Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

phân tích về biến động của tỉ giá hối đoái trên thị trường ngoại hối và thị trường tự do trong 5 năm qua

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (115.15 KB, 14 trang )

MỞ BÀI
Tỷ giá hối đoái (TGHĐ) là một trong những chính sách kinh tế vĩ mô quan trọng
của mỗi quốc gia. Diễn biến của TGHĐ giữa USD với Euro, giữa USD/JPY cũng như
sự biến động tỷ giá giữa USD/VND trong thời gian qua cho thấy, tỷ giá luôn là vấn đề
thời sự, rất nhạy cảm. Ở Việt Nam, TGHĐ không chỉ tác động đến xuất nhập khẩu,
cán cân thương mại, nợ quốc gia, thu hút đầu tư trực tiếp, gián tiếp, mà còn ảnh hưởng
không nhỏ đến niềm tin của dân chúng
Trong thời gian tới, TGHĐ biến động theo hướng nào, quả thật không dễ dự
đoán. Sự biến động của tỷ giá sẽ khó lường, bởi nhiều nhân tố tác động như: nhập siêu
còn lớn không chỉ trong ngắn hạn mà cả trong trung hạn; thâm hụt ngân sách vẫn ở
mức cao (trên dưới 6%/GDP); giá vàng trong nước và thế giới luôn tăng mạnh (do
khủng hoảng chi tiêu công tại một số quốc gia Châu Âu, châu Mỹ); nhu cầu ngoại tệ
nói chung, USD nói riêng vào những tháng cuối năm sẽ tăng cao do khách hàng vay
vốn đến hạn trả nợ ngân hàng; do nhu cầu chuyển lợi nhuận về nước của các nhà đầu
tư nước ngoài; do kinh tế ngầm vẫn phát triển rất mạnh, khó có khả năng ngăn chặn,
nên đôla hóa nền kinh tế còn ở mức cao; do thực hiện chính sách đồng tiền mạnh/ hay
yếu của một số quốc gia trong khu vực
Để nghiên cứu thêm về vấn đề này em đã mạnh dạn chọn đề tài” Phân tích về
biến động của tỉ giá hối đoái trên thị trường ngoại hối và thị trường tự do trong 5
năm qua. Những biến động đó có những ảnh hưởng gì đến thị trường xuất nhập
khẩu ở Việt Nam ”
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TỈ GIÁ HỐI ĐOÁI
1.1. Khái niệm:
Tỷ giá hối đoái là giá cả của một đồng tiền này được biểu thị thông qua
một đồng tiền khác. Nói cách khác, tỷ giá là số đơn vị đồng tiền định giá trên
một đồng tiền yết giá. Tại Việt Nam sử dụng phương pháp yết giá trực tiếp,
nghĩa là dồng ngoại tệ đóng vai trò là dồng tiền yết giá(số đơn vị =1), còn đồng
nội tệ đóng vai trò là đồng tiền định giá.
1.2. Các loại tỷ giá
có rất nhiều loại tỷ giá khác nhau tùy thuộc vào từng tiêu thức phân loại


khác nhau;
a. Căn cứ vào chế độ quản lý ngoại hối, tỷ giá hối đoái bao gồm:
- Tỷ giá chính thức: là tỷ giá do NHTW của mỗi nước công bố. Tỷ giá hối
đoái này được công bố hàng ngày vào đầu giờ làm việc của NHTW. Dựa vào tỷ
giá này các NHTM và các TCTD sẽ ấn định tỷ giá mua bán ngoại tệ giao ngay,
có kỳ hạn, hoán đổi.
- Tỷ giá kinh doanh (bao gồm tỷ giá mua, tỷ giá bán): là tỷ giá dung để
kinh doanh mua bán do các NHTM haycác TCTD đưa ra. Cơ sở xác định tỷ giá
này là tỷ giá chính thức do NHTW công bố xem xét đến các yếu tố liên quan
trực tiếp đến kinh doanh như: quan hệ cung cầu ngoại tệ, tỷ suất lợi nhuận, tâm
lý của người giao dịch đối với ngoại tệ cần mua hoặc bán. Biên độ giao động
hiện nay của tỷ giá kinh doanh so với tỷ giá chính thức là 1%.
- Tỷ giá chợ đen: tỷ giá được hình thành bên ngoài thị trường ngoại tệ
chính thức.
b. Căn cứ vào tiêu thức thời điểm thanh toán
- Tỷ giá giao ngay: là tỷ giá mua bán ngoại tệ mà việc giao nhận ngoại tệ
được thực hiện ngay trong ngày hôm đó hoặc một vài ngày sau. Loại tỷ giá này
do tổ chức tín dụng yết giá tại thời điểm giao dịch hoặc do hai bên thỏa thuận
nhưng phải đảm bảo trong biên độ do NHNN quy định. V iệc thanh toán giữa
các bên phải được thực hiện trong vòng 2 ngày làm việc tiếp theo sau ngày cam
kết mua bán.
-Tỷ giá giao nhận có kỳ hạn: là tỷ giá giao dịch do TCTD yết giá hoặc do
hai bên tham gia giao dịch tự tính toán và thỏa thuận với nhau nhưng phải đảm
bảo trong biên độ quy định về tỷ giá kỳ hạn hiện hành của NHNN tại thời điểm
ký hợp đồng.
- Tỷ giá mở cửa: tỷ giá mua bán ngoại tệ của chuyến giao dịch đầu tiên
trong ngày.
- Tỷ giá đóng cửa: tỷ giá mua bán ngoại tệ của hợp đồng ký kết cuối cùng
trong ngày.
c. Căn cứ vào tiêu thức giá trị của tỷ giá:

- Tỷ giá danh nghĩa: là tỷ giá được yết và có thể trao đổi giữa hai đồng tiền
mà không đề cập đến tương quan sức mua giữa chúng.
- Tỷ giá thực: là tỷ giá đã được điều chỉnh theo sự thay đổi tương quan giá
cả của nước có đồng tiền yết giá và giá cả hàng hóa của nước có đồng tiền định
giá.
d. Căn cứ vào phương tiện chuyển ngoại hối, tỷ giá được phân thành hai
loại:
- Tỷ giá điện hối: là tỷ giá chuyển ngoại hối bằng điện. Đây là tỷ giá cơ sở
để xác định các tỷ giá khác.
- Tỷ giá thư hối: là tỷ giá chuyển ngoại hối bằng thư.
e. Căn cứ vào phương tiện thanh toán quốc tế, tỷ giá hối đoái được chia làm
5 loại:
-Tỷ giá séc là tỷ giá mua bán các loại séc ngoại tệ.
-Tỷ giá hối phiếu trả tiền ngay: là tỷ giá mua bán các loại hối phiếu tra tiền
ngay bằng ngoại tệ.
- Tỷ giá hối phiếu có kỳ hạn : là tỷ giá mua bán các loại hối phiếu có kỳ
hạn bằng ngoại tệ.
- Tỷ giá chuyển khoản: là tỷ giá mua bán ngoại hối bằng cách chuyển
khoản qua ngân hàng.
- Tỷ giá tiền mặt: là tỷ giá mua bán ngoại hối được thanh toán bằng tiền
mặt.
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến tỷ giá :
a. Tình hình cán cân thanh toán quốc tế: cán cân thanh toán quốc tế của một
quốc gia có thể rơi vào một trong ba trạng thái sau: cân bằng, thâm hụt hay
thặng dư, ảnh hưởng trực tiếp đến tỷ giá, Vì vậy, nếu cán cân thanh toán quốc tế
dương thì tỷ giá hối đoái có chiều hướng giảm hoặc giữ vững. Ngược lại nếu cán
cân thanh toán quốc tế âm thì tỷ giá hối đoái có xu hướng tăng.
b. Mức độ tăng trưởng hay suy thoái của nền kinh tế:
Mức độ tăng, giảm của GDP thực tế của một nước so với nước khác,
trong điều kiện các nhân tố khác không đổi, sẽ làm tăng hoặc giảm nhu cầu về

hàng hóa, dịch vụ nhập khẩu, do đó sẽ làm cho nhu cầu ngoại hối để thanh toán
hàng nhập khẩu sẽ tăng lên hay giảm xuống từ đó tác động đến cung cầu ngoại
tệ và làm cho tỷ gia hối đoái giảm đi hoặc tăng lên.
c. Sự chênh lệch lạm phát của đồng tiền quốc gia:
Khi tỷ lệ lạm phát của một quốc gia tăng lên hay giảm xuống sẽ làm giá
trị của đồng tiền nước đó thay đổi dẫn đến tỷ giá hối đoái của đồng tiền nước đó
so với nước ngoài bị biến động. Nếu mức lạm phát của nước này cao hơn mức
lạm phát của nước khác thì sức mua của nội tệ sẽ giảm so với ngoại tệ. Lạm phát
cao càng kéo dài, đồng tiền càng mất giá, sức mua càng giảm nhanh, sức mua
của đồng tiền trong nước giảm thì sức mua đối ngoại của nó cũng giảm làm cho
tỷ giá hối đoái tăng.
d. Mức chênh lệch giữa lãi suất các nước:
Ở thị trường nao có mức lãi suất ngắn hạn cao hơn thì những luồng vốn
ngắn hạn có xu hướng đổ về thị trường đó làm cho cung cầu ngoại tệ tăng lên,
cầu về ngoại tệ giảm do đó tỷ giá hối đoái có xu hướng giảm.
e. Các nhân tố có khả năng tác động cung cầu ngoại tệ:
Một số nhân tố khác cũng tác động gián tiếp đến tỷ giá thông qua cung
cầu ngoại tệ như: yếu tố chính trị, kinh tế xã hội, thiên tai chiến tranh, hoạt động
đầu
CHƯƠNG 2: TÌNH HÌNH BIỂN ĐỘNG CỦA TỈ GIÁ HỐI ĐOÁI
2.1. Tình hình biến động của tỷ giá hối đoái VND/USD trong giai đoạn
2008- 2012
Việc quản lý tỷ giá hối đoái là yếu tố rất quan trọng vì nó sẽ giúp kiểm soát
được lạm phát, ổn định được kinh tế vĩ mô và cán cân thương mại. Và ở Việt
Nam cũng đang rất chú trọng vấn đề này, Việt Nam đã có nhiều thay đổi trong
cơ chế áp dụng chế độ tỷ giá và chế độ tỷ giá hiện nay (2008-2012) là chế độ
neo tỷ giá với biên độ được điều chỉnh. Ở Việt Nam đồng USD gần như là được
mặc định là đồng neo tỷ giá và tỷ giá được ngân hàng nhà nước(NHNN) công
bố là VND/USD. Căn cứ vào tỷ giá giữa USD và các đồng tiền khác mà các
ngân hàng thương mại sẽ xác lập tỷ giá giữa các ngoại tệ đó với VND. Trong

thời gian qua tỷ giá VND/USD đã có nhiều biến động và nó ảnh hưởng rất nhiều
đến các hoạt động kinh tế cũng như các hoạt động thương mại mà cụ thể ảnh
hưởng rất lớn đến hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam.
Giai đoạn từ năm 2008-2012 tỷ giá đã có nhiều sự biến động. Đầu năm 2008,
nền kinh tế vừa kết thúc giai đoạn suy thoái và khủng hoảng bắt đi vào sự ổn
định.
Giai đoạn 2008-2009 đánh dấu sự phản ứng trong chính sách tỷ giá ở Việt Nam.
Dựa vào đồ thị và số liệu thống kê ta có thể thấy tỷ giá đầu 2008 của ngân hàng
thương mại giảm xuống sàn biên độ và đồng Việt Nam lên giá trong giai đoạn
này. Nguyên nhân là do từ cuối năm 2007 sự gia tăng ồ ạt của các nguồn đầu tư
gián tiếp vào Việt Nam làm cho nguồn cung USD tăng mạnh do đó tỷ giá trong
giai đoạn giảm xuống hay nói cách khác là đồng Việt Nam tăng giá. Dựa vào
hình 1 ta có thể thấy tỷ giá NHTM có nhiều biến động mạnh do lạm phát tăng
cao vào giai đoạn nửa đầu năm( tỷ lệ lạm phát năm 2008 rất cao có lúc kên đến
gần 20%) đồng thời cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới đã bắt đầu ảnh hưởng và
tác động đến nền kinh tế Việt Nam vào nửa cuối năm 2008. Và cũng bắt đầu từ
nửa cuối năm 2008 cùng với sự suy thoái của nền kinh tế thì luồng đầu tư gián
tiếp vào Việt Nam đã bắt đầu giảm. Năm 2008 tỷ giá niêm yết tại các NHTM
biến động liên tục, có lúc tỷ giá này thấp hơn cả tỷ giá chính thức trong khi năm
2009 tỷ giá NHTM luôn luôn ở mức trần biên độ mà NHNN công bố. Trước áp
lực về quan hệ cung cầu ngoại hối trên thị trường mà tỷ giá trên thị trường tự do
tăng rất nhanh. Mặc dù NHNN đã mở rộng biên độ dao động tử +/- 3% lên +/-
5% (biên độ dao động lớn nhất trong vòng 10 năm qua) nhưng các NHTM vẫn
giao dịch ở mức trần. Đến 26/11/2009 NHNN chính thức giảm biên độ dao động
xuông lại còn +/- 3% tuy nhiên các NHTM vẫn dao dịch ở mức tỷ giá trần.
Tỷ giá VND/USD có xu hướng giảm từ đầu năm 2008. Theo công bố của
tổng cục thông kê, giá tiêu dùng tháng 1/2008 tăng 2,38% so với cuối năm 2007.
Để kiềm chế lạm phát thì NHNN đã điều chỉnh lãi suất cơ bản từ 8,25%/năm lên
8,75%/năm, tăng 0,5%/năm, lãi suất tái cấp vốn tăng lên 7,5%/năm tăng
1,0%/năm,…Ngày 13/2, NHNN thông báo phát hàng tín phiếu NHNN bằng

VND vào ngày 17/3 dưới hình thức bắt buộc đối với 41 NHTM với tổng giá trị
tín phiếu phát hành 20300 tỷ đồng với kì hạn 364 nngày, lãi suất 7,8%/năm.
Đồng thời tỷ giá USD trên thị trường thế giới tăng mạnh. Hệ quả tức thời của
các tác động trên là dòng tiền VND bị chặn lại, gây ra hiện tượng khan hiếm tiền
mặt, thừa USD giữa các NHTM. Vào thời điểm đó, USD/VND xuống rất thấp,
tỷ giá của các NHTM luôn ở mức dưới tỷ giá liên ngân hàng. Người dân không
còn giữ USD như trước mà chuyển sang mua vàng hoặc giữ tiền đồng để gửi tiết
kiệm hưởng lãi suất cao. Những nhà đầu tư nước ngoài bán USD lấy VND rồi
đem gửi tiết kiệm sẽ thu lại được lợi nhuận hơn. Nhà đầu tư càng được lợi cao
hơn khi lãi suất ở VN đang tăng chóng mặt còn tỉ giá VND/USD thì giảm mạnh.
Kiều bào nước ngoài cũng gửi tiền về cho người thân ở Việt Nam đầu tư mà chủ
yếu là gửi tiết kiệm để hưởng lãi suất. Các NHTM một mặt phải chạy đua lãi
suất với nhau, diễn ra một cuộc cạnh tranh gây gắt nhằm thu hút lượng VND để
đủ tiền mua tín phiếu bắt buộc của NHNN, mặt khác phải cầu cứu NHNN mua
bớt ngoại tệ để khai thông dòng chảy cho đồng USD, giải ngân để lấy tiền đồng
hỗ trợ thanh khoản khi cung vốn cạn dần. Tỷ giá VND/USD từ tháng 7/2008 có
xu hướng tăng nhưng ổn định hơn. Trong tháng 7/2008 chênh lệch giữa ngoại tệ
liên ngân hàng và ngoại tệ trên thị trường tự do không quá cách biệt. Nguyên
nhân là do ngân hàng nhà nước công bố nguồn dự trữ ngoại tệ nên tâm lý của
người dân được cải thiện hơn nên người dân giảm gim giữ ngoại tệ và đầu cơ
ngoại tệ nên tỷ giá lúc này khá ổn định. Mặc khác lạm phát lúc này đã được
kiểm soát mức tăng lạm phát được kiềm hãm ở mức 1.13% so với tháng trước.
Sang các tháng cuối năm biến động nhưng không nhiều, tỷ giá VND/USD trong
8/2008 biến động nhích lên theo từng tuần. Cụ thể tỷ giá bình quân liên ngân
hàng từ 16.489 đồng lên 16.493 đồng và tăng đến 16.496 đồng trong 2 tuần cuối
tháng 8. Tỷ giá trên thị trường tự do ổn định hơn. Tháng 9/2008 biến động mạnh
nhất vào giũa tháng 9 tỷ giá tăng mạnh từ 16.620 lên 16.740 sau đó giảm xuống
còn 16.630 VND/USD vào cuối tháng. Nguyên nhân là do cuộc khủng hoảng tài
chính ở Mĩ, các tập đoàn tài chính của Mĩ bị phá sản làm cho tỷ giá biến động
bất ngờ. Đến tháng 10/2008 tỷ giá tiếp tục được ổn định và đến cuối tháng tỷ giá

lại bất ngờ tăng vọt lên mốc 16.800 VND/USD trong khi tỷ giá liên ngân hàng
vẫn ổn định. Tuy nhiên sau đó thì tỷ giá này cũng giảm nhẹ. Nguyên nhân là do
cuối tháng 9 các nhà đầu tư nước ngoài đã bán ròng khối lượng cổ phiếu và trái
phiếu trên 2 sàn giao dịh của Việt Nam mà chủ yếu là để mua USD nên gây sức
ép lên tỷ giá. Nguyên nhân nữa là do các ngoại tệ mạnh trên thế giới đều mất giá
so với USD nhất là chính phủ Mĩ can thiệp vào thị trường tài chính ngăn chặn
cuộc khủng hoảng làm cho USD tăng giá trở lại. Cuộc khủng hoảng toàn cầu
ảnh hưởng kinh tế Việt Nam. Rõ ràng nhất là trong cuối năm 2008 nhu cầu hàng
xuất khẩu giảm, kim ngạch xuất khẩu giảm liên tục từ tháng 8 chủ yếu là dầu
thô. Các nhà đầu tư nước ngoài cũng giảm đầu tư, lượng khách du lịch vào Việt
Nam cũng giảm, lượng kiều hối cũng giảm mạnh đã làm cho nguồn cung USD
giảm mạnh ảnh hưởng rất lớn đến tỷ giá. Tuy nhiên chính phủ ta đã có biện pháp
hợp lý và đã kiểm soát được tỷ giá không biến động quá mạnh.
Năm 2009: Giá USD tháng 01/2009 so với tháng 12/2008 tăng 1,48%, so với
tháng 01/2008 tăng 8,16%. Qua tháng 2 dưới sự tác động của khủng hoảng kinh
tế thế giới, nền kinh tế nước ta chịu ảnh hưởng nhiều tuy nhiên nhà nước ta có
nhiều biện pháp để kiềm chế sự ảnh hưởng và cải thiện kinh tế. Nhìn chung từ
đầu tháng 1/2009 đến giữa tháng 2/2009, tỷ giá USD/VND không có biến động
mạnh - tăng giảm trong khoảng 17.480 đến 17.490 VND/USD - nguyên nhân
phần lớn là do có sự can thiệp của nhà nước. Vào những ngày đầu tháng 1/2009
nhu cầu vay vốn bằng ngoại tệ của doanh nghiệp đã giảm hẳn sau khi các NH áp
dụng chương trình vay vốn được bù 4% lãi suất. Cơ chế bù lãi suất chỉ áp dụng
cho các trường hợp vay vốn bằng VND, không áp dụng cho trường hợp vay vốn
bằng USD. Các doanh nghiệp đã tính toán, vay USD vừa phải lo lắng về biến
động tỉ giá lại không được bù lãi suất. Từ đó, doanh nghiệp đã dừng vay vốn
bằng USD để chuyển sang vay VND, số đã vay đến hạn trả nợ, không vay thêm
làm số dư vốn vay USD giảm. Đầu ra của USD ở nước ngoài bị thu hẹp dần.
Như vậy, gói kích cầu đã làm cho cầu đồng nội tệ tăng vì các NHTM cần VND
để cho vay theo nên lãi suất huy động VND tăng, làm cho giá VND tăng. Đồng
thời, gói kích cầu cũng làm cho nhu cầu USD giảm, lãi suất huy động USD

giảm, làm cho giá USD giảm. Tuy nhiên tỷ giá USD/VNĐ lại tiếp tục tăng trong
các tháng tiếp theo, tỷ giá niêm yết tại các ngân hàng vẫn không đổi, nhưng trên
thị trường tự do tỷ giá USD/VND có nơi đã lên đến 18.000đ. Trong hệ thống
ngân hàng đã xảy ra tình trạng thiếu USD, khiến cho nhiều người có nhu cầu
không thể đổi được ngoại tệ. Mặt khác do việc chênh lệch tỷ giá giao dịch giữa
ngân hàng và thị trường tự do đã khiến cho những người dân hay doanh nghiệp
có USD không bán cho các ngân hàng mà bán trên thị trường tự do điều đó buộc
NHNN thực hiện nới rộng biên độ tỷ giá lên +/-5% khiến cho tỷ giá ngoại tệ
liên NH đã có đợt tăng đột biến và giao dịch trên thị trường tự do tiến sát
mức 18000đồng/USD. Trong điều kiện 4 tháng đầu năm 2009 lượng ngoại tệ
ròng vào Việt Nam dương tuy nhiên tỷ giá lại tăng và nguyên nhân chủ yếu vẫn
là do các chủ thể găm giữ ngoại tệ. Trong năm 2009 tỷ giá VND/USD biến động
mạnh trên cả thị trường liên ngân hàng lẫn thị trường tự do. Cụ thể từ tháng
1/2009 đến tháng 3/2009 tỷ giá liên ngân hàng dao động trong khoảng17.450 -
17.700đồng/USD. Từ tháng 10 đến cuối tháng 11/2009 tỷ giá biến động rất dữ
dội, trên thị trường tự do có lúc đạt đỉnh 20000 đồng/USD và 19750 đồng/USD
trên thị trường liên ngân hàng. Nguyên nhân chủ yếu vẫn là do hiện tượng găm
giữ ngoai tệ của người dân, các doanh nghiệp thì vì sợ tỷ giá sẽ tiếp tục tăng nên
mặc dầu chưa đến kỳ hạn trả nợ nhưng đã mua sẵn ngoại tệ để chuẩn bị cho việc
trả nợ. Điều đó đã làm cho cầu ngoại tệ tăng cao gây ảnh hưởng tỷ giá. Ngoài ra,
do tâm lý bất ổn của người dân và các doanh nghiệp nên họ lựa chon găm giữ
ngoại tệ và đồng thời do chính sách hỗ trợ lãi suất vay tiền đồng thấp cho các
doanh nghiệp, phạm vi và thời gian vay được mở rộng theo chủ trương của
chính phủ nên các doanh nghiệp muốn vay tiền đồng hơn mà không cần bán
ngoại tệ để đổi ra VND nữa. Đây là gói kích cầu mà nhà nước ta thực hiện tuy
nhiên đã mang lại ảnh hưởng lớn đến tỷ giá. Từ cuối 11/2009 đến hết năm 2009
tỷ giá bắt đầu giảm dần trở lại nguyên nhân là do NHNN thực hiện chính sách
bình ổn tỷ giá cùng với sự góp sức của NHTM đã làm tỷ giá giảm sau giai đoạn
biến động mạnh.
Giai đoạn 2010-2011:

Trong năm 2010 các NHTM vẫn tiếp tục áp dụng tỷ giá tại mức trần biên độ
của tỷ giá chính thức trong hầu hết các tháng. Do áp lực của tỷ giá trên thị
trường NHNN đã phải tăng tỷ giá chính thức từ 17940 lên 18544 VND/USD kể
từ 11/02/2010 tương đương với việc phá giá 3,3%. Tỷ giá VND/USD của các
NHTM trong giai đoạn 2008-2012 luôn đạt mức tỷ giá trần theo biên độ mà
NHNN quy định, chỉ vào một số thời điểm thì tỷ giá này mới thấp hơn trần biên
độ. Cùng với việc nâng tỷ giá thì NHNN còn thực hiện nhiều biện pháp hành
chính để giảm áp lực lên thị trường ngoại hối như giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc
bằng ngoại tệ, mở rộng đối tượng cho vay bằng ngoại tệ, đồng thời NHNN tăng
lãi suất cơ bản lên 8%/năm. Kết quả là 6 tháng đầu năm 2010 tín dụng ngoại tệ
tăng cao và các khoản đầu tư và giải ngân ODA, FDI làm cho nguồn cung ngoại
tệ tăng lên làm giảm tỷ giá trên thị trường tự do giảm khoảng cách giữa tỷ giá
trên thị trường tự do với tỷ giá chính thức. Tuy nhiên các NHTM vẫn tiếp tục
đặt giá trần hoặc gần với trần biên độ của tỷ giá chính thức.
Đâu năm 2010 tỷ gía giảm nhẹ và dao động quanh mức 18479
đồng/USD cho đến 2/2010. Nguyên nhân là do nguồn cung USD từu nước ngoài
vào Việt Nam tăng kể cả nguồn vốn đầu tư trực tiếp, vốn hỗ trợ phát triển chính
thức do năm trước cam kết, đầu tư gián tiếp thông qua thị trường chứng khoán
cũng tăng, nguồn kiều hối và lượng khách quốc tế vào Việt Nam cũng tăng lên
đáng kể. Điều đó làm cung ngoại tệ tăng lên. Bên cạnh đó các tập đoàn và các
công ty nhà nước bán ngoại tệ cho ngân hàng, sức ép gim giữ ngoại tệ giảm và
tỷ giá trên thị trường tự do và thị trường chính thức giảm chênh lệch đáng kể. Từ
giữa tháng 2/2010 đến nay tỷ giá tăng và dao động quanh mức 19.000đồng/USD
(18.900-19.100 đồng /USD) và đang có xu hướng giảm do những chính sách
tích cực từ phía NHNN. Ngày 11/02 Ngân hàng Nhà nước điều chỉnh tăng tỷ giá
bình quân liên ngân hàng từ mức 17.941 VNĐ/USD lên mức 18.544 VND/USD.
Nguyên nhân do Ngân hàng Nhà nước có Quyếtđịnh số 74/QĐ-NHNN giảm
mạnh tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ đối với cáctổ chức tín dụng. Việc
giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ từ 7% xuống 4%đối với kỳ hạn
dưới 12 tháng, từ 3% xuống 2% đối với kỳ hạn trên 12 tháng đã làm tăng nguồn

vốn khoảng 500 triệu USD (9.000 tỷ đồng) cho các ngân hàng thương mại để
cho vay trên thị trường, ngay sau đó NHNN tiếp tục ban hành thông tư số
03/2010/TT-NHNN quy định mức lãi suất tiền gửi tối đa bằng USD của
tổ chứckinh tế tại tổ chức tín dụng là 1%/năm. Đây được xem là một “cú hích”
mạnh khi ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của các tổ chức kinh tế có tiền gửi
bằng USD, khi lãi suất trước đó được hưởng có từ 4% - 4,5%/năm. Quy định
này được xem là đặt các tổ chức vào thế tự xử,phải tính toán lợi
ích và xem xét bán lại ngoại tệ, chuyển sang VND để có lãi suất tiền
gửi cao hơn. Khớp với chính sáchnày, các ngân hàng thương mại đồng loạt
tăng giá USD mua vào để thu hút nguồnngoại tệ tiềm năng này. Chênh lệch lãi
suất vay vốn bằng VND và USD lớn khiến các doanh nghiệp cân nhắc và dịch
chuyển sang vay USD. Đến các tháng cuối năm 2010 thì tỷ giá vẫn tiếp thục
tăng mạnh đặc biệt từ tháng 8/2010, tỷ giá trên thị trường tự do lại tăng cao so
với tỷ giá chính thức tại các ngân hàng khiến NHNN phải tăng tỷ giá trên thị
trường liên ngân hàng từ 18544 VND lên 18932 VND (tăng 2.1%). Và các
NHTM vẫn tiếp tục áp dụng mức lãi suất kịch trần. Đến khoảng cuối tháng
9/2010 tỷ vào khoảng 19500đồng/USD. Theo số liệu từ bài viết của TS. Võ Đại
Lược và TS. Lê Xuân Nghĩa trình bày tại hội thảo “Ổn định kinh tế vĩ mô, duy
trì tăng trưởng: Kinh tế Việt Nam năm 2010, triển vọng năm 2011” ta thấy đồng
nhân dân tệ của Trung Quốc định giá thấp hơn 30% so với USD tuy nhiên VND
lại định giá cao hơn 15% so với USD. Điều đó cho thấy tỷ giá VND/USD được
định giá quá cao so với cung cầu thực tế về ngoại tệ. Cuối năm 2010 thì tỷ giá
tiếp tục biến động tăng, các chủ thể vẫn thực hiện việc mua ngoại tệ để kì vọng
giá tăng. Cuối tháng 11 tỷ giá lên mức 21380-21450 đồng/USD và tỷ giá trên thị
trường tự do vượt qua mức 21500 đồng/USD. Trong năm 2010 ta có thể thấy tỷ
giá biến động bất thường, đầu ra ngoại tệ tăng mạnh do chính sách của NHNN
về mở rộng đối tượng được vay vốn ngoại tệ nhưng đầu vào ngoại tệ rất khiêm
tốn. NHTM buộc phải tăng lãi suất huy động lên. Sự bất thường của tỷ giá cho
thấy sức mạnh của yếu tố tâm lý của người dân, doanh nghiệp. Việc găm giữ
USD tiếp tục do tình trạng đô la hóa của Việt Nam ngày càng trầm trọng.

Bước sang đầu năm 2011 thì tỷ giá cũng có biến động nhưng không nhiều,
tuy nhiên sau thời gian kiềm giữ tỷ giá USD chính thức ở mức 18932đồng/USD
thì đã đẩy chênh lệch tỷ giá chính thức và tỷ giá thị trường tự do lên tới 2000-
3000 VND/USD và NHNN đã điều chỉnh tăng tỷ giá liên ngân hàng thêm 9,3%
đồng thời thu hẹp biên độ tỷ giá xuống còn +/-1% từ ngày 11/2/2011. Có nhiều
lý giải đặt ra quanh con số 9,3% đó. Thứ nhất, đó là sự giải phóng áp lực dồn
nén quá lớn sau một thời gian tương đối dài. Thứ hai, nhà điều hành muốn một
bước để nhanh chóng thu hẹp khoảng cách giữa hai tỷ giá. Thứ ba, nhà điều
hành đã sòng phẳng hơn và theo yêu cầu của thị trường… Và một điểm quan
trọng của nó là xóa bớt kỳ vọng sẽ tiếp tục phá giá trong năm 2011 ở giới đầu
cơ, hay trong tâm lý thị trường. Tuy nhiên đến đầu tháng 4/2011 tỷ giá mới có
dấu hiệu bình ổn, đó cũng là nhờ NHNN đã triển khai để có thể tăng cung ngoại
tệ. Đó là cơ chế áp và siết trần lãi suất huy động USD, thực hiện kết hối và mở
rộng đối tượng kết hối, xử lý loạt giao dịch bất hợp pháp trên thị trường tự do…
Thêm vào đó, tín dụng ngoại tệ vẫn tăng cao tạo một nguồn cung thương mại từ
vốn chuyển đổi cho thị trường; sự chuyển đổi vốn ngoại tệ sang VND cũng có ở
các ngân hàng thương mại khi chênh lệch lãi suất cho vay quá hấp dẫn với
khoảng 300% càng tạo cung cho thị trường…Việc cung USD tăng đã làm cho tỷ
giá VND/USD lao dốc chóng mặt từ 20940VND xuống còn 20590 VND kể từ
19/4-28/4/2011. Và 29/4 đã trở thành mốc sự kiện quan trọng khi Sở giao dịch
NHNN bất ngờ tăng mạnh giá mua vào USD và dự trữ ngoại tệ có sự cải thiện
nhanh chóng. Ngày 7/9/2011, 1 tháng sau khi tân Thống đốc tiếp nhận nhiệm vụ
điều hành, Ngân hàng Nhà nước tổ chức hội nghị ngành, và tại đây thông điệp
được đưa ra: nếu điều chỉnh tỷ giá USD/VND thì từ nay (tại ngày 7/9) đến cuối
năm không quá 1%. Với cam kết này NHNN sẽ khó thuyết phục niềm tin của thị
trường về tỷ giá tuy nhiên đến cuối 2011 NHNN vẫn giữ được cam kết. Các
chính sách đưa ra đã từng bước phát huy được hiệu quả, góp phần ổn định tỷ giá
bình quân liên ngân hàng thời gian dài ở mức 20.803 trong cả tháng 11, đến
ngày 14/12 mới điều chỉnh tăng lên 20.813 rồi 20.828. Đối với tỷ giá ở thị
trường chính thức và phi chính thức tính đến giữa tháng 12, tỷ giá ở thị trường

phi chính thức giảm đáng kể so với cuối tháng 11, giao động phổ biến trong
khoảng từ 21.150 đến 21.300; ở thị trường chính thức tỷ giá giao động phổ biến
từ 21.005 đến 21.036.
CHƯƠNG 3. ẢNH HƯỞNG CỦA BIỂN ĐỘNG TỈ GIÁ ĐẾN TÌNH HÌNH
XUẤT NHẬP KHẨU CỦA VIỆT NAM
3.1. Tác động của biến động tỷ giá lên hoạt động nhập khẩu:
a. Ảnh hưởng của biến động tỷ giá lên kim ngạch nhập khẩu:
Khi giá đồng nội tệ tăng hay tỷ giá hối đoái giảm, nhập khẩu sẽ được
khuyến khích do giá nhập khẩu trở nên rẻ tương đối, chi phí nhập khẩu giảm,
lượng nhập khẩu tăng lên dẫn đến sự tăng lên trong kim ngạch nhập khẩu.
Ngược lại, khi tỷ giá hối đoái tăng (đồng nội tệ giảm giá) sẽ gây bất lợi cho nhập
khẩu, giá nhập khẩu trở nên đắt đỏ hơn, nhà nhập khẩu phải bỏ nhiều tiền hơn để
mua một lương hàng hóa như cũ sẽ dẫn đến việc giảm lợi nhuận các nhà nhập
khẩu. Khi lợi nhuận không đủ bù đắp chi phí, cầu nhập khẩu giảm xuống, do đó
kim ngạch nhập khẩu giảm .
b. Ảnh hưởng của biến động tỷ giá lên cơ cấu nhập khẩu:
Trên phương diện cơ cấu nhập khẩu, sự tăng tỷ giá hối đoái sẽ khiến các
nhà quản lý cân nhắc xem phải nhập khẩu những mặt hàng gì. Những mặt hàng
như nông sản có thể sẽ bị hạn chế do sản xuất trong nước có thể đáp ứng nhu
cầu, các mặt hàng như xăng, dầu, máy móc, thiết bị có thể chiếm tỷ trọng lớn
trong danh mục nhập khẩu.
c. Ảnh hưởng của biến động tỷ giá lên tính cạnh tranh của hàng nhập khẩu:
Khi xét về tính cạnh tranh nhập khẩu, không một quốc gia nào muốn sản
phẩm nhập khẩu lại có tính cạnh tranh cao hơn sản phẩm trong nước. Khi tỷ giá
tăng lên, sản phẩm nhập khẩu có lợi thế trong khi sản phẩm trong nước lại bất
lợi về giá. Khi tỷ giá giảm, cạnh tranh về giá của sản phẩm nhập khẩu không
còn, việc tỷ giá giảm tương đương với việc đánh thuế lên hàng nhập khẩu do đó
hàng nhập khẩu trở nên đắt hơn. Nếu tình trạng này kéo dài thì hàng nhập khẩu
từ thị trường này có thể được thay thế bằng hàng hóa thị trường khác hoặc sản
phẩm trong nước.

3.2. Tác động của biến động tỷ giá lên hoạt động xuất khẩu:
a. Ảnh hưởng của biến động tỷ giá lên kim ngạch xuất khẩu:
- Khi tỷ giá hối đoái giảm, giá đồng nội tệ tăng lên, lượng ngoại tệ thu về từ
hoạt động xuất khẩu giảm xuống, doanh thu từ hoạt động xuất khẩu tính ra đồng
nội tệ bị thu hẹp, xuất khẩu không được khuyến khích dẫn đến sự sụt giảm trong
hoạt động xuất khẩu
- Khi tỷ giá hối đoái tăng, giá đồng nội tệ giảm xuống , thuân lợi cho nhà
xuất khẩu. Lượng ngoại tệ thu về đổi ra dược nhiều nội tệ hơn, kim ngạch xuất
khẩu tăng lên, kích thích các hoạt động xuất khẩu tăng trưởng và phát triển với
điều kiện các chi phí đầu vào của sản xuất hàng xuất khẩu khônh tăng lên tương
ứng.
b. Ảnh hưởng của biến động tỷ giá lên cơ cấu hàng xuất khẩu:
Đối với cơ cấu mặt hàng xuất khẩu, các mặt hàng nông sản sơ chế
dường như nhạy cảm hơn đối với mọi biến động tăng giảm của tỷ giá hối đoái so
với các mặt hàng như máy móc, thiết bị toàn bộ, xăng dầu…Vì độ co giãn của
các mặt hàng nông sản sơ chế đối vơis giá xuất khẩu hoặc tỷ giá áp dụng là rất
cao do đây là các mặt hàng có thể thay thế được. Trong khi đó độ co giãn của
các mặt hàng máy móc, thiết bị, các mặt hàng không thể thay thế được như
xăng, dầu…là rất thấp. Tỷ giá hối đoái giảm khiến giá hàng xuất khẩu bị đắt
tương đối, các mặt hàng dễ bị thay thế là danh mục đầu tiên bị loại ra khỏi danh
sách sử dụng của người tiêu dùng ngoại quốc và mất dần trong cơ cấu các mặt
hàng xuất khẩu. Ngược lại, khi tỷ giá hối đoái tăng, cơ cấu mặt hàng xuất khẩu
có thể trở nên phong phú hơn do tính cạnh tranh về giá, sự tăng doanh thu xuất
khẩu khiến các nhà xuất khẩu đa dạng hóa mặt hàng. Đối với các mặt hàng
không thể thay thế như xăng, dầu htif việc tỷ giá tăng hay giảm hầu như không
ảnh hưởng nhiều đến cơ cấu cũng như tỷ trọng các mặt hàng này.
c. Ảnh hưởng của biến động tỷ giá lên tính cạnh tranh của xuất khẩu:
Khi có một sự tăng lên của tỷ giá hối đoái sẽ khiến hàng hóa xuất khẩu
nước này trở nên cạnh tranh do giá cả rẻ hơn. Ngược lại nếu tỷ giá đồng nội tệ
tăng tức tỷ giá hối đoái giảm sẽ khiến giá hàng xuất khẩu trở nên đắt tương đối,

tính cạnh tranh về giá giảm đi. Trong cùng một thị trường tiêu thụ nếu chất
lượng hàng hóa như nhau thì xu hướng chung người tiêu dúngex sử dụng sản
phẩm nào rẻ hơn. Gỉa sử chi phí sản xuất tại các quốc gia quy về cùng một đồng
tiền là ngang nhau thì nước nào có mức giảm tỷ giá đồng tiền nước mình so với
giá nội tệ của thị trường tiêu thụ lướn hơn thì tính cạnh tranh về giá của nước đó
cao hơn và có cơ hội phát triển xuất khẩu nhiều hơn.
KẾT LUẬN
Tỷ giá hối đoái có vai trò quan trọng gắn liền với nền kinh tế của các nước
trên thế giới và các quan hệ kinh tế quốc tế. Cũng giống như vai trò của giá cả
trong nền kinh tế thị trường, tỷ giá hối đoái có tác động quan trọng tới những
biến đổi của nền kinh tế thế giới nói chung và nền kinh tế của mỗi quốc gia nói
riêng. Nó có thể thay đổi vị thế và lợi ích của các nước trong quan hệ kinh tế
quốc tế. Tỷ giá hối đoái tác động đến sự thăng bằng trong cán cân thanh toán
của một quốc gia, sự biến động của tỷ giá hối đoái có thể kích thích hoặc hạn
chế xuất nhập khẩu. Và các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu sẽ là người
chịu ảnh hưởng trực tiếp từ những thay đổi này
/>fid=Asian

×