nhận xét kết quả hoạt động kinh doanh của công ty. 46
2.3. Đánh giá những kết quả đạt được. 48
2.3.1. Những kết quả đạt được. 48
2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân 52
2.3.2.1. Hạn chế. 52
2.3.2.2. Nguyên nhân của những hạn chế. 53
2.4. Cơ hội và thách thức. 56
2.4.1 Cơ hội 57
2.4.2 Thách thức. 58
Chương 3: 61
giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của công ty Cổ PHầN
chứng khoán NAVIBANK. 61
Chuyên đề cuối khóa Học viện tài chính
SV: Bựi Văn Thắng Lớp: CQ45/17.01
3
3.1. Định hướng phát triển của công ty cổ phần chứng khoán NAVIBANK. 61
3.1.1. Định hướng phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam đến năm 2020.
61
3.1.2. Mục tiêu phát triển của Công ty CP Chứng khoán NAVIBANK. 62
3.2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh chứng
khoán của NVS. 64
3.2.1. Biện pháp giảm chi phí kinh doanh của công ty 64
3.2.2. Tăng cường huy động vốn và sử dụng vốn có hiệu quả hơn 64
3.2.3. Đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực cả về số lượng và chất lượng
65
3.2.4. Coi hiện đại hoá cơ sở vật chất kỹ thuật là nhiệm vụ trung tâm. 66
3.2.5. Phát triển các hoạt động nghiệp vụ 67
3.2.6. Mở rộng phạm vi hoạt động. 67
3.2.7. Xây dựng chính sách khách hàng, nâng cao chất lượng dịch vụ. 67
3.2.9. Nghiên cứu phát triển, triển khai sản phẩm dịch vụ mới 68
3.3. Một số kiến nghị với nhà nước và ủy ban chứng khoán nhà nước. 69
3.3.1 Kiến nghị với nhà nước. 69
3.3.2 Đối với ủy ban chứng khoán nhà nước (UBCKNN) 70
Kết luận 74
Chuyên đề cuối khóa Học viện tài chính
SV: Bựi Văn Thắng Lớp: CQ45/17.01
4
LỜI NÓI ĐẦU
Kinh doanh chứng khoán là một ngành nghề tương đối mới mẻ trong
nền kinh tế Việt Nam và cho đến vài năm gần đây thì khái niệm “Kinh doanh
chứng khoán” mới được nhắc đến nhiều do sự gia tăng đột biến về số lượng
của các công ty chứng khoán trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Làm thế
nào để một công ty chứng khoán có thể nâng cao hiệu quả hoạt động kinh
doanh, tăng doanh thu, giảm chi phí, nâng cao sức cạnh tranh trong giai đoạn
thị trường chứng khoán Việt Nam đầy cơ hội cũng như không ít những thách
thức hiện nay là vấn đề cấp bách để xây dựng một thị trường chứng khoán
phát triển ổn định và bền vững.
Xuất phát từ ý tưởng đó cùng với sự giúp đỡ của đơn vị thực tập, em đã
chọn đề tài: “Một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của
công ty cổ phần chứng khoán NAVIBANK” để nghiên cứu và làm chuyên đề
cuối khoá của mình.
Đề tài của em được nghiên cứu nhằm các mục đích:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về hoạt động kinh doanh
chứng khoán của công ty chứng khoán.
- Phân tích thực trạng hoạt động kinh doanh chứng khoán của công ty
cổ phần chứng khoán NAVIBANK, từ đó, đánh giá kết quả, hạn chế và các
nguyên nhân làm hạn chế hoạt động kinh doanh chứng khoán của công ty.
- Đề xuất hệ thống giải pháp nhằm phát triển hoạt động kinh doanh
chứng khoán của công ty cổ phần chứng khoán NAVIBANK.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài là:
- Đối tượng nghiên cứu là các hoạt động kinh doanh chứng khoán
(hoạt động môi giới chứng khoán, hoạt động đầu tư góp vốn, hoạt động tư
vấn chứng khoán, hoạt động lưu ký chứng khoán và các hoạt động phụ trợ
khác) của công ty chứng khoán.
- Phạm vi nghiên cứu là các hoạt động kinh doanh chứng khoán của
công ty cổ phần chứng khoán NAVIBANK.
Chuyên đề cuối khóa Học viện tài chính
SV: Bựi Văn Thắng Lớp: CQ45/17.01
5
Đề tài của em có kết cấu gồm 3 chương:
CHƯƠNG 1: Lý luận chung về công ty chứng khoán và hoạt động
kinh doanh chứng khoán của công ty chứng khoán.
CHƯƠNG 2: Thực trạng hoạt động kinh doanh chứng khoán tại
công ty cổ phần chứng khoán NAVIBANK.
CHƯƠNG 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh
của công ty cổ phần chứng khoán NAVIBANK.
Trong quá trình làm đề tài này, em đã cố gắng nghiên cứu và tham khảo nhiều
tài liệu, sách báo, tạp chí cùng với sự hướng dẫn và giúp đỡ nhiệt tình của các
thầy cô, anh chị tại nơi em thực tập. Tuy thế, chắc chắn đề tài này sẽ không
tránh khỏi những thiếu sót và hạn chế nhất định.Vì vậy, em rất mong sẽ nhận
được những ý kiến đóng góp của các thầy cô giáo và những người quan tâm
đến đề tài của em. Em xin chân thành cảm ơn!
Chuyên đề cuối khóa Học viện tài chính
SV: Bựi Văn Thắng Lớp: CQ45/17.01
6
CHƯƠNG 1:
LÝ LUẬN CHUNG VỀ CÔNG TY CHỨNG KHOÁN VÀ HOẠT
ĐỘNG KINH DOANH CỦA CÔNG TY CHỨNG KHOÁN.
1.1. Những vấn đề chung về công ty chứng khoán.
1.1.1. Công ty chứng khoán và vai trò của công ty chứng khoán trên
thị trường chứng khoán.
1.1.1.1. Công ty chứng khoán.
Thị trường chứng khoán (TTCK) là thị trường nơi các chứng khoán
được phát hành và giao dịch, thông qua đó, một bộ phận vốn được huy động
và luân chuyển trong nền kinh tế.
Thị trường chứng khoán là một bộ phận của thị trường tài chính, ở các
nước có nền kinh tế thị trường phát triển, tổng giá trị của thị trường chứng
khoán luôn chiếm một tỷ trọng rất lớn trong tổng sản phẩm quốc nội (GDP), ở
đó, thị trường chứng khoán là nơi hàng ngày có luồng tiền vào - ra khổng lồ,
và thị trường chứng khoán còn được coi là "phong vũ biểu", là "nhiệt kế đo
sức khoẻ" của một nền kinh tế. Chính vì vậy, việc đảm bảo tính công bằng,
liên tục, an toàn và trật tự của thị trường chứng khoán là rất quan trọng và một
trong những biện pháp hữu hiệu là sự ra đời của các công ty chứng khoán.
Có nhiều cách định nghĩa khác nhau về công ty chứng khoán tuỳ vào
từng khía cạnh tiếp cận khác nhau, tuy nhiên, một trong những định nghĩa
mang tính bản chất nhất về công ty chứng khoán là: Công ty chứng khoán
(CTCK) là tổ chức hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực chứng khoán thông
qua việc thực hiện một hoặc một số dịch vụ chứng khoán với mục đích tìm
kiếm lợi nhuận.
Chúng ta đã biết, hoạt động của CTCK rất đa dạng và phức tạp, khác
hẳn với những doanh nghiệp sản xuất và thương mại thông thường vì CTCK
là một định chế đặc biệt. Do vậy, vấn đề xác định mô hình tổ chức kinh doanh
của CTCK cũng có những điểm khác nhau vận dụng cho những khối thị
trường có mức độ phát triển không giống nhau (thị trường cổ điển; thị trường
Chuyên đề cuối khóa Học viện tài chính
SV: Bựi Văn Thắng Lớp: CQ45/17.01
7
mới nổi; thị trường các nước chuyển đổi). Tuy nhiên có thể khái quát mô hình
tổ chức kinh doanh chứng khoán của CTCK theo 2 nhóm sau:
(1) Mô hình công ty chứng khoán đa năng.
Theo mô hình này, CTCK được tổ chức dưới hình thức một tổ hợp tài
chính kinh doanh tổng hợp bao gồm kinh doanh chứng khoán, kinh doanh tiền
tệ và các dịch vụ tài chính. Theo đó, các ngân hàng thương mại hoạt động với
tư cách là chủ thể kinh doanh chứng khoán, bảo hiểm và kinh doanh tiền tệ.
Mô hình này được biểu hiện dưới 2 hình thức sau:
- Loại đa năng một phần: theo mô hình này, các ngân hàng muốn kinh
doanh chứng khoán phải lập công ty độc lập hoạt động tách rời. Mô hình này
còn được gọi là mô hình ngân hàng kiểu Anh.
Hình 1.1: Mô hình công ty chứng khoán đa năng một phần.
- Loại đa năng hoàn toàn: các ngân hàng được kinh doanh chứng
khoán, kinh doanh bảo hiểm bên cạnh kinh doanh ngoại tệ. Mô hình này còn
được gọi là mô hình ngân hàng kiểu Đức.
Hình 1.2: Mô hình công ty chứng khoán đa năng hoàn toàn.
TẬP ĐOÀN (HOLDING COMPANY)
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
CÔNG TY CHỨNG KHOÁN
CÔNG TY BẢO HIỂM
CÔNG TY QUẢN LÝ QUỸ
NGÂN HÀNG
TIỀN TỆ
BẢO HIỂM
CHỨNG KHOÁN
Chuyên đề cuối khóa Học viện tài chính
SV: Bựi Văn Thắng Lớp: CQ45/17.01
8
Ưu điểm của mô hình này là các ngân hàng có thể kết hợp nhiều lĩnh
vực kinh doanh, nhờ đó giảm bớt rủi ro trong hoạt động kinh doanh bằng việc
đa dạng hoá đầu tư. Ngoài ra, mô hình này còn có ưu điểm là tăng khả năng
chịu đựng của ngân hàng trước những biến động trên thị trường tài chính. Mặt
khác, các ngân hàng sẽ tận dụng được lợi thế của mình là tổ chức kinh doanh
tiền tệ có vốn lớn, cơ sở vật chất hiện đại và hiểu rõ về khách hàng cũng như
các doanh nghiệp khi họ thực hiện nghiệp vụ cấp tín dụng và tài trợ dự án.
Tuy nhiên, mô hình này cũng có những hạn chế, đó là, do vừa là tổ
chức tín dụng, vừa là tổ chức kinh doanh chứng khoán nên khả năng chuyên
môn không sâu như các CTCK chuyên doanh. Điều này sẽ làm cho TTCK
kém phát triển vì các ngân hàng thường có xu hướng bảo thủ và thích hoạt
động cho vay hơn là thực hiện các nghiệp vụ của TTCK như: Bảo lãnh phát
hành chứng khoán, tư vấn đầu tư chứng khoán, quản lý danh mục đầu tư.
Đồng thời, do khó tách bạch được hoạt động ngân hàng và hoạt động kinh
doanh chứng khoán, trong điều kiện môi trường pháp luật không lành mạnh,
các ngân hàng dễ gây nên tình trạng lũng đoạn thị trường và khi đó các biến
động trên TTCK sẽ tác động mạnh tới kinh doanh tiền tệ, gây tác động dây
chuyền và dẫn đến khủng hoảng thị trường tài chính. Bên cạnh đó, do không
có sự tách biệt rõ ràng giữa các nguồn vốn nên các ngân hàng có thể sử dụng
tiền gửi tiết kiệm của dân cư để đầu tư chứng khoán, khi TTCK biến động
theo chiều hướng xấu sẽ tác động tới công chúng thông qua việc ồ ạt rút tiền
gửi, làm cho ngân hàng mất khả năng chi trả. Do những hạn chế như vậy, nên
sau cuộc khủng hoảng thị trường tài chính 1929 - 1933, các nước đã chuyển
sang mô hình chuyên doanh, chỉ có một số thị trường (như Đức) vẫn còn áp
dụng mô hình này.
(2) Mô hình công ty chứng khoán chuyên doanh.
Theo mô hình này, hoạt động kinh doanh chứng khoán sẽ do các công
ty độc lập và chuyên môn hoá trong lĩnh vực chứng khoán đảm nhận, các
ngân hàng không được tham gia kinh doanh chứng khoán.
Chuyên đề cuối khóa Học viện tài chính
SV: Bựi Văn Thắng Lớp: CQ45/17.01
9
Chuyên đề cuối khóa Học viện tài chính
SV: Bựi Văn Thắng Lớp: CQ45/17.01
10
Hình 1.3: Mô hình công ty chứng khoán chuyên doanh.
Ưu điểm của mô hình này là hạn chế được rủi ro cho hệ thống ngân
hàng, tạo điều kiện cho các CTCK đi vào chuyên môn hoá sâu trong lĩnh vực
chứng khoán để thúc đẩy thị trường phát triển. Mô hình này được áp dụng
khá rộng rãi ở các thị trường Mỹ, Nhật và các thị trường mới nổi như Hàn
Quốc, Thái Lan.
Ngày nay, sự phát triển của TTCK cùng với xu hướng hình thành các
tập đoàn tài chính khổng lồ, để tận dụng thế mạnh của lĩnh vực tiền tệ và lĩnh
vực chứng khoán, các quốc gia có xu hướng nới lỏng ngăn cách giữa hoạt
động tiền tệ và chứng khoán bằng cách cho phép các ngân hàng thương mại
thành lập công ty con để chuyên kinh doanh chứng khoán.
Hiện nay, trên thế giới có ba loại hình tổ chức cơ bản của CTCK, đó là: Công
ty hợp danh; Công ty trách nhiệm hữu hạn (TNHH); Công ty cổ phần (CTCP).
* Công ty hợp danh
- Là loại hình kinh doanh có từ 2 chủ sở hữu trở lên.
- Thành viên của CTCK hợp danh bao gồm: thành viên góp vốn và
thành viên hợp danh. Các thành viên hợp danh phải chịu trách nhiệm vô hạn
HỘI ĐỒNG QUẢN TRỊ
BAN KIỂM SOÁT
PHÒNG MÔI GIỚI
PHÒNG QUẢN LÝ TÀI
SẢN
PHÒNG TƯ VẤN
BAN LÃNH ĐẠO
PHÒNG BẢO LÃNH PHÁT
HÀNH
PHÒNG TỰ DOANH
Chuyên đề cuối khóa Học viện tài chính
SV: Bựi Văn Thắng Lớp: CQ45/17.01
11
bằng toàn bộ tài sản của mình về nghĩa vụ của công ty. Các thành viên góp
vốn không tham gia điều hành công ty, họ chỉ phải chịu trách nhiệm hữu hạn
trong phần vốn góp của mình đối với các khoản nợ của công ty.
- Công ty hợp danh thông thường không được phép phát hành bất cứ
loại chứng khoán nào.
* Công ty TNHH.
- Thành viên của công ty TNHH chịu trách nhiệm về các khoản nợ và
nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã cam kết góp
vào doanh nghiệp.
- Công ty TNHH không được phép phát hành cổ phiếu.
* Công ty cổ phần.
- Công ty cổ phần là một pháp nhân độc lập với các chủ sở hữu của
công ty là các cổ đông.
- Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của
doanh nghiệp trong phạm vi vốn đã góp vào doanh nghiệp.
- Công ty cổ phần có quyền phát hành chứng khoán (cổ phiếu và trái
phiếu) ra công chúng theo quy định của pháp luật về chứng khoán hiện hành.
Do các ưu điểm của loại hình CTCP và công ty TNHH so với công ty
hợp danh nên hiện nay, chủ yếu các CTCK được tổ chức dưới hình thức công
ty TNHH và CTCP.
Tại Việt Nam, Điều 59 - Luật chứng khoán Việt Nam thông qua ngày
29/06/2006 quy định: Công ty chứng khoán được tổ chức dưới hình thức công
ty TNHH hoặc CTCP.
1.1.1.2. Vai trò của công ty chứng khoán trên thị trường chứng khoán.
Công ty chứng khoán là chủ thể không thể tách rời của TTCK và công ty
chứng khoán có những vai trò quan trọng với những chủ thể khác nhau trên
TTCK.
Đối với các tổ chức phát hành: Mục tiêu khi tham gia vào TTCK của
các tổ chức phát hành là huy động vốn thông qua việc phát hành các chứng
khoán. Vì vậy, thông qua hoạt động đại lý phát hành, bảo lãnh phát hành, các
CTCK có vai trò tạo ra cơ chế huy động vốn phục vụ các nhà phát hành, giúp
các tổ chức phát hành huy động được một lượng vốn lớn một các chuyên
Chuyên đề cuối khóa Học viện tài chính
SV: Bựi Văn Thắng Lớp: CQ45/17.01
12
nghiệp và rộng rãi, giảm được sự kiểm soát của một lượng nhỏ các nhà đầu
tư.
Một trong những nguyên tắc hoạt động của TTCK là nguyên tắc trung
gian mua bán. Nguyên tắc này yêu cầu nhà đầu tư và nhà phát hành không
được mua bán trực tiếp chứng khoán mà phải thông qua các trung gian mua
bán. Các CTCK sẽ thực hiện vai trò trung gian cho cả nhà đầu tư và nhà phát
hành. Và khi thực hiện công việc này, CTCK đã tạo ra cơ chế huy động vốn
cho nền kinh tế thông qua TTCK.
Đối với các nhà đầu tư: Thông qua các hoạt động như môi giới, tư vấn
đầu tư, quản lý danh mục đầu tư, CTCK đóng vai trò làm giảm chi phí và thời
gian giao dịch, do đó nâng cao hiệu quả của các khoản đầu tư. Đối với hàng
hoá thông thường, mua bán qua trung gian sẽ làm tăng chi phí cho người mua
và người bán, tuy nhiên, đối với TTCK, sự biến động thường xuyên của giá cả
chứng khoán cũng như mức độ rủi ro cao sẽ làm cho nhà đầu tư tốn kém chi
phí, công sức và thời gian tìm hiểu thông tin trước khi ra quyết định đầu tư.
Nhưng thông qua các CTCK, với trình độ chuyên môn cao và uy tín nghề
nghiệp sẽ giúp các nhà đầu tư thực hiện các khoản đầu tư một cách hiệu quả.
Đối với thị trường chứng khoán: Đối với TTCK, CTCK thể hiện 2 vai
trò chính:
(1) Góp phần tạo lập giá cả, điều tiết thị trường. Cũng cần khẳng định
lại rằng, giá cả chứng khoán là do thị trường quyết định, tuy nhiên, để đưa ra
các mức giá cuối cùng, người mua và người bán phải thông qua các CTCK vì
họ không được tham gia trực tiếp vào quá trình mua bán. Thêm nữa, các
CTCK là những thành viên của thị trường nên họ cũng góp phần tạo lập giá cả
thị trường thông qua đấu giá, còn trên thị trường sơ cấp, các CTCK cùng với
các nhà phát hành đưa ra mức giá đầu tiên. Chính vì vậy, giá cả của mỗi loại
chứng khoán giao dịch đều có sự tham gia định giá của các CTCK.
Các CTCK còn thể hiện vai trò lớn hơn khi tham gia điều tiết thị
trường. Để bảo vệ các khoản đầu tư của khách hàng và bảo vệ lợi ích của
chính mình, nhiều CTCK đã giành một tỷ lệ nhất định các giao dịch để thực
hiện vai trò bình ổn thị trường.
(2) Góp phần làm tăng tính thanh khoản của các tài sản tài chính.
Chuyên đề cuối khóa Học viện tài chính
SV: Bựi Văn Thắng Lớp: CQ45/17.01
13
TTCK có vai trò là môi trường làm tăng tính thanh khoản của các tài
sản tài chính nhưng các CTCK mới là người thực hiện tốt vai trò đó vì CTCK
tạo ra cơ chế giá giao dịch trên thị trường. Trên thị trường cấp I, do thực hiện
các hoạt động như Bảo lãnh phát hành, chứng khoán hoá, các CTCK không
những huy động được một lượng vốn lớn đưa vào sản xuất kinh doanh cho
nhà phát hành mà còn góp phần làm tăng tính thanh khoản của các tài sản tài
chính vì các chứng khoán qua đợt phát hành sẽ được mua bán giao dịch trên
thị trường cấp II, điều này làm giảm rủi ro, tạo tâm lý yên tâm cho người đầu
tư và cả nhà phát hành. Trên thị trường cấp II, do thực hiện các giao dịch mua
và bán, các CTCK giúp người đầu tư chuyển đổi chứng khoán thành tiền mặt
và ngược lại. Chính những hoạt động đó có thể làm tăng tính thanh khoản của
những tài sản tài chính.
Đối với cơ quan quản lý thị trường: CTCK có vai trò cung cấp thông
tin về TTCK cho các cơ quan quản lý thị trường để TTCK đạt được 3 mục
tiêu: hoạt động hiệu quả; điều hành công bằng; phát triển ổn định. Các CTCK
thực hiện được vai trò này bởi vì họ vừa là người bảo lãnh phát hành cho các
chứng khoán, vừa là trung gian mua bán chứng khoán và thực hiện các giao
dịch trên thị trường. Một trong những yêu cầu của TTCK là các thông tin cần
phải được công khai hoá dưới sự giám sát của các cơ quan quản lý thị trường.
Việc cung cấp thông tin vừa là qui định của hệ thống luật pháp, vừa là nguyên
tắc nghề nghiệp của các CTCK vì CTCK cần phải minh bạch và công khai
trong hoạt động. Các thông tin CTCK có thể cung cấp bao gồm: thông tin về
giao dịch mua bán trên thị trường, thông tin về cổ phiếu, trái phiếu và các tổ
chức phát hành, thông tin về các nhà đầu tư, nhờ các thông tin này, các cơ
quan quản lý thị trường có thể kiểm soát và chống các hiện tượng thao túng,
lũng đoạn, bóp méo thị trường.
1.1.2. Hoạt động kinh doanh của công ty chứng khoán.
1.1.2.1. Các nghiệp vụ kinh doanh chủ yếu.
(1) Nghiệp vụ Môi giới chứng khoán.
Môi giới chứng khoán là một trong những hoạt động kinh doanh chứng
khoán, trong đó, CTCK đại diện cho khách hàng tiến hành các giao dịch
thông qua cơ chế giao dịch tại sở giao dịch chứng khoán hay thị trường phi
Chuyên đề cuối khóa Học viện tài chính
SV: Bựi Văn Thắng Lớp: CQ45/17.01
14
tập trung OTC mà khách hàng phải chịu trách nhiệm đối với kết quả giao dịch
của chính mình. CTCK chỉ được thực hiện thu phí dịch vụ theo thoả thuận
trong hợp đồng uỷ thác giao dịch, hoa hồng thường được tính theo phần trăm
trên tổng giá trị một giao dịch.
Cơ sở pháp lý thực hiện giao dịch là hợp đồng kinh tế về uỷ thác được
ký kết giữa khách hàng và CTCK.
CTCK thực hiện nghiệp vụ môi giới chứng khoán phải tuân thủ những
nguyên tắc rất cơ bản, đó là: thứ nhất, quyết định mua bán là do khách hàng
đưa ra và công ty môi giới chứng khoán phải thực hiện theo lệnh đó; thứ hai,
công ty môi giới chứng khoán đứng tên mình thực hiện các giao dịch theo
lệnh của khách hàng; thứ ba, việc hạch toán các giao dịch phải được thực hiện
trên các tài khoản thuộc sở hữu của khách hàng.
Quy trình nghiệp vụ môi giới của CTCK được thể hiện theo sơ đồ dưới
đây:
Hình 1.4: Quy trình nghiệp vụ môi giới chứng khoán.
KHÁCH HÀNG MỞ TÀI
KHOẢN TẠI CTCK
CTCK NHẬN LỆNH CỦA
KHÁCH HÀNG
CTCK CHUYỂN LỆNH TỚI
THỊ TRƯỜNG PHÙ HỢP
ĐỂ THỰC HIỆN
CTCK GỬI PHIẾU XÁC
NHẬN ĐÃ THỰC HIỆN
XONG LỆNH CHO KHÁCH
HÀNG
ĐỐI CHIẾU VÀ BÙ TRỪ
KẾT QUẢ GIAO DỊCH
THANH QUYẾT TOÁN VỚI
KHÁCH HÀNG
Chuyên đề cuối khóa Học viện tài chính
SV: Bựi Văn Thắng Lớp: CQ45/17.01
15
(2) Nghiệp vụ Tự doanh chứng khoán.
Giao dịch tự doanh là các giao dịch bằng chính nguồn vốn kinh doanh
của CTCK nhằm phục vụ mục đích đầu tư kinh doanh thu lợi cho chính mình.
Giao dịch tự doanh có thể được thực hiện theo phương thức giao dịch trực
tiếp hay giao dịch gián tiếp.
Giao dịch trực tiếp: là giao dịch "trao tay" giữa khách hàng và CTCK theo
giá thoả thuận trực tiếp (giao dịch tại quầy). Các đối tác giao dịch do các tổ chức
tự "đấu nối", họ có thể là cá nhân hay tổ chức (chủ yếu là các CTCK). Thời gian
giao dịch thường được thực hiện trong và ngoài giờ giao dịch của sở (trung tâm)
giao dịch (kể cả ban đêm và ngày nghỉ). Chứng khoán giao dịch rất đa dạng, chủ
yếu là các chứng khoán chưa niêm yết và chứng khoán mới phát hành.
Các đối tác giao dịch thường trực tiếp thực hiện các thủ tục thanh toán
và chuyển giao/ chuyển nhượng chứng khoán. Vì vậy trong giao dịch này,
không có bất kỳ loại phí nào; riêng phí thanh toán do bên thụ hưởng chịu, phí
chuyển khoản chứng khoán do bên chuyển nhượng chịu.
Các hoạt động giao dịch này không chịu sự giám sát của sở (trung tâm) giao
dịch nhưng chịu sự giám sát của “thanh tra nhà nước” về chứng khoán và TTCK.
Doanh số giao dịch trực tiếp lớn gấp bội lần doanh số giao dịch trên sở
(trung tâm) giao dịch (thường chiếm 85-90% doanh số giao dịch của thị trường).
Giao dịch gián tiếp: là các giao dịch được thực hiện thông qua việc
CTCK đặt các lệnh mua và bán chứng khoán trên sở giao dịch, lệnh của họ có
thể thực hiện với bất kỳ khách hàng nào không được xác định trước. Đây là
các giao dịch mà các CTCK không thể thực hiện được bằng giao dịch trực
tiếp nhằm đảm bảo an toàn khi giá chứng khoán có biến động lớn và đôi khi
vì mục đích can thiệp vào giá thị trường.
Thao tác giao dịch này cũng được thực hiện tương tự như giao dịch
theo uỷ thác tức là một lệnh giao dịch tự doanh của CTCK và một lệnh giao
dịch theo uỷ thác của khách hàng trong nghiệp vụ môi giới là không có sự
Chuyên đề cuối khóa Học viện tài chính
SV: Bựi Văn Thắng Lớp: CQ45/17.01
16
phân biệt khi tham gia khớp lệnh trên sở (trung tâm) giao dịch. Tuy nhiên, khi
nghiệp vụ này song hành cùng nghiệp vụ môi giới chứng khoán tức là CTCK
vừa phục vụ lệnh giao dịch cho khách hàng, vừa phục vụ giao dịch cho chính
mình nên rất có thể dẫn đến xung đột lợi ích giữa thực hiện giao dịch cho
khách hàng và cho bản thân công ty. Do đó, luật pháp các nước đều yêu cầu
tách biệt giữa các nghiệp vụ môi giới và nghiệp vụ tự doanh, CTCK phải ưu
tiên thực hiện lệnh của khách hàng trước khi thực hiện lệnh của chính mình.
Thậm chí, luật pháp một số nước còn quy định có 2 loại hình CTCK là công
ty Môi giới chứng khoán và công ty có chức năng Tự doanh chứng khoán.
Do giao dịch qua sở (trung tâm) giao dịch nên CTCK phải chịu các chi phí
như chi phí môi giới lập giá, chi phí thanh toán bù trừ và lưu ký chứng khoán.
Mục đích trước tiên của hoạt động tự doanh chứng khoán là thu lợi
nhuận. CTCK mua bán chứng khoán nhằm thu lợi tức và chênh lệch thị giá
mua vào và thị giá bán ra. Mục đích thứ hai là nhằm dự trữ đảm bảo khả năng
thanh toán cho công ty vì phạm vi kinh doanh chứng khoán của các CTCK
phụ thuộc vào nguồn vốn và mức dự trữ bảo đảm khả năng thanh toán. Mục
đích cuối cùng là can thiệp bảo vệ giá chứng khoán. Khi giá chứng khoán
biến động bất lợi do tình hình hoạt động chung của cả thị trường, các CTCK
thực hiện các giao dịch mua, bán chứng khoán nhằm ổn định thị trường theo
yêu cầu can thiệp của cơ quan hữu trách và bảo vệ mình hay khách hàng của
mình khi công ty thực hiện các đợt phát hành hay bảo lãnh phát hành.
Hoạt động tự doanh chứng khoán không hề có một quy chuẩn nào, các
CTCK tuỳ thuộc vào cơ cấu tổ chức của mình sẽ có những quy trình nghiệp
vụ riêng phù hợp. Tuy nhiên, trên góc độ chung nhất, quy trình nghiệp vụ tự
doanh có thể chia thành một số giai đoạn sau:
Hình 1.5: Quy trình nghiệp vụ Tự doanh chứng khoán.
XÂY DỰNG CHIẾN LƯỢC
ĐẦU TƯ
TÌM KIẾM CƠ HỘI ĐẦU
TƯ
PHÂN TÍ CH, ĐÁNH GIÁ
CHẤT LƯỢNG CƠ HỘI
ĐẦU TƯ
Chuyên đề cuối khóa Học viện tài chính
SV: Bựi Văn Thắng Lớp: CQ45/17.01
17
.
(3) Nghiệp vụ Bảo lãnh phát hành.
Bảo lãnh phát hành là việc CTCK có chức năng bảo lãnh (Tổ chức bảo
lãnh phát hành - TCBLPH) giúp tổ chức phát hành thực hiện các thủ tục trước
khi chào bán chứng khoán, tổ chức việc phân phối chứng khoán và giúp bình
ổn giá chứng khoán trong giai đoạn đầu sau khi phát hành. Trên TTCK,
TCBLPH không chỉ có CTCK mà còn bao gồm các định chế tài chính khác
như ngân hàng đầu tư nhưng thông thường, việc CTCK nhận bảo lãnh thường
kiêm luôn việc phân phối chứng khoán, còn các ngân hàng đầu tư thường
đứng ra nhận bảo lãnh phát hành (hoặc thành lập tổ hợp bảo lãnh phát hành)
sau đó chuyển phân phối chứng khoán cho các CTCK tự doanh hoặc các
thành viên khác.
Việc bảo lãnh phát hành thường được thực hiện theo một trong các
phương thức sau:
- Bảo lãnh theo phương thức cam kết chắc chắn: là phương thức bảo
lãnh phát hành mà TCBLPH cam kết với tổ chức phát hành sẽ mua hết lượng
chứng khoán với một mức giá thoả thuận và phân phối lại cho công chúng tại
mức giá chào bán ra công chúng. Giá chào bán ra công chúng không được
thay đổi trong suốt quá trình chào bán. Mức giá thoả thuận còn được gọi là
mức giá chiết khấu và chênh lệch giữa giá mua chứng khoán của TCBLPH và
giá bán ra công chúng được gọi là hoa hồng chiết khấu.
- Bảo lãnh cố gắng tối đa: là phương thức bảo lãnh mà theo đó
TCBLPH chỉ đóng vai trò đại lý phát hành cho tổ chức phát hành. TCBL chỉ
cam kết sẽ cố gắng để bán được lượng chứng khoán nhiều nhất ra thị trường
theo mức giá xác định. Số chứng khoán không bán hết sẽ được trả lại cho tổ
Chuyên đề cuối khóa Học viện tài chính
SV: Bựi Văn Thắng Lớp: CQ45/17.01
18
chức phát hành và TCBL nhận hoa hồng bảo lãnh trên số chứng khoán bán
được hoặc trên số vốn huy động được. Vì vậy, với hình thức này việc lựa chọn
TCBLPH là hết sức quan trọng đối với tổ chức phát hành. Uy tín, năng lực của
TCBLPH sẽ thể hiện qua số chứng khoán phát hành được.
- Bảo lãnh tất cả hoặc không: là phương thức bảo lãnh mà tổ chức phát
hành chỉ thị cho TCBLPH phải bán trọn đợt phát hành, nếu không bán được
hết, đợt phát hành sẽ bị huỷ bỏ.
Hoạt động bảo lãnh phát hành của CTCK được thể hiện theo sơ đồ dưới đây:
Hình 1.6: Quy trình hoạt động bảo lãnh phát hành chứng khoán.
Công ty chứng
khoán
Nhận yêu cầu bảo lãnh
Ký hợp đồng tư vấn quản
lý
- Đệ trình phương án bán
- Cam kết bảo lãnh
Lập nghiệp đoà n bảo lãnh
Ký hợp đồng bảo lãnh
Nộp hồ sơ xin phép phát
hà nh
Thăm dò Thị trường
- Công bố việc phát hà nh
- Phân phát bản cáo bạch
- Phân phát phiếu đăng ký mua CK
-Nhận tiền đặt cọc
Giấy phép phát hà nh CK có
hiệu lực
Tổ
chức
phát
hà nh
UBCK
Chuyên đề cuối khóa Học viện tài chính
SV: Bựi Văn Thắng Lớp: CQ45/17.01
19
Chuyên đề cuối khóa Học viện tài chính
SV: Bựi Văn Thắng Lớp: CQ45/17.01
20
(4) Nghiệp vụ Tư vấn đầu tư chứng khoán.
Cũng tương tự như các loại hình tư vấn khác, Tư vấn đầu tư chứng
khoán là việc CTCK thông qua hoạt động phân tích chứng khoán và TTCK để
đưa ra các khuyến nghị liên quan đến chứng khoán và có thể thực hiện một số
dịch vụ khác liên quan đến phát hành chứng khoán, đầu tư chứng khoán và cơ
cấu tài chính cho khách hàng.
Tư vấn đầu tư chứng khoán là các hoạt động tư vấn liên quan đến
chứng khoán hoặc công bố và phát hành các báo cáo phân tích,đưa ra lời
khuyên có liên quan đến chứng khoán hoặc thực hiện một số công việc có tính
chất dịch vụ cho khách hàng. Đó là việc CTCK tiến hành tư vấn cho khách
hàng đầu tư chứng khoán trên Thị trường thứ cấp về loại chứng khoán nên
đầu tư, giá nên đầu tư, thời điểm nên đầu tư tuỳ theo mức độ chấp nhận rủi ro
của từng khách hàng. Đây là một nghiệp vụ đòi hỏi nhiều kiến thức, kỹ năng,
kinh nghiệm chuyên môn mà không cần nhiều vốn.
Hoạt động tư vấn là việc người tư vấn sử dụng kiến thức, đó chính là
vốn chất xám mà họ đã bỏ ra để kinh doanh nhằm đem lại lợi nhuận (hiệu
quả) cho khách hàng. Nhà tư vấn đòi hỏi phải hết sức thận trọng trong việc
đưa ra lời khuyên đối với khách hàng vì với lời khuyên đó, khách hàng có thể
thu về lợi nhuận lớn hoặc thua lỗ, thậm chí là phá sản, còn người tư vấn thu
về cho mình khoản phí về dịch vụ tư vấn (bất kể tư vấn đó có thành công hay
không). Chính vì vậy, hoạt động tư vấn chứng khoán của bất kỳ CTCK nào
cũng phải tuân theo những quy định mang tính nguyên tắc, đó là:
- Không đảm bảo chắc chắn về giá trị chứng khoán: giá chứng khoán
không phải là một số cố định, nó luôn thay đổi theo các yếu tố kinh tế, tâm lý
và diễn biến thực tiễn của thị trường.
- Luôn nhắc nhở khách hàng rằng những lời tư vấn của mình dựa trên
cơ sở phân tích các yếu tố lý thuyết và những diễn biến trong quá khứ, có thể
là không hoàn toàn chính xác và khách hàng là người quyết định cuối cùng
trong việc sử dụng các thông tin từ nhà tư vấn để đầu tư, nhà tư vấn sẽ không
chịu trách nhiệm về những thiệt hại kinh tế do lời khuyên đưa ra.
- Không được dụ dỗ, mời chào khách hàng mua hay bán một loại chứng
khoán nào đó, những lời tư vấn phải được xuất phát từ những cơ sở khách
Chuyên đề cuối khóa Học viện tài chính
SV: Bựi Văn Thắng Lớp: CQ45/17.01
21
quan là quá trình phân tích tổng hợp một cách khoa học, logic các vấn đề
nghiên cứu.
1.1.2.2. Các nghiệp vụ phụ trợ.
Các dịch vụ hỗ trợ của CTCK góp phần tạo thuận lợi cho nhà đầu tư
trong việc đầu tư chứng khoán, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư Một
số dịch vụ hỗ trợ đó là:
- Lưu ký chứng khoán: là việc lưu giữ, bảo quản chứng khoán của
khách hàng và giúp khách hàng thực hiện các quyền của mình đối với chứng
khoán đã lưu ký tại CTCK. Đây là một hoạt động hết sức quan trọng và cần
thiết vì trên TTCK tập trung, các chứng khoán đều được phi vật chất hoá hoặc
bất động hoá tại trung tâm lưu ký dưới hình thức ghi sổ. Hoạt động bù trừ, thanh
toán, chuyển giao chứng khoán, đăng ký chứng khoán đều được thực hiện bù trừ
qua trung tâm lưu ký. Lưu ký đảm bảo quá trình thanh toán trên Sở giao dịch
chứng khoán được nhanh chóng, chính xác. Ngoài ra, đối với người nắm giữ
chứng khoán, lưu ký đảm bảo chứng khoán không bị hư hỏng, rách hay thất lạc.
Thông qua lưu ký chứng khoán, CTCK giúp khách hàng thực hiện tất cả các
quyền lợi liên quan đến chứng khoán của khách hàng như nhận cổ tức, trái tức,
cổ phiếu thưởng, quyền mua cổ phiếu phát hành thêm.
- Hoạt động tín dụng: là hoạt động mà CTCK giúp khách hàng của mình
gia tăng khoản vốn đầu tư thông qua các hình thức như cho vay cầm cố chứng
khoán, cho vay bảo chứng, cho vay ứng trước tiền bán chứng khoán.
Cho vay cầm cố chứng khoán là loại hình tín dụng mà trong đó người
đi vay dùng tài sản của mình là các chứng khoán để cầm cố vay tiền.
Cho vay bảo chứng là hình thức CTCK cho khách hàng vay một phần tiền
để mua chứng khoán và dùng chính chứng khoán mua được đó để làm tài sản
cầm cố.
Cho vay ứng trước tiền bán chứng khoán: thông thường sau khi bán
được chứng khoán, khách hàng phải đợi đến ngày thanh toán mới được nhận
tiền, để tạo thuận lợi cho khách hàng, CTCK sẽ dùng tiền của mình ứng trước
cho khách hàng và sẽ nhận lại tiền khi đến ngày thanh toán.
Chuyên đề cuối khóa Học viện tài chính
SV: Bựi Văn Thắng Lớp: CQ45/17.01
22
1.1.2.3. Mối liên hệ giữa các hoạt động của công ty chứng khoán.
CTCK là một tổ chức chuyên nghiệp hoạt động trên TTCK, các hoạt
động của CTCK đều mang tính chuyên môn hoá rất cao. Thông qua các hoạt
động của mình, CTCK góp phần quan trọng trong việc tăng chất lượng giao
dịch chứng khoán, tăng tính thanh khoản cho chứng khoán, giảm rủi ro để đạt
được mục tiêu cuối cùng là tăng tính hiệu quả của thị trường nói chung và
hiệu quả đầu tư chứng khoán nói riêng.
Các hoạt động của CTCK rất đa dạng và phong phú nhưng các hoạt
động này không tách rời mà luôn hỗ trợ, tác động lẫn nhau.
Đơn giản nhất là các hoạt động phụ trợ như lưu ký, tín dụng và các dịch
vụ không thể thiếu của hoạt động tự doanh chứng khoán, hoạt động môi giới
chứng khoán nhằm hỗ trợ nguồn vốn, thông tin cho CTCK. Thông qua các
dịch vụ này, CTCK đã tăng cường được việc sử dụng sức mạnh của việc dùng
đòn bảy tài chính. Vì vậy, nếu CTCK thực hiện nghiệp vụ này tốt thì không
những đem lại nguồn thu nhập ổn định mà còn góp phần nâng cao uy tín và
thương hiệu của mình, thu hút được nhiều khách hàng mới tham gia các dịch
vụ của công ty.
Bên cạnh đó, CTCK thực hiện hoạt động tư vấn niêm yết, bảo lãnh phát
hành tốt thì qua đó sẽ giúp cho bộ phận nghiệp vụ tự doanh đánh giá chính
xác hơn trước khi ra quyết định đầu tư và có thể kết hợp được giữa nghiệp vụ
bảo lãnh phát hành và tự doanh nhằm thu được lợi nhuận cao hơn. Thông qua
các hoạt động này, CTCK có một nguồn thông tin hết sức quan trọng từ phía
các doanh nghiệp là khách hàng của công ty, giúp công ty phân tích một cách
chính xác để đưa ra quyết định đầu tư đúng đắn trong hoạt động tự doanh và
tư vấn cho khách hàng đầu tư chứng khoán.
1.2. Các chỉ tiêu đánh giá hoạt động và hiệu quả hoạt động của
công ty chứng khoán.
Hiệu quả hoạt động của công ty chứng khoán được đánh giá thông qua
khả năng dự đoán,phân tích và công bố thông tin. Công ty có dự đoán và phân
tích các xu hướng của thị trường tốt thì mới có thể tạo ra được lợi nhuận cho
công ty,giúp khách hàng thực hiện đầu tư một cách có hiệu quả,giúp cơ quan
Chuyên đề cuối khóa Học viện tài chính
SV: Bựi Văn Thắng Lớp: CQ45/17.01
23
quản lý có thể kiểm soát được hoạt động của các công ty chứng khoán,nắm
bắt được tình hình thông qua hoạt động điều tiết và bình ổn thị trường một các
có hiệu quả, các hoạt động kinh doanh chứng khoán nhằm mục tiêu lợi nhuận
song vẫn tuyệt đối tuân thủ các quy tắc đạo đức nghề nghiệp, và giữ chữ tín
với khách hàng.
Có rất nhiều chỉ tiêu để đánh giá về hoạt động và hiệu quả hoạt động
của một CTCK nếu đứng ở các góc độ khác nhau, tuy nhiên, một cách trực
diện nhất, có thể đánh giá hoạt động và hiệu quả hoạt động của một CTCK
qua 2 nhóm chỉ tiêu chính là nhóm các chỉ tiêu định lượng và nhóm các chỉ
tiêu định tính.
1.2.1. Nhóm các chỉ tiêu định lượng.
1.2.1.1. Các chỉ tiêu đánh giá về hoạt động.
(1) Chỉ tiêu đánh giá thay đổi về nguồn vốn.
Một cách dễ nhận thấy nhất thể hiện sự mở rộng hay thu hẹp quy mô
hoạt động của một công ty đó là sự tăng thêm hay giảm đi về nguồn vốn của
chính công ty đó. Điều đó lại càng quan trọng với một CTCK - Công ty hoạt
động trong ngành tài chính. Mức độ thay đổi về nguồn vốn giữa năm nay
(năm hiện tại) và năm trước là một chỉ tiêu được sử dụng để xác định mức độ
cải thiện hoặc giảm sút về khả năng tài chính của CTCK qua các năm và được
tính theo công thức:
Mức độ thay đổi về
nguồn vốn
=
Chênh lệch nguồn vốn
giữa năm nay và năm
trước
Nguồn vốn năm trước
x 100
(2) Chỉ tiêu về số trích dự phòng giảm giá chứng khoán.
Nguồn vốn của một CTCK có vai trò tạo ra nguồn vốn dự trữ để bù đắp
cho các khoản tổn thất lớn hơn mức trung bình và vượt quá khả năng chi trả
của mức dự phòng giảm giá chứng khoán đã trích lập đầu mỗi niên độ kế
toán, vì vậy, tỷ lệ phần trăm số trích dự phòng giảm giá chứng khoán trên
nguồn vốn được xác định theo công thức:
Tỷ lệ % số trích dự phòng giảm giá
chứng khoán trên nguồn vốn
=
Số trích dự phòng giảm
giá chứng khoán
x
100
Chuyên đề cuối khóa Học viện tài chính
SV: Bựi Văn Thắng Lớp: CQ45/17.01
24
Nguồn vốn
Chỉ tiêu về số trích dự phòng giảm giá chứng khoán phản ánh mức độ
đảm bảo nguồn dự trữ để bù đắp cho các khoản tổn thất do giảm giá chứng
khoán, trong đó, số trích lập dự phòng giảm giá chứng khoán bao gồm dự
phòng giảm giá chứng khoán tự doanh, chứng khoán uỷ thác đầu tư (trường
hợp CTCK chịu theo cam kết), chứng khoán đầu tư dài hạn, đầu tư ngắn hạn
và dài hạn khác.
(3) Chỉ tiêu mức độ tăng doanh thu.
Để đánh giá mức độ tăng trưởng về doanh thu, người ta thường so sánh
doanh thu của năm nay so với doanh thu của năm trước và chỉ tiêu này được
xác định theo công thức:
Mức độ tăng doanh thu (%)
=
Chênh lệch doanh thu năm
nay và năm trước
Doanh thu năm trước
X 100
Chỉ tiêu này còn có thể được tính cho từng loại hoạt động như hoạt
động môi giới, hoạt động tự doanh, hoạt động bảo lãnh phát hành, hoạt động
tư vấn, hoạt động quản lý danh mục đầu tư và các hoạt động khác của CTCK.
Doanh thu hoạt động kinh doanh chứng khoán của CTCK bao gồm:
doanh thu từ hoạt động kinh doanh chứng khoán tự doanh, doanh thu cung
cấp dịch vụ môi giới chứng khoán, doanh thu từ hoạt động bảo lãnh phát hành
chứng khoán, từ nhận quản lý danh mục đầu tư, tư vấn đầu tư chứng khoán,
cho thuê tài sản, thiết bị, cung cấp thông tin chứng khoán cho khách hàng
(người đầu tư hoặc các tổ chức khác) và doanh thu từ hoạt động đầu tư, hoạt
động tài chính khác.
(4) Chỉ tiêu tỷ lệ chi phí hoạt động.
Tỷ lệ chi phí là một trong những chỉ tiêu thể hiện khả năng cạnh tranh
của CTCK thông qua việc khống chế các chi phí ở mức độ hợp lý mà vẫn
đảm bảo hiệu quả kinh doanh. Tỷ lệ chi phí cao hay thấp ảnh hưởng trực tiếp
tới kết quả kinh doanh và ảnh hưởng tới lợi nhuận thu được từ hoạt động kinh
doanh của CTCK.
Tỷ lệ % chi phí
=
Chi phí hoạt động kinh doanh
x
100
Chuyên đề cuối khóa Học viện tài chính
SV: Bựi Văn Thắng Lớp: CQ45/17.01
25
hoạt động
chứng khoán trong kỳ
Doanh thu thuần kinh doanh chứng
khoán trong kỳ
Chỉ tiêu này cho biết trong 100 đồng doanh thu thuần công ty thu được
từ hoạt động kinh doanh chứng khoán trong kỳ thì công ty phải bỏ ra bao
nhiêu đồng chi phí cho hoạt động kinh doanh chứng khoán trong kỳ đó.
Chi phí cho hoạt động kinh doanh chứng khoán bao gồm: khoản lỗ bán
chứng khoán tự doanh; các khoản chi phí thực sự phát sinh liên quan đến thực
hiện các hoạt động dịch vụ chứng khoán như hoạt động môi giới chứng
khoán, quản lý danh mục đầu tư, đại lý phát hành, bảo lãnh phát hành chứng
khoán, hoạt động tư vấn đầu tư chứng khoán và các hoạt động khác (như cho
thuê tài sản, sử dụng thiết bị, sử dụng thông tin); chi phí hoạt động tài chính
khác như trả lãi trái phiếu, trả lãi tiền vay vv.
Doanh thu thuần kinh doanh chứng khoán = Doanh thu hoạt động kinh
doanh chứng khoán - Các khoản giảm trừ doanh thu.
1.2.1.2. Nhóm các chỉ tiêu sinh lời.
Đối với một công ty hoạt động trong ngành tài chính thì tiêu chuẩn rất
quan trọng để đánh giá hiệu quả hoạt động của công ty trong một thời kỳ nhất
định đó là nhóm các chỉ tiêu sinh lời của công ty đó, nhóm chỉ tiêu này thể
hiện năng lực cạnh tranh của công ty trong ngành, lĩnh vực mình đang hoạt
động. Các chỉ tiêu sinh lời là đáp số cuối cùng của hiệu quả hoạt động kinh
doanh của CTCK và còn là một cơ sở quan trọng để các nhà hoạch định đưa
ra các quyết định tài chính trong tương lai của công ty. Thuộc nhóm chỉ tiêu
này bao gồm các chỉ tiêu nhỏ sau:
(1) Chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu.
Đây là chỉ tiêu được sử dụng khá phổ biến khi đánh giá hiệu quả hoạt
động của một công ty, chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu được xác định
theo công thức sau:
Tỷ suất lợi nhuận sau thuế
trên doanh thu
=
Lợi nhuận sau thuế trong kỳ
Doanh thu thuần trong kỳ
x
100