Tải bản đầy đủ (.pdf) (260 trang)

Toàn cầu hóa và vấn đề giữ gìn, phát huy giá trị truyền thống Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.17 MB, 260 trang )

3

MỤC LỤC

trang
MỤC LỤC 3
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT 7
PHẦN MỞ ĐẦU 9
1. Tính cấp thiết của đề tài 9
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài 11
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận án 22
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án 23
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận án 23
6. Những đóng góp mới của luận án 24
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án 25
8. Kết cấu của luận án 25
Chương một: TOÀN CẦU HÓA – QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH,
PHÁT TRIỂN VÀ NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN CỦA NÓ 26
1.1. Toàn cầu hóa – Quá trình hình thành và phát triển 26
1.1.1. Quan niệm về toàn cầu hóa 26
1.1.2. Quá trình hình thành và phát triển của toàn cầu hóa 41
1.2. Những đặc điểm cơ bản của toàn cầu hóa 80
1.2.1. Tính khách quan của toàn cầu hóa 80
1.2.2. Tính chất mâu thuẫn của toàn cầu hóa 84
Kết luận chương một 102


4

Chương hai: GIÁ TRỊ TRUYỀN THỐNG VIỆT NAM VÀ VIỆC
GIỮ GÌN, PHÁT HUY GIÁ TRỊ ĐÓ TRONG BỐI CẢNH TOÀN


CẦU HÓA 105
2.1. Điều kiện và tiền đề hình thành, phát triển giá trị truyền
thống Việt Nam 105
2.1.1. Giá trị truyền thống Việt Nam được hình thành, phát triển dựa
trên sự tác động của điều kiện địa lý tự nhiên và nền văn minh nông
nghiệp lúa nước 105
2.1.2 Giá trị truyền thống Việt Nam được hình thành, phát triển trên
cơ sở hình thành quốc gia dân tộc sớm 108
2.1.3. Giá trị truyền thống Việt Nam được hình thành, phát triển trong
sự phát triển đặc biệt của xã hội gắn với các cuộc kháng chiến oanh
liệt chống giặc ngoại xâm 114
2.1.4. Giá trị truyền thống Việt Nam được hình thành, phát triển trên
cơ sở tiếp thu và dung hợp tinh hoa văn hóa nhân loại với giá trị
truyền thống Việt Nam 117
2.2. Những giá trị truyền thống Việt Nam 130
2.2.1. Khái niệm giá trị và giá trị truyền thống 130
2.2.2. Những nội dung cơ bản của giá trị truyền thống Việt Nam 139
2.3. Sự tác động của toàn cầu hóa đến giá trị truyền thống Việt
Nam 164
2.3.1. Toàn cầu hóa tác động tiêu cực và tích cực đến giá trị truyền
thống Việt Nam 164
2.3.2. Sự thích ứng, phát triển và mở rộng nội dung của các giá trị
truyền thống 170
2.3.3. Sự phai nhạt, suy giảm và xuống cấp của một số nội dung giá trị
truyền thống 173
5

Kết luận chương hai 180
Chương ba: PHƯƠNG HƯỚNG CƠ BẢN VÀ GIẢI PHÁP CHỦ
YẾU ĐỂ GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ TRUYỀN THỐNG

VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH TOÀN CẦU HÓA 183
3.1. Phương hướng cơ bản để giữ gìn và phát huy giá trị truyền
thống dân tộc trong bối cảnh toàn cầu hóa 183
3.1.1. Giữ gìn và phát huy giá trị truyền thống dân tộc gắn liền với
việc chủ động tiếp thu có chọn lọc giá trị của nhân loại và đấu tranh
loại bỏ những truyền thống lạc hậu, những tệ nạn xã hội 184
3.1.2. Giữ gìn và phát huy giá trị truyền thống dân tộc trên cơ sở kết
hợp hài hòa giá trị truyền thống với giá trị hiện đại và giải quyết tốt
mối quan hệ giữa độc lập tự chủ và hội nhập quốc tế 191
3.1.3. Tăng cường định hướng xã hội chủ nghĩa và nâng cao vai trò
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong quá trình giữ gìn và phát
huy giá trị truyền thống dân tộc 195
3.2. Những giải pháp chủ yếu để giữ gìn và phát huy giá trị truyền
thống dân tộc trong bối cảnh toàn cầu hóa 201
3.2.1. Nâng cao nhận thức và tăng cường giáo dục giá trị truyền thống
dân tộc 201
3.2.2. Khơi dậy và phát huy mạnh mẽ tính tích cực, sáng tạo của các
giá trị truyền thống và chuyển hóa chúng thành hoạt động thực tiễn
xây dựng đất nước 208
3.2.3. Huy động và tập trung tối đa các nguồn lực để giữ gìn, phát huy
giá trị truyền thống dân tộc 215
3.2.4. Xây dựng và phát triển môi trường xã hội lành mạnh làm cơ sở
để giữ gìn, phát huy có hiệu quả giá trị truyền thống dân tộc 219
6

3.2.5. Chủ động tiếp thu có chọn lọc giá trị của nhân loại để làm giàu
và phát huy có hiệu quả giá trị truyền thống dân tộc 226
3.2.6. Xây dựng, phát triển và hoàn thiện thiết chế văn hóa, đáp ứng
yêu cầu giữ gìn, phát huy giá trị truyền thống dân tộc 232
Kết luận chương ba 237

PHẦN KẾT LUẬN CHUNG 240
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ 245
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 247


















7

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

ADB Ngân hàng Phát triển châu Á
ALF - CIO Liên hiệp công đoàn công nhân Mỹ
ANDEAN Hiệp ước về mậu dịch tự do giữa các nước: Bôlivia,
Côlômbia, Êcuađo, Pêru và Vênêxuêla
APEC Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương

ASEAN Hiệp hội các nước Đông Nam Á
ASEM Hội nghị Á - Âu
AU Liên minh châu Phi
CACM Thị trường chung Trung Mỹ
CEFTA Khu vực mậu dịch tự do Đông và Trung Âu
CEPT Chương trình thuế quan ưu đãi có hiệu lực chung (của
ASEAN)
COMESA Thỏa thuận thương mại ưu đãi của EAEC
CUFTA Khu vực mậu dịch tự do Canađa - Mỹ
EAEC Cộng đồng kinh tế Đông Phi
EC Cộng đồng châu Âu
ECOSOC Hội đồng Kinh tế - Xã hội Liên Hợp Quốc
ECOWAS Cộng đồng kinh tế các nước Tây Phi
EEA Khu vực kinh tế châu Âu
EEC Cộng đồng kinh tế châu Âu
EFTA Hiệp hội mậu dịch tự do châu Âu
EU Liên minh châu Âu
FAO Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp (của Liên Hợp Quốc)
FDI Đầu tư trực tiếp của nước ngoài
FTAA Khu vực mậu dịch tự do cho toàn châu Mỹ
8

G8 Tám nước công nghiệp phát triển
GATT Tổ chức Thuế quan và Mậu dịch
GDP Tổng sản phẩm quốc nội
IMF Quỹ Tiền tệ quốc tế
NAFTA Khu vực mậu dịch tự do Bắc Mỹ
NATO Tổ chức quân sự Bắc Đại Tây Dương
NGO Tổ chức phi chính phủ
NIEs Những nước công nghiệp mới

OAU Tổ chức thống nhất châu Phi
SNG Cộng đồng các quốc gia độc lập
TI Tổ chức Minh bạch quốc tế
UNCTAD Hội nghị Liên Hiệp Quốc về thương mại và phát triển
UNDP Chương trình phát triển Liên Hiệp Quốc
UNIDO Tổ chức phát triển công nghiệp Liên Hiêp Quốc
WB Ngân hàng Thế giới
WTO Tổ chức Thương mại thế giới










9

PHẦN MỞ ĐẦU

1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Toàn cầu hóa là quá trình xã hội khách quan, đã và đang tác động sâu
rộng, mạnh mẽ đến mọi quốc gia dân tộc và trong tất cả các lĩnh vực của đời
sống xã hội trên phạm vi toàn cầu.
Sự tác động của toàn cầu hóa không chỉ tạo ra những điều kiện thuận
lợi và cơ hội lớn, mà còn mang đến những khó khăn và nguy cơ thách thức
không nhỏ cho sự phát triển của tất cả các nước, nhất là các nước đang phát
triển. Đúng như nhận định của Đảng Cộng sản Việt Nam: “Toàn cầu hóa kinh

tế là một xu thế khách quan, lôi cuốn ngày càng nhiều nước tham gia; xu thế
này đang bị một số nước phát triển và các tập đoàn kinh tế tư bản xuyên quốc
gia chi phối, chứa đựng nhiều mâu thuẫn, vừa có mặt tích cực vừa có mặt tiêu
cực, vừa có hợp tác vừa có đấu tranh”[32, tr.64].
Trong bối cảnh toàn cầu hóa, Việt Nam đã và đang triển khai thực hiện
công cuộc đổi mới toàn diện đất nước với những quyết sách chiến lược: đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức; phát
triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; xây dựng nhà nước pháp
quyền của dân, do dân, vì dân; xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc và chủ động hội nhập quốc tế.
Thực hiện những quyết sách quan trọng nói trên, hơn 25 năm đổi mới
vừa qua, nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử. “Kinh
tế tăng trưởng nhanh, đạt tốc độ bình quân 7,26%/năm. Năm 2010, tổng sản
phẩm trong nước bình quân đầu người đạt 1.168 USD… Đời sống vật chất và
tinh thần của nhân dân được cải thiện rõ rệt…” [34, tr.91-92]. Tuy nhiên, dưới
tác động của toàn cầu hóa, nền kinh tế của nước ta “phát triển chưa bền vững.
Chất lượng tăng trưởng, năng suất, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế
10

thấp… Các lĩnh vực văn hóa, xã hội có một số mặt yếu kém chậm được khắc
phục, nhất là về giáo dục, đào tạo và y tế; đạo đức, lối sống trong một bộ phận
xã hội xuống cấp” [34, tr.93]. Đặc biệt là, “Tình trạng suy thoái về chính trị,
tư tưởng, đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên
và tình trạng tham nhũng, lãng phí, quan liêu, những tiêu cực và tệ nạn xã hội
chưa được ngăn chặn, đẩy lùi mà còn tiếp tục diễn biến phức tạp… làm giảm
lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước, đe dọa sự ổn định, phát triển
của đất nước” [34, tr.173].
Rõ ràng là, sự tác động của toàn cầu hóa vừa tạo ra điều kiện thuận lợi
và cơ hội lớn cho sự phát triển kinh tế - xã hội của nước ta, vừa tạo ra những
khó khăn và nguy cơ làm suy giảm giá trị truyền thống dân tộc. Trên thực tế,

trong xã hội Việt Nam hiện nay đang diễn ra cuộc đấu tranh giữa hai lối sống:
lối sống có lý tưởng, lành mạnh, trung thực, sống bằng lao động của mình, có
ý thức tôn trọng và bảo vệ của công, chăm lo lợi ích tập thể, của Nhà nước;
với lối sống thực dụng, ích kỷ, ăn bám, chạy theo đồng tiền.
Như vậy, đổi mới và hội nhập quốc tế với sự tác động mạnh mẽ của
toàn cầu hóa không chỉ tạo ra những yếu tố tích cực thúc đẩy sự phát triển, mà
còn làm xuất hiện yếu tố tiêu cực, làm biến đổi và suy giảm giá trị truyền
thống dân tộc. Ở đây, vấn đề quan trọng đặt ra cần giải quyết là: 1. Cần nhận
diện những giá trị truyền thống dân tộc và phân biệt chúng với “phản giá trị”;
2.Sàng lọc các giá trị để tìm ra những giá trị truyền thống còn phù hợp, thích
ứng với thời đại mới và những giá trị không còn phù hợp, đã bị thực tiễn vượt
qua; 3. Những giá trị truyền thống nào cần được giữ gìn, phát triển và những
giá trị nào cần loại bỏ; đồng thời, chắt lọc những giá trị từ bên ngoài cần được
tiếp thu để góp phần làm giàu thêm giá trị truyền thống dân tộc và thúc đẩy sự
phát triển bền vững của đất nước.
11

Tất cả những vấn đề nêu trên đã kích thích và thúc đẩy tác giả nghiên
cứu và chọn vấn đề “Toàn cầu hóa và vấn đề giữ gìn, phát huy giá trị truyền
thống Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa” làm đề tài luận án tiến sĩ, với kỳ
vọng là làm sáng tỏ hơn đặc điểm của toàn cầu hóa và những giá trị truyền
thống dân tộc cùng những giải pháp giữ gìn, phát huy chúng trong bối cảnh
tác động của toàn cầu hóa.
2. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
2.1. Toàn cầu hóa là hiện tượng xã hội đa dạng, đa diện và phức tạp,
gắn liền với những biến đổi lớn lao của nhân loại như: tăng trưởng và khủng
hoảng kinh tế, hòa bình và chiến tranh cùng với những vấn đề toàn cầu… Vì
vậy, nó đuợc nhiều nhà khoa học trên thế giới quan tâm nghiên cứu và đã có
nhiều công trình được công bố theo các hướng sau:
Một là, một số tổ chức quốc tế và các nhà khoa học nghiên cứu, đưa ra

các quan niệm về toàn cầu hóa: Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) cho
rằng, “Toàn cầu hóa là một quan niệm có nhiều mặt, vì nó bao quát cả lĩnh
vực kinh tế, xã hội, chính trị và các hậu quả của sự phân phối” (WTO, Annual
Report, 1998); “Toàn cầu hóa là một xu hướng làm cho mối quan hệ xã hội
trở nên ít bị ràng buộc bởi địa lý, lãnh thổ” (JanAart Scholte, “Globallization:
A New Imperealism” Alumi Magazine); “Toàn cầu hóa và tự do hóa, tìm
kiếm phát triển trong hai trào lưu lớn” (Rubens Recubero. Liên Hiệp Quốc,
1996); “Thế giới phẳng, tóm lược lịch sử thế giới thế kỷ XXI” (Thomas
L.Friendman, Nxb. Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh, 2006); “Dự báo thế kỷ XXI” (Tập
thể các nhà khoa học Trung Quốc, Nxb. Thống kê,Hà Nội, 2000).
Trong các công trình trên, các tác giả cho rằng: toàn cầu hóa là hiện
tượng xã hội đa dạng, bao quát mọi lĩnh vực xã hội, làm cho các quốc gia xích
lại gần nhau và có mối liên hệ ràng buộc. Trong đó, vấn đề tự do hóa kinh tế
nổi lên hàng đầu.
12

Hai là, nhiều tác giả với nhiều công trình nghiên cứu đi sâu “giải mã”
vấn đề toàn cầu hóa, tìm ra nguyên nhân và những biểu hiện của nó trong đời
sống xã hội (kinh tế, chính trị, văn hóa, ). Tiêu biểu cho hướng nghiên cứu
này là các công trình:
“Vận hành toàn cầu hóa” (Joseph E.Stiglitz, Nxb. Trẻ, TP.HCM, 2008);
“Toàn cầu hóa kinh tế lối thoát của Trung Quốc là ở đâu” (Lưu Lực, Nxb.
Khoa học xã hội, Hà Nội, 2002); “Toàn cầu hóa văn hóa” (Dominique
Wolton, Nxb. Thế giới, Hà Nội, 2006); “Con người, dân tộc và các nền văn
hóa: Chung sống trong thời đại toàn cầu hóa” (George F.McLean, GS.Phạm
Minh Hạc (chủ biên bản tiếng Việt), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007);
“Toàn cầu hóa kinh tế và xây dựng văn hóa dân tộc” (Li Zonggui, Tài liệu
phục vụ nghiên cứu, Số: TN.2002-6, Viện Thông tin Khoa học xã hội, Hà
Nội, 2002); “Phân công lao động quốc tế và toàn cầu hóa” (Shirokov G.K, Tài
liệu phục vụ nghiên cứu, Số: TN.2002-12, Viện Thông tin Khoa học xã hội,

Hà Nội, 2002); “Thế giới toàn cầu và hiện đại hóa” (V.G.Fedotova, Tài liệu
phục vụ nghiên cứu, Số: TN.2002-3, Viện Thông tin Khoa học xã hội, Hà
Nội, 2002); “Khi toàn cầu hóa đẩy nhanh sự rò rỉ chất xám” (Cristina
Phomme, Tài liệu phục vụ nghiên cứu, Số: TN.2002-46, Viện Thông tin Khoa
học xã hội, Hà Nội, 2002); “Mười hai câu trả lời của Xingapo trước những
thách thức của toàn cầu hóa” (Mark Hong, Tài liệu phục vụ nghiên cứu, Số:
TN.2002-35, Viện Thông tin Khoa học xã hội, Hà Nội, 2002); “Châu Á trong
cơn bão toàn cầu hóa: Vì một sự điều tiết ở quy mô quốc tế” (Wolf M., Tài
liệu phục vụ nghiên cứu, Số: TN.99-104, Viện Thông tin Khoa học xã hội, Hà
Nội, 1999); “Mối đe dọa của toàn cầu hóa” (Edward S.Herman, Tài liệu phục
vụ nghiên cứu, Số: TN.2000-22, Viện Thông tin Khoa học xã hội, Hà Nội,
2000); “Vai trò và ảnh hưởng của các công ty xuyên quốc gia trong các bước
chuyển dịch toàn cầu ở cuối thế kỷ XX” (Mikhali Simai, Tài liệu phục vụ
13

nghiên cứu, Số: TN.2000-25, Viện Thông tin Khoa học xã hội, Hà Nội,
2000); “Trung Quốc với toàn cầu hóa: Đối sách của Trung Quốc đối với cuộc
khủng hoảng kinh tế Châu Á” (Pang Zhongying, Tài liệu phục vụ nghiên cứu,
Số: TN.2000-29, Viện Thông tin Khoa học xã hội, Hà Nội, 2000); “Bài nhập
môn: Xác định vị trí cho toàn cầu hóa” (Grahame Thompson, Tài liệu phục vụ
nghiên cứu, Số: TN.2000-31, Viện Thông tin Khoa học xã hội, Hà Nội,
2000); “Toàn cầu hóa văn hóa: rạn vỡ và dung hợp văn hóa” (Ding Ligun,
Tài liệu phục vụ nghiên cứu, Số: TN.2001-48, Viện Thông tin Khoa học xã
hội, Hà Nội, 2001); “Chủ nghĩa tư bản trong thời đại toàn cầu hóa: Bình luận
và phân tích một số lý luận của các học giả cánh tả phương Tây về những
biến đổi mới của chủ nghĩa tư bản đương đại” (Yu Keping, Tài liệu phục vụ
nghiên cứu, Số: TN.2003-68, Viện Thông tin Khoa học xã hội, Hà Nội,
2003); “Quá trình toàn cầu hóa và Nhà nước: Cái mới trong việc điều chỉnh
kinh tế ở các nước phát triển” (Osadchaja I., Tài liệu phục vụ nghiên cứu, Số:
TN.2003-14, Viện Thông tin Khoa học xã hội, Hà Nội, 2003); “Toàn cầu hóa

kinh tế và tiến trình lịch sử của chủ nghĩa xã hội” (Song Shuql, Tài liệu phục
vụ nghiên cứu, Số: TN.2004-50, Viện Thông tin Khoa học xã hội, Hà Nội,
2004); “Toàn cầu hóa kinh tế và các thiết chế lãnh đạo toàn cầu” (Keith
Griffin, Tài liệu phục vụ nghiên cứu, Số: TN.2004-24,25, Viện Thông tin
Khoa học xã hội, Hà Nội, 2004); “Toàn cầu hóa và sự đối thoại giữa các nền
văn hóa” (Makbraid U., Tài liệu phục vụ nghiên cứu, Số: TN.2003-27, Viện
Thông tin Khoa học xã hội, Hà Nội, 2003); và những công trình khác.
Trong các công trình nói trên, các tác giả chủ yếu bàn luận về toàn cầu
hóa kinh tế và văn hóa. Trong đó, nổi bật quan niệm cho rằng: Toàn cầu hóa,
về thực chất và chủ yếu là toàn cầu hóa kinh tế, bao gồm các quá trình tự do
hóa kinh tế, sự dịch chuyển nguồn nhân lực, vốn, tài nguyên và tri thức trên
toàn cầu. Cùng với toàn cầu hóa kinh tế diễn ra quá trình toàn cầu hóa văn
14

hóa; trong đó, có sự tương tác, xâm nhập giữa các giá trị văn hóa Đông - Tây
và đồng thời, có sự đụng độ giữa các nền văn minh, v.v… Tuy nhiên, những
đặc điểm của toàn cầu hóa, nhất là tính hai mặt (tích cực và tiêu cực) của nó,
cũng như ảnh hưởng của nó đến các quá trình kinh tế - xã hội, văn hóa ở các
nước đang phát triển thì chưa được làm rõ.
Ba là, ở Việt Nam, vấn đề toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế đã được
các nhà khoa học quan tâm nghiên cứu và có nhữngcông trình rất đáng chú ý:
“Toàn cầu hóa – Những vấn đề lý luận và thực tiễn” (GS.TS. Lê Hữu Nghĩa
và TS. Lê Ngọc Tòng (chủ biên), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002);
“Toàn cầu hóa – Cơ hội và thách thức với các nước đang phát triển” (TS.
Dương Vinh Sường (chủ biên), Nxb. Thế giới, Hà Nội, 2004); “Toàn cầu hóa
hôm nay và thế giới thứ ba” (TS. Trần Nhu (chủ biên), Nxb. Trẻ, TP.HCM,
2001); “Toàn cầu hóa – Tăng trưởng và nghèo đói” (Nxb. Văn hóa thông tin,
Hà Nội, 2002); “Kinh tế đối ngoại trong bối cảnh toàn cầu hóa” (Lê Thanh
Bình, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002); “Các tổ chức kinh tế trong
“Nền kinh tế toàn cầu hóa” và tương lai của “Thế giới nghèo” (Trần Nhu (chủ

biên), Nxb. Tổng hợp, TP.HCM, 2004); “WTO với doanh nhân Việt Nam –
Những cơ hội và thách thức hậu gia nhập WTO” (Nxb. Lao động, Hà Nội,
2006); “Từ Xiatơn đến Đôha – Toàn cầu hóa và Tổ chức Thương mại thế
giới” (Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002); “Thế giới trong hai thập niên
đầu thế kỷ XXI” (Nguyễn Duy Quý, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002);
“Tác động của toàn cầu hóa đối với sự phát triển văn hóa và con người”
(Dương Phú Hiệp, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010); “Toàn cầu hóa,
Hội nhập và phát triển bền vững - Từ góc nhìn triết học đương đại” (Hồ Bá
Thâm - Nguyễn Thị Hồng Diễm (đồng chủ biên), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 2011).
15

Bên cạnh những sách xuất bản nói trên, còn nhiều chuyên luận đề cập
đến các phương diện khác nhau của toàn cầu hóa đăng trên các tạp chí khoa
học chuyên ngành: “Toàn cầu hóa và một số vấn đề toàn cầu trong những
thập niên đầu thế kỷ XXI” (Nguyễn Thế Nghĩa, Tạp chí Khoa học xã hội, Số
4(62)-2003); “Toàn cầu hóa và vấn đề xóa đói giảm nghèo, phát triển bền
vững trong những năm đầu thế kỷ XXI” (Nguyễn Phương Nam, Tạp chí Khoa
học xã hội, Số 2(66)-2004); “Toàn cầu hóa kinh tế và hội nhập của Việt Nam”
(Lê Hữu Nghĩa, Tạp chí Thông tin lý luận, Số 6-2002); “Nâng cao năng lực
cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế”
(Nguyễn Phương Nam, Tạp chí Phát triển nhân lực, Số 2(2)-2007); “Nội dung
và tính chất của thời đại ngày nay” (Nguyễn Duy Quý, Tạp chí Phát triển
nhân lực, Số 1(1)-2007); “Một số vấn đề về toàn cầu hóa kinh tế vả hội nhập
của Việt Nam vào kinh tế thế giới” (Ngô Văn Thạo, Tạp chí Thông tin lý
luận, Số 1-2000); “Toàn cầu hóa kinh tế và vấn đề chủ động hội nhập kinh tế
quốc tế” (Nguyễn Thế Nghĩa, Tạp chí Khoa học xã hội, Số 1(53)-2002); và
những tác giả khác.
Như vậy, các nhà nghiên cứu Việt Nam đã đề cập khá toàn diện đến
toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế của Việt Nam. Trong đó, tập trung ở các

điểm chủ yếu: a. Đa số các tác giả cho rằng, toàn cầu hóa về thực chất là toàn
cầu hóa kinh tế, song có một nhóm tác giả lại khẳng định đó chính là toàn cầu
hóa tư bản chủ nghĩa; b. Phân tích sâu vào tính hai mặt của toàn cầu hóa như
tích cực và tiêu cực, trên cơ sở đó vạch ra thời cơ và thách thức đối với sự
phát triển của Việt Nam. Tuy nhiên, vấn đề toàn cầu hóa chính trị, xã hội, văn
hóa chưa được các tác giả Việt Nam chú ý một cách đúng mức.
2.2. Vấn đề giá trị truyền thống Việt Nam được các nhà khoa học tiếp
cận dưới nhiều góc độ như: triết học, lịch sử tư tưởng, chính trị học, giá trị
16

học, đạo đức học, văn hóa học,… và được thể hiện ở một số hướng nghiên
cứu chính sau đây:
Thứ nhất, những công trình nghiên cứu về những giá trị truyền thống
chung, mang tính tổng kết và bao quát suốt lịch sử dựng nước và giữ nước
của dân tộc Việt Nam. Theo hướng này, có những công trình tiêu biểu: “Triết
học và tư tưởng” (Trần Văn Giàu, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1988); “Sự
phát triển của tư tưởng Việt Nam từ thế kỷ XIX đến cách mạng Tháng Tám”,
Tập 1, Tập 2, Tập 3, (Trần Văn Giàu, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996);
“Lịch sử tư tưởng Việt Nam, Tập 1” (Nguyễn Tài Thư (chủ biên), Nxb. Khoa
học xã hội, Hà Nội, 1993);“Lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam – Từ thời kỳ
dựng nước đến đầu thế kỷ XX” (Trịnh Doãn Chính (chủ biên), Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2013); “Bước chuyển tư tưởng Việt Nam cuối thế kỷ XIX
đầu thế kỷ XX” (Trương Văn Chung, Doãn Chính (đồng chủ biên), Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005); “Tư tưởng văn hóa truyền thống từ đầu thế
kỷ X đến thế kỷ XIV” (Nguyễn Thị Hương, Nxb. Lao động - Xã hội, Hà Nội,
2007); “Đại cương lịch sử triết học Việt Nam” (Nguyễn Hùng Hậu, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010); “Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc
Việt Nam”(Trần Văn Giàu, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011) và những
công trình khác.
Trong các công trình nói trên, các tác giả đi sâu phân tích một cách có

hệ thống cơ sở và tiền đề hình thành giá trị truyền thống, bàn luận về giá trị
truyền thống và tính khách quan, tính lôgíc nội tại của quá trình phát triển giá
trị truyền thống Việt Nam gắn với thực tiễn lao động sản xuất, chinh phục
thiên nhiên, nhất là gắn với các cuộc đấu tranh chống giặc ngoại xâm của dân
tộc Việt Nam. Tuy nhiên, những bàn luận này chủ yếu tập trung vào giá trị
truyền thống tinh thần, còn giá trị vật chất ít được phân tích và bàn luận.
17

Thứ hai, nghiên cứu về giá trị truyền thống yêu nước Việt Nam. Theo
hướng này, có những công trình tiêu biểu: “Đại việt sử ký toàn thư, Tập 1, 2,
3” (Ủy ban khoa học xã hội Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1998);
“Từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa Mác” (D.Hemery, Nxb. Lao động, Hà
Nội, 2001); “Triết lý phát triển Việt Nam – Mấy vấn đề cốt yếu” (Phạm Xuân
Nam (chủ biên), Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2002); “Tài liệu giáo dục chủ
nghĩa yêu nước Việt Nam” (Ban tư tưởng - Văn hóa Trung ương, Nxb. Giáo
dục, Hà Nội, 2000); “Sự chuyển biến phong trào yêu nước và cách mạng giải
phóng dân tộc Việt Nam trong ba mươi năm đầu thế kỷ XX” (Đinh Trần
Dương, Nxb. Đại học quốc gia, Hà Nội, 2002); “Từ chủ nghĩa yêu nước
truyền thống đến chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh” (Nguyễn Hùng Hậu (chủ
biên), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008); “Sự thống nhất giữa chủ nghĩa
yêu nước Việt Nam với chủ nghĩa Mác - Lênin – Nét đặc sắc trong tư tưởng
Hồ Chí Minh” (Lại Ngọc Hải, Tạp chí Lý luận chính trị, Số 2-2003); “Chủ
nghĩa yêu nước – Cơ sở để Hồ Chí Minh tiếp cận và vận dụng sáng tạo chủ
nghĩa Mác - Lênin ở Việt Nam” (Trần Thu Hằng, Tạp chí Thông tin lý luận,
Số 181-2003); “Một vài suy nghĩ về chủ nghĩa yêu nước Việt Nam” (Trần
Hồng Thúy, Tạp chí Triết học, Số 90-1995); “Sự chuyển biến của tư tưởng
yêu nước Việt Nam từ truyền thống đến hiện đại nửa đầu thế kỷ XX” (Trịnh
Trí Thức, Tạp chí Triết học, Số 2-2007).
Trong các công trình trên, các tác giả đã phân tích các phương diện của
chủ nghĩa yêu nước Việt Nam như tình cảm yêu nước, ý thức yêu nước, tinh

thần yêu nước, triết lý yêu nước và hành động yêu nước được thể hiện trong
các cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm của dân tộc. Tuy nhiên, tinh thần
tự tôn, tự lập, tự cường dân tộc chưa được các tác giả phân tích kỹ.
Thứ ba, nghiên cứu về giá trị đạo đức truyền thống Việt Nam. Theo
hướng này, có những công trình khá nổi bật: “Minh triết Hồ Chí Minh” (Vũ
18

Ngọc Khánh, Nxb. Văn hóa - Thông tin, Hà Nội, 1999); Văn hóa đạo đức –
Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn ở Việt Nam (Thành Duy, Nxb. Văn hóa -
Thông tin, Hà Nội, 2004); Đạo đức xã hội ở nước ta hiện nay – Vấn đề và
giải pháp (Nguyễn Duy Quý (chủ biên), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2006); Giá trị cơ bản về tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh (Trần Quang Nhiếp -
Nguyễn Văn Sáu, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2008); “Tư tưởng Hồ Chí
Minh về đạo đức” (Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương, Hà Nội, 2005);
“Mấy vấn đề đạo đức trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay”
(Nguyễn Trọng Chuẩn - Nguyễn Văn Phúc (đồng chủ biên), Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2003); “Một số vấn đề về lối sống, đạo đức, chuẩn giá trị xã
hội” (Huỳnh Khái Vinh, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001).
Nhiều nghiên cứu về đạo đức và giá trị đạo đức truyền thống được đăng
trên các tạp chí khoa học: “Đạo đức truyền thống với vấn đề hội nhập
ASEAN”(Võ Thị Dung, Tạp chí Triết học, Số 2-2001); “Những giá trị đạo
đức của gia đình truyền thống Việt Nam” (Lê Thanh Hà, Tạp chí Lý luận
chính trị, Số 273-2000); “Giá trị đạo đức truyền thống và những yêu cầu đạo
đức đối với nhân cách con người” (Cao Thu Hằng, Tạp chí Triết học, Số 158-
2004); “Hướng các giá trị đạo đức truyền thống theo hệ chuẩn giá trị chân -
thiện - mỹ trong bối cảnh toàn cầu hóa và phát triển kinh tế thị trường”
(Hoàng Trung, Tạp chí Triết học, Số 105-1998); “Giá trị đạo đức truyền
thống Việt Nam và cái nhìn phổ biến toàn nhân loại của đạo đức trong nền
kinh tế thị trường” (Trần Nguyên Việt, Tạp chí triết học, Số 132-2002); “Đạo
hiếu Việt Nam qua cái nhìn lịch đại” (Trần Nguyên Việt, Tạp chí Triết học,

Số 7(254)-2012).
Trong các tác phẩm và bài viết nói trên, các tác giả đã đi sâu phân tích
đạo đức và giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc. Hầu hết các tác phẩm và
bài viết đều đánh giá cao các giá trị đạo đức truyền thống như: “Trung với
19

nước, hiếu với dân”; “Nhân - Trí - Dũng - Trí - Tín - Nghĩa”; thương người,
“Từ bi hỷ xả, cứu nhân độ thế”;… Đồng thời, phê phán “đạo đức giả” của
tầng lớp thực dân, phong kiến và lối sống thực dụng “trả tiền ngay, không tình
nghĩa”; v.v…
Thứ tư, nghiên cứu về giá trị văn hóa truyền thống của Việt Nam. Theo
hướng này, có nhiều tác phẩm, bài viết sâu sắc. Cụ thể là: “Tìm hiểu giá trị
văn hóa truyền thống trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa” (Nguyễn
Trọng Chuẩn, Phạm Văn Đức, Hồ Sỹ Quý (đồng chủ biên), Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2001); “Văn hóa vì phát triển” (Phạm Xuân Nam, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998); “Văn hóa và phát triển ở thành phố Hồ Chí
Minh” (Nguyễn Thế Nghĩa - Lê Hồng Liên (đồng chủ biên), Sở Văn hóa
thành phố Hồ Chí Minh, 1998); “Bàn về khoan dung trong văn hóa” (Huỳnh
Khái Vinh, Nguyễn Thanh Tuấn, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004);
“Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam” (Trần Ngọc Thêm, Nxb. Thành phố Hồ
Chí Minh, 2001); “Mấy vấn đề xây dựng văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc trong quá trình mở cửa ở nưóc ta hiện nay” (Lê Đức Quý,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1986); “Văn hóa Việt Nam và cách tiếp cận
mới” (Phan Ngọc, Nxb. Văn hóa - Thông tin, Hà Nội, 1994); “Di chúc của
Chủ tịch Hồ Chí Minh và công cuộc đổi mới đất nước” (Nguyễn Thế Nghĩa -
Nguyễn Thanh Bình (chủ biên), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000); “Bàn
về văn hóa Việt Nam, Tập 3” (Vũ Khiêu, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội,
1998); “Xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”
(Nguyễn Khoa Điềm, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001); và nhiều công
trình khác.

Trong các công trình trên, nhiều tác giả đi sâu bàn về khái niệm “văn
hóa”, “bản sắc văn hóa dân tộc”, giá trị văn hóa nói chung và giá trị văn hóa
truyền thống Việt Nam; những nội dung cơ bản của nền văn hóa tiên tiến,
20

đậm đà bản sắc dân tộc. Tuy nhiên, khi bàn về khái niệm “văn hóa” và khái
niệm “bản sắc văn hóa dân tộc” cũng còn những ý kiến khác nhau. Sự khác
nhau này thường do các tác giả nghiên cứu văn hóa từ những góc độ không
giống nhau.
2.3. Vấn đề xác định phương hướng và luận bàn về các giải pháp giữ
gìn và phát huy giá trị truyền thống cũng được các nhà nghiên cứu quan tâm;
trong đó, có những công trình rất đáng chú ý:
“Bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc – Vai trò của nghiên cứu
và giáo dục” (Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1999); “Giá trị truyền thống
trước những thách thức của toàn cầu hóa” (Nguyễn Trọng Chuẩn, Nguyễn
Văn Huyên (đồng chủ biên), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002); “Kế
thừa truyền thống yêu nước của dân tộc ta trong bối cảnh toàn cầu hóa” (Mai
Thị Quý, Tạp chí Triết học, Số 12-2003); “Vấn đề kế thừa và phát huy chủ
nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh trong công cuộc đổi mới nước ta hiện nay”
(Nguyễn Mạnh Tường, Tạp chí Triết học, Số 106-1998); “Vấn đề kế thừa và
phát huy các giá trị đạo đức truyền thống trong quá trình chuyển sang nền
kinh tế thị trường ở nước ta” (Nguyễn Văn Lý, Tạp chí Triết học, Số 108-
1999); “Giữ gìn và phát huy các giá trị đạo đức truyền thống trong bối cảnh
kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay” (Đặng Hữu Toàn, Tạp chí Khoa học xã
hội, Số 1(53)-2002); “Đạo đức xã hội ở nước ta hiện nay - Vấn đề và giải
pháp” (Nguyễn Duy Quý, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006); “Giữ gìn
bản sắc dân tộc Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay” (Phạm
Thanh Hà, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011); “Phát huy những giá trị
tinh thần truyền thống của dân tộc để xây dựng đạo đức nguời phụ nữ Việt
Nam hiện nay” (Lê Thi, Tạp chí Triết học, Số 3(250)-2012); “Gắn phát triển

kinh tế với phát triển văn hóa vì mục tiêu phát triển bền vững” (Nguyễn Ngọc
Thu, Tạp chí Triết học, Số 4(251)-2012); “Giữ gìn và phát huy giá trị truyền
21

thống của con người Việt Nam - Một yêu cầu tất yếu khách quan trong sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa” (Trương Hoài Phương, Tạp chí Phát
triển nhân lực, Số 5(26)-2011); và những công trình khác.
Trong các công trình trên, các tác giả đã phân tích những cơ sở xác
định phương hướng và đề xuất các giải pháp giữ gìn và phát huy các giá trị
truyền thống dân tộc trong bối cảnh toàn cầu hóa. Đa số các ý kiến đều nhất
trí rằng, trong bối cảnh toàn cầu hóa, để đưa đất nước đến trình độ một nước
công nghiệp, một mặt, cần phải giữ gìn, phát huy các giá trị truyền thống (yêu
nước, thương người, cần cù sáng tạo trong lao động, dũng cảm trong đấu
tranh,…); mặt khác, cần phải tiếp thu có chọn lọc những giá trị tinh hoa của
nhân loại (tri thức tiên tiến, công nghệ hiện đại, kinh nghiệm quản lý,…).
Trên cơ sở đó, con người Việt Nam cần phải có trí tuệ, tư duy sáng tạo để
không ngừng sáng tạo ra cái mới trong mọi lĩnh vực phát triển.
Như vậy, toàn cầu hóa là quá trình xã hội khách quan, đã, đang và sẽ
được nhiều học giả trong và ngoài nước nghiên cứu. Đa số các công trình
nghiên cứu về toàn cầu hóa đều cho rằng, toàn cầu hóa là quá trình xã hội
không thể đảo ngược, nó bắt nguồn từ bản thân sự phát triển của lực lượng
san xuất và cuộc cách mạng khoa học - công nghệ. Vì vậy, toàn cầu hóa lôi
cuốn ngày càng nhiều nước tham gia và tác động đến mọi lĩnh vực của đời
sống xã hội; một mặt, nó tạo ra những điều kiện thuận lợi và cơ hội lớn cho sự
phát triển của tất cả các nước, nhất là các nước đang phát triển; mặt khác, nó
cũng tạo ra những nguy cơ và thách thức to lớn đối với sự phát triển. Trong
đó, có nguy cơ phai nhạt giá trị truyền thống, thậm chí là đánh mất bản sắc
dân tộc. Tuy nhiên, khi bàn về toàn cầu hóa, các tác giả còn những ý kiến
khác nhau về quá trình này: a. Nhóm ý kiến cho rằng, thực chất của toàn cầu
hóa là toàn cầu hóa kinh tế; b. Nhóm ý kiến khẳng định, thực chất của toàn

cầu hóa chính là quá trình xã hội hóa và quốc tế hóa trên phạm vi toàn cầu;
22

c.Nhóm ý kiến thứ ba nhấn mạnh, toàn cầu hóa, về thực chất là toàn cầu hóa
tư bản chủ nghĩa.
Việt Nam tham gia trực tiếp vào quá trình toàn cầu hóa không thể
không đặt ra vấn đề hệ trọng là giữ gìn và phát huy giá trị truyền thống dân
tộc. Về lĩnh vực này, đa số các công trình đã phân tích và tổng kết hệ giá trị
truyền thống Việt Nam; đồng thời, đề xuất nhiều giải pháp giữ gìn và phát
huy các giá trị truyền thống trong bối cảnh toàn cầu hóa cùng với việc tiếp thu
có chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân loại. Tuy nhiên, phần nhiều các công trình
chỉ tập trung vào các giải pháp lý luận, tinh thần (như giáo dục, tuyên truyền,
nâng cao ý thức, tính tự giác,…), mà chưa chú ý đầy đủ đến các giải pháp
thực tiễn. Điều đó đã làm giảm sức mạnh và tính khả thi của các giải pháp giữ
gìn và phát huy giá trị truyền thống trong bối cảnh toàn cầu hóa.
Đề tài này kế thừa tất cả những thành tựu và những yếu tố tích cực của
các công trình trước. Trên cơ sở đó, nghiên cứu có hệ thống và làm sáng tỏ
các vấn đề quan trọng sau: thực chất và đặc điểm của toàn cầu hóa và tác
động của nó đối với giá trị truyền thống Việt Nam; phân tích, hệ thống hóa
các giá trị truyền thống Việt Nam và đề xuất các giải pháp giữ gìn, phát huy
giá trị truyền thống trong bối cảnh toàn cầu hóa.
3. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ CỦA LUẬN ÁN
3.1. Mục đích của luận án
Luận án tập trung nghiên cứu, phân tích, làm rõ quá trình hình thành,
phát triển và đặc điểm cơ bản của toàn cầu hóa và các giá trị truyền thống
Việt Nam, trên cơ sở đó, xác định phương hướng cơ bản và đề xuất các giải
pháp chủ yếu để giữ gìn, phát huy các giá trị truyền thống Việt Nam trong bối
cảnh toàn cầu hóa.
3.2. Nhiệm vụ của luận án
Để đạt được mục đích trên, luận án thực hiện những nhiệm vụ sau:

23

Thứ nhất, phân tích khái niệm toàn cầu hóa, làm rõ quá trình hình
thành, phát triển và những đặc điểm cơ bản của toàn cầu hóa.
Thứ hai, phân tích điều kiện và tiền đề hình thành, phát triển giá trị
truyền thống Việt Nam và trình bày những nội dung cơ bản của các giá trị
truyền thống Việt Nam.
Thứ ba, phân tích và đánh giá tác động của toàn cầu hóa đối với giá trị
truyền thống Việt Nam.
Thứ tư, luận chứng phương hướng cơ bản và đề xuất các giải pháp chủ
yếu để giữ gìn và phát huy các giá trị truyền thống Việt Nam trong bối cảnh
toàn cầu hóa.
4. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN ÁN
Đối tượng nghiên cứu của luận án: quá trình toàn cầu hóa; những điều
kiện, tiền đề hình thành, phát triển giá trị truyền thống và nội dung cơ bản của
giá trị truyền thống Việt Nam; công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế của
Việt Nam…
Phạm vi nghiên cứu của luận án: quá trình hình thành, phát triển và đặc
điểm của toàn cầu hóa; những giá trị tinh thần truyền thống của Việt Nam; sự
tác động của toàn cầu hóa tới giá trị tinh thần truyền thống; phương hướng và
giải pháp giữ gìn, phát huy giá trị tinh thần truyền thống trong bối cảnh toàn
cầu hóa.
5. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU CỦA
LUẬN ÁN
Luận án được nghiên cứu trên cơ sở thế giới quan và phương pháp luận
của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta
về toàn cầu hóa, chủ động hội nhập quốc tế và xây dựng nền văn hóa tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc.
24


Luận án thực hiện cách tiếp cận triết học để tìm ra thực chất và đặc
điểm của toàn cầu hóa; đồng thời, sử dụng tiếp cận triết học văn hóa và giá trị
học để làm rõ hơn các giá trị truyền thống Việt Nam.
Ngoài ra, luận án sử dụng các phương pháp nghiên cứu: lôgíc và lịch
sử, phân tích và tổng hợp, so sánh và đối chiếu, xin ý kiến chuyên gia, hệ
thống hóa và khái quát hóa triết học,…
6. NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN ÁN
Thứ nhất,luận án nghiên cứu một cách có hệ thống về toàn cầu hóa: từ
quá trình hình thành, phát triển đến các đặc điểm của toàn cầu hóa. Qua đó,
góp phần hệ thống hóa và làm sáng tỏ hơn lý luận về toàn cầu hóa.
Thứ hai,luận án phân tích, chắt lọc, làm rõ và trình bày có hệ thống về
các giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam.Đó là các giá trị: chủ
nghĩa yêu nước Việt Nam; ý thức tự tôn, tự lập, tự cường và tự hào dân tộc;
tinh thần đoàn kết, thương người và sống nhân ái, khoan dung; đức tính cần
cù, thông minh và sáng tạo cùng tinh thần lạc quan yêu cuộc sống;…
Thứ ba,luận án đã luận chứng các phương hướngcơ bản và giải pháp
chủ yếu để giữ gìn và phát huy giá trị truyền thống của dân tộc Việt Nam
trong bối cảnh toàn cầu hóa. Trong đó nhấn mạnh: 1. Giữ gìn và phát huy giá
trị truyền thống dân tộc gắn liền với việc chủ động tiếp thu tinh hoa văn hóa
nhân loại; đồng thời, đấu tranh loại bỏ các truyền thống lạc hậu, những tiêu
cực và các tệ nạn xã hội; 2.Giữ gìn và phát huy giá trị truyền thống dân tộc
trên cơ sở kết hợp hài hòa giá trị truyền thống với giá trị hiện đại và giải quyết
tốt quan hệ giữa độc lập tự chủ và hội nhập quốc tế; 3.Tăng cường định
hướng xã hội chủ nghĩa và nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam trong quá trình giữ gìn và phát huy giá trị truyền thống dân tộc.


25

7. Ý NGHĨA KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN CỦA LUẬN ÁN

Ý nghĩa khoa học: Luận án góp phần làm sáng tỏ hơn và có hệ thống
hơn lý luận về toàn cầu hóa (quá trình hình thành, phát triển và đặc điểm của
toàn cầu hóa). Đồng thời, phân tích rõ và sâu sắc hơn hệ thống các giá trị
truyền thống Việt Nam và vai trò, ý nghĩa của chúng đối với sự nghiệp đổi
mới và hội nhập quốc tế của đất nước, cùng với việc luận chứng hệ thống
phương hướng và giải pháp giữ gìn, phát huy giá trị truyền thống dân tộc
trong bối cảnh toàn cầu hóa.
Ý nghĩa thực tiễn: Những kết quả của luận án là tài liệu khoa học có ích
cho việc hoạch định chủ trương, chính sách trong lĩnh vực giữ gìn, phát huy
giá trị truyền thống dân tộc và tiếp thu giá trị hiện đại. Đồng thời, chúng là tài
liệu tham khảo phục vụ cho việc giảng dạy các môn như triết học, chính trị
học, văn hóa học, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, công nghiệp hóa, hiện đại
hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức, v.v…
8. KẾT CẤU CỦA LUẬN ÁN
Luận án được kết cấu, gồm: phần mở đầu, 3 chương với 7 tiết, phần kết
luận và danh mục tài liệu tham khảo.



26

Chương một
TOÀN CẦU HÓA – QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN
VÀ NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN CỦA NÓ

1.1. TOÀN CẦU HÓA – QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT
TRIỂN
Từ ba thập kỷ nay, trên thế giới đã có hàng trăm hội nghị, hội thảo và
công trình nghiên cứu về toàn cầu hóa. Trong đó, xuất hiện những xu hướng
và nhiều quan niệm khác nhau về quá trình này. Mối quan tâm đặc biệt này

của các nhà chính trị và các nhà khoa học là tự nhiên và tất yếu; bởi lẽ, toàn
cầu hóa được nảy sinh từ chủ nghĩa tư bản, đã và đang diễn ra với tốc độ vũ
bão với quy mô toàn cầu. Nó tác động và ảnh hướng đến tất cả các lĩnh vực
của đời sống xã hội (kinh tế - xã hội, chính trị, văn hóa, môi trường…) ở tất
cả các quốc gia, dân tộc.
1.1.1.Quan niệm về toàn cầu hóa
 Quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin về toàn cầu hóa
Có thể nói, C.Mác và Ph.Ăngghen không bàn trực tiếp đến toàn cầu
hóa, song quan niệm của các ông về lĩnh vực này là cơ sở khoa học và thực
tiễn quan trọng để nghiên cứu, nhận diện toàn cầu hóa.
Khi nghiên cứu sâu chủ nghĩa tư bản, C.Mác và Ph.Ăngghen đã phát
hiện ra vai trò động lực, có ý nghĩa quyết định của lực lượng sản xuất đối với
quan hệ sản xuất và toàn bộ sự phát triển của đời sống xã hội. Và, các ông đã
lấy lực lượng sản xuất làm điểm xuất phát để nghiên cứu, giải thích sự biến
đổi của mọi hiện tượng xã hội, nhất là luận chứng cho hiện tượng khu vực hóa
và quốc tế hóa kinh tế, chính trị, văn hóa của chủ nghĩa tư bản. C.Mác và
Ph.Ăngghen chỉ rõ: “Hơi nước và máy móc dẫn đến một cuộc cách mạng
trong công nghiệp. Đại công nghiệp hiện đại thay cho công trường thủ công;
27

tầng lớp kinh doanh công nghiệp trung đẳng nhường chỗ cho các nhà công
nghiệp triệu phú, cho những kẻ cầm đầu cả hàng loạt đạo quân công nghiệp,
những tên tư sản hiện đại… Đại công nghiệp đã tạo ra thị trường thế giới”
[83, tr.598].
Thị trường thế giới, theo C.Mác và Ph.Ăngghen, là thị trường sản xuất
phân phối, lưu thông và tiêu dùng sản phẩm của chủ nghĩa tư bản. Và, “Do
bóp nặn thị trường thế giới, giai cấp tư sản đã làm cho sản xuất và tiêu dùng
của tất cả các nước mang tính chất thế giới… Thay cho tình trạng cô lập trước
kia của các địa phương và dân tộc vẫn tự cung tự cấp, ta thấy phát triển những
quan hệ phổ biến, sự phụ thuộc phổ biến giữa các dân tộc. Mà sản xuất vật

chất đã như thế thì sản xuất tinh thần cũng không kém như thế. Những thành
quả của hoạt động tinh thần của một dân tộc trở thành tài sản chung của tất cả
các dân tộc. Tính chất đơn phương và phiến diện dân tộc ngày càng không thể
tồn tại được nữa; và từ những nền văn học dân tộc và địa phương, muôn hình
muôn vẻ, đang nảy nở một nền văn học toàn thế giới” [83, tr.601-602].
Đồng thời, từ phương diện quan hệ sản xuất, C.Mác và Ph.Ăngghen đã
phân tích, làm rõ những nhân tố tác động và tính chất giai cấp của quá trình
quốc tế hóa. Các ông chỉ rõ: “Vì luôn bị thúc đẩy bởi nhu cầu về những nơi
tiêu thụ sản phầm, giai cấp tư sản xâm lấn khắp toàn cầu. Nó phải xâm nhập
vào khắp nơi, trụ lại ở khắp nơi và thiết lập mối liên hệ ở khắp nơi” [84,
tr.601]. Điều đó cho thấy, bản chất của chủ nghĩa tư bản với việc bóc lột giá
trị thặng dư và theo đuổi lợi nhuận tối đa là động lực thúc đẩy quá trình quốc
tế hóa tư bản chủ nghĩa – quá trình triển khai và thực hiện phương thức sản
xuất tư bản chủ nghĩa khắp toàn cầu[Xem: 107, tr.64-65].
Từ phương diện vận động của mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất (đã
đạt trình độ xã hội hóa cao) với quan hệ sản xuất (dựa trên chế độ chiếm hữu
tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất) và mâu thuẫn giữa kiến trúc

×